MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Sunday, November 10, 2013

OUTLINE OF AMERICAN HISTORY LƯỢC SỬ NƯỚC MỸ - P8

OUTLINE OF AMERICAN HISTORY
LƯỢC SỬ NƯỚC MỸ - P8



Building the transcontinental railroad, 1868. (California State Railroad Museum Library)

Xây dựng tuyến đường sắt xuyên lục địa năm 1868. (California State Bảo tàng Đường sắt Library)
8 GROWTH AND TRANSFORMATION
CHƯƠNG 8: TĂNG TRƯỞNG VÀ CẢI CÁCH



"Upon the sacredness of property, civilization itself depends."
- Industrialist and philanthropist Andrew Carnegie, 1889

“Nền văn minh nhân loại phụ thuộc vào chính sự bất khả xâm phạm của tài sản"
Nhà công nghiệp, nhà từ thiện Andrew Carnegie, 1889






Alexander Graham Bell makes the first telephone call from New York City to Chicago in 1892. Bell, an immigrant from Scotland who settled in Boston, invented the telephone 16 years earlier, in 1876.
(Fox Photos/Getty Images)

Alexander Graham Bell thực hiện cuộc gọi điện thoại đầu tiên từ thành phố New York đến Chicago vào năm 1892. Bell, một người nhập cư từ Scotland, định cư ở Boston, đã phát minh ra điện thoại 16 năm trước đó, vào năm 1876.
(Fox Photos / Getty Images)

Between two great wars -- the Civil War and the First World War -- the United States of America came of age. In a period of less than 50 years it was transformed from a rural republic to an urban nation. The frontier vanished. Great factories and steel mills, transcontinental railroad lines, flourishing cities, and vast agricultural holdings marked the land. With this economic growth and affluence came corresponding problems. Nationwide, a few businesses came to dominate whole industries, either independently or in combination with others. Working conditions were often poor. Cities grew so quickly they could not properly house or govern their growing populations.

Giữa hai cuộc chiến lớn - Nội chiến và Chiến tranh Thế giới Thứ nhất - Hoa Kỳ đã phát triển và trưởng thành. Trong giai đoạn chưa tới 50 năm, Hoa Kỳ đã chuyển từ một nước cộng hòa nông nghiệp thành một nước công nghiệp. Biên giới dần biến mất. Các nhà máy lớn và xưởng luyện thép, các tuyến đường sắt xuyên lục địa, các thành phố sầm uất, các khu nông nghiệp rộng lớn xuất hiện khắp đất nước. Với đà tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng như vậy nên đã kéo theo một loạt vấn đề. Xét trên bình diện cả nước, một số ít doanh nghiệp đã chi phối toàn bộ các ngành công nghiệp theo phương thức hoặc là kết hợp với các doanh nghiệp khác hoặc là tự độc quyền. Điều kiện làm việc thường rất tệ. Các thành phố phát triển nhanh nên không cung cấp đủ nhà ở cho cư dân hay không thể quản lý được dân số tăng lên quá nhanh.

TECHNOLOGY AND CHANGE

"The Civil War," says one writer, "cut a wide gash through the history of the country; it dramatized in a stroke the changes that had begun to take place during the preceding 20 or 30 years. ..." War needs had enormously stimulated manufacturing, speeding an economic process based on the exploitation of iron, steam, and electric power, as well as the forward march of science and invention. In the years before 1860, 36,000 patents were granted; in the next 30 years, 440,000 patents were issued, and in the first quarter of the 20th century, the number reached nearly a million.

CÔNG NGHỆ VÀ THAY ĐỔI

Một nhà văn đã viết: “Cuộc Nội chiến đã tạo ra một vết thương lớn trong lịch sử nước Mỹ; cuộc chiến này đã tạo ra một cú sốc gây ra những thay đổi lớn đã bắt đầu diễn ra từ 20 hay 30 năm trước đó. Nhu cầu phục vụ chiến tranh đã kích thích mạnh mẽ sản xuất, thúc đẩy quá trình kinh tế dựa trên việc khai thác sử dụng quặng sắt, động cơ hơi nước, năng lượng điện và phát triển khoa học và phát minh sáng chế. Trong những năm trước 1860 có 36.000 bằng phát minh sáng chế đã được cấp; trong 30 năm tiếp theo có 440.000 bằng phát minh sáng chế được cấp và vào 25 năm đầu tiên của thế kỷ XX thì số bằng phát minh sáng chế được cấp lên tới con số xấp xỉ một triệu.

As early as 1844, Samuel F. B. Morse had perfected electrical telegraphy; soon afterward distant parts of the continent were linked by a network of poles and wires. In 1876 Alexander Graham Bell exhibited a telephone instrument; within half a century, 16 million telephones would quicken the social and economic life of the nation. The growth of business was speeded by the invention of the typewriter in 1867, the adding machine in 1888, and the cash register in 1897. The linotype composing machine, invented in 1886, and rotary press and paper-folding machinery made it possible to print 240,000 eight-page newspapers in an hour. Thomas Edison's incandescent lamp eventually lit millions of homes. The talking machine, or phonograph, was perfected by Edison, who, in conjunction with George Eastman, also helped develop the motion picture. These and many other applications of science and ingenuity resulted in a new level of productivity in almost every field.

Ngay từ năm 1844, Samuel F. B. Morse đã hoàn thiện công nghệ điện tín; ngay sau đó các vùng xa xôi hẻo lánh của nước Mỹ đã được kết nối với nhau bởi các cột điện và dây điện. Vào năm 1876, Alexander Graham Bell đã trình diễn công cụ điện thoại; chỉ trong vòng nửa thế kỷ, 16 triệu máy điện thoại đã khiến cuộc sống kinh tế xã hội của nước Mỹ diễn ra nhanh hơn. Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp đã được đẩy nhanh nhờ phát minh ra máy chữ vào năm 1867, máy tính năm 1888 và máy đếm tiền năm 1897. Máy in sắp chữ li -nô được phát minh năm 1886 và máy in quay, máy gấp giấy đã giúp ta in được 240.000 tờ báo tám trang chỉ trong một tiếng đồng hồ. Chiếc đèn chiếu sáng của Thomas Edison đã thực sự chiếu sáng hàng triệu gia đình. Máy quay đĩa được Edison hoàn thiện và Edison đã kết hợp với George Eastman cùng nhau phát triển ngành điện ảnh. Những phát minh kiểu này và các ứng dụng khoa học khác đã khiến năng suất lao động được đẩy lên một mức cao mới ở hầu hết các lĩnh vực.




Thomas Edison examines film used in the motion picture projector that he invented with George Eastman. The most celebrated of Edison's hundreds of inventions was the incandescent light bulb.
(Edison Birthday Committee)

Thomas Edison xem xét phim được sử dụng trong máy chiếu hình ảnh chuyển động mà ông đã phát minh với George Eastman. Nổi tiếng nhất trong hàng trăm sáng chế của Edison là bóng đèn sợi đốt.
(Ủy ban sinh nhật Edison)
Concurrently, the nation's basic industry -- iron and steel -- forged ahead, protected by a high tariff. The iron industry moved westward as geologists discovered new ore deposits, notably the great Mesabi range at the head of Lake Superior, which became one of the largest producers in the world. Easy and cheap to mine, remarkably free of chemical impurities, Mesabi ore could be processed into steel of superior quality at about one-tenth the previously prevailing cost.

Đồng thời, ngành công nghiệp cơ bản của Mỹ - ngành sắt thép - cũng tiến bộ và được bảo hộ bởi mức thuế quan cao. Ngành luyện kim chuyển về phía Tây khi các nhà địa chất phát hiện ra các mỏ quặng mới, đặc biệt là mỏ ở dãy núi Mesabi rộng lớn nằm ở đầu nguồn hồ Superior đã trở thành một trong những mỏ lớn nhất thế giới. Do giá thành khai thác rẻ và dễ dàng, đặc biệt là không có lẫn tạp chất nên quặng ở Mesabi được sản xuất thành thép chất lượng tuyệt hảo với chi phí bằng một phần mười so với chi phí thông thường trước đó.

CARNEGIE AND THE ERA OF STEEL

Andrew Carnegie was largely responsible for the great advances in steel production. Carnegie, who came to America from Scotland as a child of 12, progressed from bobbin boy in a cotton factory to a job in a telegraph office, then to one on the Pennsylvania Railroad. Before he was 30 years old he had made shrewd and farsighted investments, which by 1865 were concentrated in iron. Within a few years, he had organized or had stock in companies making iron bridges, rails, and locomotives. Ten years later, he built the nation's largest steel mill on the Monongahela River in Pennsylvania. He acquired control not only of new mills, but also of coke and coal properties, iron ore from Lake Superior, a fleet of steamers on the Great Lakes, a port town on Lake Erie, and a connecting railroad. His business, allied with a dozen others, commanded favorable terms from railroads and shipping lines. Nothing comparable in industrial growth had ever been seen in America before.


CARNEGIE VÀ KỶ NGUYÊN CỦA THÉP

Andrew Carnegie là người đã tạo ra phần lớn những tiến bộ trong việc sản xuất thép. Carnegie tới Mỹ từ Ai-len khi còn là một cậu bé 12 tuổi và đã đi lên từ một cậu bé nhặt suốt chỉ ở một nhà máy bông, sau đó chuyển sang làm nhân viên điện tín và nhân viên ngành Đường sắt bang Pennsylvania. Trước khi 30 tuổi ông đã có những vụ đầu tư khôn ngoan và có tầm nhìn xa và từ năm 1865 trở đi ông chỉ tập trung đầu tư vào ngành quặng sắt. Chỉ trong vài năm, ông đã thành lập hay có cổ tức trong các công ty sản xuất cầu sắt, đường ray xe lửa và đầu máy. Mười năm sau, ông xây dựng xưởng thép lớn nhất nước Mỹ trên bờ sông Monongahela tại bang Pennsylvania. Ông không chỉ kiểm soát các nhà máy thép mới mà còn kiểm soát cả các mỏ than đá và quặng than, quặng sắt ở vùng hồ Superior, một đội tàu hơi nước trên vùng Hồ Lớn, một thành phố cảng ở hồ Erie và hệ thống đường sắt. Doanh nghiệp của ông liên minh với hàng chục doanh nghiệp khác làm chủ các tuyến đường sắt và đường thủy. Chưa bao giờ người ta lại thấy ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh như vậy ở Hoa Kỳ.

Though Carnegie long dominated the industry, he never achieved a complete monopoly over the natural resources, transportation, and industrial plants involved in the making of steel. In the 1890s, new companies challenged his preeminence. He would be persuaded to merge his holdings into a new corporation that would embrace most of the important iron and steel properties in the nation.

Mặc dù Carnegie kiểm soát ngành công nghiệp trong một thời gian dài, ông chưa bao giờ hoàn toàn độc quyền về tài nguyên thiên nhiên, giao thông, nhà máy công nghiệp trong ngành sản xuất thép. Trong thập niên 1890, các công ty mới ra đời đã thách thức vị trí độc tôn của ông. Ông đã bị thuyết phục sáp nhập các công ty của ông vào một công ty mới và công ty mới này nắm giữ hầu hết sản lượng sắt thép của cả nước Mỹ.

CORPORATIONS AND CITIES

CÁC TẬP ĐOÀN VÀ THÀNH PHỐ



Mulberry Street in New York City, also known as "Little Italy," in the early years of the 20th century. Newly arrived immigrant families, largely from Eastern and southern Europe in this period, often settled in densely populated urban enclaves. Typically, their children, or grandchildren, would disperse, moving to other cities or other parts of the country. (Library of Congress)

Phố Mulberry (Dâu tằm) ở thành phố New York, còn được gọi là "Tiểu Ý," trong những năm đầu của thế kỷ 20. Các gia đình mới đến nhập cư, chủ yếu từ Đông và Nam Âu trong giai đoạn này, thường định cư tại các vùng đô thị đông dân cư. Thông thường, con cái hoặc cháu của họ sẽ phân tán, di chuyển đến các thành phố khác hoặc các vùng miền khác của đất nước. (Thư viện Quốc hội)
The United States Steel Corporation, which resulted from this merger in 1901, illustrated a process under way for 30 years: the combination of independent industrial enterprises into federated or centralized companies. Started during the Civil War, the trend gathered momentum after the 1870s, as businessmen began to fear that overproduction would lead to declining prices and falling profits. They realized that if they could control both production and markets, they could bring competing firms into a single organization. The "corporation" and the "trust" were developed to achieve these ends.

