|
|
What are Checks and
Balances?
|
Kiểm soát và cân
bằng là gì?
|
WISE GEEK
|
WISE GEEK
|
Many governments and organizations are set up using a
system of checks and balances, also known as separation of powers. The intent
of this structure is to distribute power, ensuring that a government does not
become autocratic. One of the most classic examples is found in the United
States Constitution, which established three branches of government and
outlined their powers. Under this system, no one branch has ultimate power,
and each branch performs most effectively when it acts in the best interests
of the nation.
|
Nhiều chính phủ và các tổ chức
được thiết lập bằng cách sử dụng một hệ thống kiểm soát và cân bằng, còn được
gọi là phân chia quyền lực. Mục đích của cấu trúc này là để phân phối quyền
lực, đảm bảo rằng một chính phủ không trở thành độc đoán. Một trong những ví
dụ kinh điển nhất được tìm thấy trong Hiến pháp Hoa Kỳ, thiết lập ba ngành
chính phủ và vạch ra quyền hạn của mỗi ngành. Theo hệ thống này, không có một
ngành nào có quyền lực tối thượng, và mỗi ngành thực thi nhiệm vụ có hiệu quả
nhất khi nó hoạt động vì lợi ích tốt nhất của quốc gia.
|
|
|
In the United States, there are three branches of
government. The executive branch includes the Office of the President. The
legislative branch includes the House of Representatives and the Senate,
known collectively as Congress. Finally, the judicial branch encompasses the
Supreme Court system. Each branch has unique powers, and each is also able to
influence the actions of another branch. The separation of powers is meant to
protect the democratic process.
|
Tại Hoa Kỳ, có ba ngành của
chính phủ. Ngành hành pháp bao gồm Văn phòng Tổng Thống. Ngành lập pháp bao
gồm Hạ viện và Thượng viện, được gọi chung là Quốc Hội. Cuối cùng, ngành tư
pháp bao gồm hệ thống Tòa án Tối cao. Mỗi nhánh có những quyền hạn nhất định,
và mỗi nhánh cũng có thể ảnh hưởng đến các hành động của một nhánh khác. Phân
chia quyền lực nhằm để bảo vệ quá trình dân chủ.
|
|
|
The legislative branch proposes bills and passes them into
law. The executive branch can choose to veto those bills, and the Supreme
Court can also strike the bills down, if they are deemed unconstitutional.
Under the checks and balances system, Congress can in turn override a veto,
or pass a new law that satisfies the Supreme Court. These checks on Congress
ensure that the legislative branch promotes the welfare of the country.
|
Ngành lập pháp đề xuất dự luật và thông qua dự luật để thành luật. Nhánh
hành pháp có thể chọn phủ quyết dự luật, và Tòa án Tối cao cũng có thể vô
hiệu dự luật, nếu dự luật được coi là trái với hiến pháp. Dưới hệ thống kiểm soát
và cân bằng, Quốc hội có thể gạt bỏ một quyền phủ quyết, hoặc thông qua một
luật mới đáp ứng được yêu cầu Tòa án Tối cao. Những kiểm soát này đối với Quốc
hội đảm bảo rằng ngành lập pháp thúc đẩy phúc lợi của đất nước.
|
|
|
The judicial branch interprets laws. It consists of a
panel of justices appointed by the president and confirmed by the Senate.
This branch also interprets and defends the Constitution, and it is bound by
law to strike down laws that go against the intent of the Constitution. The
actions of the judicial branch are checked through the appointment process,
and judges hold their seats on the condition of good behavior, meaning that
abuse of power will result in a removal from the bench.
|
Ngành tư pháp diễn giải pháp
luật. Tư pháp bao gồm một ban thẩm phán do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng Viện
phê chuẩn. Nghành này cũng giải thích và bảo vệ Hiến pháp, và bị ràng buộc
theo quy định của pháp luật ngành này chống những luật đi ngược lại mục đích
của Hiến pháp. Những hành động của ngành tư pháp được kiểm tra thông qua quá
trình bổ nhiệm, và các thẩm phán giữ cương vị của mình với điều kiện hành vi
tốt, nghĩa là lạm dụng quyền lực sẽ dẫn đến bị loại bỏ khỏi chức vị.
|
|
|
The executive branch serves as the head of state,
commanding the military and making political appointments. It has the power
of veto over the legislative branch, and the vice president is the President
of the Senate. Members of the judiciary are appointed by the executive
branch, which can also issue pardons. In turn, Congress can determine that a
president is unfit for office and remove him or her, and the chief justice of
the Supreme Court becomes head of the Senate during impeachment proceedings.
|
Ngành hành pháp đóng vai trò nguyên thủ quốc gia, chỉ
huy quân sự và bổ
nhiệm chính trị. Hành pháp có quyền phủ quyết đối với ngành
lập pháp, và phó Tổng Thống là Chủ tịch Thượng viện. Các thành viên của ngành
tư pháp được chỉ định bởi ngành hành pháp, ngành hành pháp cũng có thể ra
lệnh ân xá. Về phía mình, Quốc hội có thể xác định rằng một vị tổng thống là
không thích hợp để tại nhiệm và loại bỏ Tổng thổng, và Chánh án Tòa án tối
cao sẽ trở thành người đứng đầu của Thượng viện trong quá trình tố tụng.
|
|
|
The checks and balances system distributes power, rather
than concentrating it in one location. It is extremely difficult to
circumvent, which ensures that the interests of the people are represented.
Many other governments and organizations have included such a structure in
their systems of governance to maintain the integrity of their leaders.
|
Hệ thống kiểm tra và cân bằng
phân chia quyền lực, thay vì tập trung vào một chỗ. Vô cùng khó khăn để phá
vỡ hệ thống đó, và điều này đảm bảo lợi ích của người dân được thực hiện. Nhiều
chính phủ và các tổ chức khác đã đưa vào một cấu trúc tương tự như thế trong hệ
thống quản trị của họ để duy trì sự liêm chính của các nhà lãnh đạo của họ.
|
|
|
http://www.wisegeek.org/what-are-checks-and-balances.htm
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Thursday, February 14, 2013
What are Checks and Balances? Kiểm soát và cân bằng là gì?
The Key To Asia’s Future Chìa khóa mở cửa tương lai châu Á
|
|
|
|
The Key To Asia’s
Future
|
Chìa khóa mở cửa
tương lai châu Á
|
By Véronique Salze-Lozac’h, Nina Merchant-Vega, Katherine
Loh, and Sarah Alexander
The Diplomat
January 18, 2013
|
Véronique Salze-Lozac’h, Nina Merchant-Vega, Katherine
Loh, and Sarah Alexander
The Diplomat
Ngày 18 tháng một năm 2013
|
With Western
economies facing serious challenges, regional cooperation, greater intra-Asia
trade and development will define the region's future.
|
Trong lúc nền kinh
tế phương Tây phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng, hợp tác khu
vực, thương mại và phát triển bên trong Châu Á mạnh mẽ hơn sẽ xác định tương
lai của khu vực này.
|
Over the last several decades, Asia has become
increasingly integrated with the rest of the world, its rapid development
driven largely by exports to the United States and European Union (EU). Yet,
as the world’s main economic arteries shift eastward, intra-regional
integration within Asia still lags behind. The recent global financial crisis
and economic fall-out is quickly changing that dynamic, however. Indeed, as
strong, stable economic growth in the West, particularly in the U.S. and EU,
remains elusive, regional markets are becoming more attractive among Asian
countries, highlighting the importance for enhanced integration. Despite
challenges, this trend toward regional integration should continue in 2013.
|
Trong nhiều thập kỷ qua, châu Á đã trở nên ngày càng hội
nhập với phần còn lại của thế giới, sự phát triển nhanh chóng của châu Á chủ
yếu do xuất khẩu sang Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu (EU). Tuy nhiên, khi huyết
mạch kinh tế chính của thế giới hướng về phía đông, hội nhập nội-khu vực tại châu
Á vẫn còn tụt hậu. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây và suy
thoái kinh tế đang nhanh chóng thay đổi động lực đó. Thật vậy, khi tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ và ổn định ở phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ và EU, vẫn
còn khó lường, thị trường khu vực đang trở nên hấp dẫn hơn giữa các nước châu
Á, làm bật lên tầm quan trọng của việc tăng cường hội nhập. Mặc dù có những
thách thức, xu hướng hội nhập khu vực này sẽ tiếp tục trong năm 2013.
|
Currently, over half of world trade takes place between
members of regional trade agreements, and Asia is no exception. However, in
Asia, as in other parts of the world, regional integration is uneven. While
Southeast Asia is shoring up its economic integration efforts through the
Association of Southeast Asian Nations
(ASEAN) Economic Community Blueprint for 2015, with plans to continue
attracting foreign direct investment, capitalize on the growth of its
neighbors (mainly China and India), and accelerate the pace of its trade
facilitation measures through a single market strategy, South Asia remains
weakly integrated through the South Asian Association for Regional
Cooperation (SAARC) both economically and politically.
|
Hiện nay, hơn một nửa thương mại thế giới diễn ra giữa các
thành viên của các hiệp định thương mại khu vực, và châu Á cũng không phải là
ngoại lệ. Tuy nhiên, ở châu Á, cũng như ở các nơi khác trên thế giới, hội
nhập khu vực thường không đồng đều. Trong khi khu vực Đông Nam Á đang củng cố
các nỗ lực hội nhập kinh tế của mình thông qua Dự thảo Cộng đồng Kinh tế của Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cho năm 2015, với các kế hoạch tiếp tục
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tận dụng sự phát triển của các nước láng
giềng (chủ yếu là Trung Quốc và Ấn Độ), và tăng tốc các biện pháp tạo thuận
lợi thương mại thông qua một chiến lược thị trường duy nhất, Nam Á vẫn còn
yếu ớt trong hội nhập thông qua Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) cả về
kinh tế và chính trị.
|
Regionalism, not Protectionism, Can Help Mitigate Global
Uncertainty
|
Chủ nghĩa khu vực, chứ không phải là chủ nghĩa bảo hộ, có
thể giúp giảm nhẹ sự bất ổn toàn cầu.
|
In fact, Asia has reason for optimism about the capacity
of regional trade to compensate for weak markets in the U.S. and the EU and
to reduce vulnerability to external shocks. In 2012, opinion leaders in
Southeast Asia said that they were most positive about the ASEAN Economic
Community compared to all other regional trade agreements in Asia. Indeed,
while East Asian economic cooperation has mostly been driven by market
forces, Southeast Asia has taken significant strides in formalizing its
region as a single market and production base through ASEAN. Intra-regional
trade and trade with China now accounts for more than 37 percent of ASEAN’s
total trade, up from around 26 percent in 2000. At the same time, trade with
the U.S. has fallen from 20 percent in 2000 to 10 percent in 2011, and trade
with the EU from 15 percent to 11 percent in the same period.
|
Trong thực tế, châu Á có lý do để lạc quan về năng lực của
thương mại khu vực nhằm bù đắp cho thị trường yếu ở Mỹ và Liên minh châu Âu
và giảm tổn thương trước những cú sốc bên ngoài. Trong năm 2012, các nhà lãnh
đạo có viễn kiến trong khu
vực Đông Nam Á nói rằng họ hết sức lạc quan về Cộng đồng Kinh tế ASEAN so với
tất cả các hiệp định thương mại khu vực khác ở châu Á. Thật vậy, trong khi
hợp tác kinh tế Đông Á hầu như vừa mới được thúc đẩy bởi các lực lượng thị
trường, thì khu vực Đông Nam Á thông qua ASEAN đã có những bước tiến đáng kể
trong việc chính thức hóa khu vực này như là một thị trường và cơ sở sản
xuất. Thương mại nội-khu vực và thương mại với Trung Quốc hiện nay chiếm hơn
37% tổng kim ngạch thương mại của ASEAN, tăng từ khoảng 26% vào năm 2000.
Đồng thời, thương mại với Mỹ đã giảm từ 20% năm 2000 xuống còn 10% năm 2011,
và thương mại với EU từ 15% xuống 11% cùng kỳ.
|
On the other hand, progress on SAARC’s goal of a South
Asian Economic Union by 2020 remains relatively slow. Though intra-regional
trade in South Asia recently surpassed $2 billion following the full
implementation of the South Asia Free Trade Agreement, it represents only 5
percent of the region’s total trade volume, compared to ASEAN’s 22 percent
and the EU’s 55 percent. However, South Asia has made strides integrating
with the rest of Asia. For example, while only 1.3 percent of South Asia’s
parts and components are traded within the sub-region, 56.3 percent go to
East Asia. This represents the enormous potential that exists for South
Asia’s future trade among its own region.
|
Mặt khác, tiến bộ đối với mục tiêu của Hiệp hội Hợp tác
khu vực Nam Á (SAARC) tới năm 2020 thuộc Liên minh kinh tế Nam Á vẫn còn
tương đối chậm. Mặc dù thương mại nội-khu vực ở Nam Á gần đây đã vượt qua con
số 2 tỷ đô-la sau khi thực hiện đầy đủ các Hiệp định Tự do Thương mại Nam Á,
nó chỉ chiếm có 5% tổng khối lượng thương mại của khu vực, so với 22% của ASEAN và 55% của EU. Tuy nhiên, Nam
Á đã có những bước tiến nhằm hội nhập với phần còn lại của châu Á. Ví dụ,
trong khi chỉ có 1,3% các vùng miền của Nam Á giao dịch trong tiểu khu vực
này, thì có đến 56,3% đi tới Đông Á. Điều này cho thấy tiềm năng to lớn còn tồn
tại đối với thương mại trong tương lai của Nam Á giữa các vùng miền của nó.
|
Such economic integration in the region is becoming
increasingly important to help stave off and overcome global economic shocks.