Tập đoàn Thép Hoa Kỳ, kết quả của việc sáp nhập năm 1901, cho thấy một quá trình kép dài trong 30 năm: sự kết hợp các công ty công nghiệp độc lập thành các nghiệp đoàn hay các công ty tập trung. Bắt đầu từ khi Nội chiến nổ ra, xu hướng này phát triển mạnh mẽ từ sau thập niên 1870 khi các doanh nhân bắt đầu lo rằng hiện tượng sản xuất dư thừa sẽ dẫn tới giảm giá và giảm lợi nhuận. Họ nhận thấy rằng nếu họ kiểm soát được cả sản xuất lẫn thị trường thì họ có thể hợp nhất được các công ty đang cạnh tranh với nhau vào làm một. Các tập đoàn hay tờ -rớt được hình thành để đạt được mục tiêu trên.

Corporations, making available a deep reservoir of capital and giving business enterprises permanent life and continuity of control, attracted investors both by their anticipated profits and by their limited liability in case of business failure. The trusts were in effect combinations of corporations whereby the stockholders of each placed stocks in the hands of trustees. (The "trust" as a method of corporate consolidation soon gave way to the holding company, but the term stuck.) Trusts made possible large-scale combinations, centralized control and administration, and the pooling of patents. Their larger capital resources provided power to expand, to compete with foreign business organizations, and to drive hard bargains with labor, which was beginning to organize effectively. They could also exact favorable terms from railroads and exercise influence in politics.


Các tập đoàn, với nguồn dự trữ vốn dồi dào và cho phép các công ty tồn tại lâu dài và có tính độc lập cao, hấp dẫn các nhà đầu tư về cả lợi nhuận ước tính và giới hạn trách nhiệm trong trường hợp công ty phá sản. Trên thực tế các tờ -rớt là sự kết hợp các tập đoàn mà cổ đông của mỗi tập đoàn lại giao cổ phần cho các ủy viên quản trị quản lý (“Tờ-rớt với tư cách là phương pháp kết hợp các tập đoàn nhanh chóng tạo tiền đề cho việc thành lập công ty mẹ, nhưng thuật ngữ này lại không tồn tại được). Tờ-rớt tạo ra sự kết hợp trên quy mô lớn, tập trung kiểm soát và điều hành, dùng chung các bằng phát minh sáng chế. Nguồn vốn lớn của tờ-rớt khiến cho nó có khả năng mở rộng và cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài và có sức mạnh đàm phán với các nghiệp đoàn lao động lúc này đã bắt đầu được tổ chức hoạt động có hiệu quả. Các tờ-rớt cũng có thể yêu cầu được hưởng các điều kiện ưu đãi từ ngành đường sắt và gây tác động tới chính trị.

The Standard Oil Company, founded by John D. Rockefeller, was one of the earliest and strongest corporations, and was followed rapidly by other combinations -- in cottonseed oil, lead, sugar, tobacco, and rubber. Soon aggressive individual businessmen began to mark out industrial domains for themselves. Four great meat packers, chief among them Philip Armour and Gustavus Swift, established a beef trust. Cyrus McCormick achieved preeminence in the reaper business. A 1904 survey showed that more than 5,000 previously independent concerns had been consolidated into some 300 industrial trusts.

Công ty dầu khí Standard do John D. Rockeffeller góp vốn thành lập là một trong những tập đoàn sớm nhất và hùng mạnh nhất, và sau đó thì hàng loạt các tập đoàn khác được nhanh chóng thành lập trong các ngành dầu hạt bông, chì, đường, thuốc lá sợi và cao su. Ngay sau đó các doanh nhân năng nổ bắt đầu định hình các lĩnh vực công nghiệp của riêng mình. Bốn công ty thịt hộp lớn, trong đó lớn nhất là Philip Armour và Gustavus Swift, đã lập ra tờ -rớt thịt bò. Cyrus McCormick đã tạo lập ưu thế trong ngành kinh doanh máy gặt đập. Một cuộc điều tra năm 1904 đã cho thấy hơn 5.000 công ty độc lập trước đó đã tập hợp thành khoảng 300 tờ-rớt công nghiệp.


The trend toward amalgamation extended to other fields, particularly transportation and communications. Western Union, dominant in telegraphy, was followed by the Bell Telephone System and eventually by the American Telephone and Telegraph Company. In the 1860s, Cornelius Vanderbilt had consolidated 13 separate railroads into a single 800-kilometer line connecting New York City and Buffalo. During the next decade he acquired lines to Chicago, Illinois, and Detroit, Michigan, establishing the New York Central Railroad. Soon the major railroads of the nation were organized into trunk lines and systems directed by a handful of men.

Xu hướng hợp nhất lan sang cả những lĩnh vực khác, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông và thông tin liên lạc. Hãng Western Union, chiếm ưu thế trong ngành điện tín, hợp nhất cùng Bell Telephone System và sau đó là cùng với Công ty Điện thoại và Điện tín Hoa Kỳ. Trong thập niên 1860, Cornelius Vanderbilt đã hợp nhất 13 công ty đường sắt riêng rẽ thành một công ty có 800 km đường sắt nối liền New York với Buffalo. Trong thập niên tiếp theo, ông đã kiểm soát các tuyến đường sắt đi Chicago ở bang Illinois và Detroit ở bang Michigan và thành lập công ty Đường sắt Trung tâm New York. Ngay sau đó các tuyến đường sắt chính của Mỹ được tổ chức thành các tuyến và hệ thống chính do một số ít người quản lý.


In this new industrial order, the city was the nerve center, bringing to a focus all the nation's dynamic economic forces: vast accumulations of capital, business, and financial institutions, spreading railroad yards, smoky factories, armies of manual and clerical workers. Villages, attracting people from the countryside and from lands across the sea, grew into towns and towns into cities almost overnight. In 1830 only one of every 15 Americans lived in communities of 8,000 or more; in 1860 the ratio was nearly one in every six; and in 1890 three in every 10. No single city had as many as a million inhabitants in 1860; but 30 years later New York had a million and a half; Chicago, Illinois, and Philadelphia, Pennsylvania, each had over a million. In these three decades, Philadelphia and Baltimore, Maryland, doubled in population; Kansas City, Missouri, and Detroit, Michigan, grew fourfold; Cleveland, Ohio, sixfold; Chicago, tenfold. Minneapolis, Minnesota, and Omaha, Nebraska, and many communities like them -- hamlets when the Civil War began -- increased 50 times or more in population.

Trong trật tự công nghiệp mới này, thành phố là trung tâm đầu não quy tụ tất cả các nguồn lực kinh tế năng động nhất của Mỹ: tích tụ tư bản dồi dào, doanh nghiệp, tổ chức tài chính, sân ga, các nhà máy, đội quân lao động chân tay và trí óc. Các làng mạc thu hút người dân từ các vùng nông thôn và từ bên kia bờ đại dương tới và trở thành các thị trấn, và các thị trấn bỗng chốc trở thành thành phố. Vào năm 1830, cứ 15 người Mỹ thì có một người sống tại các cộng đồng có từ 8.000 cư dân trở lên; vào năm 1860 tỷ lệ này đã tăng lên một trên sáu người và vào năm 1890 thì tỷ lệ này là ba trên mười. Vào năm 1860 chưa có thành phố nào có số dân đạt một triệu người; nhưng 30 năm sau thì dân số New York là 1,5 triệu; thành phố Chicago bang Illinois và thành phố Philadelphia bang Pennsylvania có dân số hơn một triệu người. Trong ba thập niên này thì dân số của Philadelphia và Baltimore bang Maryland tăng gấp đôi; dân số thành phố Kansas bang Missouri và Detroit bang Michigan tăng gấp bốn lần; Cleveland bang Ohio tăng sáu lần và Chicago tăng mười lần. Thành phố Minneapolis bang Minesota, Omaha bang Nebraska và nhiều nơi tương tự - khi Nội chiến nổ ra thì vẫn còn là những thôn làng nhỏ bé - đã có số dân tăng thêm khoảng 50% hoặc hơn.



RAILROADS, REGULATIONS AND THE TARIFF

Railroads were especially important to the expanding nation, and their practices were often criticized. Rail lines extended cheaper freight rates to large shippers by rebating a portion of the charge, thus disadvantaging small shippers. Freight rates also frequently were not proportionate to distance traveled; competition usually held down charges between cities with several rail connections. Rates tended to be high between points served by only one line. Thus it cost less to ship goods 1,280 kilometers from Chicago to New York than to places a few hundred kilometers from Chicago. Moreover, to avoid competition rival companies sometimes divided ("pooled") the freight business according to a prearranged scheme that placed the total earnings in a common fund for distribution.

ĐƯỜNG SẮT, LUẬT LỆ VÀ THUẾ QUAN

Đường sắt đặc biệt quan trọng khi mở rộng lãnh thổ quốc gia và việc xây dựng đường sắt thường bị chỉ trích. Ngành đường sắt ngày càng đưa ra mức phí vận chuyển rẻ hơn cho những người gửi hàng với số lượng lớn thông qua việc giảm bớt một phần cước phí, và vì vậy những người gửi hàng với số lượng ít bị chịu thiệt. Mức cước phí cũng thường không tính tương ứng theo khoảng cách; cạnh tranh khiến cho mức phí chuyên chở giữa các thành phố có nhiều hãng đường sắt hoạt động bị giảm xuống. Mức cước phí giữa những địa điểm chỉ có một hãng đường sắt hoạt động thường ở mức cao. Vì vậy gửi hàng từ Chicago đến New York với khoảng cách 1.280 km có chi phí thấp hơn so với việc gửi hàng từ Chicago đến những nơi cách Chicago vài trăm kilomet. Ngoài ra, để tránh tình trạng cạnh tranh thì các công ty đường sắt đôi khi chia (đi chung) việc vận chuyển theo các kế hoạch đã được sắp xếp từ trước và số doanh thu từ hoạt động này sẽ được đưa vào một quỹ chung để chia sau.


Popular resentment at these practices stimulated state efforts at regulation, but the problem was national in character. Shippers demanded congressional action. In 1887 President Grover Cleveland signed the Interstate Commerce Act, which forbade excessive charges, pools, rebates, and rate discrimination. It created an Interstate Commerce Commission (ICC) to oversee the act, but gave it little enforcement power. In the first decades of its existence, virtually all the ICC's efforts at regulation and rate reductions failed to pass judicial review.

Sự tức giận của dân chúng đối với việc này đã khiến chính quyền bang phải đưa ra quy định, nhưng vấn đề này mang tính chất quốc gia. Những người gửi hàng yêu cầu phải có hành động của phía Quốc hội. Vào năm 1887, Tổng thống Grover Cleveland đã ký Đạo luật Thương mại Liên bang nghiêm cấm việc thu thêm cước phí, đi chung, giảm giá cước và phân biệt mức cước. Đạo luật này lập ra ủy ban Thương mại Liên bang (ICC) để theo dõi việc tuân thủ quy định của đạo luật nhưng ủy ban này lại hầu như không được trao quyền cưỡng chế. Trong những thập niên đầu tiên kể từ khi ra đời, hiển nhiên là tất cả các nỗ lực của ICC nhằm điều tiết và cắt giảm mức cước đã không được đưa ra xem xét tại tòa.

President Cleveland also opposed the protective tariff on foreign goods, which had come to be accepted as permanent national policy under the Republican presidents who dominated the politics of the era. Cleveland, a conservative Democrat, regarded tariff protection as an unwarranted subsidy to big business, giving the trusts pricing power to the disadvantage of ordinary Americans. Reflecting the interests of their Southern base, the Democrats had reverted to their pre-Civil War opposition to protection and advocacy of a "tariff for revenue only."

Tổng thống Cleveland cũng phản đối thuế quan bảo hộ đánh vào hàng hóa nước ngoài vốn thường được coi là chính sách quốc gia vĩnh viễn dưới thời các tổng thống thuộc Đảng Cộng hòa, những người chi phối chính trị của giai đoạn này. Cleveland, một đảng viên Dân chủ bảo thủ, coi bảo hộ thuế quan là một loại trợ cấp phi pháp dành cho các doanh nghiệp lớn, cho phép các tờ-rớt quyền ép giá gây bất lợi cho người thường dân Mỹ. Thể hiện quyền lợi của phe miền Nam, Đảng Dân chủ đã quay lại với chính sách thời trước Nội chiến là phản đối bảo hộ và chủ trương chỉ đánh thuế vào doanh thu.

Cleveland, narrowly elected in 1884, was unsuccessful in achieving tariff reform during his first term. He made the issue the keynote of his campaign for reelection, but Republican candidate Benjamin Harrison, a defender of protectionism, won in a close race. In 1890, the Harrison administration, fulfilling its campaign promises, achieved passage of the McKinley tariff, which increased the already high rates. Blamed for high retail prices, the McKinley duties triggered widespread dissatisfaction, led to Republican losses in the 1890 elections, and paved the way for Cleveland's return to the presidency in the 1892 election.