Prior to the last-minute resolution that saved the U.S. from falling off the
“fiscal cliff,” the UN Social Commission on Asia and the Pacific warned that
if the U.S. were to fall, it would have dire consequences for Asia,
decreasing growth by as much as 2.2 percent in some countries. To reduce
their dependency on developed countries’ economies, Asian countries need to
diversify their export markets and take advantage of the efficiencies and
growing demand that regional trade offers.
|
Khi hội nhập kinh tế trong khu vực đang ngày càng trở nên
quan trọng để giúp ngăn chặn và vượt qua những cú sốc kinh tế toàn cầu. Trước
khi có giải pháp vào phút chót để cứu nước Mỹ khỏi rơi xuống "vách đá
tài chính, Ủy ban xã hội Liên Hiệp Quốc về châu Á và Thái Bình Dương đã cảnh
báo rằng nếu Mỹ sụp đổ, sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho khu vực châu
Á, giảm tăng trưởng xuống còn 2,2% ở một số nước. Để giảm bớt sự phụ thuộc vào
các nền kinh tế của các nước phát triển, các nước châu Á cần phải đa dạng hóa
thị trường xuất khẩu của họ và tận dụng tính hiệu quả và nhu cầu ngày càng
tăng mà thương mại khu vực mang lại.
|
Avoiding the Middle
Income Trap
While trade is an important part of regional economic
integration, it remains only one piece of the puzzle. To avoid the dreaded
“middle-income trap” (where countries attain a certain level of income but
remain stuck there), Asian nations must prioritize other aspects of regional
integration, including:
|
Tránh bẫy thu nhập
trung bình
Trong khi thương mại là một phần quan trọng của hội nhập
kinh tế khu vực, nó vẫn chỉ là một phần của thách đố. Để tránh "bẫy thu
nhập trung bình" đáng sợ khi mà các quốc gia đạt được mức thu nhập nhất
định nhưng vẫn còn mắc kẹt ở đó), thì các quốc gia châu Á phải ưu tiên các khía
cạnh khác của hội nhập khu vực, bao gồm:
|
- Investment in infrastructure. Infrastructure development
is essential to Asia’s economic and political development. In order to
address this issue, ASEAN has recently set up the ASEAN Infrastructure Fund,
financed by member nations as well as the Asian Development Bank and private
equity, to mobilize resources for critical infrastructure development.
|
- Đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết
cho phát triển kinh tế và chính trị của châu Á. Để giải quyết vấn đề này,
ASEAN gần đây đã thành lập Quỹ Cơ sở hạ tầng ASEAN, được tài trợ bởi các quốc
gia thành viên cũng như Ngân hàng Phát triển châu Á và cổ phần tư nhân, huy
động các nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng quan trọng.
|
- Increased cooperation in education and skill
development. A recent publication by the Asian Development Bank stated that
“a deeper level of economic integration, which is required for sustainable
development, calls for regional cooperation in skills development.” Such
cooperation could take the form of regional and sub-regional “technical and
vocational education and training” (TVET) strategies, such as creating
regional and national qualifying frameworks and encouraging national
commitments to invest in critical areas like high-skilled manufacturing.
|
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và phát triển
kỹ năng. Một công bố gần đây của Ngân hàng Phát triển Châu Á nói rằng "mức
độ hội nhập kinh tế sâu hơn cần thiết cho sự phát triển bền vững đang kêu gọi
hợp tác khu vực về phát triển kỹ năng." Hợp tác đó có thể mang hình thức
của chiến lược “giáo dục và đào tạo kỹ thuật và dạy nghề" (TVET) trong khu
vực và tiểu khu vực, chẳng hạn như việc tạo ra khuôn khổ xác định chất lượng
khu vực và quốc gia và khuyến khích các cam kết quốc gia đầu tư vào các lĩnh
vực quan trọng như sản xuất có tay nghề cao.
|
- Cooperation in technological innovation and research.
ASEAN member nations have taken steps toward such cooperation through the
Krabi Initiative, which encourages collaboration across the region on a host
of science and technology issues, from green technology and food security, to
exploiting new technologies such as digital media and social networking for
development and innovation.
|
- Hợp tác trong đổi mới công nghệ và nghiên cứu. Các quốc
gia thành viên ASEAN đã có những bước hướng tới sự hợp tác này thông qua Sáng
kiến Krabi, khuyến khích sự hợp tác
trong khu vực về nhiều vấn đề khoa học và công nghệ, từ công nghệ xanh và an
ninh lương thực, đến khai thác các công nghệ mới như truyền thông kỹ thuật số
và mạng xã hội để phát triển và đổi mới.
|
Addressing
Socioeconomic and Environmental Challenges
|
Giải quyết các thách
thức kinh tế xã hội và môi trường
|
Regional cooperation in Asia should not be considered
solely as a means to accelerate economic growth, but also as an effective way
to address broader socioeconomic and environmental issues facing the region.
It will, for instance, play a key role in women’s economic empowerment in the
region. Women business owners and managers in Asia often do not have the same
access to business opportunities as men. However, through groups such as the
ASEAN Committee on Women and the South Asia Women’s Entrepreneurship
Symposium (SAWES), they are able to form regional networks that provide a
platform for them to access information and contacts essential to running a
business and advocate for change in areas that are stifling their potential.
(Read about The Asia Foundation’s support for these networks.)
|
Không nên xem hợp tác trong khu vực châu Á chỉ như một
phương tiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà đó còn là một cách giải quyết
có hiệu quả các vấn đề kinh tế xã hội và môi trường rộng lớn hơn mà khu vực này
đang phải đối mặt. Ví dụ, nó sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng
cao quyền lực kinh tế cho phụ nữ trong khu vực. Các nữ chủ doanh nghiệp và
các nhà quản lý nữ ở châu Á thường không có quyền tiếp cận các cơ hội kinh
doanh ngang bằng với nam giới. Tuy nhiên, thông qua các nhóm như Ủy ban về
Phụ nữ của ASEAN và Hội nghị chuyên đề Doanh nghiệp của Nữ giới Nam Á (SAWES),
thì họ có thể hình thành mạng lưới khu vực mà tạo cơ sở để họ tiếp cận thông
tin và có các tiếp xúc cần thiết để điều hành một doanh nghiệp và bênh vực những
thay đổi trong các lãnh vực mà tiềm năng của họ còn bị kiềm chế. (Đọc thêm về
sự hỗ trợ của Quỹ Châu Á cho các mạng lưới này.)
|
Regional cooperation will also be integral to managing the
impact of environmental issues, such as water scarcity, energy production and
distribution, urbanization, climate change, and disaster recovery and management.
Establishing and implementing fair and practical water-sharing and
conservation arrangements is critical, with river systems like the Mekong,
Indus, and Ganges all crossing national borders and essential to local
livelihoods. Over the last couple of years, the Asia-Pacific has experienced
70 percent of the world’s natural disasters. This has led to a stronger push
toward regional forums and programs to prepare for and manage disasters
through information-sharing, as well as collaborative disaster-management
planning efforts. Data management and sharing and the use of innovative ICT
tools to provide more timely and accurate predictions, communications, and
responses are also being explored regionally to minimize the impact of such
disasters.
|
Hợp tác khu vực cũng sẽ được tích hợp với việc quản lý tác
động của các vấn đề môi trường, chẳng hạn như sự khan hiếm nước, sản xuất và
phân phối, năng lượng, đô thị hóa, biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai và
phục hồi. Xây dựng và thực hiện các thỏa thuận công bằng và thực tế về chia
sẻ và bảo tồn nguồn nước là rất quan trọng, với các hệ thống sông như sông
Mekong, sông Indus, và sông Hằng, mà tất cả đều chảy băng qua các biên giới
quốc gia và vô cùng cần thiết cho sinh kế của người dân địa phương. Trong mấy
năm qua, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã nếm trải 70% các thảm họa thiên
nhiên của thế giới. Điều này đã dẫn đến một sự thúc đẩy mạnh mẽ hơn đối với
các diễn đàn và các chương trình khu vực nhằm đối phó và quản lý thiên tai
thông qua việc chia sẻ thông tin, cũng như những nỗ lực lập kế hoạch hợp tác
quản lý thiên tai. Quản lý và chia sẻ dữ liệu và sử dụng các công cụ công
nghệ thông tin tiên tiến để cung cấp dự báo kịp thời và chính xác hơn, thông
tin liên lạc, và phản ứng đối phó cũng được khảo sát trên quy mô khu vực để
giảm thiểu tác động của các thiên tai đó.
|
|
|
While greater intra-regional trade and investment
represent a logical “next door” opportunity for Asian economies, this shift
doesn’t come without challenges. To lessen reliance on U.S. and EU markets,
Asia will need to modify the structure of its regional trade from a focus on
raw materials or semi-finished products to those higher up the value chain.
Another challenge will be to ensure that smaller, poorer Asian countries also
benefit from increased regional interaction. Finally, intra-regionalism can
only be successful if the regional entities nurture their links and
cooperation with other regions.
|
Mặc dù thương mại và đầu tư nội-khu vực lớn hơn cho thấy
một cơ hội hợp lý về "cánh cửa tiếp theo" cho các nền kinh tế châu
Á, thì sự chuyển biến này luôn xuất hiện kèm những thách thức. Để giảm bớt sự
phụ thuộc vào thị trường Mỹ và EU, Châu Á sẽ cần phải thay đổi cấu trúc của
thương mại khu vực này từ chỗ tập trung vào nguyên liệu, hay bán thành phẩm chuyển
sang nâng cao chuỗi giá trị. Một thách thức khác sẽ là đảm bảo cho các nước
châu Á nhỏ hơn, nghèo hơn cũng được hưởng lợi từ sự gia tăng tương tác khu
vực. Cuối cùng, chủ nghĩa nội-khu vực chỉ có thể thành công nếu các thực thể
trong khu vực nuôi dưỡng liên kết và hợp tác với các khu vực khác.
|
But, the most important challenge of all remains making
regional cooperation work for the people of Asia. The political will and
institutional commitments to regional integration relies on the capacity and
interest of individuals, civil society, and businesses to take the lead and
give life to the concept.
|
Tuy nhiên, thách thức quan trọng hơn hết vẫn là làm sao cho
hợp tác khu vực có lợi cho người dân châu Á. Ý chí chính trị và các cam kết
thể chế đối với hội nhập khu vực dựa trên năng lực và lợi ích của cá nhân, xã
hội dân sự, và các doanh nghiệp sẽ đi đầu và tạo sức sống cho khái niệm này.
|
Véronique
Salze-Lozac’h is The Asia Foundation’s director for Economic Development
Programs based in Bangkok, Nina Merchant-Vega is assistant director,
Katherine Loh is a senior program officer, and Sarah Alexander is a program
fellow for the Economic Development Programs. This article initially appeared
on The Asia Foundation’s “In Asia” Blog.
|
Véronique
Salze-Lozac'h là giám đốc của Quỹ Châu Á về các chương trình phát triển kinh
tế có trụ sở tại Bangkok, Nina Merchant-Vega là trợ lý giám đốc, Katherine
Loh là cán bộ chương trình cao cấp, và Sarah Alexander là thành viên chương
trình của Các chương trình phát triển kinh tế. Bài viết này ban đầu xuất hiện
trên Blog "Tại châu Á" của Quỹ Châu Á.
|
|
Translated by Nguyễn Quang
|
http://thediplomat.com/2013/01/18/integration-is-key-to-asias-future/?all=true
|
How China Sees America Trung Quốc nhìn Hoa Kỳ như thế nào
|
|
|
|
How China Sees
America
|
Trung Quốc nhìn Hoa
Kỳ như thế nào
|
Andrew J. Nathan and Andrew Scobell
Foreign Policy, September – October 2012
|
Andrew J. Nathan and Andrew Scobell
Foreign Policy – Tháng 9-10, 2012
|
|
|
"Great power" is a vague term, but China
deserves it by any measure: the extent and strategic location of its
territory, the size and dynamism of its population, the value and growth rate
of its economy, the massive size of its share of global trade, and the
strength of its military. China has become one of a small number of countries
that have significant national interests in every part of the world and that
command the attention, whether willingly or grudgingly, of every other
country and every international organization. And perhaps most important, China
is the only country widely seen as a possible threat to U.S. predominance.