Cleveland chiến thắng sít sao trong cuộc bầu cử năm 1884 và đã không thành công trong việc cải cách thuế quan trong nhiệm kỳ đầu của mình. Ông đưa vấn đề này ra làm chủ đề chính cho chiến dịch tái tranh cử của mình nhưng ứng cử viên Đảng Cộng hòa Benjamin Harrison, một người ủng hộ chủ nghĩa bảo hộ, đã giành chiến thắng trong một cuộc đua sát nút. Năm 1890, Chính quyền Tổng thống Harrison đã thực hiện được lời hứa tranh cử khi thông qua được luật thuế quan McKinley, luật thuế tăng thêm thuế suất nhập khẩu vốn đã rất cao. Bị chỉ trích là làm cho giá bán lẻ tăng lên quá cao, luật thuế McKinley đã khiến cho bất bình lan rộng và dẫn đến sự thất bại của Đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử năm 1890, mở đường cho việc quay trở lại chức vụ tổng thống của Cleveland trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1892.


During this period, public antipathy toward the trusts increased. The nation's gigantic corporations were subjected to bitter attack through the 1880s by reformers such as Henry George and Edward Bellamy. The Sherman Antitrust Act, passed in 1890, forbade all combinations in restraint of interstate trade and provided several methods of enforcement with severe penalties. Couched in vague generalities, the law accomplished little immediately after its passage. But a decade later, President Theodore Roosevelt would use it vigorously.


Trong giai đoạn này, ác cảm của công chúng đối với các tờ -rớt ngày càng tăng. Các tập đoàn khổng lồ bị những cuộc tấn công mãnh liệt của các nhà cải cách như Henry George và Edward Bellamy trong thập niên 1880. Đạo luật Chống độc quyền mang tên Sherman được thông qua năm 1890 cấm tất cả những sự kết hợp nhằm ngăn cản thương mại giữa các bang và đưa ra một số biện pháp cưỡng chế với chế tài nghiêm khắc. ẩn sau những quy định chung chung, đạo luật này hầu như không có tác dụng ngay sau khi được thông qua. Nhưng một thập niên sau Tổng thống Theodore Roosevelt đã áp dụng đạo luật này một cách mạnh mẽ.

REVOLUTION IN AGRICULTURE

Despite the great gains in industry, agriculture remained the nation's basic occupation. The revolution in agriculture -- paralleling that in manufacturing after the Civil War -- involved a shift from hand labor to machine farming, and from subsistence to commercial agriculture. Between 1860 and 1910, the number of farms in the United States tripled, increasing from two million to six million, while the area farmed more than doubled from 160 million to 352 million hectares.

CÁCH MẠNG TRONG NÔNG NGHIỆP

Cho dù đạt được những thành tựu lớn trong công nghiệp nhưng nông nghiệp của Mỹ vẫn là ngành có lực lượng lao động chủ yếu. Cuộc cách mạng trong nông nghiệp - đồng thời diễn ra với cách mạng công nghiệp sau cuộc Nội chiến - đã chuyển lao động chân tay sang lao động máy móc và từ sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Từ 1860 đến 1910, số lượng nông trang ở Mỹ tăng gấp ba lần, từ hai triệu lên sáu triệu nông trang trong khi diện tích canh tác tăng lên hơn hai lần, từ 160 triệu hec-ta lên 352 triệu hec-ta.

Between 1860 and 1890, the production of such basic commodities as wheat, corn, and cotton outstripped all previous figures in the United States. In the same period, the nation's population more than doubled, with the largest growth in the cities. But the American farmer grew enough grain and cotton, raised enough beef and pork, and clipped enough wool not only to supply American workers and their families but also to create ever-increasing surpluses.

Từ 1860 đến 1890, việc sản xuất các mặt hàng nguyên liệu cơ bản như lúa mỳ, ngô, bông vượt xa những con số trước đó của Hoa Kỳ. Trong cùng thời kỳ này dân số Hoa Kỳ tăng lên gấp đôi với tốc độ tăng nhanh nhất là ở các thành phố. Nhưng nông dân Mỹ đã trồng đủ ngũ cốc và bông, nuôi đủ bò và lợn, cắt lông cừu đủ làm len không những cho công nhân Mỹ mà còn tạo ra một lượng dư thừa lớn chưa từng có.

Several factors accounted for this extraordinary achievement. One was the expansion into the West. Another was a technological revolution. The farmer of 1800, using a hand sickle, could hope to cut a fifth of a hectare of wheat a day. With the cradle, 30 years later, he might cut four-fifths. In 1840 Cyrus McCormick performed a miracle by cutting from two to two-and-a-half hectares a day with the reaper, a machine he had been developing for nearly 10 years. He headed west to the young prairie town of Chicago, where he set up a factory -- and by 1860 sold a quarter of a million reapers.

Thành quả rực rỡ này là do một vài yếu tố. Một trong những yếu tố đó là sự mở rộng về phía Tây. Yếu tố nữa là cuộc cách mạng công nghệ. Vào đầu thế kỷ XIX, với liềm cắt bằng tay thì nông dân chỉ mong cắt được một phần năm hec-ta lúa mỳ một ngày. 30 năm sau, với hái có khung gạt người nông dân có thể cắt bốn phần năm hec-ta một ngày. Vào năm 1840, Cyrus McCormich thể hiện một điều kỳ diệu khi cắt từ hai đến hai hec-ta rưỡi một ngày với chiếc máy gặt mà ông đã mất gần 10 năm nghiên cứu chế tạo. Ông tiến về phía tây tới những thị trấn mới trên thảo nguyên của Chicago. Tại đây ông thành lập nhà máy và tới năm 1860 thì ông đã bán được 250.000 chiếc máy gặt.


Other farm machines were developed in rapid succession: the automatic wire binder, the threshing machine, and the reaper-thresher or combine. Mechanical planters, cutters, huskers, and shellers appeared, as did cream separators, manure spreaders, potato planters, hay driers, poultry incubators, and a hundred other inventions.

Những máy móc nông nghiệp khác cũng đạt được những thành công nhanh chóng: máy tự động buộc, máy đập, máy gặt đập hay máy kết hợp tất cả các chức năng. Máy trồng cây, cắt cây, máy xay xát, máy bóc vỏ xuất hiện và đồng thời cũng xuất hiện máy tách kem, máy bón phân, máy trồng khoai tây, máy sấy cỏ, lò ấp trứng gia cầm và hàng loạt các phát minh khác nữa.

Scarcely less important than machinery in the agricultural revolution was science. In 1862 the Morrill Land Grant College Act allotted public land to each state for the establishment of agricultural and industrial colleges. These were to serve both as educational institutions and as centers for research in scientific farming. Congress subsequently appropriated funds for the creation of agricultural experiment stations throughout the country and granted funds directly to the Department of Agriculture for research purposes. By the beginning of the new century, scientists throughout the United States were at work on a wide variety of agricultural projects.


Không kém phần quan trọng so với máy móc trong cách mạng nông nghiệp là khoa học nông nghiệp. Vào năm 1862, Đạo luật Cấp đất cho các trường Đại học mang tên Morill đã giao đất công cho từng bang để thành lập các trường đại học công nghiệp và nông nghiệp. Các trường này vừa là cơ sở giáo dục vừa là các trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp. Sau đó Quốc hội phân bổ ngân sách cho việc thành lập các cơ sở thí nghiệm nông nghiệp trên khắp cả nước và giao ngân sách trực tiếp cho Bộ Nông nghiệp để tài trợ cho các mục đích nghiên cứu. Vào đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học trên khắp nước Mỹ tham gia rất nhiều các dự án nông nghiệp.


One of these scientists, Mark Carleton, traveled for the Department of Agriculture to Russia. There he found and exported to his homeland the rust- and drought-resistant winter wheat that now accounts for more than half the U.S. wheat crop. Another scientist, Marion Dorset, conquered the dreaded hog cholera, while still another, George Mohler, helped prevent hoof-and-mouth disease. From North Africa, one researcher brought back Kaffir corn; from Turkestan, another imported the yellow flowering alfalfa. Luther Burbank in California produced scores of new fruits and vegetables; in Wisconsin, Stephen Babcock devised a test for determining the butterfat content of milk; at Tuskegee Institute in Alabama, the African-American scientist George Washington Carver found hundreds of new uses for the peanut, sweet potato, and soybean.

Một trong số các nhà khoa học này, Mark Carleton, chuyển từ Bộ Nông nghiệp sang Nga. Ở Nga, ông đã tìm ra và xuất khẩu về quê nhà loại lúa mỳ mùa đông chịu hạn và chống được bệnh gỉ sắt và hiện giờ giống lúa mỳ này chiếm tới hơn một nửa sản lượng lúa mỳ của Mỹ. Một nhà khoa học khác, Marion Dorset, đã khống chế được bệnh tả của lợn và một nhà khoa học khác, George Mohler, đã giúp chống lại bệnh lở mồm long móng. Từ Bắc Phi, một nhà nghiên cứu đã mang về giống ngô Kaffir; từ Turkestan, một nhà nghiên cứu khác nhập khẩu về loại cỏ linh lăng hoa vàng. Luther Burback ở bang California sản xuất ra rất nhiều loại rau hoa quả mới; ở bang Winconsin, Stephen Babcock đã phát minh ra cách kiểm tra để xác định hàm lượng mỡ bơ trong sữa; tại Học viện Tuskegee ở bang Alabama, nhà khoa học Mỹ gốc Phi George Washington Carver tìm ra hàng trăm cách sử dụng hạt lạc, khoai lang và hạt đậu.

In varying degrees, the explosion in agricultural science and technology affected farmers all over the world, raising yields, squeezing out small producers, and driving migration to industrial cities. Railroads and steamships, moreover, began to pull regional markets into one large world market with prices instantly communicated by trans-Atlantic cable as well as ground wires. Good news for urban consumers, falling agricultural prices threatened the livelihood of many American farmers and touched off a wave of agrarian discontent.

Ở những mức độ khác nhau, sự phát triển của khoa học nông nghiệp và kỹ thuật đã ảnh hưởng đến nông dân trên khắp thế giới, năng suất tăng lên, số người sản xuất ít đi, tạo ra làn sóng di cư lên thành phố. Hơn nữa, đường sắt và tàu hơi nước bắt đầu khiến cho các thị trường khu vực hòa nhập thành một thị trường chung cho cả thế giới với giá cả được cập nhật liên tục giữa hai bờ Đại Tây Dương thông qua cáp và dây điện. Tin tốt cho người tiêu dùng thành thị, giá nông sản giảm sút đe dọa cuộc sống của nhiều nông dân Mỹ và gây ra một làn sóng bất bình của nông dân.

THE DIVIDED SOUTH

MIỀN NAM BỊ CHIA RẼ



The Statue of Liberty, one of the United States' most beloved monuments, stands 151-feet high at the entrance to New York harbor. A gift of friendship from the people of France to the United States, it was intended to be an impressive symbol of human liberty. It was certainly that for the millions of immigrants who came to the United States in the 19th and early 20th centuries, seeking freedom and a better life.
(© James Casserly)

Tượng Nữ thần Tự do, một trong những tượng đài được yêu thích nhất của Hoa Kỳ, đứng cao 151 feet ở lối vào cảng New York . Một món quà của tình hữu nghị của nhân dân Pháp gửi đến Hoa Kỳ, nó được nhằm làm một biểu tượng đầy ấn tượng của tự do con người. Đó là điều chắc chắn đúng đối với hàng triệu người nhập cư đến Hoa Kỳ trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, để tìm tự do và một cuộc sống tốt đẹp hơn.
( © James Casserly )

After Reconstruction, Southern leaders pushed hard to attract industry. States offered large inducements and cheap labor to investors to develop the steel, lumber, tobacco, and textile industries. Yet in 1900 the region's percentage of the nation's industrial base remained about what it had been in 1860. Moreover, the price of this drive for industrialization was high: Disease and child labor proliferated in Southern mill towns. Thirty years after the Civil War, the South was still poor, overwhelmingly agrarian, and economically dependent. Moreover, its race relations reflected not just the legacy of slavery, but what was emerging as the central theme of its history -- a determination to enforce white supremacy at any cost.

Sau công cuộc Tái thiết, các nhà lãnh đạo miền Nam đã cố gắng thu hút phát triển công nghiệp. Các bang đã đưa ra nhiều khuyến khích lớn và giá nhân công rẻ để các nhà đầu tư phát triển ngành thép, gỗ, thuốc lá sợi và dệt may. Tuy nhiên cho đến đầu thế kỷ XX thì tỷ trọng công nghiệp của miền Nam so với tỷ trọng công nghiệp của cả nước vẫn giữ ở mức như năm 1860. Ngoài ra, cái giá phải trả cho xu thế công nghiệp hóa này rất cao: Bệnh tật và lao động trẻ em là hiện tượng phổ biến ở các thị trấn có nhà máy. Ba mươi năm sau Nội chiến, miền Nam vẫn còn nghèo, chủ yếu là sống nhờ nông nghiệp và bị phụ thuộc về kinh tế. Hơn nữa, quan hệ chủng tộc ở miền Nam không chỉ phản ánh di sản của chế độ nô lệ mà còn phản ánh một vấn đề đang nổi lên như là chủ đề trọng tâm của lịch sử Hoa Kỳ - quyết tâm duy trì sự ưu việt của người da trắng bằng mọi giá.
                              

Intransigent white Southerners found ways to assert state control to maintain white dominance. Several Supreme Court decisions also bolstered their efforts by upholding traditional Southern views of the appropriate balance between national and state power.

Những người da trắng miền Nam không chịu khoan nhượng tìm nhiều cách thâu tóm quyền quản lý chính quyền bang để duy trì sự thống trị của người da trắng. Một số phán quyết của Tòa án Tối cao cũng đã ủng hộ những nỗ lực này bằng cách tán thành những quan điểm truyền thống của miền Nam về việc phân chia hợp lý quyền lực của chính quyền bang và liên bang.

In 1873 the Supreme Court found that the 14th Amendment (citizenship rights not to be abridged) conferred no new privileges or immunities to protect African Americans from state power. In 1883, furthermore, it ruled that the 14th Amendment did not prevent individuals, as opposed to states, from practicing discrimination. And in Plessy v. Ferguson (1896), the Court found that "separate but equal" public accommodations for African Americans, such as trains and restaurants, did not violate their rights. Soon the principle of segregation by race extended into every area of Southern life, from railroads to restaurants, hotels, hospitals, and schools. Moreover, any area of life that was not segregated by law was segregated by custom and practice. Further curtailment of the right to vote followed. Periodic lynchings by mobs underscored the region's determination to subjugate its African-American population.


Năm 1873 Tòa án Tối cao thấy rằng Điều bổ sung sửa đổi thứ 14 của Hiến pháp (quyền công dân không thể bị tước đoạt) không trao đặc ân hay miễn trách nào nhằm bảo vệ người Mỹ gốc Phi trước quyền lực của bang. Hơn nữa, năm 1883 Tòa án Tối cao đã phán quyết rằng Điều bổ sung sửa đổi thứ 14 không bảo vệ được cá nhân trước những hành động phân biệt đối xử của chính quyền bang. Và trong vụ án Plessy kiện Ferguson (năm 1896), Tòa án Tối cao thấy rằng không gian công cộng tách biệt nhưng ngang bằng dành cho người Mỹ gốc Phi như chỗ trên tàu hỏa và trong nhà hàng không vi phạm quyền của họ. Ngay lập tức nguyên tắc phân biệt chủng tộc được tiến hành rộng rãi ở khắp mọi lĩnh vực cuộc sống ở miền Nam từ tàu hỏa cho tới nhà hàng, khách sạn, bệnh viện, trường học. Ngoài ra, bất cứ lĩnh vực cuộc sống nào mà không được phân biệt theo luật thì sẽ bị phân biệt theo phong tục và thông lệ. Tiếp theo là việc tước bớt quyền bầu cử. Những vụ hành hình người da đen do bọn du côn tiến hành liên tiếp xảy ra đã càng nhấn mạnh thêm quyết tâm của miền Nam nô dịch hóa nhóm dân Mỹ gốc Phi.


Faced with pervasive discrimination, many African Americans followed Booker T. Washington, who counseled them to focus on modest economic goals and to accept temporary social discrimination. Others, led by the African-American intellectual W.E.B. Du Bois, wanted to challenge segregation through political action. But with both major parties uninterested in the issue and scientific theory of the time generally accepting black inferiority, demands for racial justice attracted little support.

Đối mặt với những sự phân biệt tràn lan, nhiều người Mỹ gốc Phi đã đi theo Booker T. Washington, người tư vấn cho họ tập trung vào những mục tiêu kinh tế khiêm tốn và chấp nhận tạm thời tình trạng phân biệt trong xã hội. Những người da đen khác dưới sự lãnh đạo của nhà trí thức gốc Phi W.E.B Du Bois lại muốn đấu tranh chống lại nạn phân biệt thông qua hành động chính trị. Nhưng với việc cả hai chính đảng lớn nhất đều không quan tâm tới vấn đề này và học thuyết khoa học thời đó thường cũng chấp nhận sự thấp kém của người da đen nên yêu cầu đòi bình đẳng về sắc tộc đã ít nhận được sự ủng hộ.

THE LAST FRONTIER

BIÊN GIỚI CUỐI CÙNG



Sitting Bull, Sioux chief who led the last great battle of the Plains Indians against the U.S. Army, when his warriors defeated forces under the command of General George Custer at the Battle of Little Bighorn in 1876.
(Library of Congress)

Sitting Bull (Bò ngồi), Tù trưởng Sioux chỉ huy các trận đánh lớn cuối cùng của vùng đồng bằng Anh-điêng chống lại quân đội Mỹ, khi các chiến binh của ông đã đánh bại các lực lượng dưới sự chỉ huy của Tướng George Custer trong trận Little Bighorn năm 1876.
(Thư viện Quốc hội)

In 1865 the frontier line generally followed the western limits of the states bordering the Mississippi River, but bulged outward beyond the eastern sections of Texas, Kansas, and Nebraska. Then, running north and south for nearly 1,600 kilometers, loomed huge mountain ranges, many rich in silver, gold, and other metals. To their west, plains and deserts stretched to the wooded coastal ranges and the Pacific Ocean. Apart from the settled districts in California and scattered outposts, the vast inland region was populated by Native Americans: among them the Great Plains tribes -- Sioux and Blackfoot, Pawnee and Cheyenne -- and the Indian cultures of the Southwest, including Apache, Navajo, and Hopi.

Năm 1865, đường biên giới nhìn chung là theo giới hạn phía tây của các bang tiếp giáp với sông Mississippi nhưng phình ra bên ngoài về phía đông các bang Texas, Kansas và Nebraska. Sau đó, biên giới chạy lên phía bắc và phía nam tới gần 1.600 km, bao trùm cả các dãy núi lớn, nhiều dãy núi giàu các loại khoáng sản như bạc, vàng và kim loại khác. Về phía tây, các đồng bằng và sa mạc trải dài cho tới tận các khu rừng ven biển Thái Bình Dương. Ngoài những quận có người định cư ở California và những vùng định cư xa xôi nằm rải rác thì khu vực đất liền rộng lớn là nơi cư trú của thổ dân da đỏ: trong số đó có các bộ lạc vùng đồng bằng Great Plains - Sioux và Blackfoot, Pawnee và Cheyenne - và các nền văn hóa Anh- điêng của miền Tây Nam, trong đó bao gồm các bộ lạc Apache, Navao và Hopi.

A mere quarter-century later, virtually all this country had been carved into states and territories. Miners had ranged over the whole of the mountain country, tunneling into the earth, establishing little communities in Nevada, Montana, and Colorado. Cattle ranchers, taking advantage of the enormous grasslands, had laid claim to the huge expanse stretching from Texas to the upper Missouri River. Sheep herders had found their way to the valleys and mountain slopes. Farmers sank their plows into the plains and closed the gap between the East and West. By 1890 the frontier line had disappeared.

Chỉ 25 năm sau, gần như tất cả vùng đất này đều đã được chia thành các bang và vùng lãnh thổ. Thợ mỏ đã đi đến khắp các khu vực miền núi, đào hầm sâu vào lòng đất, thành lập ra các cộng đồng nhỏ ở bang Nevada, Montana và Colorado. Các chủ trang trại gia súc tận dụng các đồng cỏ lớn đã làm chủ một vùng đất rộng lớn trải từ Texas cho đến thượng nguồn sông Missouri. Những người chăn cừu đã tìm ra đường đến các thung lũng và triền núi. Nông dân cày cấy trên các cánh đồng và xóa nhòa khoảng cách giữa phía Đông và phía Tây. Cho tới năm 1890 thì đường biên giới đã không còn nữa.

Settlement was spurred by the Homestead Act of 1862, which granted free farms of 64 hectares to citizens who would occupy and improve the land. Unfortunately for the would-be farmers, much of the Great Plains was suited more for cattle ranching than farming, and by 1880 nearly 22,400,000 hectares of "free" land were in the hands of cattlemen or the railroads.


Công cuộc định cư được khích lệ bằng Đạo luật cấp đất cho người di cư năm 1862. Đạo luật này cấp miễn phí 64 hec-ta trang trại cho các công dân cư ngụ và cải tạo mảnh đất đó. Thật tiếc cho những người đáng nhẽ ra đã trở thành nông dân bởi phần lớn diện tích vùng Great Plains lại phù hợp hơn cho việc chăn nuôi gia súc chứ không phải là cho việc trồng trọt và cho tới năm 1880 thì gần 22.440.000 hec-ta đất miễn phí đã thuộc về người chăn nuôi gia súc hay các hãng đường sắt.

In 1862 Congress also voted a charter to the Union Pacific Railroad, which pushed westward from Council Bluffs, Iowa, using mostly the labor of ex-soldiers and Irish immigrants. At the same time, the Central Pacific Railroad began to build eastward from Sacramento, California, relying heavily on Chinese immigrant labor. The whole country was stirred as the two lines steadily approached each other, finally meeting on May 10, 1869, at Promontory Point in Utah. The months of laborious travel hitherto separating the two oceans was now cut to about six days. The continental rail network grew steadily; by 1884 four great lines linked the central Mississippi Valley area with the Pacific.

Năm 1862 Quốc hội cũng bỏ phiếu thông qua tuyên bố về việc thành lập Liên minh Đường sắt Thái Bình Dương. Tuyến đường này sẽ tiến về phía tây từ Council Bluffs bang Iowa, sử dụng chủ yếu lao động là cựu chiến binh và dân Ai-len nhập cư. Cùng lúc, công ty Đường sắt Trung tâm Thái Bình Dương cũng bắt đầu xây dựng tuyến đường sắt tiến về phía đông từ Sacramento bang California, chủ yếu sử dụng lao động Trung Quốc nhập cư. Cả nước Mỹ hồi hộp chờ hai tuyến đường sắt ngày càng xích lại gần nhau và cuối cùng vào ngày 10/5/1869 thì hai tuyến đường này đã gặp nhau ở Promontory Point bang Utah. Hành trình gian khổ kéo dài nhiều tháng giữa hai bờ đại dương giờ đây đã giảm xuống còn sáu ngày. Hệ thống đường sắt lục địa phát triển mạnh và cho tới năm 1884 đã có bốn tuyến đường sắt lớn nối trung tâm vùng Thung lũng Mississippi với Thái Bình Dương.

The first great rush of population to the Far West was drawn to the mountainous regions, where gold was found in California in 1848, in Colorado and Nevada 10 years later, in Montana and Wyoming in the 1860s, and in the Black Hills of the Dakota country in the 1870s. Miners opened up the country, established communities, and laid the foundations for more permanent settlements. Eventually, however, though a few communities continued to be devoted almost exclusively to mining, the real wealth of Montana, Colorado, Wyoming, Idaho, and California proved to be in the grass and soil. Cattle-raising, long an important industry in Texas, flourished after the Civil War, when enterprising men began to drive their Texas longhorn cattle north across the open public land. Feeding as they went, the cattle arrived at railway shipping points in Kansas, larger and fatter than when they started. The annual cattle drive became a regular event; for hundreds of kilometers, trails were dotted with herds moving northward.

Cuộc di dân ồ ạt lần đầu tiên tới miền Viễn Tây đã kéo người dân tới các khu vực miền núi nơi phát hiện ra vàng ở bang California năm 1848, ở bang Colorado và Nevada 10 năm sau đó, ở bang Montana và Wyoming vào thập niên 1860 và vùng Black Hills ở miền quê bang Dakota trong thập niên 1870. Thợ mỏ đã khai phá vùng nông thôn, thành lập nên các cộng đồng và đặt nền tảng cho việc định cư lâu dài. Tuy nhiên, cuối cùng thì mặc dù một vài cộng đồng tiếp tục tập trung toàn bộ vào công việc khai mỏ, nhưng của cải thực sự của các bang Montana, Colorado, Wyoming, Idaho và California lại được tìm thấy ở đồng cỏ và đất đai. Việc chăn nuôi gia súc, một thời gian dài là ngành quan trọng ở Texas, đã phát triển mạnh sau Nội chiến khi những con người dám nghĩ dám làm bắt đầu xua đàn gia súc sừng dài lên phía bắc đi qua khu vực đất công. Vừa đi vừa nuôi, đàn gia súc của họ khi tới điểm chuyên chở gia súc bằng tàu hỏa ở Kansas đã lớn hơn và béo hơn nhiều so với khi bắt đầu lên đường. Việc lùa đàn gia súc này hàng năm đã trở thành một sự kiện thường xuyên; đường đi của đàn gia súc lên phía bắc đã thành một vệt dài hàng trăm kilômét.