Indeed, China's rise has led to fears that the country will soon overwhelm
its neighbors and one day supplant the United States as a global hegemon.
|
“Cường quốc” là một từ ngữ mơ hồ, nhưng dù bằng thước đo
nào đi nữa, Trung Quốc (TQ) cũng đáng được gọi bằng từ ngữ đó: diện tích và
vị trí chiến lược của lãnh thổ TQ, sự đông đảo và tính năng động của nhân dân
TQ, trị giá và mức độ tăng trưởng của kinh tế TQ, tầm cỡ đồ sộ của TQ trong
lãnh vực thương mại toàn cầu, và sức mạnh quân sự của TQ. Trung Quốc đã trở
thành một trong vài nước có lợi ích quốc gia đáng kể được dàn trải khắp thế
giới và thu hút sự chú ý, dù muốn dù không, của mọi nước khác và của mọi tổ
chức quốc tế. Và có lẽ điều quan trọng nhất là, Trung Quốc được nhìn nhận là
nước duy nhất có khả năng đe dọa địa vị siêu cường của Mỹ. Thật vậy, sự trỗi
dậy của TQ đã mang lại nỗi sợ hãi là nước khổng lồ này sẽ sớm khống chế các
nước láng giềng và một ngày nào đó sẽ thay thế Hoa Kỳ trong địa vị bá quyền
toàn cầu.
|
But widespread perceptions of China as an aggressive,
expansionist power are off base. Although China's relative power has grown
significantly in recent decades, the main tasks of Chinese foreign policy are
defensive and have not changed much since the Cold War era: to blunt
destabilizing influences from abroad, to avoid territorial losses, to reduce
its neighbors' suspicions, and to sustain economic growth. What has changed
in the past two decades is that China is now so deeply integrated into the
world economic system that its internal and regional priorities have become
part of a larger quest: to define a global role that serves Chinese interests
but also wins acceptance from other powers.
|
Nhưng cảm thức phổ biến coi Trung Quốc như một cường quốc
hiếu chiến, theo chủ nghĩa bành trướng là thiếu cơ sở. Mặc dù so với các
cường quốc khác, quyền lực của Trung Quốc đã gia tăng đáng kể trong những
thập kỷ gần đây, nhưng những công tác quan trọng trong chính sách đối ngoại
TQ là có tính phòng thủ và không thay đổi gì nhiều kể từ thời Chiến tranh lạnh:
ấy là, chống lại những ảnh hưởng đến từ nước ngoài có khả năng gây bất ổn
trong nước, tránh mất lãnh thổ, cố gắng làm giảm bớt những nghi kỵ của các
nước láng giềng, và duy trì mức tăng trưởng kinh tế. Điều thật sự thay đổi
trong hai thập kỷ qua là, hiện nay Trung Quốc đã hội nhập sâu sắc vào hệ
thống kinh tế thế giới đến nỗi những ưu tiên nội bộ và khu vực của TQ đã trở
thành một bộ phận của một mưu cầu to lớn hơn: đó là, xác định một vai trò
toàn cầu không những nhằm phục vụ lợi ích TQ mà còn nhằm chinh phục sự nhìn
nhận của các cường quốc khác.
|
Chief among those powers, of course, is the United States,
and managing the fraught U.S.-Chinese relationship is Beijing's foremost
foreign policy challenge. And just as Americans wonder whether China's rise
is good for U.S. interests or represents a looming threat, Chinese
policymakers puzzle over whether the United States intends to use its power
to help or hurt China.
|
Đứng đầu trong các cường quốc đó dĩ nhiên là Hoa Kỳ, và
quản lý mối quan hệ Mỹ-Trung đầy bất trắc là thách thức hàng đầu trong chính
sách đối ngoại của Bắc Kinh. Và như người Mỹ đang băn khoăn là liệu sự trỗi dậy
của Trung Quốc có phù hợp với các lợi ích của Mỹ hay không hay chỉ là một mối
đe dọa đang lù lù xuất hiện, các nhà hoạch định chính sách của TQ cũng đang
thắc mắc là liệu Hoa Kỳ có định sử dụng quyền lực của mình để giúp đỡ hay
chống lại Trung Quốc.
|
Americans sometimes view the Chinese state as inscrutable.
But given the way that power is divided in the U.S. political system and the
frequent power turnovers between the two main parties in the United States,
the Chinese also have a hard time determining U.S. intentions. Nevertheless,
over recent decades, a long-term U.S. strategy seems to have emerged out of a
series of American actions toward China. So it is not a hopeless exercise --
indeed, it is necessary -- for the Chinese to try to analyze the United
States.
|
Người Mỹ thường coi nhà nước TQ là rất khó lường. Nhưng
dựa vào cách thức quyền lực được phân bố trong hệ thống chính trị Mỹ và việc
chuyển giao quyền lực thường xảy ra giữa hai chính đảng tại Hoa Kỳ, người TQ
cũng gặp nhiều khó khăn trong việc xác định những ý đồ của Mỹ. Tuy nhiên,
trong những thập kỷ gần đây, một chiến lược dài hạn của Mỹ hình như đã hiện
ra rõ nét từ một loạt hành động của Mỹ đối với Trung Quốc. Như vậy, việc
Trung Quốc cố gắng phân tích để tìm hiểu Hoa Kỳ không phải là một nỗ lực vô
vọng – nhưng thật ra, đó là điều cần thiết.
|
Most Americans would be surprised to learn the degree to
which the Chinese believe the United States is a revisionist power that seeks
to curtail China's political influence and harm China's interests. This view
is shaped not only by Beijing's understanding of Washington but also by the
broader Chinese view of the international system and China's place in it, a
view determined in large part by China's acute sense of its own
vulnerability.
|
Hầu hết mọi người Mỹ sẽ lấy làm ngạc nhiên khi biết đến
mức độ mà người TQ tin rằng Hoa Kỳ là một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại
(a revioninist power) đang tìm cách chặn đứng ảnh hưởng chính trị của Trung
Quốc và chống lại lợi ích của Trung Quốc. Quan điểm này được hình thành không
những do nhận thức của Bắc Kinh đối với Washington mà còn do một quan điểm
rộng lớn hơn của Trung Quốc về hệ thống quốc tế và chỗ đứng của Trung Quốc ở
trong đó, một quan điểm được xác định phần lớn do ý thức sâu sắc của TQ về
những chỗ yếu của chính mình.
|
THE FOUR RINGS
The world as seen from Beijing is a terrain of hazards,
beginning with the streets outside the policymaker's window, to land borders
and sea-lanes thousands of miles away, to the mines and oil fields of distant
continents. These threats can be described in four concentric rings. In the
first ring, the entire territory that China administers or claims, Beijing
believes that China's political stability and territorial integrity are
threatened by foreign actors and forces. Compared with other large countries,
China must deal with an unparalleled number of outside actors trying to
influence its evolution, often in ways the regime considers detrimental to
its survival. Foreign investors, development advisers, tourists, and students
swarm the country, all with their own ideas about how China should change.
Foreign foundations and governments give financial and technical support to
Chinese groups promoting civil society. Dissidents in Tibet and Xinjiang
receive moral and diplomatic support and sometimes material assistance from
ethnic diasporas and sympathetic governments abroad. Along the coast,
neighbors contest maritime territories that Beijing claims. Taiwan is ruled
by its own government, which enjoys diplomatic recognition from 23 states and
a security guarantee from the United States.
|
Bốn vòng đồng tâm
Thế giới theo quan điểm của Bắc Kinh là một địa bàn chứa
đầy bất trắc, bắt đầu từ những con phố bên ngoài cửa sổ của những nhà hoạch
định chính sách, đến biên giới trên bộ và những tuyến giao thông hàng hải
cách xa hàng ngàn dặm, đến những mỏ khoáng sản và cánh đồng dầu lửa ở những
lục địa xa xôi. Những mối đe dọa này được mô tả trong 4 vòng đồng tâm. Trong
vòng thứ nhất, gồm toàn bộ lãnh thổ mà TQ đang cai quản hay khẳng định chủ
quyền, Bắc Kinh tin rằng sự ổn định chính trị và tính toàn vẹn lãnh thổ của
Trung Quốc đang bị các tác nhân và các thế lực nước ngoài đe dọa. So với các
nước lớn khác, Trung Quốc phải đương đầu với một con số vô địch gồm các tác
nhân bên ngoài đang tìm cách ảnh hưởng sự tiến hóa của TQ, thông thường bằng
những đường lối mà chế độ cộng sản TQ cho là gây tác hại đối với sự sống còn
của nó. Các nhà đầu tư nước ngoài, các cố vấn phát triển, các du khách và các
du sinh tràn vào nước này, mỗi người đều mang theo ý kiến riêng của mình về
đường lối mà Trung Quốc nên thay đổi. Các tổ chức và chính phủ nước ngoài
hiện đang cung cấp tài chính và kỹ thuật cho các nhóm hoạt động để phát triển
xã hội dân sự. Các nhà bất đồng chính kiến tại Tây Tạng và Tân Cương nhận
được hậu thuẫn tinh thần và ngoại giao, và đôi khi cả sự hỗ trợ vật chất từ
các cộng đồng dân tộc sống rải rác khắp thế giới và từ các chính phủ nước
ngoài có thiện cảm. Dọc theo bờ biển, các nước láng giềng lại đang tranh chấp
các vùng lãnh hải mà Bắc Kinh khẳng định chủ quyền. Đài Loan thì được cai trị
bởi một chính phủ riêng, nhận được sự công nhận ngoại giao từ 23 quốc gia, và
bảo đảm an ninh từ Mỹ.
|
At China's borders, policymakers face a second ring of
security concerns, involving China's relations with 14 adjacent countries. No
other country except Russia has as many contiguous neighbors. They include
five countries with which China has fought wars in the past 70 years (India,
Japan, Russia, South Korea, and Vietnam) and a number of states ruled by
unstable regimes. None of China's neighbors perceives its core national
interests as congruent with Beijing's.
|
Tại các biên giới Trung Quốc, các nhà hoạch định chính
sách đối diện một vòng tròn thứ hai gồm những quan tâm an ninh, do quan hệ
của Trung Quốc với 14 nước láng giềng sát nách. Ngoại trừ Liên bang Nga ra, không có một
nước nào khác có nhiều láng giềng tiếp giáp như vậy. Trong đám láng giềng đó
có 5 nước Trung Quốc đã từng đánh nhau trong vòng 70 năm qua (Ấn Độ, Nhật
Bản, Nga, Nam Triều Tiên, và Việt Nam) và một số quốc gia được cai trị bởi
các chế độ thiếu ổn định. Không một nước láng giềng nào của Trung Quốc nhận
thấy lợi ích quốc gia cốt lõi của mình phù hợp với lợi ích của Bắc Kinh.
|
But China seldom has the luxury of dealing with any of its
neighbors in a purely bilateral context. The third ring of Chinese security
concerns consists of the politics of the six distinct geopolitical regions
that surround China: Northeast Asia, Oceania, continental Southeast Asia,
maritime Southeast Asia, South Asia, and Central Asia. Each of these areas
presents complex regional diplomatic and security problems.
|
Nhưng hiếm khi Trung Quốc hưởng được cái xa xỉ là có thể
giao thiệp với bất cứ một nước láng giềng nào của mình trong một bối cảnh
thuần túy song phương. Vòng quan tâm an ninh thứ ba của TQ bao gồm tình hình
chính trị của 6 khu vực địa chính trị chung quanh Trung Quốc: Đông Bắc Á,
châu Đại Đương, Đông Nam Á trên đất liền, Đông Nam Á trên biển, Nam Á, và
Trung Á. Mỗi một vùng này đều đặt ra những vấn đề ngoại giao và an ninh khu
vực phức tạp.
|
Finally, there is the fourth ring: the world far beyond
China's immediate neighborhood. China has truly entered this farthest circle
only since the late 1990s and so far for limited purposes: to secure sources
of commodities, such as petroleum; to gain access to markets and investments;
to get diplomatic support for isolating Taiwan and Tibet's Dalai Lama; and to
recruit allies for China's positions on international norms and legal
regimes.
|
Sau cùng là vòng thứ tư: đó là thế giới xa xôi nằm ngoài
khu vực láng giềng lân cận của Trung Quốc. Trung Quốc chỉ mới thực sự xâm
nhập vào vòng xa nhất này kể từ cuối thập niên 1990 và cho đến nay chỉ nhắm
vào một số mục đích giới hạn: để nắm vững nguồn các thương phẩm, như dầu lửa;
để tiếp cận thị trường và bỏ vốn đầu tư; để nhận được hậu thuẫn ngoại giao
nhằm cô lập Đài Loan và Đạt Lai Lạt ma của Tây Tạng; và để chiêu mộ đồng minh
ủng hộ lập trường của Trung Quốc về các qui phạm và chế độ pháp lý quốc tế.
|
INSCRUTABLE AMERICA
In each of China's four security rings, the United States
is omnipresent. It is the most intrusive outside actor in China's internal
affairs, the guarantor of the status quo in Taiwan, the largest naval
presence in the East China and South China seas, the formal or informal
military ally of many of China's neighbors, and the primary framer and
defender of existing international legal regimes. This omnipresence means
that China's understanding of American motives determines how the Chinese
deal with most of their security issues.
|
Mỹ quốc khó lường
Trong mỗi một của bốn vòng an ninh đồng tâm này của Trung
Quốc đều có bóng dáng của Mỹ (omnipresent). Mỹ là tác nhân từ bên ngoài can
thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc nhiều nhất, là cường quốc đảm bảo
nguyên trạng (the status quo) tại Đài Loan, có sự hiện diện hải quân sừng sõ
nhất tại Biển Đông Trung Hoa và Biển Nam Trung Hoa [tức Biển Đông Việt Nam],
là đồng minh chính thức hoặc không chính thức của nhiều nước láng giềng của
Trung Quốc, là cường quốc chủ yếu đã soạn ra và bảo vệ các chế độ pháp lý
quốc tế hiện hành. Sự hiện diện đều khắp này của Mỹ hàm ý rằng nhận thức của
Trung Quốc về các động lực sâu xa của Mỹ sẽ xác định cung cách mà người Trung
Quốc đối phó với hầu hết các vấn đề an ninh của mình.
|
Beginning with President Richard Nixon, who visited China
in 1972, a succession of American leaders have assured China of their
goodwill. Every U.S. presidential administration says that China's prosperity
and stability are in the interest of the United States. And in practice, the
United States has done more than any other power to contribute to China's
modernization. It has drawn China into the global economy; given the Chinese
access to markets, capital, and technology; trained Chinese experts in
science, technology, and international law; prevented the full
remilitarization of Japan; maintained the peace on the Korean Peninsula; and
helped avoid a war over Taiwan.