Next, immense cattle ranches appeared in Colorado, Wyoming, Kansas, Nebraska, and the Dakota territory. Western cities flourished as centers for the slaughter and dressing of meat. The cattle boom peaked in the mid-1880s. By then, not far behind the rancher creaked the covered wagons of the farmers bringing their families, their draft horses, cows, and pigs. Under the Homestead Act they staked their claims and fenced them with a new invention, barbed wire. Ranchers were ousted from lands they had roamed without legal title.

Tiếp theo, nhiều trang trại nuôi gia súc rộng lớn đã xuất hiện ở các bang Colorado, Wyoming, Kansas, Nebraska và lãnh thổ Dakota. Các thành phố phía tây đã phát triển thành các trung tâm giết mổ gia súc lấy thịt. Chăn nuôi gia súc phát triển mạnh nhất vào giữa thập niên 1880. Vào thời điểm đó, không xa các trang trại chăn nuôi là các xe ngựa có mui của nông dân mang theo gia đình họ cùng ngựa kéo, bò, lợn. Theo Đạo luật cấp đất cho người di cư, họ đóng cọc xí đất và rào mảnh đất của họ bằng dây thép gai, một phát minh mới. Chủ trang trại nuôi gia súc bị hất cẳng khỏi mảnh đất mà họ đã đến ở mà không có giấy tờ công nhận về mặt pháp lý.

Ranching and the cattle drives gave American mythology its last icon of frontier culture -- the cowboy. The reality of cowboy life was one of grueling hardship. As depicted by writers like Zane Grey and such movie actors as John Wayne, the cowboy was a powerful mythological figure, a bold, virtuous man of action. Not until the late 20th century did a reaction set in. Historians and filmmakers alike began to depict "the Wild West" as a sordid place, peopled by characters more apt to reflect the worst, rather than the best, in human nature.

Chăn nuôi và lùa gia súc đã tạo ra cho thần thoại của Mỹ thần tượng cuối cùng của nền văn hóa biên giới - văn hóa cao bồi. Thực chất của cuộc sống cao bồi là cuộc sống vượt qua nhiều cam khổ. Theo mô tả của các nhà văn như Zane Grey và theo diễn xuất của các diễn viên điện ảnh như John Wayne, cao bồi là những nhân vật thần thoại khỏe mạnh, những con người hành động mạnh mẽ và táo bạo. Cho đến tận cuối thế kỷ XX thì chúng ta mới bắt đầu xây dựng lại hình tượng cao bồi. Các chuyên gia lịch sử và các nhà làm phim bắt đầu mô tả miền Tây hoang dã như là một nơi bẩn thỉu, nơi sinh sống của những con người mang cá tính thiên về thể hiện những điều xấu xa chứ không phải những điều tốt đẹp trong bản chất con người.

THE PLIGHT OF THE NATIVE AMERICANS

As in the East, expansion into the plains and mountains by miners, ranchers, and settlers led to increasing conflicts with the Native Americans of the West. Many tribes of Native Americans -- from the Utes of the Great Basin to the Nez Perces of Idaho -- fought the whites at one time or another. But the Sioux of the Northern Plains and the Apache of the Southwest provided the most significant opposition to frontier advance. Led by such resourceful leaders as Red Cloud and Crazy Horse, the Sioux were particularly skilled at high-speed mounted warfare. The Apaches were equally adept and highly elusive, fighting in their environs of desert and canyons.

CẢNH TUYỆT VỌNG CỦA THỔ DÂN DA ĐỎ

Cũng như ở phía Đông, việc các thợ mỏ, người chăn nuôi gia súc và người định cư tiến ra các đồng cỏ và núi non đã dẫn đến xung đột ngày càng gia tăng với thổ dân da đỏ ở phía Tây. Nhiều bộ lạc thổ dân da đỏ - từ Utes thuộc vùng Great Basin cho tới Nez Perces thuộc vùng Idaho - đã thi thoảng chiến đấu chống lại người da trắng. Nhưng bộ lạc Sioux ở vùng Đồng bằng phía bắc và bộ lạc Apache ở vùng Tây Nam là những bộ lạc chống lại việc tiến ra vùng biên giới mạnh mẽ nhất. Được lãnh đạo bởi những thủ lĩnh giàu tiềm lực như Red Cloud và Crazy Horse, bộ lạc Sioux đặc biệt tinh nhuệ với việc chiến đấu trên lưng ngựa đang phi ở tốc độ cao. Bộ lạc Apache cũng giỏi tương đương và rất khó tìm thấy họ khi họ chiến đấu trên sa mạc và trong hẻm núi.

Conflicts with the Plains Indians worsened after an incident where the Dakota (part of the Sioux nation), declaring war against the U.S. government because of long-standing grievances, killed five white settlers. Rebellions and attacks continued through the Civil War. In 1876 the last serious Sioux war erupted, when the Dakota gold rush penetrated the Black Hills. The Army was supposed to keep miners off Sioux hunting grounds, but did little to protect the Sioux lands. When ordered to take action against bands of Sioux hunting on the range according to their treaty rights, however, it moved quickly and vigorously.

Xung đột với người da đỏ vùng đồng bằng trở nên tồi tệ hơn sau sự kiện người Dakota (một nhánh của người Sioux) giết năm người da trắng, tuyên chiến với Chính phủ Hoa Kỳ do những bất đồng từ lâu. Các cuộc nổi loạn và tấn công vẫn tiếp tục trong suốt thời kỳ Nội chiến. Năm 1876 cuộc chiến nghiêm trọng cuối cùng với người Sioux nổ ra khi dòng người đào vàng đổ xô đến Black Hills ở Dakota. Quân đội có nhiệm vụ ngăn không cho thợ mỏ đến khu vực săn bắn của người Sioux nhưng lại không làm gì để bảo vệ đất đai của người Sinoux. Tuy nhiên khi được lệnh hành động chống lại các nhóm người Sioux đi săn trên phạm vi quy định của hiệp định thì quân đội lại thực hiện quá nhanh và mạnh.

In 1876, after several indecisive encounters, Colonel George Custer, leading a small detachment of cavalry, encountered a vastly superior force of Sioux and their allies on the Little Bighorn River. Custer and his men were completely annihilated. Nonetheless the Native-American insurgency was soon suppressed. Later, in 1890, a ghost dance ritual on the Northern Sioux reservation at Wounded Knee, South Dakota, led to an uprising and a last, tragic encounter that ended in the death of nearly 300 Sioux men, women, and children.

Năm 1876, sau một vài lần chạm trán lẻ tẻ, Đại tá George Custer dẫn đầu một phân đội kỵ binh giao chiến với lực lượng tinh nhệ đông đảo của bộ lạc Sioux và đồng minh của họ trên bờ sông Little Bighorn. Custer và binh lính dưới quyền đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Tuy nhiên chẳng bao lâu sau, sự nổi loạn của người Mỹ da đỏ đã bị đàn áp. Sau đó, vào năm 1890, một lễ nghi nhảy múa kỳ quái tại vùng đất dành riêng cho người Sioux phía Bắc ở Wounded Knee bang Nam Dakota đã biến thành một cuộc nổi dậy và cuộc chiến cuối cùng đầy bi thương này đã kết thúc với gần 300 người Sioux cả nam, nữ, trẻ em bị giết chết.

Long before this, however, the way of life of the Plains Indians had been destroyed by an expanding white population, the coming of the railroads, and the slaughter of the buffalo, almost exterminated in the decade after 1870 by the settlers' indiscriminate hunting.

Những từ trước đó rất lâu thì lối sống của người Mỹ da đỏ vùng Plains đã bị hủy hoại do sự bành trướng của người da trắng, của các tuyến xe lửa, của việc giết mổ trâu bò, hầu hết đều bị tàn sát trong thập niên sau năm 1870 do những người định cư đã săn bắn bừa bãi.

The Apache wars in the Southwest dragged on until Geronimo, the last important chief, was captured in 1886.

Những cuộc giao tranh với bộ lạc Apache tại miền Tây Nam kéo dài cho đến tận khi Geronimo, thủ lĩnh quan trọng cuối cùng của bộ lạc, bị bắt vào năm 1886.

Government policy ever since the Monroe administration had been to move the Native Americans beyond the reach of the white frontier. But inevitably the reservations had become smaller and more crowded. Some Americans began to protest the government's treatment of Native Americans. Helen Hunt Jackson, for example, an Easterner living in the West, wrote A Century of Dishonor (1881), which dramatized their plight and struck a chord in the nation's conscience. Most reformers believed the Native American should be assimilated into the dominant culture. The federal government even set up a school in Carlisle, Pennsylvania, in an attempt to impose white values and beliefs on Native-American youths. (It was at this school that Jim Thorpe, often considered the best athlete the United States has produced, gained fame in the early 20th century.)

Chính sách của Chính phủ cho tới tận thời Chính quyền Tổng thống Monroe là đưa người Mỹ da đỏ ra khỏi biên giới của người da trắng. Những rõ ràng là vùng đất riêng của người da đỏ ngày càng bị thu hẹp và trở nên đông đúc. Một số người Mỹ bắt đầu phản đối cách cư xử của chính phủ đối với thổ dân da đỏ. Chẳng hạn như Helen Hunt Jackson, một người miền Đông đến sinh sống tại miền Tây đã viết cuốn Một thế kỷ nhục nhã (năm 1881) kể lại cảnh khốn khổ của người da đỏ và khơi dậy lương tâm của cả nước Mỹ. Hầu hết các nhà cải cách đều cho rằng thổ dân da đỏ cần được đồng hóa vào nền văn hóa lớn. Chính phủ liên bang thậm chí đã xây dựng một trường học ở Carlisle bang Pennsylvania với nỗ lực áp đặt giá trị và niềm tin của người da trắng đối với thanh niên thổ dân da đỏ (Chính tại ngôi trường này Jim Thorpe, người thường được coi là vận động viên giỏi nhất mà Mỹ từng có, đã trở nên nổi tiếng trong đầu thế kỷ XX).

In 1887 the Dawes (General Allotment) Act reversed U.S. Native-American policy, permitting the president to divide up tribal land and parcel out 65 hectares of land to each head of a family. Such allotments were to be held in trust by the government for 25 years, after which time the owner won full title and citizenship. Lands not thus distributed, however, were offered for sale to settlers. This policy, however well-intentioned, proved disastrous, since it allowed more plundering of Native-American lands. Moreover, its assault on the communal organization of tribes caused further disruption of traditional culture. In 1934 U.S. policy was reversed yet again by the Indian Reorganization Act, which attempted to protect tribal and communal life on the reservations.

Vào năm 1887 Đạo luật Dawes (Luật phân đất) đã thay đổi chính sách của Chính phủ đối với thổ dân da đỏ, luật này cho phép tổng thống chia đất của các bộ lạc và chia nhỏ 65 hec -ta đất cho người chủ của mỗi gia đình. Việc phân đất này được tiến hành với sự ủy thác của chính phủ trong suốt 25 năm và sau khoảng thời gian này người chủ mảnh đất sẽ có đầy đủ tư cách và quyền công dân. Tuy nhiên những mảnh đất không được phân chia cho người da đỏ sẽ được bán cho người định cư. Chính sách này tuy có dụng ý tốt những lại gây ra bất hạnh do chính sách này cho phép việc chiếm đoạt thêm đất của thổ dân da đỏ. Ngoài ra, sự can thiệp của chính sách này vào mô hình tổ chức xã hội của các bộ lạc đã đẩy nhanh sự băng hoại nền văn hóa truyền thống của họ. Năm 1934, chính sách của Chính phủ Mỹ được thay đổi lại một lần nữa với việc ban hành Đạo luật Tái tổ chức người da đỏ nhằm duy trì lối sống bộ lạc và cộng đồng tại những vùng đất dành riêng cho người da đỏ.


AMBIVALENT EMPIRE

The last decades of the 19th century were a period of imperial expansion for the United States. The American story took a different course from that of its European rivals, however, because of the U.S. history of struggle against European empires and its unique democratic development.


ĐẾ QUỐC NƯỚC ĐÔI

Những thập niên cuối thế kỷ XIX là giai đoạn bành trướng đế quốc của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, quá trình đế quốc hóa tại Hoa Kỳ không diễn ra như ở các nước châu Âu đối địch khác, bởi lịch sử đấu tranh chống các đế quốc châu Âu của Hoa Kỳ và bởi cả sự phát triển độc nhất vô nhị của nền dân chủ tại đây.