|
Bắt đầu bằng chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống
Richard Nixon năm 1972, một loạt lãnh đạo Mỹ đã liên tục trấn an Trung Quốc
về thiện chí của họ. Chính quyền của mỗi một tổng thống Mỹ đều tuyên bố rằng
sự thịnh vượng và ổn định của Trung Quốc nằm trong lợi ích của Mỹ. Và trên
thực tế, Mỹ đã làm nhiều hơn bất cứ một cường quốc nào khác để đóng góp cho
sự nghiệp hiện đại hóa của Trung Quốc. Mỹ đã lôi kéo Trung Quốc vào nền kinh
tế toàn cầu; đã giúp người Trung Quốc tiếp cận các thị trường, vốn, và công
nghệ; đã đào tạo các chuyên gia TQ trong các ngành khoa học, công nghệ, và
luật pháp quốc tế; đã ngăn chặn nỗ lực tái vũ trang toàn diện của Nhật Bản;
đã duy trì hoà bình trên Bán đảo Triều Tiên; và đã giúp tránh một cuộc chiến
tranh về đảo quốc Đài Loan.
|
Yet Chinese policymakers are more impressed by policies
and behaviors that they perceive as less benevolent. The American military is
deployed all around China's periphery, and the United States maintains a wide
network of defense relationships with China's neighbors. Washington continues
to frustrate Beijing's efforts to gain control over Taiwan. The United States
constantly pressures China over its economic policies and maintains a host of
government and private programs that seek to influence Chinese civil society
and politics.
|
Tuy nhiên các nhà làm chính sách TQ thường nhớ kỹ những
chính sách và hành vi của Mỹ mà họ coi là thiếu thân thiện. Họ thấy quân đội
Mỹ triển khai chung quanh Trung Quốc, và Mỹ đang duy trì một mạng lưới rộng
lớn gồm các quan hệ quốc phòng với nhiều nước láng giềng của Trung
Quốc.Washingtontiếp tục chống lại những nỗ lực của Bắc Kinh trong việc giành
quyền kiểm soát Đài Loan. Mỹ thường xuyên gây sức ép lên Trung Quốc về các
chính sách kinh tế và duy trì một loạt chương trình chính phủ và tư nhân nhằm
tìm cách ảnh hưởng lên xã hội dân sự và chính trị TQ.
|
Beijing views this seemingly contradictory set of American
actions through three reinforcing perspectives. First, Chinese analysts see
their country as heir to an agrarian, eastern strategic tradition that is
pacifistic, defense-minded, nonexpansionist, and ethical. In contrast, they
see Western strategic culture -- especially that of the United States -- as
militaristic, offense-minded, expansionist, and selfish.
|
Bắc Kinh coi loạt hành động có vẻ xung khắc này của Mỹ qua
ba quan điểm kiên định. Một là, các học giả TQ coi tổ quốc mình như kẻ kế
thừa một truyền thống nông nghiệp, mang tính chiến lược phương Đông, đó là
chủ hòa, giữ thế thủ, không bành trướng, và tôn trọng đạo lý. Trái lại, họ
coi văn hóa chiến lược phương Tây – nhất là văn hóa chiến lược Mỹ – là quân
phiệt, giữ thế công, theo chủ nghĩa bành trướng, và vị kỷ.
|
Second, although China has embraced state capitalism with
vigor, the Chinese view of the United States is still informed by Marxist
political thought, which posits that capitalist powers seek to exploit the
rest of the world. China expects Western powers to resist Chinese competition
for resources and higher-value-added markets. And although China runs trade
surpluses with the United States and holds a large amount of U.S. debt,
China's leading political analysts believe the Americans get the better end
of the deal by using cheap Chinese labor and credit to live beyond their
means.
|
Hai là, mặc dù Trung Quốc hăng hái chạy theo chủ nghĩa tư
bản nhà nước (state capitalism), nhưng quan điểm của TQ về Mỹ vẫn còn bị tư
duy chính trị Mác-xít chi phối, cho rằng các cường quốc tư bản đang tìm cách
bóc lột phần còn lại của thế giới. Trung Quốc tin chắc các cường quốc phương
Tây đang chống lại nỗ lực cạnh tranh của Trung Quốc nhằm chiếm tài nguyên và
các thị trường có giá trị gia tăng cao (higher-value-added markets). Và mặc
dù Trung Quốc đang ở trong tình trạng thặng dư mậu dịch với Mỹ và đang giữ
một khối lượng trái phiếu khổng lồ của Mỹ, nhưng các nhà phân tích chính trị
hàng đầu của Trung Quốc vẫn tin rằng người Mỹ đã hưởng lợi nhiều hơn trong
quan hệ mậu dịch bằng cách sử dụng lao động và tín dụng rẻ của TQ để sống
vung vít ngoài mức thu nhập của mình.
|
Third, American theories of international relations have
become popular among younger Chinese policy analysts, many of whom have
earned advanced degrees in the United States. The most influential body of
international relations theory in China is so-called offensive realism, which
holds that a country will try to control its security environment to the full
extent that its capabilities permit. According to this theory, the United
States cannot be satisfied with the existence of a powerful China and
therefore seeks to make the ruling regime there weaker and more pro-American.
Chinese analysts see evidence of this intent in Washington's calls for
democracy and its support for what China sees as separatist movements in
Taiwan, Tibet, and Xinjiang.
|
Ba là, các lý thuyết về bang giao quốc tế của Mỹ đã trở
nên phổ biến đối với các nhà phân tích chính sách trẻ tuổi của Trung Quốc,
nhiều người trong số đó đã lấy những bằng cấp cao tại các đại học Mỹ. Bộ phận
có nhiều ảnh hưởng nhất trong lý thuyết bang giao quốc tế tại Trung Quốc là
cái mà nhiều người thường gọi là chủ nghĩa thực tiễn tiến công (offensive
realism), một lý thuyết cho rằng mọi quốc gia đều ra sức kiểm soát môi trường
an ninh chung quanh mình đến mức tối đa mà các khả năng của mình cho phép.
Theo lý thuyết này, Mỹ không thể tự mãn ngồi yên để nhìn sự hiện hữu của một
Trung Quốc hùng mạnh và vì thế Mỹ đang tìm mọi cách để làm chế độ cầm quyền
TQ trở nên suy yếu hơn và thân Mỹ hơn. Các nhà học giả TQ thấy được bằng
chứng của ý đồ này trong việcWashingtonkêu gọi dân chủ và việc Mỹ hậu thuẫn
cho điều mà Trung Quốc gọi là các phong trào ly khai tại Đài Loan, Tây Tạng,
và Tân Cương.
|
Whether they see the United States primarily through a
culturalist, Marxist, or realist lens, most Chinese strategists assume that a
country as powerful as the United States will use its power to preserve and
enhance its privileges and will treat efforts by other countries to protect
their interests as threats to its own security. This assumption leads to a
pessimistic conclusion: as China rises, the United States will resist. The
United States uses soothing words; casts its actions as a search for peace, human
rights, and a level playing field; and sometimes offers China genuine
assistance. But the United States is two-faced. It intends to remain the
global hegemon and prevent China from growing strong enough to challenge it.
In a 2011 interview with Liaowang, a state-run Chinese newsmagazine, Ni Feng,
the deputy director of the Chinese Academy of Social Sciences' Institute of
American Studies, summed up this view. "On the one hand, the United
States realizes that it needs China's help on many regional and global
issues," he said. "On the other hand, the United States is worried
about a more powerful China and uses multiple means to delay its development
and to remake China with U.S. values."
|
Dù có nhìn Hoa Kỳ chủ yếu qua lăng kính văn hoá chủ nghĩa,
hay Mác-xít, hay thực tiễn chủ nghĩa, hầu hết các nhà chiến lược TQ cho rằng
một nước hùng mạnh như Mỹ nhất định sẽ dùng quyền lực để duy trì và tăng
cường các đặc quyền của mình và sẽ coi các nỗ lực của những nước khác trong
việc bảo vệ lợi ích quốc gia là mối đe dọa cho an ninh của Mỹ. Giả định này
đưa đến một kết luận bi quan: khi Trung Quốc trỗi dậy, Mỹ sẽ tìm cách ngăn
chặn. Mỹ dùng những từ ngữ có tính cách xoa dịu; Mỹ ngụy trang hành động của
mình dưới chiêu bài tìm kiếm hòa bình, bảo vệ nhân quyền, và thiết lập một
sân chơi bình đẳng; và đôi khi Mỹ cũng đề nghị giúp đỡ Trung Quốc thực sự.
Nhưng Mỹ có bản chất tráo trở (two-faced). Mỹ có ý định tiếp tục làm bá quyền
toàn cầu duy nhất và ngăn chặn không cho Trung Quốc trở nên đủ mạnh để thách
thức Mỹ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2011 với báo Liễu vọng, một tạp chí của
Nhà nước TQ, Nghê Phong, Phó chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ thuộc Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội TQ, đã tóm tắt quan điểm này như sau: “Một mặt, Mỹ
biết rằng Mỹ cần đến sự giúp đỡ của Trung Quốc trên một số vấn đề khu vực và
toàn cầu, mặt khác, Mỹ lo ngại về một Trung Quốc hùng mạnh hơn và vì thế Mỹ
dùng nhiều phương tiện để làm trì trệ bước phát triển của TQ và để uốn nắn TQ
cho phù hợp với các giá trị Mỹ”.
|
A small group of mostly younger Chinese analysts who have
closely studied the United States argues that Chinese and American interests
are not totally at odds. In their view, the two countries are sufficiently
remote from each other that their core security interests need not clash.
They can gain mutual benefit from trade and other common interests.
|
Một nhóm nhỏ gồm phần lớn những nhà phân tích trẻ tuổi hơn
của TQ, những người đã nghiên cứu kỹ chính trị Mỹ, tranh luận rằng lợi ích
của TQ và lợi ích của Mỹ không hoàn toàn xung khắc. Theo quan điểm của họ,
hai nước đủ cách xa nhau về không gian nên lợi ích an ninh cốt lõi của hai
nước không nhất thiết phải xung đột. Hai nước có thể cùng nhau hưởng lợi nhờ
thương mại và các các lợi ích chung khác.
|
But those holding such views are outnumbered by
strategists on the other side of the spectrum, mostly personnel from the
military and security agencies, who take a dim view of U.S. policy and have
more confrontational ideas about how China should respond to it. They believe
that China must stand up to the United States militarily and that it can win
a conflict, should one occur, by outpacing U.S. military technology and
taking advantage of what they believe to be superior morale within China's
armed forces. Their views are usually kept out of sight to avoid frightening
both China's rivals and its friends.
|
Nhưng những người mang quan điểm này chỉ là một thiểu số
nhỏ bé so với các nhà chiến lược nằm phía bên kia của lăng kính gồm phần lớn
các viên chức trong quân đội và các cơ quan an ninh, tức những người có một
cái nhìn u ám về chính sách của Mỹ và thường có tư duy đối đầu trong đường
lối Trung Quốc cần phải đối phó chính sách Mỹ. Họ cho rằng Trung Quốc phải
mạnh dạn thách thức Mỹ bằng quân sự và rằng TQ có thể thắng một cuộc chiến
tranh, nếu nó xảy ra, bằng cách phải tiến nhanh hơn Mỹ về công nghệ quân sự
và vận dụng điều mà họ cho là tinh thần ưu việt của quân lực TQ. Quan điểm
của họ thường được che đậy để tránh gây lo sợ cho cả thù lẫn bạn của Trung
Quốc.
|
WHO IS THE
REVISIONIST?
To peer more deeply into the logic of the United States'
China strategy, Chinese analysts, like analysts everywhere, look at
capabilities and intentions. Although U.S. intentions might be subject to
interpretation, U.S. military, economic, ideological, and diplomatic
capabilities are relatively easy to discover -- and from the Chinese point of
view, they are potentially devastating.
|
AI THEO CHỦ NGHĨA
XÉT LẠI?
Để đi sâu vào lôgic trong chiến lược Trung Quốc của Mỹ,
các học giả TQ, cũng như các nhà phân tích ở bất cứ đâu, sẽ tập trung chú ý
vào các khả năng và các ý đồ. Mặc dù các ý đồ của Mỹ có thể cần phải được lý
giải, nhưng các khả năng quân sự, kinh tế, ý thức hệ, và ngoại giao của Mỹ là
tương đối dễ phát hiện – và theo quan điểm của Trung Quốc, những khả năng này
có tiềm năng gây tổn thất to lớn.
|
U.S. military forces are globally deployed and
technologically advanced, with massive concentrations of firepower all around
the Chinese rim. The U.S. Pacific Command (PACOM) is the largest of the
United States' six regional combatant commands in terms of its geographic
scope and nonwartime manpower. PACOM's assets include about 325,000 military
and civilian personnel, along with some 180 ships and 1,900 aircraft. To the
west, PACOM gives way to the U.S. Central Command (CENTCOM), which is
responsible for an area stretching from Central Asia to Egypt. Before
September 11, 2001, CENTCOM had no forces stationed directly on China's
borders except for its training and supply missions in Pakistan. But with the
beginning of the "war on terror," CENTCOM placed tens of thousands
of troops in Afghanistan and gained extended access to an air base in
Kyrgyzstan.
|
Các lực lượng quân sự Mỹ được triển khai toàn cầu và có
trình độ công nghệ tiên tiến, với sự tập trung hỏa lực hùng hậu quanh biên
giới TQ. Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ (PACOM) là bộ phận lớn nhất trong
sáu bộ tư lệnh chiến đấu khu vực của Mỹ nếu xét đến địa bàn hoạt động và quân
số thời bình của nó. Lực lượng của PACOM gồm có 325.000 nhân viên quân sự và
dân sự, cùng với 180 tàu chiến và 1.900 máy bay. Về hướng Tây, PACOM nhường
lối cho Bộ Tư lệnh Trung tâm của Mỹ (CENTCOM), một bộ tư lệnh có trách nhiệm
trên một địa bàn kéo dài từ Trung Á đến Ai Cập. Trước [cuộc Tấn công Khủng
bố] ngày 11 tháng 9 năm 2001, CENTCOM không hề có lực lượng trú đóng nằm ngay
trên biên giới Trung Quốc ngoại trừ nhiệm vụ huấn luyện và tiếp tế tại
Pakistan. Nhưng khi “chiến tranh chống khủng bố” bắt đầu, CENTCOM đã đóng
hàng ngàn quân tạiAfghanistanvà sử dụng dài hạn một căn cứ không quân
tạiKyrgyzstan.
|
The operational capabilities of U.S. forces in the
Asia-Pacific are magnified by bilateral defense treaties with Australia,
Japan, New Zealand, the Philippines, and South Korea and cooperative
arrangements with other partners. And to top it off, the United States
possesses some 5,200 nuclear warheads deployed in an invulnerable sea, land,
and air triad. Taken together, this U.S. defense posture creates what Qian
Wenrong of the Xinhua News Agency's Research Center for International Issue
Studies has called a "strategic ring of encirclement."
|
Khả năng hoạt động của các lực lượng quân sự Mỹ trong khu
vực châu Á-Thái Bình Dương được tăng cường nhờ các hiệp định phòng thủ song
phương với Australia, Nhật Bản, New Zealand, Philippines, và Nam Hàn và các
dàn xếp phối hợp với nhiều đối tác khác. Và hơn thế nữa, Mỹ có khoảng 5.200
đầu đạn hạt nhân được triển khai thành bộ ba khó phá vỡ: trên biển, trên bộ,
và trên không. Tập hợp lại, thế phòng thủ này của Mỹ tạo nên cái mà Tiền Văn
Vinh tại Trung tâm Nghiên cứu các Vấn đề Quốc tế của Tân Hoa Xã đã gọi là một
“vòng vây chiến lược”.
|
Chinese security analysts also take note of the United
States' extensive capability to damage Chinese economic interests. The United
States is still China's single most important market, unless one counts the
European Union as a single entity. And the United States is one of China's
largest sources of foreign direct investment and advanced technology. From time
to time, Washington has entertained the idea of wielding its economic power
coercively. After the 1989 Tiananmen Square crackdown, the United States
imposed some limited diplomatic and economic sanctions on China, including an
embargo, which is still in effect, on the sale of advanced arms. For several
years after that, Congress debated whether to punish China further for human
rights violations by canceling the low most-favored-nation tariff rates
enjoyed by Chinese imports, although proponents of the plan could never
muster a majority. More recently, U.S. legislators have proposed sanctioning
China for artificially keeping the value of the yuan low to the benefit of
Chinese exporters, and the Republican presidential candidate Mitt Romney has
promised that if elected, he will label China a currency manipulator on
"day one" of his presidency.
|
Các nhà phân tích an ninh TQ cũng ghi nhận khả năng to lớn
của Mỹ trong việc gây tổn thất cho lợi ích kinh tế của TQ. Mỹ vẫn là thị
trường duy nhất quan trọng nhất của Trung Quốc nếu ta không kể Liên minh châu
Âu như một thực thể riêng biệt. Và Mỹ là một trong những nguồn vốn trực tiếp
đầu tư nước ngoài và nguồn công nghệ tiên tiến lớn nhất cho Trung Quốc. Thỉnh
thoảng,Washingtoncó ý định sử dụng sức mạnh kinh tế để o ép Trung Quốc. Sau
vụ đàn áp tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, Mỹ đã áp dụng các biện pháp
trừng phạt kinh tế đối với Trung Quốc, gồm có lệnh cấm vận, hiện vẫn còn có
hiệu lực đối với các thương vụ vũ khí tối tân. Qua nhiều năm sau đó, Quốc hội
Mỹ còn tiếp tục tranh luận về việc có nên trừng phạt Trung Quốc thêm nữa vì
vi phạm nhân quyền, bằng cách hủy bỏ mức thuế quan tối huệ quốc thấp mà hàng
nhập khẩu TQ được hưởng, mặc dù những người vận động biện pháp trừng phạt
không bao giờ hội đủ đa số. Gần đây, nhiều nhà lập pháp Mỹ đề nghị trừng phạt
Trung Quốc vì đã ghìm giá đồng Nguyên (yuan) một cách giả tạo nhằm làm lợi
cho các nhà xuất khẩu TQ, và ứng cử viên tổng thống Cộng hòa Mitt Romney đã
hứa nếu đắc cử, ông sẽ qui cho Trung Quốc tội danh dùng thủ đoạn tiền tệ
(currency manipulator) vào “ngày đầu tiên” trong nhiệm kỳ tổng thống của ông.
|
Although trade hawks in Washington seldom prevail,
flare-ups such as these remind Beijing how vulnerable China would be if the
United States decided to punish it economically. Chinese strategists believe
that the United States and its allies would deny supplies of oil and metal
ores to China during a military or economic crisis and that the U.S. Navy
could block China's access to strategically crucial sea-lanes. The ubiquity
of the dollar in international trade and finance also gives the United States
the ability to damage Chinese interests, either on purpose or as a result of
attempts by the U.S. government to address its fiscal problems by printing dollars
and increasing borrowing, acts that drive down the value of China's
dollar-denominated exports and foreign exchange reserves.
|
Mặc dù phe diều hâu mậu dịch (trade hawks) củaWashingtonít
khi thắng thế, nhưng những cơn phẫn nộ như thế này cũng nhắc nhở Bắc Kinh về mức
độ tổn thất nếu Mỹ quyết định trừng phạt Trung Quốc về mặt kinh tế. Các nhà chiến lược TQ tin rằng Mỹ và đồng
minh sẽ từ chối cung cấp dầu lửa và quặng kim cho Trung Quốc trong một cuộc
khủng hoảng quân sự hay kinh tế và
rằng Hải quân Mỹ sẽ chặn đứng việc Trung Quốc tiếp cận các tuyến đường biển
có tầm quan trọng chiến lược. Sự tràn ngập của đồng đôla trong lãnh vực
thương mại và tài chính quốc tế còn cho Mỹ khả năng đe dọa các lợi ích TQ,
hoặc do cố tình hay do hậu quả của việc chính phủ Mỹ toan tính giải quyết vấn
đề ngân sách bằng cách in thêm đôla và gia tăng việc vay mượn, những động
thái sẽ làm mất giá hàng xuất khẩu và các trữ lượng ngoại hối của Trung Quốc,
vốn đặt giá trị trên đồng đôla (dollar-denominated).
|
Chinese analysts also believe that the United States
possesses potent ideological weapons and the willingness to use them. After
World War II, the United States took advantage of its position as the
dominant power to enshrine American principles in the Universal Declaration
of Human Rights and other international human rights instruments and to
install what China sees as Western-style democracies in Japan and,
eventually, South Korea, Taiwan, and other countries. Chinese officials
contend that the United States uses the ideas of democracy and human rights
to delegitimize and destabilize regimes that espouse alternative values, such
as socialism and Asian-style developmental authoritarianism. In the words of
Li Qun, a member of the Shandong Provincial Party Committee and a rising star
in the Communist Party, the Americans' "real purpose is not to protect
so-called human rights but to use this pretext to influence and limit China's
healthy economic growth and to prevent China's wealth and power from
threatening [their] world hegemony."
|
Các học giả TQ còn tin rằng Mỹ nắm trong tay những vũ khí
ý thức hệ rất mạnh và có đủ quyết tâm sử dụng chúng. Sau Thế Chiến II, Mỹ đã
lợi dụng địa vị đại cường thắng trận để duy trì những nguyên tắc trân quí của
mình trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền Phổ quát và trong các văn kiện nhân
quyền quốc tế khác và dựng lên những chính thể mà Trung Quốc gọi là các chế
độ dân chủ kiểu Tây phương (Western-style democracies) tại Nhật Bản và, về
sau, tại Nam Hàn, Đài Loan, và nhiều nước khác. Các quan chức TQ tranh luận
rằng Mỹ đã sử dụng những tư tưởng dân chủ và nhân quyền để làm mất tính chính
đáng của các chế độ đi theo những hệ thống giá trị khác và gây bất ổn cho
chúng, như những chế độ theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa độc tài để phát
triển kiểu châu Á. Theo Lý Quần, một ủy viên của Tỉnh ủy Sơn Đông và là một
ngôi sao đang lên trong Đảng Cộng sản, “mục đích thực sự của người Mỹ không
phải là bảo vệ cái gọi là nhân quyền, nhưng chỉ dùng việc này như một chiêu
bài để gây ảnh hưởng và giới hạn đà tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Trung
Quốc và không để cho sự giàu có và quyền lực của Trung Quốc đe dọa địa vị bá
quyền của họ”.
|
In the eyes of many Chinese analysts, since the end of the
Cold War the United States has revealed itself to be a revisionist power that
tries to reshape the global environment even further in its favor. They see
evidence of this reality everywhere: in the expansion of NATO; the U.S.
interventions in Panama, Haiti, Bosnia, and Kosovo; the Gulf War; the war in
Afghanistan; and the invasion of Iraq. In the economic realm, the United
States has tried to enhance its advantages by pushing for free trade, running
down the value of the dollar while forcing other countries to use it as a
reserve currency, and trying to make developing countries bear an unfair
share of the cost of mitigating global climate change. And perhaps most
disturbing to the Chinese, the United States has shown its aggressive designs
by promoting so-called color revolutions in Georgia, Ukraine, and Kyrgyzstan.
As Liu Jianfei, director of the foreign affairs division of the Central Party
School of the Chinese Communist Party, wrote in 2005, "The U.S. has
always opposed communist 'red revolutions' and hates the 'green revolutions' in
Iran and other Islamic states. What it cares about is not 'revolution' but
'color.' It supported the 'rose,' 'orange', and 'tulip' revolutions because
they served its democracy promotion strategy." As Liu and other top
Chinese analysts see it, the United States hopes "to spread democracy
further and turn the whole globe 'blue.'"
|
Theo quan điểm của nhiều học giả TQ, kể từ khi Chiến tranh
lạnh chấm dứt Mỹ đã hiện nguyên hình là một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại
(a revisionist power) cố gắng thiết kế lại môi trường toàn cầu thêm nữa để
thủ lợi. Họ nhìn thấy bằng chứng của thực tế này khắp nơi: trong việc nới rộng
NATO; trong những hành động can thiệp của Mỹ tại Panama, Haiti, Bosnia, và
Kosovo; trong Chiến tranh vùng Vịnh; chiến tranh Afghanistan; và trong vụ xâm
lăng Iraq. Trong lãnh vực kinh tế, Mỹ đã ra sức gia tăng các lợi thế của mình
bằng cách đẩy mạnh tự do thương mại, hạ thấp trị giá đồng đôla trong khi buộc
các nước khác dùng nó làm trữ kim, và cố gắng buộc các nước đang phát triển
gánh chịu một phần chi phí bất công trong việc làm giảm bớt hậu quả của tình
trạng thay đổi khí hậu toàn cầu. Và có lẽ điều làm cho người TQ lo lắng nhất
là, Mỹ đã để lộ những ý đồ hiếu chiến của mình bằng cách cổ vũ cái gọi là
những cuộc cách mạng màu (so-called color revolutions) tạiGeorgia,Ukraine,
vàKyrgyzstan. Như Lưu Kiến Phi, Chủ nhiệm phân khoa sự vụ nước ngoài tại trường
Đảng Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã viết năm 2005, “Mỹ luôn luôn
chống lại ‘các cuộc cách mạng đỏ’ của cộng sản và ghét các cuộc ‘cách mạng
màu lục’ tại Iran cũng như các quốc gia Hồi giáo. Điều mà Mỹ quan tâm không
phải là ‘cách mạng’ nhưng là ‘màu sắc [chính trị]’. Mỹ hậu thuẫn các cuộc
cách mạng ‘màu hoa hồng’, ‘màu da cam’, và ‘màu hoa tulip’ chỉ vì chúng phục
vụ chiến lược đẩy mạnh dân chủ của Mỹ”. Theo quan điểm của Lưu Kiến Phi và
các học giả hàng đầu khác của TQ, Mỹ hi vọng “đẩy mạnh dân chủ thêm nữa và
biến toàn thế giới thành “màu xanh [chống cộng – ND]”.
|
EXPLOITING TAIWAN
Although American scholars and commentators typically see
U.S.-Chinese relations in the postwar period as a long, slow thaw, in
Beijing's view, the United States has always treated China harshly. From 1950
to 1972, the United States tried to contain and isolate China. Among other
actions, it prevailed on most of its allies to withhold diplomatic
recognition of mainland China, organized a trade embargo against the mainland,
built up the Japanese military, intervened in the Korean War, propped up the
rival regime in Taiwan, supported Tibetan guerillas fighting Chinese control,
and even threatened to use nuclear weapons during both the Korean War and the
1958 Taiwan Strait crisis. Chinese analysts concede that the United States'
China policy changed after 1972. But they assert that the change was purely
the result of an effort to counter the Soviet Union and, later, to gain
economic benefits by doing business in China. Even then, the United States
continued to hedge against China's rise by maintaining Taiwan as a strategic
distraction, aiding the growth of Japan's military, modernizing its naval
forces, and pressuring China on human rights.