The sources of American expansionism in the late 19th century were varied. Internationally, the period was one of imperialist frenzy, as European powers raced to carve up Africa and competed, along with Japan, for influence and trade in Asia. Many Americans, including influential figures such as Theodore Roosevelt, Henry Cabot Lodge, and Elihu Root, felt that to safeguard its own interests, the United States had to stake out spheres of economic influence as well. That view was seconded by a powerful naval lobby, which called for an expanded fleet and network of overseas ports as essential to the economic and political security of the nation. More generally, the doctrine of "manifest destiny," first used to justify America's continental expansion, was now revived to assert that the United States had a right and duty to extend its influence and civilization in the Western Hemisphere and the Caribbean, as well as across the Pacific.

Nguồn gốc dẫn đến sự bành trướng của Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX là do nhiều lý do. Xét tình hình quốc tế, đây là giai đoạn mà chủ nghĩa đế quốc phát triển điên cuồng. Các thế lực châu Âu xâu xé châu Phi và, cùng với Nhật Bản, cạnh tranh lẫn nhau nhằm giành quyền lực chính trị và thương mại tại châu Á. Rất nhiều người Mỹ, trong đó có các nhân vật đầy thế lực như Theodore Roosevelt, Henry Cabot Lodge và Elihu Root nhận thấy rằng, để đảm bảo quyền lợi của chính mình, nước Mỹ cũng cần phải giành lấy cho mình những lợi ích kinh tế. Quan điểm này được tiếp sức bởi các cuộc vận động hành lang mạnh mẽ của lực lượng hải quân, theo đó mạng lưới các cảng biển và đội tàu của Mỹ được mở rộng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia. Nhìn chung, học thuyết bành trướng do định mệnh, trước đây thường được viện dẫn tới nhằm biện minh cho công cuộc bành trướng lục địa của Mỹ nay lại được khẳng định lại với tuyên bố rằng nước Mỹ có quyền và nghĩa vụ mở rộng ảnh hưởng cũng như nền văn minh của mình ra Bán cầu Tây và vùng biển Caribê cũng như các nước bên kia Thái Bình Dương.

At the same time, voices of anti-imperialism from diverse coalitions of Northern Democrats and reform-minded Republicans remained loud and constant. As a result, the acquisition of a U.S. empire was piecemeal and ambivalent. Colonial-minded administrations were often more concerned with trade and economic issues than political control.

Cũng trong thời gian đó, các tiếng nói chống chủ nghĩa đế quốc từ nhiều liên minh của những thành viên Đảng Dân chủ ở phía Bắc và các thành viên Cộng hòa cấp tiến vẫn vang lên không ngừng và mạnh mẽ. Điều này khiến cho công cuộc bành trướng của đế quốc Mỹ diễn ra chậm chạp và mang tính nước đôi. Các chính quyền mang tư tưởng thực dân thường quan tâm nhiều hơn đến vấn đề kinh tế và thương mại hơn là đến quyền lực chính trị.

The United States' first venture beyond its continental borders was the purchase of Alaska - sparsely populated by Inuit and other native peoples -- from Russia in 1867. Most Americans were either indifferent to or indignant at this action by Secretary of State William Seward, whose critics called Alaska "Seward's Folly" and "Seward's Icebox." But 30 years later, when gold was discovered on Alaska's Klondike River, thousands of Americans headed north, and many of them settled in Alaska permanently. When Alaska became the 49th state in 1959, it replaced Texas as geographically the largest state in the Union.

Phi vụ làm ăn mạo hiểm đầu tiên của nước Mỹ vượt ra khỏi lãnh thổ là vụ mua lại Alaska, vùng đất dân cư thưa thớt và là nơi cư ngụ của người Inuit và các nhóm dân bản địa khác, từ Nga vào năm 1867. Lúc đó, hầu hết dân Mỹ đều thờ ở hoặc phẫn nộ trước hành động này của Ngoại trưởng William Seward và Alaska bị những người chỉ trích William gọi là hành động điên rồ của Seward và cái hộp băng của Seward. Thế nhưng 30 năm sau khi người ta phát hiện có vàng trên sông Klondike của Alaska, hàng ngàn người Mỹ đã đổ xô về phương bắc và rất nhiều người trong số họ đã định cư vĩnh viễn tại Alaska. Khi Alaska trở thành bang thứ 49 của Hoa Kỳ vào năm 1959, nó đã thế chỗ của Texas với vị trí là bang có diện tích lớn nhất trong liên bang.


The Spanish-American War, fought in 1898, marked a turning point in U.S. history. It left the United States exercising control or influence over islands in the Caribbean Sea and the Pacific.

Trận chiến Tây Ban Nha-Mỹ năm 1898 đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử Hoa Kỳ. Sau trận chiến này, Hoa Kỳ nắm hoàn toàn quyền kiểm soát các đảo trong vùng biển Caribê và Thái Bình Dương.

By the 1890s, Cuba and Puerto Rico were the only remnants of Spain's once vast empire in the New World, and the Philippine Islands comprised the core of Spanish power in the Pacific. The outbreak of war had three principal sources: popular hostility to autocratic Spanish rule in Cuba; U.S. sympathy with the Cuban fight for independence; and a new spirit of national assertiveness, stimulated in part by a nationalistic and sensationalist press.

Cho đến trước những năm 1890, Cuba và Puerto Rico là hai thuộc địa duy nhất còn sót lại tại Tân Thế giới của đế quốc Tây Ban Nha vốn đã có thời hùng mạnh; trong khi đó quần đảo Phillipines là trung tâm quyền lực của Tây Ban Nha tại vùng biển Thái Bình Dương. Cuộc chiến nổ ra do ba nguyên nhân chính: thái độ phản đối rộng khắp đối với chính sách cai trị độc đoán của Tây Ban Nha tại Cuba; sự cảm thông đối với cuộc đấu tranh giành độc lập của những người Cuba; và một tinh thần tự tôn dân tộc được thổi bùng lên một phần bởi giới báo chí với những bài viết gây xúc cảm mạnh và đầy tính dân tộc.

By 1895 Cuba's growing restiveness had become a guerrilla war of independence. Most Americans were sympathetic with the Cubans, but President Cleveland was determined to preserve neutrality. Three years later, however, during the administration of William McKinley, the U.S. warship Maine, sent to Havana on a "courtesy visit" designed to remind the Spanish of American concern over the rough handling of the insurrection, blew up in the harbor. More than 250 men were killed. The Maine was probably destroyed by an accidental internal explosion, but most Americans believed the Spanish were responsible. Indignation, intensified by sensationalized press coverage, swept across the country. McKinley tried to preserve the peace, but within a few months, believing delay futile, he recommended armed intervention.

Đến năm 1895, sự phản kháng ngày một mạnh mẽ của những người Cuba đã biến thành một cuộc chiến tranh du kích giành độc lập. Hầu hết người Mỹ lúc bấy giờ đồng cảm với người dân Cuba nhưng tổng thống Cleveland vẫn cương quyết giữ thái độ trung lập. Tuy nhiên, ba năm sau, vào thời Tổng thống William McKinley, chiến hạm Maine của Mỹ được phái tới Havana trong một chuyến ghé thăm xã giao nhằm mục đích thể hiện mối quan tâm của nước Mỹ trước các cuộc đàn áp đẫm máu của Tây Ban Nha, đã nổ tung trong bến cảng. Hơn 250 người thiệt mạng. Có thể chiến hạm Maine bị phá hủy do một vụ nổ tai nạn bên trong con tàu nhưng hầu hết người Mỹ cho rằng người Tây Ban Nha phải chịu trách nhiệm về con tàu. Sự phẫn nộ, được đổ thêm dầu vào lửa bởi các bài báo giật gân, đã lan khắp nước Mỹ. Lúc đầu Tổng thống McKinley cố duy trì hòa bình nhưng sau đó vài tháng, tin rằng trì hoãn thêm cũng là vô ích, vị tổng thống này đã tuyên bố can thiệp vũ trang vào Cuba.

The war with Spain was swift and decisive. During the four months it lasted, not a single American reverse of any importance occurred. A week after the declaration of war, Commodore George Dewey, commander of the six-warship Asiatic Squadron then at Hong Kong, steamed to the Philippines. Catching the entire Spanish fleet at anchor in Manila Bay, he destroyed it without losing an American life.

Cuộc chiến với Tây Ban Nha diễn ra vô cùng nhanh gọn và chóng vánh. Trong suốt bốn tháng diễn ra chiến tranh, quân Mỹ không hề thua một trận nào. Một tuần sau khi tuyên bố tình trạng chiến tranh, Thiếu tướng hải quân George Dewey, lúc đó đang chỉ huy hạm đội Asiatic Squadron gồm sáu chiến hạm tại Hồng Kông đã tiến tới Phillipines. Giáp mặt với toàn bộ đội tàu của Tây Ban Nha tại Vịnh Manila, hạm đội của George đã phá hủy toàn bộ đội tàu này mà không hề thiệt mạng một người nào.

Meanwhile, in Cuba, troops landed near Santiago, where, after winning a rapid series of engagements, they fired on the port. Four armored Spanish cruisers steamed out of Santiago Bay to engage the American navy and were reduced to ruined hulks.

Trong khi đó, tại Cuba, quân đội Mỹ đã tiến vào Santiago và tấn công cảng này sau một loạt trận thắng chớp nhoáng. Bốn tàu chiến Tây Ban Nha rời Vịnh Santiago để chặn hạm đội của Mỹ và bị tiêu diệt gọn.

From Boston to San Francisco, whistles blew and flags waved when word came that Santiago had fallen. Newspapers dispatched correspondents to Cuba and the Philippines, who trumpeted the renown of the nation's new heroes. Chief among them were Commodore Dewey and Colonel Theodore Roosevelt, who had resigned as assistant secretary of the navy to lead his volunteer regiment, the "Rough Riders," to service in Cuba. Spain soon sued for an end to the war. The peace treaty signed on December 10, 1898, transferred Cuba to the United States for temporary occupation preliminary to the island's independence. In addition, Spain ceded Puerto Rico and Guam in lieu of war indemnity, and the Philippines for a U.S. payment of $20 million.


Từ Boston tới San Francisco, tiếng còi vang và những lá cờ tung bay khi tin Santiago thất thủ bay về. Các tờ báo phái phóng viên tới Cuba và Phillipines nơi những người anh hùng mới của dân tộc được vang danh. Trong số các vị anh hùng đó nổi bật nhất là Thiếu tướng hải quân Dewey và Đại tá Theodore Roosevelt, người đã từ chức trợ lý bộ trưởng hải quân để chỉ huy trung đoàn tình nguyện Rough Riders của mình tại Cuba. Tây Ban Nha nhanh chóng yêu cầu chấm dứt chiến tranh. Hiệp định hòa bình được ký kết ngày 10/12/1898, theo đó Cuba thuộc quyền kiểm soát tạm thời của Mỹ trước khi quốc đảo này giành độc lập. Ngoài ra, Tây Ban Nha cũng nhượng lại Puerto Rico và Guam thay cho các đền bù thiệt hại do chiến tranh và nhượng lại cho Mỹ quần đảo Phillipines để đổi lấy 20 triệu đô-la.

Officially, U.S. policy encouraged the new territories to move toward democratic self-government, a political system with which none of them had any previous experience. In fact, the United States found itself in a colonial role. It maintained formal administrative control in Puerto Rico and Guam, gave Cuba only nominal independence, and harshly suppressed an armed independence movement in the Philippines. (The Philippines gained the right to elect both houses of its legislature in 1916. In 1936 a largely autonomous Philippine Commonwealth was established. In 1946, after World War II, the islands finally attained full independence.)

Nước Mỹ vẫn tuyên bố rằng các chính sách của mình khuyến khích các lãnh thổ mới theo hướng tự trị dân chủ, một hệ thống chính trị mà chưa một quốc gia nào trong số các lãnh thổ này từng trải qua. Trên thực tế, nước Mỹ đã đóng vai trò của một nước thực dân. Nó vẫn duy trì quyền kiểm soát về mặt hành chính đối với Puerto Rico và Guam, chỉ trao cho Cuba nền độc lập trên danh nghĩa và đàn áp dã man phong trào độc lập có vũ trang tại Phillipines (Phillipines giành quyền bầu cử cả hai viện lập pháp của mình vào năm 1916. Năm 1939, liên hiệp Phillipines với quyền tự trị lớn được thành lập. Năm 1946, sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, quần đảo này giành được nền độc lập thực sự).


U.S. involvement in the Pacific area was not limited to the Philippines. The year of the Spanish-American War also saw the beginning of a new relationship with the Hawaiian Islands. Earlier contact with Hawaii had been mainly through missionaries and traders. After 1865, however, American investors began to develop the islands' resources - chiefly sugar cane and pineapples.