|
Khai thác tình hình
Đài Loan
Mặc dù nói chung các học giả và các nhà bình luận Mỹ nhận
thấy quan hệ Mỹ-Trung trong thời hậu chiến là một giai đoạn băng tan lâu dài,
chậm rãi, nhưng theo quan điểm của Bắc Kinh, Mỹ luôn luôn đối xử gay gắt với
Trung Quốc. Từ 1950 đến 1972, Mỹ ra sức bao vây và cô lập Trung Quốc. Trong
số những hành động khác, có việc Mỹ đã thuyết phục các đồng minh của mình trì
hoãn việc nhìn nhận ngoại giao đối với Trung Hoa lục điạ, xây dựng quân đội
Nhật Bản, tham dự Chiến tranh Triều Tiên, chống đỡ chế độ thù nghịch tại Đài
Loan, hậu thuẫn du kích Tây Tạng chống lại sự cai trị của TQ, và thậm chí đe
dọa dùng vũ khí hạt nhân cả trong Chiến tranh Triều Tiên lẫn trong cuộc khủng
hoảng Eo biển Đài Loan năm 1958. Các học giả TQ nhìn nhận rằng chính sách
Trung Quốc của Mỹ đã thay đổi sau năm 1972. Nhưng họ quyết đoán rằng sự thay
đổi ấy thuần túy là hệ quả của một nỗ lực nhằm chống lại Liên Xô và, về sau,
nhằm thu hoạch những lợi lộc kinh tế bằng cách mở doanh nghiệp tại Trung
Quốc. Ngay cả lúc đó, Mỹ vẫn tiếp tục phòng chống sự trỗi dậy của Trung Quốc
bằng cách duy trì Đài Loan để đánh lạc hướng chiến lược, bằng cách yểm trợ sự
lớn mạnh của quân đội Nhật Bản, bằng cách hiện đại hoá các lực lượng hải quân
của mình, và gây sức ép lên Trung Quốc về vấn đề nhân quyền.
|
The Chinese have drawn lessons about U.S. China policy
from several sets of negotiations with Washington. During ambassadorial talks
during the 1950s and 1960s, negotiations over arms control in the 1980s and
1990s, discussions over China's accession to the World Trade Organization in the
1990s, and negotiations over climate change during the decade that followed,
the Chinese consistently saw the Americans as demanding and unyielding. But
most decisive for Chinese understandings of U.S. policy were the three rounds
of negotiations that took place over Taiwan in 1971-72, 1978-79, and 1982,
which created the "communiqué framework" that governs U.S. Taiwan
policy to this day. When the U.S.-Chinese rapprochement began, Chinese
policymakers assumed that Washington would give up its support for Taipei in
exchange for the benefits of normal state-to-state relations with Beijing. At
each stage of the negotiations, the Americans seemed willing to do so. Yet
decades later, the United States remains, in Beijing's view, the chief
obstacle to reunification.
|
Phía TQ đã rút tỉa nhiều bài học về chính sách Trung Quốc
của Mỹ từ nhiều đợt đàm phán vớiWashington. Trong các cuộc đàm phán cấp đại
sứ vào những thập niên 1950 và 1960,
các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí trong những thập niên 1980 và 1990,
những cuộc thảo luận về việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) trong thập niên 1990, và các cuộc đàm phán về thay đổi khí hậu trong
thập niên sau đó, người TQ nhất quán thấy rõ người Mỹ luôn luôn đưa ra yêu
sách và không hề nhượng bộ. Nhưng có tính cách quyết định hơn cả cho việc TQ
hiểu được được chính sách của Mỹ là ba vòng đàm phán đã diễn ra về tình trạng
Đài Loan trong những năm 1971-1972, 1978-1979, và 1982, những cuộc đàm phán
đã tạo “khung thông cáo chung” (communiqué framework), vốn chi phối chính
sách Đài Loan của Mỹ cho đến ngày nay. Khi bắt đầu lập lại quan hệ hữu nghị,
các nhà làm chính sách TQ đinh ninh rằngWashingtonsẽ chấm dứt hậu thuẫn Đài
Loan để đổi lấy những lợi lộc trong quan hệ bình thường giữa hai quốc gia với
Bắc Kinh. Ở mỗi giai đoạn đàm phán, người Mỹ có vẻ sẵn sàng làm điều đó.
Nhưng hàng chục năm sau, theo quan điểm của Bắc Kinh, Mỹ vẫn là trở ngại
chính cho việc thống nhất.
|
When Nixon went to China in 1972, he told the Chinese that
he was willing to sacrifice Taiwan because it was no longer strategically
important to the United States, but that he could not do so until his second
term. On this basis, the Chinese agreed to the 1972 Shanghai Communiqué, even
though it contained a unilateral declaration by the United States that
"reaffirm[ed] its interest in a peaceful settlement of the Taiwan
question," which was diplomatic code for a U.S. commitment to deter any
effort by the mainland to take Taiwan by force. As events played out, Nixon
resigned before he was able to normalize relations with Beijing, and his
successor, Gerald Ford, was too weak politically to fulfill Nixon's promise.
|
Khi Nixon viếng thăm Trung Quốc năm 1972, ông nói với phía
TQ rằng ông sẵn sàng hi sinh Đài Loan vì đảo quốc này không còn giá trị chiến
lược đối với Mỹ, nhưng phải đợi đến nhiệm kỳ thứ hai ông mới có thể làm điều
này. Trên cơ sở này, phía TQ đã đồng ý ký Thông cáo chung Thượng Hải 1972,
thậm chí mặc dù văn bản này có chứa đựng một tuyên bố đơn phương của Hoa Kỳ
“xác định mối quan tâm của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan bằng
đường lối hòa bình”, đây là một mật mã ngoại giao (diplomatic code) ngụ ý
rằng Mỹ cam kết chống lại bất cứ nỗ lực nào của Trung Hoa lục địa nhằm chiếm
Đài Loan bằng vũ lực. Như tình hình đã diễn ra, Nixon từ chức trước khi ông
có thể bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh. Kẻ kế vị ông, Gerald Ford, trong
thế chính trị quá yếu, không thể thực hiện lời hứa của Nixon.
|
When the next president, Jimmy Carter, wanted to normalize
relations with China, the Chinese insisted on a clean break with Taiwan. In
1979, the United States ended its defense treaty with Taiwan but again issued
a unilateral statement restating its commitment to a "peaceful
resolution of the Taiwan issue." Congress then surprised both the
Chinese and the administration by adopting the Taiwan Relations Act, which
required the United States to "maintain [its] capacity . . . to resist
any resort to force or other forms of coercion that would jeopardize the
security . . . of the people on Taiwan." Once again, the deterrent
intent was clear.
|
Khi vị tổng thống kế tiếp là Jimmy Carter muốn bình thường
hoá quan hệ với Trung Quốc, phía TQ lại đòi hỏi Mỹ phải dứt khoát bỏ Đài
Loan. Năm 1979, Mỹ chấm dứt hiệp định phòng thủ với Đài Loan nhưng lại một
lần nữa Mỹ đưa ra một tuyên bố đơn phương nhắc lại cam kết “giải quyết vấn đề
Đài Loan bằng phương tiện hòa bình”. Tiếp đó, Quốc hội Mỹ đã khiến cả phía TQ
lẫn chính quyền Carter phải sửng sốt bằng việc thông qua Đạo luật Quan hệ Đài
Loan (the Taiwan Relations Act) đòi hỏi Hoa Kỳ phải “duy trì khả năng… chống
lại bất cứ biện pháp sử dụng vũ lực hay các hình thức ép buộc khác đe dọa an
ninh… của nhân dân trên đảo Đài Loan”.
|
In 1982, when President Ronald Reagan sought closer
relations with Beijing to ramp up pressure on Moscow, China prevailed on the
United States to sign another communiqué, which committed Washington to
gradually reducing its weapons sales to Taiwan. But once the agreement was in
place, the Americans set the benchmark year at 1979, when arms sales had
reached their highest level; calculated annual reductions at a small marginal
rate, adjusting for inflation so that they were actually increases; claimed
that the more advanced weapons systems that they sold Taiwan were the
qualitative equivalents of older systems; and allowed commercial firms to
cooperate with the Taiwanese armaments industry under the rubric of
technology transfers rather than arms sales. By the time President George W.
Bush approved a large package of advanced arms to Taiwan in April 2001, the
1982 communiqué was a dead letter. Meanwhile, as the United States prolonged
its involvement with Taiwan, a democratic transition took place there,
putting unification even further out of Beijing's reach.
|
Vào năm 1982, khi Tổng thống Ronald Reagan mưu tìm những
quan hệ thiết thân hơn với Bắc Kinh để gia tăng sức ép lên Matxcơva, Trung
Quốc đã thuyết phục Mỹ ký kết một thông cáo chung khác, buộc Washington cam
kết từng bước giảm thiểu các thương vụ vũ khí với Đài Loan. Nhưng một khi đã
thỏa thuận đâu vào đó, người Mỹ lại lấy năm 1979 làm mốc giới, đó là thời
điểm các thương vụ vũ khí với Đài Loan đạt đỉnh cao nhất; rồi tính toán việc
cắt giảm hàng năm theo một tỉ lệ không đáng kể, bằng cách điều chỉnh theo lạm
phát khiến cho những con số cắt giảm đã thực sự trở thành những con số gia
tăng; người Mỹ lại cho rằng những hệ thống vũ khí tiên tiến mà họ bán cho Đài
Loan có phẩm chất tương đương với các hệ thống vũ khí cũ; và cho phép các
công ty thương mại Mỹ hợp tác với công nghiệp chế tạo vũ khí Đài Loan dưới
chiêu bài là chuyển giao công nghệ (technology transfers) chứ không phải
thương vụ vũ khí (arms sales). Vào thời điểm Tổng thống George W. Bush chấp
thuận một gói vũ khí hiện đại lớn bán cho Đài Loan, bản thông cáo chung 1982
trở thành một văn kiện chết. Đồng thời với việc Mỹ kéo dài liên hệ với Đài
Loan, một sự chuyển đổi sang chế độ dân chủ đã diễn ra tại đó, đẩy việc thống
nhất thậm chí xa hơn đối với tầm tay của Bắc Kinh.
|
Reviewing this history, Chinese strategists ask themselves
why the United States remains so committed to Taiwan. Although Americans
often argue that they are simply defending a loyal democratic ally, most
Chinese see strategic motives at the root of Washington's behavior. They
believe that keeping the Taiwan problem going helps the United States tie
China down. In the words of Luo Yuan, a retired general and deputy
secretary-general of the Chinese Society of Military Science, the United
States has long used Taiwan "as a chess piece to check China's
rise."
|
Duyệt xét lại khía cạnh lịch sử này, các nhà chiến lược TQ
phải tự hỏi về những lý do Mỹ vẫn tiếp tục cam kết với Đài Loan. Mặc dù người
Mỹ thường lý giải rằng họ chỉ đang bảo vệ một đồng minh dân chủ trung kiên,
nhưng hầu hết mọi người TQ lại thấy có những động cơ chiến lược ngay tại gốc
rễ của cách ứng xử củaWashington. Họ tin rằng việc duy trì vấn đề Đài Loan sẽ
giúp Mỹ kềm hãm Trung Quốc. Theo cách nói của La Viện, một tướng hồi hưu và
là Phó tổng thư ký của Hội Khoa học Quân sự TQ, từ lâu Mỹ đã dùng Đài Loan
“như một con cờ để chặn đứng sự trỗi dậy của Trung Quốc”.
|
THE PERILS OF PLURALISM
The Taiwan Relations Act marked the beginning of a trend
toward congressional assertiveness on U.S. China policy, and this continues
to complicate Washington's relationship with Beijing. Ten years later, the
1989 Tiananmen incident, followed by the end of the Cold War, shifted the
terms of debate in the United States. China had been perceived as a
liberalizing regime; after Tiananmen, China morphed into an atavistic
dictatorship. And the collapse of the Soviet Union vitiated the strategic
imperative to cooperate with Beijing. What is more, growing U.S.-Chinese
economic ties began to create frictions over issues such as the dumping of
cheap manufactured Chinese goods on the U.S. market and the piracy of U.S.
intellectual property. After decades of consensus in the United States, China
quickly became one of the most divisive issues in U.S. foreign policy,
partially due to the intense advocacy efforts of interest groups that make
sure China stays on the agenda on Capitol Hill.
|
Hiểm họa của chủ
nghĩa đa nguyên Mỹ
Đạo luật Quan hệ Đài Loan đánh dấu việc khởi đầu của một
xu thế hướng tới sự quyết đoán của Quốc Hội về chính sách Trung Quốc của Mỹ,
và sự kiện này tiếp tục làm phức tạp mối quan hệ củaWashingtonvới Bắc Kinh.
Mười năm sau, vụ việc Thiên An Môn 1989, và tiếp sau đó là sự kết thúc Chiến
tranh lạnh, đã thay đổi từ ngữ trong các cuộc tranh luận tại Mỹ. Trước đó
Trung Quốc được coi như là một chế độ đang tự do hoá; sau Thiên An Môn, Trung
Quốc hóa ra một chế độ độc tài lai giống (an atavistic dictatorship). Và sự
sụp đổ của Liên Xô giảm bớt yêu cầu chiến lược là phải hợp tác với Bắc Kinh.
Ngoài ra, quan hệ kinh tế Mỹ-Trung ngày một gia tăng bắt đầu tạo ra những
xung đột về các vấn đề như nạn bán phá giá hàng hóa TQ trên thị trường Mỹ và
tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ. Sau nhiều thập niên có sự
đồng thuận tại Mỹ, Trung Quốc nhanh chóng trở thành một trong những vấn đề phân
hóa nhất trong chính sách đối ngoại Mỹ, một phần vì những nỗ lực vận động ráo
riết của các nhóm lợi ích nhằm đảm bảo Trung Quốc vẫn nằm trên chương trình
nghị sự của Quốc hội Mỹ.
|
Indeed, since Tiananmen, China has attracted the attention
of more American interest groups than any other country. China's political
system elicits opposition from human rights organizations; its
population-control policies anger the antiabortion movement; its repression
of churches offends American Christians; its inexpensive exports trigger
demands for protection from organized labor; its reliance on coal and massive
dams for energy upsets environmental groups; and its rampant piracy and
counterfeiting infuriate the film, software, and pharmaceutical industries.
These specific complaints add strength to the broader fear of a "China
threat," which permeates American political discourse -- a fear that, in
Chinese eyes, not only denies the legitimacy of Chinese aspirations but itself
constitutes a kind of threat to China.
|
Thật vậy, kể từ vụ Thiên An Môn, Trung Quốc đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhóm lợi ích Mỹ hơn bất cứ một nước nào khác. Hệ thống
chính trị TQ làm phát sinh sự chống đối từ các tổ chức nhân quyền; những
chính sách hạn chế dân số của TQ gây phẫn nộ cho phong trào chống phá thai;
việc TQ đàn áp các giáo hội xúc phạm đến các tín đồ Thiên chúa giáo Mỹ; việc
Trung Quốc dựa vào than đá và các đập thủy điện khổng lồ để tạo năng lượng
gây bất bình cho các nhóm bảo vệ môi trường; và nạn vi phạm tác quyền và hàng
giả tại Trung Quốc gây phẫn nộ cho các công nghiệp điện ảnh, phần mềm, và bào
chế dược phẩm. Những than phiền cụ thể này đã tăng thêm nỗi sợ hãi rộng lớn
hơn về “hiểm họa Trung Quốc” hiện đang ngấm vào cuộc thảo luận chính trị tại
Mỹ – một nỗi sợ hãi, theo quan điểm TQ, không những từ chối tính chính đáng
trong các nguyện vọng của người TQ mà tự bản thân nó tạo ra một thứ đe doạ
đối với Trung Quốc.
|
Of course, there are also those in Congress, think tanks,
the media, and academia who support positions favorable to China, on the
basis that cooperation is important for American farmers, exporters, and
banks, and for Wall Street, or that issues such as North Korea and climate
change are more important than disputes over rights or religion. Those
advocates may be more powerful in the long run than those critical of China,
but they tend to work behind the scenes. To Chinese analysts trying to make
sense of the cacophony of views expressed in the U.S. policy community, the
loudest voices are the easiest to hear, and the signals are alarming.
|
Hẳn nhiên, vẫn còn nhiều nhân vật trong Quốc hội Mỹ, trong
các viện nghiên cứu chính sách, trong giới truyền thông và giới hàn lâm bênh
vực những lập trường có lợi cho Trung Quốc, trên luận cứ cho rằng một sự hợp
tác giữa hai nước là quan trọng đối với nhà nông, nhà xuất khẩu, và ngân
hàng, và đối với Wall Street, hoặc cho rằng những vấn đề như Bắc Hàn và thay
đổi khí hậu là quan trọng hơn các cuộc tranh luận về nhân quyền hay tôn giáo.
Mặc dù những người đưa ra luận cứ này về lâu về dài có thể có nhiều ảnh hưởng
hơn những người chỉ trích Trung Quốc, nhưng hiện nay họ có khuynh hướng hoạt
động đằng sau hậu trường. Đối với những học giả TQ đang cố gắng tìm hiểu sự
ồn ào của những quan điểm được bày tỏ trong cộng đồng chính sách Mỹ, những
tiếng nói lớn nhất là những tiếng nói được nghe đến nhiều nhất, và những tín
hiệu này làm cho họ lo lắng.
|
SUGARCOATED THREATS
In trying to ascertain U.S. intentions, Chinese analysts
also look at policy statements made by senior figures in the executive
branch. Coming from a political system where the executive dominates, Chinese
analysts consider such statements reliable guides to U.S. strategy. They find
that the statements often do two things: they seek to reassure Beijing that Washington's
intentions are benign, and at the same time, they seek to reassure the
American public that the United States will never allow China's rise to
threaten U.S. interests. This combination of themes produces what Chinese
analysts perceive as sugarcoated threats.
|
Những đe dọa được
bọc đường
Trong việc xác định các ý định của Mỹ, các học giả TQ cũng
chú ý đến các tuyên bố chính sách được các nhân vật cao cấp trong ngành hành
pháp đưa ra. Xuất thân từ một hệ thống chính trị mà ngành hành pháp có địa vị
khống chế, các học giả TQ coi những tuyên bố như vậy là những chỉ dẫn đáng
tin cậy để tìm hiểu chiến lược Mỹ. Họ nhận thấy rằng những tuyên bố này
thường có hai chức năng: chúng nhắm vào việc trấn an Bắc Kinh rằng những ý
định của Washington là tốt đẹp, và đồng thời, chúng cũng nhắm vào việc trấn
an công chúng Mỹ rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ cho phép sự trỗi dậy của Trung Quốc
đe dọa các lợi ích của Mỹ. Sự kết hợp hai chủ đề này đã tạo ra điều mà các
học giả TQ coi là những đe doạ được bọc đường.
|
For example, in 2005, Robert Zoellick, the U.S. deputy
secretary of state, delivered a major China policy statement on behalf of the
George W. Bush administration. He reassured his American audience that the
United States would "attempt to dissuade any military competitor from
developing disruptive or other capabilities that could enable regional
hegemony or hostile action against the United States or other friendly
countries." But he also explained that China's rise was not a threat
because China "does not seek to spread radical, anti-American
ideologies," "does not see itself in a death struggle with
capitalism," and "does not believe that its future depends on overturning
the fundamental order of the international system." On that basis, he
said, the two sides could have "a cooperative relationship." But
cooperation would depend on certain conditions. China should calm what he
called a "cauldron of anxiety" in the United States about its rise.
It should "explain its defense spending, intentions, doctrine, and
military exercises"; reduce its trade surplus with the United States;
and cooperate with Washington on Iran and North Korea. Above all, Zoellick
advised, China should give up "closed politics." In the U.S. view,
he said, "China needs a peaceful political transition to make its
government responsible and accountable to its people."
|
Chẳng hạn, năm 2005, Robert Zoellick, thứ trưởng ngoại
giao Mỹ, nhân danh chính quyền George W. Bush, đưa ra một tuyên bố chính sách
quan trọng của Mỹ về Trung Quốc. Ông trấn an dân chúng Mỹ rằng Hoa Kỳ sẽ “cố
gắng can gián bất cứ một đối thủ quân sự nào đừng nên phát triển những khả
năng gây rối loạn hay những khả năng nhằm đạt được địa vị bá quyền khu vực
hay những hành động thù nghịch chống lại Hoa Kỳ hay các nước bạn khác”. Nhưng
Zoellick cũng giải thích rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là một
mối đe dọa vì Trung Quốc “không tìm cách phổ biến các ý thức hệ cực đoan,
chống Mỹ”, TQ “không thấy mình đang ở trong một cuộc đấu tranh một mất một
còn với chủ nghĩa tư bản”, và TQ “không tin tưởng rằng tương lai của mình sẽ
tùy thuộc vào việc lật đổ trật tự cơ bản của hệ thống quốc tế”. Trên cơ sở
đó, ông nói, hai bên có thể có “một quan hệ hợp tác”. Nhưng việc hợp tác sẽ
tùy thuộc vào một số điều kiện nhất định. Trung Quốc phải làm lắng dịu điều
mà ông gọi là một “cái chảo đang âm ỉ những lo âu” tại Mỹ về sự trỗi dậy của
TQ. Trung Quốc phải “giải thích các chi tiêu quốc phòng, các ý định, lý
thuyết, và các cuộc diễn tập quân sự của mình”; TQ nên giảm bớt thặng dư mậu
dịch với Mỹ; và nên hợp tác vớiWashingtonvề vấn đềIranvà Bắc Hàn. Trên hết,
Zoellick khuyên, Trung Quốc nên từ bỏ “nền chính trị khép kín” (closed
politics). Theo quan điểm của Mỹ, ông nói, “Trung Quốc cần đến một cuộc
chuyển hoá chính trị hòa bình để làm cho chính phủ phải có trách nhiệm giải
trình trước dân chúng”.
|
The same ideas have been repeated in slightly gentler
language by the Obama administration. In the administration's first major
policy speech on China, in September 2009, James Steinberg, then deputy
secretary of state, introduced the idea of "strategic reassurance."
Steinberg defined the principle in the following way: "Just as we and
our allies must make clear that we are prepared to welcome China's 'arrival'
... as a prosperous and successful power, China must reassure the rest of the
world that its development and growing global role will not come at the
expense of [the] security and well-being of others." China would need to
"reassure others that this buildup does not present a threat"; it
would need to "increase its military transparency in order to reassure
all the countries in the rest of Asia and globally about its intentions"
and demonstrate that it "respects the rule of law and universal
norms." To Chinese analysts, such statements send the message that
Washington wants cooperation on its own terms, seeks to deter Beijing from
developing a military capability adequate to defend its interests, and intends
to promote change in the character of the Chinese regime.
|
Những ý niệm này cũng đã được chính quyền Obama lặp lại
bằng ngôn ngữ nhẹ nhàng hơn một chút. Trong bài diễn văn tuyên bố chính sách
Trung Quốc quan trọng đầu tiên của chính quyền Obama, vào tháng Chín 2009,
James Steinberg, lúc bấy giờ là Thứ trưởng ngoại giao, đã đưa ra ý niệm “trấn
an chiến lược” (strategi reassurance). Steinberg định nghĩa nguyên tắc này
như sau: “Cũng như chúng ta và các nước đồng minh phải minh định rằng chúng
ta sẵn sàng hoan nghênh việc Trung Quốc ‘đạt được mục tiêu’ để trở thành một
cường quốc thịnh vượng và thành công, Trung Quốc có bổn phận phải trấn an
phần còn lại của thế giới rằng sự phát triển và vai trò toàn cầu ngày càng
quan trọng của mình sẽ không gây tổn thất cho nền an ninh và phúc lợi của các
nước khác”. Trung Quốc cần phải “trấn an các nước khác rằng sự tăng cường lực
lượng quân sự này sẽ không đặt ra một một mối đe dọa”; “Trung Quốc cần phải
gia tăng tính minh bạch quân sự để trấn an tất cả các nước khác tại châu Á và
toàn cầu về các ý định của mình” và chứng minh rằng Trung Quốc “tôn trọng
tinh thần pháp trị và các qui phạm phổ quát”. Đối với các học giả TQ, những
lời tuyên bố như thế đưa ra một thông điệp cho biết Washington muốn hợp tác
với Trung Quốc theo những điều kiện của Mỹ, tìm cách ngăn chặn không cho Bắc
Kinh phát triển một khả năng quân sự đủ mạnh để bảo vệ lợi ích của mình, và
có ý định cổ vũ một sự thay đổi tính chất của chế độ chính trị tại Trung
Quốc.
|
To be sure, Beijing's suspicion of Washington must contend
with the fact that the United States has done so much to promote China's
rise. But for Chinese analysts, history provides an answer to this puzzle. As
they see it, the United States contained China for as long as it could. When
the Soviet Union's rising strength made doing so necessary, the United States
was forced to engage with China in order to reinforce its hand against
Moscow. Once the United States started to engage with China, it came to
believe that engagement would turn China toward democracy and would win back
for the United States the strategic base on the mainland of Asia that
Washington lost in 1949, when the Communists triumphed in the Chinese Civil
War.
|
Hẳn nhiên, thái độ nghi ngờ mà Bắc Kinh dành
choWashingtonchắc chắn xung khắc với thực tế là Mỹ đã làm nhiều điều để giúp
Trung Quốc trỗi dậy. Nhưng đối với các học giả TQ, lịch sử đã có một câu trả
lời cho khúc mắc này. Theo quan điểm của họ, Mỹ đã ra sức ngăn chặn Trung
Quốc lâu được chừng nào hay chừng ấy. Khi sức mạnh ngày một gia tăng của Liên
Xô khiến hành động này trở nên cần thiết, Mỹ buộc phải cầu thân với Trung
Quốc để tăng cường cú đấm giáng vào Mácxcơva. Một khi Mỹ bắt đầu thân thiện
với Trung Quốc, Mỹ đã đi đến chỗ tin rằng sự thân thiện này sẽ hướng Trung
Quốc về thể chế dân chủ và nhờ thế Mỹ sẽ lấy lại căn cứ chiến lược trên lục
địa châu Á mà Washington đã mất năm 1949, khi Cộng sản thắng cuộc Nội chiến
Trung Hoa.
|
In the Chinese view, Washington's slow rapprochement with
Beijing was not born of idealism and generosity; instead, it was pursued so
that the United States could profit from China's economic opening by
squeezing profits from U.S. investments, consuming cheap Chinese goods, and
borrowing money to support the U.S. trade and fiscal deficits. While busy
feasting at the Chinese table, U.S. strategists overlooked the risk of
China's rise until the late 1990s. Now that the United States perceives China
as a threat, these Chinese analysts believe, it no longer has any realistic
way to prevent it from continuing to develop. In this sense, the U.S.
strategy of engagement failed, vindicating the advice of Chinese leader Deng
Xiaoping, who in 1991 advocated a strategy of "hiding our light and
nurturing our strength." Faced with a China that has risen too far to be
stopped, the United States can do no more than it is doing: demand
cooperation on U.S. terms, threaten China, hedge militarily, and continue to
try to change the regime.
|
Theo quan điểm của các học giả TQ, việc Washington từ từ
lập lại quan hệ hữu nghị với Bắc Kinh không phát xuất từ chủ nghĩa lý tưởng
hay lòng hào hiệp; trái lại, Mỹ theo đuổi quan hệ này để hưởng lợi từ việc mở
cửa kinh tế của Trung Quốc, bằng cách bòn mót lợi nhuận từ các đầu tư của Mỹ,
tiêu thụ hàng hóa rẻ của TQ, và vay tiền để hỗ trợ những thâm thủng thương
mại và ngân sách của Mỹ. Trong lúc mải mê chè chén tại bàn tiệc TQ, các nhà
chiến lược Mỹ quên mất nguy cơ do sự trỗi dậy của Trung Quốc mãi cho đến
những năm cuối của thập niên 1990. Các học giả TQ này cho rằng, bây giờ nhận
ra Trung Quốc là một mối đe dọa, Mỹ không còn con đường thực tiễn nào nữa để
ngăn cản không cho Trung Quốc tiếp tục phát triển. Trong ý nghĩa này, chiến
lược cầu thân của Mỹ đã thất bại, chứng minh lời khuyên của nhà lãnh đạo TQ
Đặng Tiểu Bình là đúng – năm 1991, họ Đặng chủ trương chiến lược “che dấu ánh
sáng của ta và nuôi dưỡng sức mạnh của ta” (nguyên văn: “thao quang dưỡng
hối” – ND). Đối diện với một Trung Quốc trỗi dậy quá xa không còn chận đứng
được nữa, Mỹ không còn khả năng làm gì hơn việc nó đang làm: đòi hỏi cộng tác
theo điều kiện của Mỹ, đe dọa Trung Quốc, đề phòng về mặt quân sự, và tiếp
tục ra sức thay đổi chế độ tại TQ.
|
HOW DO YOU HANDLE AN
OFFENSIVE REALIST?
Despite these views, mainstream Chinese strategists do not
advise China to challenge the United States in the foreseeable future. They
expect the United States to remain the global hegemon for several decades, despite
what they perceive as initial signs of decline. For the time being, as
described by Wang Jisi, dean of Peking University's School of International
Studies, "the superpower is more super, and the many great powers less
great." Meanwhile, the two countries are increasingly interdependent
economically and have the military capability to cause each other harm. It is
this mutual vulnerability that carries the best medium-term hope for
cooperation. Fear of each other keeps alive the imperative to work together.
|
Làm thế nào để đối
phó với một nước theo chủ nghĩa thực tiễn tiến công
Bất chấp những quan điểm nói trên, các nhà chiến lược dòng
chính (mainstream strategists) của TQ không đề nghị Trung Quốc thách thức Mỹ
trong một tương lai trước mắt. Họ dự kiến Mỹ vẫn còn là bá quyền toàn cầu duy
nhất trong dăm bảy thập kỷ nữa, bất chấp những gì mà họ coi là dấu hiệu ban
đầu của sự suy yếu. Hiện nay, theo cách diễn tả của Vương Tập Tư, Trưởng khoa
Trường Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại học Bắc Kinh, “siêu cường duy nhất này
còn siêu hơn nhiều, và nhiều đại cường còn kém vĩ đại hơn nhiều”. Trong khi
đó, hai nước ngày càng tùy thuộc vào nhau về mặt kinh tế và có đủ khả năng quân
sự để gây thiệt hại cho nhau. Chính sự kiện hai bên đều có chỗ yếu này
(mutual vulnerability) đã mang lại niềm hi vọng hợp tác tốt đẹp nhất trong
trung hạn (medium-term). Sự sợ hãi lẫn nhau đang duy trì yêu cầu hợp tác với
nhau.
|
In the long run, however, the better alternative for both
China and the West is to create a new equilibrium of power that maintains the
current world system, but with a larger role for China. China has good
reasons to seek that outcome. Even after it becomes the world's largest
economy, its prosperity will remain dependent on the prosperity of its global
rivals (and vice versa), including the United States and Japan. The richer
China becomes, the greater will be its stake in the security of sea-lanes,
the stability of the world trade and financial regimes, nonproliferation, the
control of global climate change, and cooperation on public health. China
will not get ahead if its rivals do not also prosper. And Chinese strategists
must come to understand that core U.S. interests -- in the rule of law,
regional stability, and open economic competition -- do not threaten China's
security.
|
Tuy nhiên, trong dài hạn, một đường lối khác hơn vừa tốt
đẹp cho cả Trung Quốc lẫn phương Tây là tạo ra một thế quân bình mới về quyền
lực (a new equilibrium of power) để duy trì hệ thống thế giới hiện nay, nhưng
với một vai trò lớn hơn dành cho Trung Quốc. Trung Quốc có mọi lý do tốt đẹp
để tìm kiếm một kết quả như thế. Thậm chí sau khi Trung Quốc trở thành một
nền kinh tế lớn nhất thế giới, sự thịnh vượng của Trung Quốc sẽ còn tùy thuộc
vào sự thịnh vượng của nhiều đối thủ toàn cầu của TQ (và ngược lại), kể cả Mỹ
và Nhật Bản. Trung Quốc càng trở nên giàu có hơn, thì quyền lợi của Trung
Quốc sẽ càng to lớn hơn trong việc giữ gìn an ninh các tuyến lưu thông trên
biển, sự ổn định của thương mại thế giới và các cơ chế tài chính, cấm phổ
biến vũ khí hạt nhân, giới hạn sự thay đổi khí hậu toàn cầu, và hợp tác về y
tế. Trung Quốc sẽ không tiến lên được nếu các đối thủ cạnh tranh của mình
cũng không thịnh vượng. Và các nhà chiến lược TQ phải nhận thức được rằng các
lợi ích cốt lõi của Mỹ — nằm trong chế độ pháp trị, ổn định khu vực, cạnh
tranh kinh tế cởi mở – sẽ không đe dọa an ninh của Trung Quốc.
|
The United States should encourage China to accept this
new equilibrium by drawing clear policy lines that meet its own security
needs without threatening China's. As China rises, it will push against U.S.
power to find the boundaries of the United States' will. Washington must push
back to establish boundaries for the growth of Chinese power. But this must
be done with cool professionalism, not rhetorical belligerence. Hawkish
campaign talk about trade wars and strategic competition plays into Beijing's
fears while undercutting the necessary effort to agree on common interests.
And in any case, putting such rhetoric into action is not a realistic option.
To do so would require a break in mutually beneficial economic ties and
enormous expenditures to encircle China strategically, and it would force
China into antagonistic reactions.
|
Mỹ phải khuyến khích Trung Quốc chấp nhận thế quân bình
mới này bằng cách vạch ra những đường lối chính sách rõ ràng có thể đáp ứng
những nhu cầu an ninh của chính mình mà không đe dọa an ninh của Trung Quốc.
Trong quá trình trỗi dậy, Trung Quốc sẽ lấn tới, chạm vào quyền lực của Mỹ để
tìm ra biên giới trong ý chí chiến đấu của Mỹ. Washington phải đẩy lùi sự lấn
tới này để thiết lập biên giới cho sự tăng trưởng quyền lực của TQ. Nhưng
việc này phải được thực hiện với một tinh thần chuyên nghiệp tỉnh táo (cool
professionalism), chứ không bằng các luận điệu hiếu chiến. Những tuyên bố có
tính cách diều hâu trong các cuộc vận động tranh cử, rêu rao về chiến tranh
thương mại và cạnh tranh chiến lược, chỉ tăng thêm nỗi sợ hãi của Bắc Kinh và
phá hoại nỗ lực cần thiết nhằm tiến tới đồng thuận về lợi ích chung. Và dù
trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, việc biến các luận điệu hiếu chiến như
thế thành hành động không phải là một phương án thực tiễn. Làm như thế sẽ đòi
hỏi một sự gián đoạn trong các quan hệ kinh tế đang có lợi cho cả hai bên và
gây ra những chi phí khổng lồ để bao vây Trung Quốc về mặt chiến lược, đồng
thời đẩy Trung Quốc vào thế phải có những phản ứng thù nghịch.
|
Nevertheless, U.S. interests in relation to China are
uncontroversial and should be affirmed: a stable and prosperous China,
resolution of the Taiwan issue on terms Taiwan's residents are willing to
accept, freedom of navigation in the seas surrounding China, the security of
Japan and other Asian allies, an open world economy, and the protection of
human rights. The United States must back these preferences with credible
U.S. power, in two domains in particular. First, the United States must
maintain its military predominance in the western Pacific, including the East
China and South China seas. To do so, Washington will have to continue to
upgrade its military capabilities, maintain its regional defense alliances,
and respond confidently to challenges. Washington should reassure Beijing
that these moves are intended to create a balance of common interests rather
than to threaten China. That reassurance can be achieved by strengthening
existing mechanisms for managing U.S.-Chinese military interactions. For
example, the existing Military Maritime Consultative Agreement should be used
to design procedures that would allow U.S. and Chinese aircraft and naval
vessels to operate safely when in close proximity.
|
Tuy nhiên, các lợi ích của Mỹ trong quan hệ với Trung Quốc
là không gây tranh cãi và phải được khẳng định: đó là, một Trung Quốc ổn định
và phồn thịnh, giải quyết vấn đề Đài Loan theo các điều kiện mà người dân Đài
Loan sẵn sàng chấp nhận, tự do hàng hải trên các biển chung quanh Trung Quốc,
an ninh của Nhật Bản và các đồng minh châu Á khác, một nền kinh tế thế giới
cởi mở, và bảo vệ nhân quyền. Mỹ phải hậu thuẫn những lựa chọn này bằng sức
mạnh đáng tin cậy của mình, đặc biệt trong hai lãnh vực. Một là, Mỹ phải duy
trì ưu thế quân sự ở Tây Thái Bình Dương, bao gồm biển Đông Trung Hoa và biển
Nam Trung Hoa. Muốn làm thế,Washingtonsẽ phải nâng cấp các khả năng quân sự
của mình, duy trì các liên minh phòng thủ khu vực của mình, và phản ứng một
cách tự tin trước các thách đố.Washingtonphải trấn an Bắc Kinh rằng những
động thái này có mục đích tạo ra một thế quân bình cho các lợi ích chung chứ
không phải đe dọa Trung Quốc. Sự trấn an này có thể được thể hiện bằng việc
tăng cường các cơ chế hiện hữu để quản lý những tương tác quân sự Mỹ-Trung
(U.S-Chinese military interactions). Chẳng hạn, Hiệp định Tư vấn Quân sự trên
Biển (Military Maritime Consultative Agreement) hiện nay phải được sử dụng để
thiết kế các thủ tục cho phép máy bay và tàu hải quân Mỹ và Trung Quốc hoạt
động an toàn trong khu vực kề cận nhau.
|
Second, the United States should continue to push back
against Chinese efforts to remake global legal regimes in ways that do not
serve the interests of the West. This is especially important in the case of
the human rights regime, a set of global rules and institutions that will
help determine the durability of the liberal world order the United States
has long sought to uphold.
|
Hai là, Mỹ phải đẩy lùi các nỗ lực của Trung Quốc nhằm sửa
đổi các chế độ pháp lý toàn cầu trong những cung cách không có lợi cho phương
Tây. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp chế độ pháp lý về nhân
quyền, gồm có một bộ qui tắc toàn cầu và các định chế có khả năng giúp cho
việc định đoạt tính bền vững của trật tự thế giới tự do mà Hoa Kỳ đã ra sức
theo đuổi lâu dài.
|
China has not earned a voice equal to that of the United
States in a hypothetical Pacific Community or a role in a global condominium
as one member of a "G-2." China will not rule the world unless the
United States withdraws from it, and China's rise will be a threat to the
United States and the world only if Washington allows it to become one. For
the United States, the right China strategy begins at home. Washington must
sustain the country's military innovation and renewal, nurture its
relationships with its allies and other cooperating powers, continue to
support a preeminent higher-education sector, protect U.S. intellectual
property from espionage and theft, and regain the respect of people around
the world. As long as the United States addresses its problems at home and
holds tight to its own values, it can manage China's rise.
|
Trung Quốc chưa bỏ nhiều công sức để xứng đáng có một
tiếng nói bình đẳng với Mỹ trong một cộng đồng Thái Bình Dương giả định hay
một vai trò trong một chế độ công quản toàn cầu như một thành viên của một
“G-2” [nhóm hai nước gồm Mỹ và Trung Quốc mà một số chính trị gia như
Zbigniew Brzezinsky từng đề nghị – ND]. Trung Quốc sẽ không thống trị thế
giới trừ phi Mỹ tự ý rút lui, và sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ là một mối đe
dọa cho Mỹ và cho thế giới chỉ với điều kiện là Washington cho phép nó trở
thành một mối đe doạ. Đối với Mỹ, chiến lược Trung Quốc đúng đắn đó phải bắt
đầu từ trong nước. Washington phải duy trì sáng kiến và cập nhật hóa quân đội
Mỹ, nuôi dưỡng những quan hệ hữu nghị với các nước đồng minh và các cường
quốc hợp tác khác, tiếp tục hỗ trợ một khu vực giáo dục đại học và hậu đại
học có ưu thế, bảo vệ sở hữu trí tuệ của Mỹ khỏi rơi vào tay gián điệp hay bị
đánh cắp. Bao lâu mà Mỹ chịu giải quyết những vấn đề trong nước, thì nó vẫn
có thể quản lý sự vươn dậy của Trung Quốc.
|
|
|
Andrew J. Nathan is
a Class of 1919 Professor of Political Science at Columbia University. Andrew
Scobell is Senior Political Scientist at the RAND Corporation. This essay is
adapted from their forthcoming book, “China’s Search for Security” (Columbia
University Press, 2012).
|
Andrew J. Nathan là
Giáo sư Tối ưu Khoa Chính trị tại Đại học Columbia. Andrew Scobell là nhà
nghiên cứu chính trị thâm niên tại RAND Corporation. Bài tiểu luận này dựa
trên cuốn sách sắp xuất bản của họ, China’s Search for Security (Việc mưu tìm
an ninh của Trung Quốc) do Columbia University Press xuất bản, năm 2012.
|
|
Translated by Trần Ngọc Cư
|
|
|
http://www.foreignaffairs.com/articles/138009/andrew-j-nathan-and-andrew-scobell/how-china-sees-america
|
Subscribe to:
Posts (Atom)