Can thiệp của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương không chỉ giới hạn ở quần đảo Phillipines. Trong năm diễn ra cuộc chiến Tây Ban Nha-Mỹ, nước Mỹ còn bắt đầu đặt quan hệ với quần đảo Hawaii. Trước kia, các mối liên lạc với Hawaii chủ yếu là qua các nhà truyền giáo và các thương gia. Tuy nhiên, sau năm 1865, các nhà đầu tư Mỹ bắt đầu khai thác các nguồn tài nguyên trên đảo - chủ yếu là mía và dứa.

When the government of Queen Liliuokalani announced its intention to end foreign influence in 1893, American businessmen joined with influential Hawaiians to depose her. Backed by the American ambassador to Hawaii and U.S. troops stationed there, the new government then asked to be annexed to the United States. President Cleveland, just beginning his second term, rejected annexation, leaving Hawaii nominally independent until the Spanish-American War, when, with the backing of President McKinley, Congress ratified an annexation treaty. In 1959 Hawaii would become the 50th state.

Khi chính phủ của Hoàng hậu Liliuokalani bày tỏ thái độ muốn chấm dứt mọi ảnh hưởng nước ngoài vào năm 1893, các thương gia Mỹ đã liên kết cùng một số người Hawaii có thế lực nhằm lật đổ bà ta. Được khích lệ bởi Đại sứ Mỹ tại Hawaii và lực lượng quân đội Mỹ đồn trú tại đây, chính quyền mới đề nghị sáp nhập Hawaii vào Mỹ. Tổng thống Cleveland, lúc đó mới bắt đầu nhiệm kỳ hai đã bác bỏ đề nghị này. Hawaii trở thành một lãnh thổ độc lập trên danh nghĩa cho đến cuộc chiến giữa Tây Ban Nha và Mỹ, khi đó với sự hậu thuẫn của Tổng thống McKinley, Quốc hội đã phê chuẩn hiệp định sáp nhập. Năm 1959, Hawaii trở thành bang thứ 50 của Mỹ.

To some extent, in Hawaii especially, economic interests had a role in American expansion, but to influential policy makers such as Roosevelt, Senator Henry Cabot Lodge, and Secretary of State John Hay, and to influential strategists such as Admiral Alfred Thayer Mahan, the main impetus was geostrategic. For these people, the major dividend of acquiring Hawaii was Pearl Harbor, which would become the major U.S. naval base in the central Pacific. The Philippines and Guam complemented other Pacific bases -- Wake Island, Midway, and American Samoa. Puerto Rico was an important foothold in a Caribbean area that was becoming increasingly important as the United States contemplated a Central American canal.


Ở một góc độ nào đó, đặc biệt là trong trường hợp của Hawaii, các lợi ích kinh tế đóng vai trò lớn trong việc bành trướng của Hoa Kỳ nhưng đối với các nhà lập pháp đầy thế lực như Roosevelt, Thượng nghị sỹ Henry Cabot Lodge, và Ngoại trưởng John Hay và đối với các nhà chiến lược nhiều ảnh hưởng như Đô đốc Alfred Thayer Mahan, mục đích chính là vị trí địa lý. Đối với họ, lợi ích lớn nhất của việc chiếm được Hawaii chính là Trân châu Cảng (Pearl Harbor) nơi sẽ là căn cứ hải quân chiến lược của Mỹ tại trung tâm Thái Bình Dương. Quần đảo Phillipines và Guam cũng là nơi đặt hai cơ sở khác tại Thái Bình Dương - Wake Island, Midway và American Samoa. Puerto Rico là bàn đạp quan trọng tại khu vực Caribê nơi đang có vị trí ngày càng quan trọng khi Mỹ đang toan tính về một kênh đào của khu vực Trung Mỹ.


U.S. colonial policy tended toward democratic self-government. As it had done with the Philippines, in 1917 the U.S. Congress granted Puerto Ricans the right to elect all of their legislators. The same law also made the island officially a U.S. territory and gave its people American citizenship. In 1950 Congress granted Puerto Rico complete freedom to decide its future. In 1952, the citizens voted to reject either statehood or total independence, and chose instead a commonwealth status that has endured despite the efforts of a vocal separatist movement. Large numbers of Puerto Ricans have settled on the mainland, to which they have free access and where they enjoy all the political and civil rights of any other citizen of the United States.

Chính sách thực dân của Mỹ có xu hướng nghiêng về khuyến khích chế độ tự trị dân chủ. Cũng giống như đã thực hiện với Phillipines vào năm 1917, Quốc hội Mỹ cho người dân Puerto Rico bầu cử tất cả các nhà lập pháp của họ. Một đạo luật tương tự đã biến hòn đảo này chính thức trở thành lãnh thổ của Mỹ và mọi người dân Puerto Rico được hưởng quyền công dân của Mỹ. Năm 1950, Quốc hội trao cho Puerto Rico toàn quyền quyết định tương lai của mình. Năm 1952, dân Puerto Rico đã bỏ phiếu chống cả việc biến hòn đảo này thành một bang của Mỹ lẫn việc giành quyền độc lập hoàn toàn cho quốc đảo này. Thay vào đó, họ chọn hình thức liên hiệp. Hình thức này đã tồn tại suốt từ đó đến giờ bất chấp nỗ lực của phong trào lớn tiếng đòi ly khai. Rất đông người Puerto Rico đã tới nước Mỹ nơi họ được quyền nhập cư và được hưởng mọi quyền lợi chính trị và công dân như bất kỳ công dân Mỹ nào.



THE CANAL AND THE AMERICAS

The war with Spain revived U.S. interest in building a canal across the isthmus of Panama, uniting the two great oceans. The usefulness of such a canal for sea trade had long been recognized by the major commercial nations of the world; the French had begun digging one in the late 19th century but had been unable to overcome the engineering difficulties. Having become a power in both the Caribbean Sea and the Pacific Ocean, the United States saw a canal as both economically beneficial and a way of providing speedier transfer of warships from one ocean to the other.

CON KÊNH ĐÀO VÀ CÁC NƯỚC CHÂU MỸ

Sau cuộc chiến với Tây Ban Nha, nước Mỹ lại bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng một kênh đào bắc ngang eo biển Panama, nối liền hai đại dương. Lợi ích của một con kênh như vậy đối với việc chuyên chở hàng hóa trên biển đã được nhiều quốc gia thương mại lớn nhận ra; người Pháp đã đào con kênh từ cuối thế kỷ XIX nhưng phải bỏ cuộc vì không giải quyết nổi các thách thức về kỹ thuật. Là một thế lực tại vùng biển Caribê và Thái Bình Dương, nước Mỹ thấy ở con kênh đào không chỉ lợi ích về kinh tế mà nó còn là phương tiện giúp chuyên chở tàu chiến từ đại dương này sang đại dương khác nhanh hơn.

At the turn of the century, what is now Panama was the rebellious northern province of Colombia. When the Colombian legislature in 1903 refused to ratify a treaty giving the United States the right to build and manage a canal, a group of impatient Panamanians, with the support of U.S. Marines, rose in rebellion and declared Panamanian independence. The breakaway country was immediately recognized by President Theodore Roosevelt. Under the terms of a treaty signed that November, Panama granted the United States a perpetual lease to a 16-kilometer-wide strip of land (the Panama Canal Zone) between the Atlantic and the Pacific, in return for $10 million and a yearly fee of $250,000. Colombia later received $25 million as partial compensation. Seventy-five years later, Panama and the United States negotiated a new treaty. It provided for Panamanian sovereignty in the Canal Zone and transfer of the canal to Panama on December 31, 1999.

Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ đó, nước Panama ngày nay chỉ là một tỉnh ở phía bắc của Colombia. Khi chính quyền Colombia năm 1903 từ chối phê chuẩn hiệp định cho Mỹ quyền xây và quản lý con kênh, một nhóm người Panama với sự giúp đỡ của Lính thủy đánh bộ Mỹ đã nổi dậy và tuyên bố độc lập cho Panama. Ngay lập tức quốc gia mới ly khai này được Tổng thống Theodore Roosevelt công nhận. Theo điều khoản của hiệp định được ký vào tháng 11 năm đó, Panama trao cho Mỹ quyền thuê vĩnh viễn dải đất rộng 16 km (Khu vực kênh đào Panama) nằm giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương để được nhận 10 triệu đô-la và khoản lệ phí 250.000 đô-la mỗi năm. Colombia cũng nhận được 25 triệu đô-la như một phần tiền đền bù. 75 năm sau, Panama và Mỹ đã ký kết một hiệp định mới. Hiệp định này thừa nhận chủ quyền của Panama tại Vùng Kênh đào và cam kết chuyển giao kênh đào này trở lại cho Panama vào ngày 31/12/1999.

The completion of the Panama Canal in 1914, directed by Colonel George W. Goethals, was a major triumph of engineering. The simultaneous conquest of malaria and yellow fever made it possible and was one of the 20th century's great feats in preventive medicine.


Việc xây dựng xong Kênh đào Panama năm 1914 do Đại tá George W. Goethals chỉ đạo là một thành tựu lớn trong ngành cơ khí. Việc đẩy lùi cùng lúc bệnh sốt rét và sốt vàng da khi đó cũng góp phần giúp công trình được hoàn thành và đồng thời đã trở thành một trong những chiến công vang dội nhất trong phòng chữa bệnh trong thế kỷ XX.


Elsewhere in Latin America, the United States fell into a pattern of fitful intervention. Between 1900 and 1920, the United States carried out sustained interventions in six Western Hemispheric nations -- most notably Haiti, the Dominican Republic, and Nicaragua. Washington offered a variety of justifications for these interventions: to establish political stability and democratic government, to provide a favorable environment for U.S. investment (often called dollar diplomacy), to secure the sea lanes leading to the Panama Canal, and even to prevent European countries from forcibly collecting debts. The United States had pressured the French into removing troops from Mexico in 1867. Half a century later, however, as part of an ill-starred campaign to influence the Mexican revolution and stop raids into American territory, President Woodrow Wilson sent 11,000 troops into the northern part of the country in a futile effort to capture the elusive rebel and outlaw Francisco "Pancho" Villa.

Tại các khu vực khác của châu Mỹ La-tinh, Mỹ cũng liên tục có những hành động can thiệp. Trong khoảng thời gian giữa năm 1900 và 1920, Mỹ đã tiến hành sáu vụ can thiệp dai dẳng tại sáu nước ở phía Tây Bán cầu - trong đó nổi bật là Haiti, Cộng hòa Dominica và Nicaragua. Washington đã đưa ra hàng loạt các lời biện minh cho các hành động can thiệp này như: để thiết lập ổn định chính trị và chính phủ dân chủ, để tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho Mỹ (thường được gọi là chính sách ngoại giao đô-la), để duy trì tuyến đường biển nối với Kênh đào Panama và thậm chí là để tránh cho các nước châu Âu khỏi việc đòi nợ bằng vũ lực. Năm 1867, Mỹ đã ép Pháp phải rút quân đội ra khỏi Mexico. Tuy nhiên, nửa thế kỷ sau, trong một phần của chiến dịch sai lầm nhằm đàn áp cuộc nổi dậy của người Mexico và ngăn chặn các cuộc đột kích vào lãnh thổ của Mỹ, Tổng thống Woodrow Wilson đã cử 11.000 quân tới vùng phía bắc của Mexico trong một nỗ lực không thành nhằm vây bắt thủ lĩnh nổi loạn Francisco Pancho Villa.


Exercising its role as the most powerful -- and most liberal -- of Western Hemisphere nations, the United States also worked to establish an institutional basis for cooperation among the nations of the Americas. In 1889 Secretary of State James G. Blaine proposed that the 21 independent nations of the Western Hemisphere join in an organization dedicated to the peaceful settlement of disputes and to closer economic bonds. The result was the Pan-American Union, founded in 1890 and known today as the Organization of American States (OAS).


Với vai trò là nước mạnh nhất và tự do nhất Tây Bán cầu, nước Mỹ cũng đóng vai trò thiết lập cơ sở thể chế cho sự hợp tác giữa các quốc gia Mỹ La-tinh. Năm 1889, Ngoại trưởng James G. Blaine đưa ra sáng kiến rằng 21 quốc gia độc lập ở Tây Bán cầu sẽ tham gia vào một tổ chức có nhiệm vụ giải quyết các bất đồng bằng các biện pháp hòa bình và thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế. Kết quả là Liên minh Pan-Mỹ đã ra đời năm 1890 và là tiền thân của tổ chức Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS) ngày nay.

The later administrations of Herbert Hoover (1929-33) and Franklin D. Roosevelt (1933-45) repudiated the right of U.S. intervention in Latin America. In particular, Roosevelt's Good Neighbor Policy of the 1930s, while not ending all tensions between the United States and Latin America, helped dissipate much of the ill-will engendered by earlier U.S. intervention and unilateral actions.

Chính quyền sau này của Herbert Hoover (1929-33) và Franklin D. Roosevelt (1933-45) bác bỏ quyền can thiệp của Mỹ ở châu Mỹ La-tinh. Đặc biệt, Chính sách láng giềng tốt của Roosevelt năm 1930 dù không thể xóa hết các căng thẳng giữa Mỹ và châu Mỹ La-tinh đã giúp giảm bớt thái độ thù địch với các hành động can thiệp và đơn phương trước đây của Mỹ.

UNITED STATES AND ASIA

Newly established in the Philippines and firmly entrenched in Hawaii at the turn of the century, the United States had high hopes for a vigorous trade with China. However, Japan and various European nations had acquired established spheres of influence there in the form of naval bases, leased territories, monopolistic trade rights, and exclusive concessions for investing in railway construction and mining.

HOA KỲ VÀ CHÂU Á

Mới giành được vị trí tại Phillipines và đã vững vàng tại Hawaii vào thời điểm chuyển giao của thế kỷ, nước Mỹ rất kỳ vọng vào mối quan hệ thương mại bùng nổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, Nhật Bản và các nước châu Âu đã tạo lập vị trí vững chắc tại thị trường này với các căn cứ hải quân, các vùng lãnh thổ cho thuê, các đặc quyền thương mại và đặc quyền đầu tư vào các ngành xây dựng đường sắt và khai mỏ.

Idealism in American foreign policy existed alongside the desire to compete with Europe's imperial powers in the Far East. The U.S. government thus insisted as a matter of principle upon equality of commercial privileges for all nations. In September 1899, Secretary of State John Hay advocated an "Open Door" for all nations in China -- that is, equality of trading opportunities (including equal tariffs, harbor duties, and railway rates) in the areas Europeans controlled. Despite its idealistic component, the Open Door, in essence, was a diplomatic maneuver that sought the advantages of colonialism while avoiding the stigma of its frank practice. It had limited success.

Trong chính sách đối ngoại của Mỹ, chủ nghĩa lý tưởng tồn tại song song cùng khát vọng cạnh tranh cùng các thế lực châu Âu tại khu vực Viễn Đông. Vì vậy mà Chính phủ Mỹ luôn yêu cầu, như một vấn đề nguyên tắc, sự bình đẳng trong các đặc quyền thương mại cho tất cả các quốc gia. Tháng 9/1899, Ngoại trưởng John Hay tuyên bố ủng hộ chính sách Mở cửa cho tất cả các quốc gia có mặt tại Trung Quốc - tức là, sự bình đẳng trong các cơ hội kinh doanh (bao gồm thuế, thuế hải quan và cước phí đường sắt công bằng) tại các khu vực do châu Âu quản lý. Dù có những nội dung lý tưởng, Chính sách Mở cửa, về bản chất, là một công cụ quản lý tận dụng được các ưu thế của chủ nghĩa thực dân trong khi vẫn tránh được các thất bại thường gặp trong việc thực hiện. Chính sách này cũng chỉ đạt được thành công vừa phải.


With the Boxer Rebellion of 1900, the Chinese struck out against foreigners. In June, insurgents seized Beijing and attacked the foreign legations there. Hay promptly announced to the European powers and Japan that the United States would oppose any disturbance of Chinese territorial or administrative rights and restated the Open Door policy. Once the rebellion was quelled, Hay protected China from crushing indemnities. Primarily for the sake of American good will, Great Britain, Germany, and lesser colonial powers formally affirmed the Open Door policy and Chinese independence. In practice, they consolidated their privileged positions in the country.

Với cuộc nổi loạn của Nghĩa hòa đoàn năm 1900, Trung Quốc bắt đầu phản kháng lại với các thế lực nước ngoài. Trong tháng 6, nghĩa quân chiếm được Bắc Kinh và tấn công các tòa công sứ nước ngoài ở đây. Ngoại trưởng Hay nhanh chóng thông báo cho cả phía châu Âu và Nhật Bản rằng nước Mỹ sẽ phản kháng lại bất kỳ hành động nào đi ngược lại các quyền quản lý hành chính hay quyền về lãnh thổ của người Trung Quốc và khẳng định lại Chính sách Mở cửa. Khi cuộc nổi loạn bị dập tắt, Hay đã bảo vệ Trung Quốc khỏi những khoản bồi thường khổng lồ. Chủ yếu là vì lợi ích của Trung Quốc mà Anh, Đức và các thế lực thực dân yếu hơn đã chính thức công nhận Chính sách Mở cửa và nền độc lập của Trung Quốc. Trên thực tế, họ đã củng cố lại những địa vị độc tôn của mình tại quốc gia này.


A few years later, President Theodore Roosevelt mediated the deadlocked Russo-Japanese War of 1904-05, in many respects a struggle for power and influence in the northern Chinese province of Manchuria. Roosevelt hoped the settlement would provide open-door opportunities for American business, but the former enemies and other imperial powers succeeded in shutting the Americans out. Here as elsewhere, the United States was unwilling to deploy military force in the service of economic imperialism. The president could at least content himself with the award of the Nobel Peace Prize (1906). Despite gains for Japan, moreover, U.S. relations with the proud and newly assertive island nation would be intermittently difficult through the early decades of the 20th century.

Một vài năm sau đó, Tổng thống Theodore Roosevelt làm trung gian hòa giải cho cuộc chiến tranh bế tắc giữa Nga và Nhật năm 1904-1905. Xét về nhiều phương diện, cuộc chiến này là cuộc tranh giành ảnh hưởng và quyền lực tại tỉnh MÃn Châu phía bắc của Trung Quốc. Roosevelt hy vọng rằng việc dàn xếp của mình có thể đem lại cơ hội mở cửa cho các công ty Mỹ nhưng kẻ thù trước đây và các thế lực đế quốc khác đã thành công trong việc đẩy Mỹ ra khỏi Trung Quốc. Ở đây cũng giống như ở các nơi khác, nước Mỹ không sẵn lòng để triển khai quân đội chỉ để phục vụ cho chủ nghĩa đế quốc về kinh tế. Tuy nhiên ít ra thì Roosevelt cũng có thể hài lòng với Giải Nobel Hòa bình (1906). Ngoài ra, mặc dù Nhật Bản cũng đã nhận được nhiều lợi ích, nhưng mối quan hệ giữa Mỹ và quốc đảo đầy kiêu hãnh và quyết đoán này đã trải qua nhiều phút sóng gió trong những thập niên đầu của thế kỷ XX.


J.P. MORGAN AND FINANCE CAPITALISM

The rise of American industry required more than great industrialists. Big industry required big amounts of capital; headlong economic growth required foreign investors. John Pierpont (J.P.) Morgan was the most important of the American financiers who underwrote both requirements.


J.P. MORGAN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TÀI CHÍNH

Nền công nghiệp của Mỹ phát triển không chỉ nhờ vào các nhà công nghiệp vĩ đại. Một nền công nghiệp lớn đòi hỏi một lượng vốn lớn; sự phát triển kinh tế vượt bậc cần tới các nhà đầu tư nước ngoài. John Pierpont (J.P) Morgan là nhà tài chính vĩ đại nhất của Mỹ đã thỏa mãn cả hai điều kiện trên.

During the late 19th and early 20th centuries, Morgan headed the nation's largest investment banking firm. It brokered American securities to wealthy elites at home and abroad. Since foreigners needed assurance that their investments were in a stable currency, Morgan had a strong interest in keeping the dollar tied to its legal value in gold. In the absence of an official U.S. central bank, he became the de facto manager of the task.

Trong suốt cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Morgan làm chủ ngân hàng đầu tư lớn nhất tại Hoa Kỳ. Ngân hàng này làm môi giới giữa các công ty chứng khoán Mỹ với các nhà đầu tư giàu có trong nước và ngoài nước. Do các nhà đầu tư nước ngoài cần được đảm bảo rằng các khoản đầu tư của họ luôn được đại diện bởi một đồng tiền ổn định, Morgan đã rất quan tâm đến vấn đề gắn đồng đô-la với giá trị bằng vàng của nó. Trong khi nước Mỹ chưa có một ngân hàng trung ương, ngân hàng của ông, trên thực tế, đã thực hiện nhiệm vụ của một ngân hàng trung ương.

From the 1880s through the early 20th century, Morgan and Company not only managed the securities that underwrote many important corporate consolidations, it actually originated some of them. The most stunning of these was the U.S. Steel Corporation, which combined Carnegie Steel with several other companies. Its corporate stock and bonds were sold to investors at the then-unprecedented sum of $1.4 billion.


Kể từ những năm 1880 đến đầu thế kỷ XX, Morgan và công ty của ông không chỉ quản lý các công ty chứng khoán bảo lãnh cho nhiều vụ sáp nhập công ty quan trọng, mà nó còn khởi xướng khá nhiều vụ sáp nhập đó. Ngoạn mục nhất là vụ sáp nhập Tập đoàn Thép của Mỹ từ công ty Thép Carnegie với nhiều công ty khác. Giá trị cổ phiếu và trái phiếu mà tập đoàn này bán ra cho các nhà đầu tư đã đạt mức chưa từng có trong lịch sử trước đó là 1,4 tỷ đô-la.

Morgan originated, and made large profits from, numerous other mergers. Acting as primary banker to numerous railroads, moreover, he effectively muted competition among them. His organizational efforts brought stability to American industry by ending price wars to the disadvantage of farmers and small manufacturers, who saw him as an oppressor. In 1901, when he established the Northern Securities Company to control a group of major railroads, President Theodore Roosevelt authorized a successful Sherman Antitrust Act suit to break up the merger.

Morgan đạo diễn và thu những khoản lợi nhuận khổng lồ từ các vụ sáp nhập. Đóng vai trò là ngân hàng chủ đạo của các dự án đường sắt, ông đã thành công trong việc ngăn chặn sự cạnh tranh giữa các công ty. Các nỗ lực tổ chức của ông đã mang lại sự ổn định cho nền công nghiệp Mỹ qua việc chấm dứt các cuộc chiến tranh giá cả và mang phần thua thiệt đến cho nông dân và các nhà sản xuất nhỏ, những người coi ông như kẻ thù. Trong năm 1901, khi ông thành lập Công ty Chứng khoán phía Bắc để quản lý các công trình đường sắt quan trọng, Tổng thống Theodore Roosevelt đã thông qua Đạo luật Chống độc quyền Sherman nhằm ngăn chặn vụ sáp nhập này.

Acting as an unofficial central banker, Morgan took the lead in supporting the dollar during the economic depression of the mid-1890s by marketing a large government bond issue that raised funds to replenish Treasury gold supplies. At the same time, his firm undertook a short-term guarantee of the nation's gold reserves. In 1907, he took the lead in organizing the New York financial community to prevent a potentially ruinous string of bankruptcies. In the process, his own firm acquired a large independent steel company, which it amalgamated with U.S. Steel. President Roosevelt personally approved the action in order to avert a serious depression.

Với vai trò không chính thức của một ngân hàng trung ương, ngân hàng của Morgan đi tiên phong trong việc giữ giá đồng đô-la trong suốt thời kỳ khủng hoảng kinh tế giữa những năm 1890 bằng việc chào bán số lượng lớn trái phiếu chính phủ nhằm gây quỹ cho kho dự trữ vàng của Kho bạc nhà nước. Đồng thời, công ty của ông cũng đứng ra bảo lãnh ngắn hạn dự trữ vàng của quốc gia. Năm 1907, ông dẫn đầu cộng đồng tài chính New York trong việc ngăn chặn nguy cơ phá sản hàng loạt của các công ty. Trong quá trình này, công ty của chính ông đã mua lại được một công ty thép độc lập lớn, sau này được sáp nhập với Công ty Thép của Mỹ và đích thân Tổng thống Roosevelt đã thông qua vụ sáp nhập này nhằm tránh một cuộc khủng hoảng tồi tệ.

By then, Morgan's power was so great that most Americans instinctively distrusted and disliked him. With some exaggeration, reformers depicted him as the director of a "money trust" that controlled America. By the time of his death in 1913, the country was in the final stages of at last reestablishing a central bank, the Federal Reserve System, that would assume much of the responsibility he had exercised unofficially.

Vào thời điểm đó, quyền lực của Morgan lớn đến mức hầu hết dân Mỹ bỗng quay ra nghi ngờ và không ưa ông. Với một chút cường điệu, nhiều nhà cải cách đã miêu tả ông là giám đốc của tờ -rớt tài chính đã kiểm soát toàn bộ nước Mỹ. Vào lúc ông qua đời năm 1913, nước Mỹ đang trong quá trình hoàn tất việc thiết lập một ngân hàng trung ương, Cục Dự trữ Liên bang, thực hiện các nhiệm vụ mà trước đây ông vẫn đảm nhiệm một cách không chính thức.



P1    P2      P3    P4    P5    P6    P7       P9    P10    P11    P12    P13    P14    P15

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn