|
A WHITE HERON
|
CON CÒ TRẮNG
|
Sarah Orne Jewett
|
Sarah Orne Jewett
|
I.
The woods were already filled with shadows one June
evening, just before eight o'clock, though a bright sunset still glimmered
faintly among the trunks of the trees. A little girl was driving home her
cow, a plodding, dilatory, provoking creature in her behavior, but a valued
companion for all that. They were going away from whatever light there was,
and striking deep into the woods, but their feet were familiar with the path,
and it was no matter whether their eyes could see it or not.
|
I.
Một buổi chiều muộn tháng sáu, lúc chưa tới tám giờ, cả
khu rừng như tràn ngập những bóng đen dù đâu đó vẫn còn những tia nắng mặt
trời yếu ớt lách qua những tàng cây. Một bé gái đang trên đường về nhà với
con bò cái, thứ sinh vật có kiểu hành xử chậm lụt, chây lười đến phiền toái
nhưng lại chính là bạn đồng hành quý giá. Cả hai bước đi, càng lúc càng xa
khỏi vùng có ánh sáng, và càng dấn sâu vào trong rừng hơn, nhưng bước chân
chúng đã quá quen với đường đi, nên dù mắt có không nhìn thấy cũng chẳng hề
chi.
|
There was hardly a night the summer through when the old
cow could be found waiting at the pasture bars; on the contrary, it was her
greatest pleasure to hide herself away among the huckleberry bushes, and
though she wore a loud bell she had made the discovery that if one stood
perfectly still it would not ring. So Sylvia had to hunt for her until she
found her, and call Co' ! Co' ! with never an answering Moo, until her
childish patience was quite spent. If the creature had not given good milk
and plenty of it, the case would have seemed very different to her owners.
Besides, Sylvia had all the time there was, and very little use to make of
it. Sometimes in pleasant weather it was a consolation to look upon the cow's
pranks as an intelligent attempt to play hide and seek, and as the child had
no playmates she lent herself to this amusement with a good deal of zest.
Though this chase had been so long that the wary animal herself had given an
unusual signal of her whereabouts, Sylvia had only laughed when she came upon
Mistress Moolly at the swamp-side, and urged her affectionately homeward with
a twig of birch leaves. The old cow was not inclined to wander farther, she
even turned in the right direction for once as they left the pasture, and
stepped along the road at a good pace. She was quite ready to be milked now,
and seldom stopped to browse. Sylvia wondered what her grandmother would say
because they were so late. It was a great while since she had left home at
half-past five o'clock, but everybody knew the difficulty of making this
errand a short one. Mrs. Tilley had chased the hornéd torment too many summer
evenings herself to blame any one else for lingering, and was only thankful
as she waited that she had Sylvia, nowadays, to give such valuable assistance.
The good woman suspected that Sylvia loitered occasionally on her own
account; there never was such a child for straying about out-of-doors since
the world was made! Everybody said that it was a good change for a little
maid who had tried to grow for eight years in a crowded manufacturing town,
but, as for Sylvia herself, it seemed as if she never had been alive at all
before she came to live at the farm. She thought often with wistful
compassion of a wretched geranium that belonged to a town neighbor.
|
Lúc cô bé tìm thấy con bò đang đứng đợi mình bên cánh đồng
cỏ thì buổi đêm hè đang dần vây bủa; đã vậy mà con bò lại có thú chơi trốn
tìm, cứ rúc vào nấp trong mấy bụi cây việt quất, và mặc dù đã được cho đeo
một chiếc lục lạc, nó cũng lại đã sớm phát hiện ra rằng, nếu cứ đứng im thì
chiếc lục lạc sẽ không hề leng keng. Thế là cô bé Sylvia cứ phải săn tìm,
hoài hơi gọi “Ùm bò! Ùm bò!” mà vẫn không nhận được tiếng ‘ừm” đáp trả, tới
nỗi niềm nhẫn nại con trẻ đã gần như cạn kiệt. Nếu như con bò này không tốt sữa
và là nguồn thu hoạch quý giá, thì đối với chủ nhân của nó mọi thứ xem chừng
sẽ khác hẳn. Ngoài ra, bao giờ Sylvia cũng có vô khối thời gian mà lại có rất
ít việc để dùng nó. Đôi khi, vào những hôm đẹp trời, việc chơi trốn tìm với
con bò tinh quái cũng là niềm an ủi, và vì đứa bé gái chẳng có bạn bè chi nên
nó tự cho phép mình giải trí với trò chơi này bằng niềm vui thú vô bờ. Dầu
vậy lần này cuộc đuổi bắt đã kéo dài quá lâu đến nỗi chính con vật cũng cảm
thấy lo lắng để phải phát ra những tín hiệu báo cho cô chủ biết chỗ nó đang
trốn, khiến Sylvia phải phá lên cười
khi cô bé tới được chỗ con Mooly ở cạnh bờ đầm. Nó âu yếm giục bò ta về nhà
bằng một nhành cây. Con bò cái già không muốn đi xa thêm, nên bất thần rẽ phải
khi chúng rời bãi cỏ, và rảo bước dọc theo con đường mòn. Giờ đây con bò gần
như đã sẵn sàng cho sữa, và nó sẽ rất ít khi chịu dừng chân để ăn. Sylvia tự
hỏi, không biết bà ngoại sẽ nói gì, vì bọn chúng về quá muộn như thế này. Lúc
nó rời nhà vào hoảng năm giờ rưỡi thì trời còn đẹp, nhưng ai cũng biết nỗi
khó khăn của việc thực hiện loại công việc này trong một thời gian ngắn. Bà
Tilley cũng đã phải tự chăn bò trong rất nhiều những buổi chiều muộn đương hè
như thế này nên cũng khó chê trách được bất kỳ ai về việc trễ nãi; và bà cũng
đã chỉ biết thầm cám ơn khi đang ngồi ngóng đợi vì, ngày nay, bà đã có sự trợ
giúp quý báu của Sylvia. Người đàn bà tử tế đồ rằng Sylvia đang tự ý muốn thơ
thẩn đâu đó; trước nay chưa hề có một đứa nhỏ như thế lại lang thang ngoài
trời bao giờ! Mọi người nói rằng đây là cơ hội tốt đối với một bé gái đã trải
qua tám năm trời lớn khổ lớn sở nơi thứ thành-phố-công-xưởng chật chội; còn
đối với bản thân Sylvia, dường như nó chưa từng được biết sống là như thế nào
cho tới khi bước chân vào trang trại này. Cô bé thường hay nghĩ về cây phong
lữ quặt quẹo đến tội nghiệp của nhà hàng xóm trong thành phố với niềm thương
cảm xót xa.
|
"'Afraid
of folks,'" old Mrs. Tilley said to herself, with a smile, after she had
made the unlikely choice of Sylvia from her daughter's houseful of children,
and was returning to the farm. "'Afraid of folks,' they said! I guess
she won't be troubled no great with 'em up to the old place!" When they
reached the door of the lonely house and stopped to unlock it, and the cat
came to purr loudly, and rub against them, a deserted pussy, indeed, but fat
with young robins, Sylvia whispered that this was a beautiful place to live
in, and she never should wish to go home.
|
“Sợ đám đông,” bà Tilley tự nhủ, với một nụ cười, khi bà
đã bất đồ chọn Sylvia giữa đám trẻ con ngồi đầy nhà của con gái bà, và đưa nó
về nông trang. “Họ nói ‘sợ đám đông’ ư! Ta đoán là con bé sẽ không gây vấn đề
gì to tát cho chúng nó khi rời khỏi chỗ đó!”. Đến lúc hai bà cháu dừng lại
trước cửa căn nhà lẻ loi trong rừng và mở khóa, rồi một con mèo chạy tới meo
meo ầm ĩ, và cọ người vào họ-đích thực là một bé miêu bị bỏ quên, nhưng vẫn
béo ú nhờ những chú chim cổ đỏ - thì Sylvia đã thì thầm rằng đây đúng là một nơi
chốn vô cùng xinh đẹp để sống, và cô bé không còn bao giờ muốn trở về ngôi
nhà trong phố kia nữa.
|
The companions followed the shady wood-road, the cow
taking slow steps and the child very fast ones. The cow stopped long at the
brook to drink, as if the pasture were not half a swamp, and Sylvia stood
still and waited, letting her bare feet cool themselves in the shoal water,
while the great twilight moths struck softly against her. She waded on
through the brook as the cow moved away, and listened to the thrushes with a
heart that beat fast with pleasure. There was a stirring in the great boughs
overhead. They were full of little birds and beasts that seemed to be wide
awake, and going about their world, or else saying good-night to each other in
sleepy twitters. Sylvia herself felt sleepy as she walked along. However, it
was not much farther to the house, and the air was soft and sweet. She was
not often in the woods so late as this, and it made her feel as if she were a
part of the gray shadows and the moving leaves. She was just thinking how
long it seemed since she first came to the farm a year ago, and wondering if
everything went on in the noisy town just the same as when she was there, the
thought of the great red-faced boy who used to chase and frighten her made
her hurry along the path to escape from the shadow of the trees.
|
Hai kẻ đồng hành cùng bước trên con đường mòn lấy củi đã
mờ tối, con bò cái lê những bước chân chậm chạp, còn đứa trẻ gái thì sải vội
bước mau. Con bò dừng chân khá lâu bên suối để uống nước, cứ như là bãi cỏ
khi nãy đã không hề có hết phân nửa là đầm lầy, và Sylvia đứng đợi, dầm đôi
chân trần trong cát ướt; trong khi những con bướm đêm bay qua chạm nhẹ vào
người. Nó bước tràn qua dòng suối khi con bò rẽ đi nơi khác, tai lắng nghe
tiếng con chim hét mà trái tim nhỏ bé rộn nhịp đầy thích thú. Trong những
tàng cây lớn cao trên đầu nó là cả một niềm mê thích. Trên đó có đủ các loại
chim và thú dường như vừa thức giấc để chuẩn bị đi vào thế giới của chúng,
hoặc để chào nhau bằng tiếng chíu chít ngái ngủ. Ngay chính Sylvia cũng thấy
buồn ngủ vì đã cuốc bộ khá xa rồi. Tuy vậy, đường về nhà cũng không còn xa
mấy, còn không khí thì lại mát dịu và ngọt ngào. Nó không thường lưu lại
trong rừng muộn như thế này, và giờ đây nó cảm thấy như mình là một phần của
những bóng tối màu xám và của muôn ngàn cây lá đang xao động xung quanh. Nó
chợt nghĩ tưởng như bao năm tháng đã qua kể từ khi nó lần đầu bước chân tới
nông trang hồi một năm trước; rồi nó tự hỏi không biết mọi thứ nơi thành phố
ồn ào đó có vẫn như xưa-khi nó còn ở đó-hay không; rồi bỗng dưng ý nghĩ về
thằng mặt đỏ to đầu vẫn thường rươt đuổi và làm nó sợ chết khiếp khiến nó vội
vã bươn chạy thật nhanh để kịp thoát khỏi muôn ngàn bóng cây bao quanh.
|
Suddenly this little woods-girl is horror-stricken to hear
a clear whistle not very far away. Not a bird's-whistle, which would have a
sort of friendliness, but a boy's whistle, determined, and somewhat
aggressive. Sylvia left the cow to whatever sad fate might await her, and stepped
discreetly aside into the bushes, but she was just too late. The enemy had
discovered her, and called out in a very cheerful and persuasive tone,
"Halloa, little girl, how far is it to the road?" and trembling
Sylvia answered almost inaudibly, "A good ways."
|
Thình lình đứa gái nhỏ của rừng xanh giật bắn người khi
nghe một tiếng huýt sáo - rõ ràng rất gần đây. Không phải là tiếng chim, vốn dĩ rất thân quen,
mà là tiếng huýt gió của bọn con trai, nghe rất quả quyết, và có phần hung
hãn. Bỏ lại con bò cho một số phận có thể là thê lương đang chờ đón, Sylvia
nhón chân nấp vào bụi rậm, nhưng đã quá muộn. Kẻ thù đã phát hiện thấy nó, và
hồ hởi cất giọng thuyết phục, “Ô là, chào cô em bé bỏng, còn bao xa nữa thì
ra tới đường cái hả em?”, và Sylvia run rẩy trả lời rất khẽ hầu như không thể
nghe thấy, “Cũng gần thôi”.
|
She did not dare to look boldly at the tall young man, who
carried a gun over his shoulder, but she came out of her bush and again
followed the cow, while he walked alongside.
|
Nó không dám ngước nhìn người thanh niên cao lớn với cây
súng trên vai, nhưng cũng rời khỏi bụi rậm để rồi lại lẽo đẽo đi theo con bò
cái, trong khi chàng thanh niên nọ sánh bước cạnh bên.
|
"I have been hunting for some birds," the
stranger said kindly, "and I have lost my way, and need a friend very
much. Don't be afraid," he added gallantly. "Speak up and tell me
what your name is, and whether you think I can spend the night at your house,
and go out gunning early in the morning."
|
“Anh đang săn chim,” người thanh niên lạ mặt vui vẻ bắt
chuyện, “mà lại đi lạc nên rất cần có bạn. Đừng sợ gì nhé,” anh chàng tế nhị
nói thêm, “cứ nói to lên, cho anh biết em tên gì nào, và dù cô bé có nghĩ gì
đi nữa thì nhất định anh cũng sẽ ở lại nhà cô đêm nay, để sáng sớm mai dậy đi
săn đó nghe.”
|
Sylvia was more alarmed than before. Would not her
grandmother consider her much to blame? But who could have foreseen such an
accident as this? It did not seem to be her fault, and she hung her head as
if the stem of it were broken, but managed to answer "Sylvy," with
much effort when her companion again asked her name.
|
Sylvia càng thêm cảnh giác. Liệu bà ngoại có sẽ không cho
là nó quá đáng trách hay không đây? Nhưng nào ai có thể tiên đoán được một
biến cố như thế này kia chứ? Đây có vẻ không phải là lỗi của nó, và rồi nó
ngúc ngoắc cái đầu như nhành hoa gãy cuống, nhưng vẫn cố hết sức để đáp,
“Sylvy”, khi người bạn đồng hành lại hỏi tên nó lần nữa.
|
Mrs. Tilley was standing in the doorway when the trio came
into view. The cow gave a loud moo by way of explanation.
|
Lúc cả ba về gần tới nhà thì đã thấy Bà Tilley đứng chờ ở
cổng. Nàng bò cái cất tiếng ụm bò rõ to như để phân bua.
|
"Yes, you'd better speak up for yourself, you old
trial! Where'd she tucked herself away this time, Sylvy?" But Sylvia
kept an awed silence; she knew by instinct that her grandmother did not
comprehend the gravity of the situation. She must be mistaking the stranger
for one of the farmer-lads of the region.
|
“Thôi được rồi, tốt hơn là mi nên tự nói ra cái trò cũ rích
của mi đi! Nó có thể chui rúc vào xó xỉnh nào được vào giờ này, hả Sylvy?”.
Nhưng Sylvia vẫn im lặng một cách kỳ lạ, bản năng mách bảo nó rằng bà ngoại
đã không hiểu hết tính nghiêm trọng của tình thế. Hẳn là bà đang tưởng người
lạ này là một cậu nông dân nào đó trong vùng.
|
The young man stood his gun beside the door, and dropped a
lumpy game-bag beside it; then he bade Mrs. Tilley good-evening, and repeated
his wayfarer's story, and asked if he could have a night's lodging.
|
Chàng thanh niên dựng cây súng ngay cạnh cửa, rồi thả
chiếc túi nặng chịch xuống bên, anh quay sang chào bà Tilley, và kể lại
chuyện mình lạc đường, và hỏi xin bà được nghỉ đêm.
|
"Put me anywhere you like," he said. "I
must be off early in the morning, before day; but I am very hungry, indeed.
You can give me some milk at any rate, that's plain."
|
“Bà cho cháu nằm đâu cũng được,” anh chàng nói, “cháu cần
phải dậy sớm, trước khi ngày rạng; nhưng thực tình thì cháu đói lắm rồi. Bà
cho cháu xin ít sữa nhé, cháu nói thật đấy”.
|
"Dear sakes, yes," responded the hostess, whose
long slumbering hospitality seemed to be easily awakened. "You might
fare better if you went out to the main road a mile or so, but you're welcome
to what we've got. I'll milk right off, and you make yourself at home. You
can sleep on husks or feathers," she proffered graciously. "I
raised them all myself. There's good pasturing for geese just below here
towards the ma'sh. Now step round and set a plate for the gentleman,
Sylvy!" And Sylvia promptly stepped. She was glad to have something to
do, and she was hungry herself.
|
“Ồ vâng, được thôi, được thôi”, vị chủ nhà với lòng hiếu
khách dễ dàng được đánh thức sau thời gian dài ngủ quên mau mắn đáp. “Nếu
muốn cháu có thể đi theo con đường chính này thêm khoảng một dặm nữa hay hơn
để được trả tiền và được phục vụ tốt hơn; nhưng có thể cháu cũng có thể hài
lòng với những gì ta có ở đây. Ta sẽ đưa sữa tới ngay, và cháu cứ tự nhiên
như ở nhà nhé. Cháu có thể ngủ trên nệm vỏ đậu hay nệm lông ngỗng cũng được,”
bà hào phóng đề nghị. “Tất cả đều một tay bà làm cả đấy. Dưới kia có con
đường săn ngỗng rất hay, chỗ đi về phía đầm lầy đấy. Thôi bây giờ cháu hãy đi
dọn bữa cho quý ngài đây đi, Sylvy!”. Và thế là Sylvia tức tốc phóng đi ngay.
Nó rất vui sướng được làm gì đó, vả lại chính nó cũng đang thấy đói.
|
It was a
surprise to find so clean and comfortable a little dwelling in this New
England wilderness. The young man had known the horrors of its most primitive
housekeeping, and the dreary squalor of that level of society which does not
rebel at the companionship of hens. This was the best thrift of an
old-fashioned farmstead, though on such a small scale that it seemed like a
hermitage. He listened eagerly to the old woman's quaint talk, he watched
Sylvia's pale face and shining gray eyes with ever growing enthusiasm, and
insisted that this was the best supper he had eaten for a month, and
afterward the new-made friends sat down in the door-way together while the
moon came up.
|
Thật quá đỗi ngạc nhiên khi được khám phá căn nhà nhỏ xinh
nhưng cực kỳ tiện nghi và sạch sẽ ở giữa chốn hoang dã vùng New England như
thế này. Chàng trai trẻ đã được biết đến những nỗi kinh hoàng về những sở hữu
nhà cửa đầu tiên của vùng đất này, và về sự nhếch nhác đáng tởm của tầng lớp
xã hội đó, lớp người giờ đây đang sống thanh bình với bầy gà trong sân. Đây
là thứ nông trang kiểu cổ chỉn chu nhất, mặc dù kích thước nhỏ bé khiến nó
trông như một tu viện. Chàng trai thích thú lắng nghe cuộc trò chuyện duyên
dáng của bà cụ, ngắm nhìn gương mặt nhợt nhạt của Sylvia với đôi mắt xám ngời
sáng mà không khỏi cảm thấy mỗi lúc một phấn khích hơn, để rồi cậu phải xác
quyết là đó là bữa tối ngon nhất trên đời trong vòng một tháng nay. Và sau
đó, những người bạn mới quen cùng ra ngồi nơi ngạch cửa ngắm trăng lên.
|
Soon it would be berry-time, and Sylvia was a great help
at picking. The cow was a good milker, though a plaguy thing to keep track
of, the hostess gossiped frankly, adding presently that she had buried four
children, so Sylvia's mother, and a son (who might be dead) in California
were all the children she had left. "Dan, my boy, was a great hand to go
gunning," she explained sadly. "I never wanted for pa'tridges or
gray squer'ls while he was to home. He's been a great wand'rer, I expect, and
he's no hand to write letters. There, I don't blame him, I'd ha' seen the
world myself if it had been so I could.
|
Săp tới mùa dâu rồi, và Sylvia sẽ phụ giúp đắc lực trong
việc hái lượm ấy. Con bò là nhà cung cấp sữa tuyệt vời, mặc dù vẫn còn đang
có dịch bệnh gì đó, nữ gia chủ thật thà buôn chuyện, kể thêm rằng bà đã phải
chôn mất bốn đứa con, thế nên mẹ của Sylvia, và một người con trai nữa (mà
chắc cũng đã chết rồi) ở California là toàn bộ con cái mà bà còn có được.
“Thằng Dan, con trai tôi, là tay súng săn cực giỏi,” bà buồn rầu giải thích.
“Tôi chả bao giờ muốn nghĩ tới gà gô hay sóc xám mỗi khi nó về nhà. Nó giỏi đi
săn lắm, tôi nghĩ thế, nên nó chẳng có tay đâu mà viết thư cho tôi. Đó thấy
chưa, tôi đâu có trách móc gì nó, tôi chỉ tự nhìn thấy mọi việc như nó là để
có thể hiểu được”.
|
"Sylvy takes after him," the grandmother
continued affectionately, after a minute's pause. "There ain't a foot o'
ground she don't know her way over, and the wild creaturs counts her one o'
themselves. Squer'ls she'll tame to come an' feed right out o' her hands, and
all sorts o' birds. Last winter she got the jay-birds to bangeing here, and I
believe she'd 'a' scanted herself of her own meals to have plenty to throw
out amongst 'em, if I hadn't kep' watch. Anything but crows, I tell her, I'm
willin' to help support -- though Dan he had a tamed one o' them that did
seem to have reason same as folks. It was round here a good spell after he
went away. Dan an' his father they didn't hitch, -- but he never held up his
head ag'in after Dan had dared him an' gone off."
|
“Sylvy lo cho cậu ấy nghe con,” người bà nồng hậu tiếp
tục, sau một phút lặng im. “Quanh đây chả có lấy một dấu chân người, mà con
bé này cũng chả biết đường đâu mà mò, nên mấy cái con thú rừng cũng coi nó
như người của tụi nó. Nó có thể lại gần và cho sóc ăn ngay trên tay, lại còn
đủ thứ chim chóc nữa chứ. Hồi mùa đông năm ngoái nó đã đưa về đây cơ man là
chim giẻ cùi, mà tôi tin là nó đã nhín bớt phần để dành cho chim nữa, nếu như
tôi không để mắt dòm chừng. Gì cũng được, nhưng dòng giống nhà quạ với chim
giẻ thì không, tôi nói nó như vậy. Tôi thì tôi sẵn sàng giúp – mặc dù thằng
Dan cũng không ưa gì chúng mà chắc là cũng với cùng lý do như với người ta.
Sau khi nó ra đi, ở đây người ta đồn thổi đủ điều về nó. Dan với lại ông già
nó hai cha con đâu có ưa gì nhau – nhưng ổng chả còn ngẩng cao đầu được nữa
sau khi thằng con dám bỏ ổng mà đi”.
|
The guest did not notice this hint of family sorrows in
his eager interest in something else.
|
Vị khách chẳng mảy may chú ý đến khúc mắc này trong nỗi
buồn gia đình vì đang bận chú tâm vào chuyện khác.
|
"So Sylvy knows all about birds, does she?" he
exclaimed, as he looked round at the little girl who sat, very demure but
increasingly sleepy, in the moonlight. "I am making a collection of
birds myself. I have been at it ever since I was a boy." (Mrs. Tilley
smiled.) "There are two or three very rare ones I have been hunting for
these five years. I mean to get them on my own ground if they can be
found."
|
“Vậy là Sylvia biết hết các loài chim ở đây phải không?”,
anh ta hỏi, mắt nhìn quanh tìm cô bé đang ngồi lặng lẽ khép nép dưới ánh
trăng với cơn buồn ngủ đang tăng dần. “Cháu đang tự tay làm một bộ sưu tập về
chim. Cháu đã làm từ hồi còn nhỏ lận.” (Bà Tilley mỉm cười) “Trong năm năm
vừa qua cháu đã săn được hai hay ba con thuộc loại quý hiếm. Ý cháu là cháu
đã có được chúng ngay trên đất của mình khi bắt gặp chúng.”
|
"Do you cage 'em up?" asked Mrs. Tilley
doubtfully, in response to this enthusiastic announcement.
|
“Cậu nuôi chúng trong lồng à?” bà Tilley ngờ vực hỏi lại,
như để đáp lại lời tuyên bố đầy phấn khích này.
|
"Oh no, they're stuffed and preserved, dozens and
dozens of them," said the ornithologist, "and I have shot or snared
every one myself. I caught a glimpse of a white heron a few miles from here
on Saturday, and I have followed it in this direction. They have never been
found in this district at all. The little white heron, it is," and he
turned again to look at Sylvia with the hope of discovering that the rare
bird was one of her acquaintances.
|
“Ô không phải đâu ạ, cháu nhồi lông cho chúng rồi để dành,
có đến hàng tá hàng tá chim đấy ạ!”, nhà điểu học nói, “cháu tự mình bắn hay
là đặt bẫy, từng con một. Hôm thứ bảy cháu đã thoáng trông thấy một con cò
trắng cách đây vài dặm, rồi đã lần dấu nó theo hướng này. Vùng này chưa hề có
thứ cò đó, hôm đó cháu thấy là một con cò trắng con,” rồi anh chàng xoay qua
nhìn Sylvia với hy vọng được khám phá ra loài chim quý trong đám bạn của cô
bé.
|
But Sylvia was watching a hop-toad in the narrow footpath
|
Nhưng Sylvia đang mải dõi theo một con ếch đang nhảy lóc
chóc trên con đường mòn hẹp lối.
|
"You would know the heron if you saw it," the
stranger continued eagerly. "A queer tall white bird with soft feathers
and long thin legs. And it would have a nest perhaps in the top of a high
tree, made of sticks, something like a hawk's nest."
|
“Nếu được trông thấy thì sẽ biết ngay đấy là cò,” khách lạ
hăng hái tiếp tục. “Một thứ chim trắng cao lạ lùng với bộ lông trắng muốt và
đôi chân mảnh dài. Và nếu nó có tổ thì tổ chắc phải ở trên ngọn một cây cao,
cái tổ làm bằng lông vũ, như kiểu tổ chim ưng vậy.”
|
Sylvia's heart gave a wild beat; she knew that strange
white bird, and had once stolen softly near where it stood in some bright
green swamp grass, away over at the other side of the woods. There was an
open place where the sunshine always seemed strangely yellow and hot, where
tall, nodding rushes grew, and her grandmother had warned her that she might
sink in the soft black mud underneath and never be heard of more. Not far
beyond were the salt marshes just this side the sea itself, which Sylvia
wondered and dreamed much about, but never had seen, whose great voice could
sometimes be heard above the noise of the woods on stormy nights.
|
Tim Sylvia đập loạn xạ; nó biết con cò trắng lạ ấy; và đã
có lần nó đã lẻn được tới gần chỗ chim đứng, trong đám cỏ biếc mọc ven bờ
đầm, cái đầm này ở mãi tận phía bên kia khu rừng. Ở đó là một vùng trời rộng
mở khiến ánh mặt trời trở nên vàng lạ vàng lùng và rất nóng; ở đó có nhiều
bụi rậm cao ngất ngưởng, đứng gục gặc trong gió; vùng đầm lầy mà bà ngoại đã
từng dặn nó là coi chừng té chìm trong lớp bùn đen mềm bên dưới thì sẽ chẳng
còn ai nghe gì về nó nữa. Cạnh bên, không xa đó lắm, là những bụi cây nước
mặn, ở ngay bên bờ biển, nơi mà Sylvia đã nhiều lần tự hỏi và mơ về, nhưng
chưa từng được trông thấy, là nơi đôi lần nó nghe vọng về những thanh âm
tuyệt vời nổi lên trên tiếng ầm ào của rừng cây trong các đêm dông bão.
|
"I can't think of anything I should like so much as
to find that heron's nest," the handsome stranger was saying. "I
would give ten dollars to anybody who could show it to me," he added
desperately, "and I mean to spend my whole vacation hunting for it if
need be. Perhaps it was only migrating, or had been chased out of its own
region by some bird of prey."
|
“Cháu không còn nghĩ tới chuyện gì khác được nữa, cháu
thích được tìm thấy tổ của con cò đó quá đi,” vị khách lạ điển trai tiếp tục
nói. “Cháu sẽ thưởng mười đô la cho bất kỳ ai chỉ cho cháu cái tổ đó,” anh
chàng khao khát nói thêm, “và cháu định sẽ dành trọn kỳ nghỉ để săn nó nếu
cần. Có khi nó chỉ là chim di trú, hoặc nó đã bị vài giống chim săn mồi truy
đuổi đến nỗi lạc mất đàn.”
|
Mrs. Tilley gave amazed attention to all this, but Sylvia
still watched the toad, not divining, as she might have done at some calmer
time, that the creature wished to get to its hole under the door-step, and
was much hindered by the unusual spectators at that hour of the evening. No
amount of thought, that night, could decide how many wished-for treasures the
ten dollars, so lightly spoken of, would buy.
|
Bà Tilley thích thú theo dõi toàn bộ những điều này, nhưng
Sylvia vẫn chỉ dõi theo con ếch mà không thổ lộ gì, như nó vẫn thường làm như
thế vào đôi lúc tĩnh lặng hơn, đến nỗi sinh vật ấy rất muốn nhảy ngay vào
trong cái hang của nó ở ngay dưới bục cửa, để tránh né sự tò mò kỳ quặc vào
giờ khắc chiều tà hôm ấy. Đêm ấy đã có cơ man là nghĩ ngợi để lượng xem cái
kho báu mười đô la đáng ao ước ấy, nói nhỏ thôi nhé, có thể mua được những
gì.
|
The next day the young sportsman hovered about the woods,
and Sylvia kept him company, having lost her first fear of the friendly lad,
who proved to be most kind and sympathetic. He told her many things about the
birds and what they knew and where they lived and what they did with
themselves. And he gave her a jack-knife, which she thought as great a
treasure as if she were a desert-islander. All day long he did not once make
her troubled or afraid except when he brought down some unsuspecting singing
creature from its bough. Sylvia would have liked him vastly better without
his gun; she could not understand why he killed the very birds he seemed to
like so much. But as the day waned, Sylvia still watched the young man with
loving admiration. She had never seen anybody so charming and delightful; the
woman's heart, asleep in the child, was vaguely thrilled by a dream of love.
Some premonition of that great power stirred and swayed these young creatures
who traversed the solemn woodlands with soft-footed silent care. They stopped
to listen to a bird's song; they pressed forward again eagerly, parting the
branches -- speaking to each other rarely and in whispers; the young man
going first and Sylvia following, fascinated, a few steps behind, with her
gray eyes dark with excitement.
|
Ngày hôm sau tay thể thao trẻ thơ thẩn khắp nơi trong
rừng, và Sylvia cứ đi cùng anh chàng, nỗi sợ hãi ban đầu đã dần tan biến, vì
anh chàng đã thể hiện là người tử tế và đáng yêu nhất đời. Anh ta nói với nó
rất nhiều về chim chóc, về những gì chúng biết, về nơi chúng sinh sống và về
những gì chúng làm cho bản thân chúng. Rồi anh ta cho nó một con dao găm, mà
nó thấy quý như một báu vật, như thể nó là người lạc trên hoang đảo. Suốt
ngày hôm ấy anh chàng thậm chí không hề khiến nó thấy phiền lòng hay hãi sợ,
ngọai trừ đôi lúc anh ta lôi từ trên cây xuống một con chim đang hót. Chắc
hẳn Sylvia sẽ thấy thích anh chàng hơn nếu như anh ta không đem theo súng; nó
không thể hiểu nổi tại sao anh lại có thể xuống tay giết chết những con chim
mà chính anh đang rất mực mê thích. Nhưng đến khi ngày đã gần phai, thì Sylvia
vẫn ngắm nhìn chàng trai với niềm ngưỡng mộ trìu mến. Con bé chưa từng thấy
ai dễ thương và đáng yêu như thế; trái tim phụ nữ đang ngủ yên trong đứa trẻ
gái, nay bỗng mơ hồ rộn rã giấc mộng yêu thương. Đôi chút dự cảm về quyền
năng to lớn ấy của tình yêu làm đôi trẻ xao xuyến, họ nhẹ bước trong thinh
lặng băng ngang khu rừng u tịch. Có lúc dừng bước dõi nghe một khúc nhạc véo
von trên cành cao, họ đứng nép vào nhau nồng nàn, hòa quyện cùng muôn ngàn
cây lá--- rất ít lời trao đổi, hoặc chỉ như thì thầm; rồi chàng trai trẻ đi
trước, Sylvia đắm đuối bước theo sau, đôi mắt xám nay thẫm đen niềm phấn
khích.
|
She grieved because the longed-for white heron was
elusive, but she did not lead the guest, she only followed, and there was no
such thing as speaking first. The sound of her own unquestioned voice would
have terrified her -- it was hard enough to answer yes or no when there was
need of that. At last evening began to fall, and they drove the cow home
together, and Sylvia smiled with pleasure when they came to the place where
she heard the whistle and was afraid only the night before.
|
Nó buồn vì cuộc truy tìm con cò trắng không đạt được gì,
nhưng nó không dẫn đường cho khách, nó chỉ đi theo sau, vả lại lúc đầu cũng
đâu có ai nói gì về việc này. Hẳn là thanh âm của giọng nói rõ ràng là của
chính nó đã làm nó hãi sợ - điều cật vấn ấy đủ khó để trả lời có hay không
ngay khi ta đang cần có câu trả lời. Sau cùng, khi màn chiều bắt đầu buông,
và họ phải đưa bò về nhà, lúc đến chỗ mà mới tối hôm trước khi nghe tiếng
huýt sáo nó đã sợ cuống sợ cuồng thì Sylva mỉm cười thú vị.
|
II.
Half a mile from home, at the farther edge of the woods,
where the land was highest, a great pine-tree stood, the last of its
generation. Whether it was left for a boundary mark, or for what reason, no
one could say; the woodchoppers who had felled its mates were dead and gone
long ago, and a whole forest of sturdy trees, pines and oaks and maples, had
grown again. But the stately head of this old pine towered above them all and
made a landmark for sea and shore miles and miles away. Sylvia knew it well.
She had always believed that whoever climbed to the top of it could see the
ocean; and the little girl had often laid her hand on the great rough trunk
and looked up wistfully at those dark boughs that the wind always stirred, no
matter how hot and still the air might be below. Now she thought of the tree
with a new excitement, for why, if one climbed it at break of day, could not
one see all the world, and easily discover from whence the white heron flew,
and mark the place, and find the hidden nest?
|
II.
Cách nhà nửa dặm, ở mãi tận bìa rừng bên kia, chỗ đất cao
nhất khu rừng, có một cây thông cổ thụ đứng sừng sững, là cây sót lại cuối
cùng của thế hệ những cây cùng thời với nó. Không ai có thể nói được là, nó
được để lại để đánh dấu ranh giới, hay chẳng để vì lý do gì; những người cưa
cây rừng đã đốn hạ các bạn đồng liêu của nó nay đã chết hoặc đi xa; và cả một
khu rừng với đủ thứ cây cao sừng sững, những thông, sồi, và cây gỗ thích, đã
mọc trở lại. Thế nhưng ngọn thông già này vẫn tỏa bóng xuống tất cả bọn
chúng, làm nên một cái mốc bờ giữa biển cả và nhiều dặm bãi bờ xa xa. Sylvia
biết rõ cây thông già này. Nó luôn tin rằng hễ ai leo lên được tới ngọn cây
thì sẽ được dõi mắt nhìn ra biển khơi; và đứa bé gái thường đặt tay lên lớp
vỏ cây sần sùi, khao khát ngước nhìn lên những nhành cây thẫm màu luôn xao
động trong gió, bất luận hôm ấy tiết trời oi bức và không khí đậm đặc như thế
nào. Giờ đây Sylvia đang nghĩ về cây ấy với niềm phấn khích mới, rằng, tại
sao không chứ, nếu như người ta leo lên đó vào lúc rạng ngày, thì có thể
trông thấy được cả thế giới, và sẽ dễ dàng khám phá ra chỗ mà từ đó con cò
trắng cất cánh bay lên để mà đánh dấu
nơi ấy và sau đó sẽ tìm ra chiếc tổ bí ẩn?
|
What a spirit of adventure, what wild ambition! What
fancied triumph and delight and glory for the later morning when she could
make known the secret! It was almost too real and too great for the childish
heart to bear.
|
Thật đúng là tinh thần phiêu lưu mạo hiểm, một niềm đam mê
hoang dã! Chiến thắng ấy mới tuyệt vời và ngây ngất và vẻ vang làm sao khi
sáng ngày mai nó có thể bật mí được bí mật! Những ý nghĩ này hầu như quá thực
và quá lớn khiến trái tim trẻ thơ cơ hồ không kham nổi.
|
All night the door of the little house stood open and the
whippoorwills came and sang upon the very step. The young sportsman and his
old hostess were sound asleep, but Sylvia's great design kept her broad awake
and watching. She forgot to think of sleep. The short summer night seemed as
long as the winter darkness, and at last when the whippoorwills ceased, and
she was afraid the morning would after all come too soon, she stole out of
the house and followed the pasture path through the woods, hastening toward
the open ground beyond, listening with a sense of comfort and companionship
to the drowsy twitter of a half-awakened bird, whose perch she had jarred in
passing. Alas, if the great wave of human interest which flooded for the
first time this dull little life should sweep away the satisfactions of an
existence heart to heart with nature and the dumb life of the forest!
|
Cánh cửa căn nhà nhỏ vẫn rộng mở suốt đêm và mấy con chim
ăn muỗi cứ tha hồ đến mà chíu chát inh ỏi theo từng bước nhảy. Anh chàng thể
tháo gia cùng vị nữ gia chủ nghe chừng đã ngủ, nhưng kế hoạch trọng đại của
Sylvia khiến nó cứ chong mắt dòm chừng. Nó quên cả việc ngủ. Đêm hè ngắn ngủi
xem ra lại có vẻ dài thăm thẳm như màn đêm mùa đông, để rồi sau cùng khi mấy
con chim ăn muỗi đã giải tán thì nó
lại sợ rằng buổi bình minh sẽ tới ngay sau đó, nên nó phải vội lẻn ra khỏi
nhà và men theo con đường mòn dẫn vào rừng, rảo bước về phía vùng đất mở bên
kia rừng, dõi nghe với tâm trạng cảm thông dễ chịu theo những tiếng líu ríu
uể oải của mấy con chim còn ngái ngủ đang đậu trên cành khi nó đột ngột bước
ngang. Ôi chao, sẽ ra sao nhỉ nếu như con sóng lớn của niềm mê thích của con
người, con sóng đã lần đầu tiên ập tới cuộc sống bé nhỏ quạnh hiu này, nay
lại quét đi cả niềm mãn nguyện được tồn tại trong tâm cảm cùng thiên nhiên và
cuộc sống thinh lặng của rừng xanh!
|
There was the huge tree asleep yet in the paling
moonlight, and small and silly Sylvia began with utmost bravery to mount to
the top of it, with tingling, eager blood coursing the channels of her whole
frame, with her bare feet and fingers, that pinched and held like bird's
claws to the monstrous ladder reaching up, up, almost to the sky itself.
First she must mount the white oak tree that grew alongside, where she was
almost lost among the dark branches and the green leaves heavy and wet with
dew; a bird fluttered off its nest, and a red squirrel ran to and fro and
scolded pettishly at the harmless housebreaker. Sylvia felt her way easily.
She had often climbed there, and knew that higher still one of the oak's
upper branches chafed against the pine trunk, just where its lower boughs
were set close together. There, when she made the dangerous pass from one
tree to the other, the great enterprise would really begin.
|
Đây rồi gốc cổ thụ khổng lồ còn đang ngon giấc dưới ánh
trăng đang dần nhạt, và Sylvia bé nhỏ dại khờ bắt đầu vận hết mọi can đảm, nỗ
lực leo lên ngọn cây; máu rừng rực chảy trong huyết quản, nó dùng đôi tay và
đôi chân trần bấu vào thân cây như con chim dùng móng vuốt bám vào chiếc
thang khổng lồ, cố sức leo cao, cao nữa, để vươn tới tận trời xanh bao la.
Thoạt tiên Sylvia phải leo lên cây sồi trắng mọc bên cạnh, trên đó nó như lọt
thỏm giữa đám cành nhánh tối đen với những chiếc lá xanh rì ướt đẫm sương
đêm. Một con chim vụt bay lên từ chiếc tổ nhỏ bé, rồi một con sóc đỏ bồn chồn
chạy tới chạy lui nhìn kẻ đột nhập vô hại. Sylvia thấy sao dễ dàng quá. Nó
vẫn thường leo trèo ở đó nên biết rõ là cây sồi có những cành nhánh cao hơn
vươn ra tới sát cây thông già. Lúc đó nó sẽ làm một cuộc vượt cành đầy hiểm
nguy từ cây này sang cây kia, và khi đó chuyến du hành kỳ vĩ mới thực sự bắt
đầu.
|
She crept out
along the swaying oak limb at last, and took the daring step across into the
old pine-tree. The way was harder than she thought; she must reach far and
hold fast, the sharp dry twigs caught and held her and scratched her like
angry talons, the pitch made her thin little fingers clumsy and stiff as she
went round and round the tree's great stem, higher and higher upward. The
sparrows and robins in the woods below were beginning to wake and twitter to
the dawn, yet it seemed much lighter there aloft in the pine-tree, and the
child knew she must hurry if her project were to be of any use.
|
Sau cùng nó bò dọc theo nhánh cây sồi đang đung đưa lắt
lẻo, chuẩn bị sang giai đoạn nguy hiểm là chuyền sang cây thông già. Chặng
đường này thực sự gian nan hơn nó tưởng, nó phải ra tới tận đầu nhánh và níu
thật nhanh, mấy cành cây khô cản đường cào xước nó như vô vàn những móng vuốt
sắc nhọn, nhựa ở vỏ cây khiến mấy đầu ngón tay nhỏ bé mảnh mai trở nên tê
cứng và lóng ngóng; nó trườn lòng vòng quanh cành cây, cố sức leo cao, cao
hơn nữa. Se sẻ và chim cổ đỏ trong các tán cây rừng bên dưới đã bắt đầu thức
giấc, chúng líu ríu gọi nhau trong ánh bình minh; còn trên ngọn thông già
trời đã hửng sáng hơn, và đứa bé gái biết rằng nó phải nhanh lên nếu như
không muốn cho kế hoạch của mình bị vô dụng.
|
The tree seemed to lengthen itself out as she went up, and
to reach farther and farther upward. It was like a great main-mast to the
voyaging earth; it must truly have been amazed that morning through all its
ponderous frame as it felt this determined spark of human spirit wending its
way from higher branch to branch. Who knows how steadily the least twigs held
themselves to advantage this light, weak creature on her way! The old pine
must have loved his new dependent. More than all the hawks, and bats, and
moths, and even the sweet voiced thrushes, was the brave, beating heart of
the solitary gray-eyed child. And the tree stood still and frowned away the
winds that June morning while the dawn grew bright in the east.
|
Nhánh sồi xem chừng như cứ kéo dài ra mãi khi Sylvia lên
gần tới nơi, khiến nó cứ phải cố vươn lên cao thêm, cao thêm. Cây sồi giống
như một chiếc cột buồm thật lớn cho quả đất đang du hành; vào buổi sáng hôm
ấy ắt hẳn sồi cũng thực sự phấn khích khi cảm thấy được, qua toàn bộ những
cành lá ô dề của mình, thứ ánh sáng rỡ ràng này của linh hồn con người đang
chầm chậm len theo các nhành cây để vượt lên cao. Nào ai biết được, những
cành nhánh yếu ớt nhất đã tự gắng sức biết dường nào để nâng đỡ cho sinh linh
bé bỏng lấp lánh ấy trên đường vươn tới! Cội thông già chắc hẳn cũng thấy yêu
thương lắm mối bận tâm mới của mình. Nó nghe nổi rõ mồn một, trên hẳn tiếng
ồn ào của toàn bộ mấy con ưng, và dơi, và bướm đêm, và thậm chí trên cả những
thanh âm ngọt ngào của bầy chim hét, là nhịp đập trái tim dũng cảm của đứa bé
với đôi mắt xám kiên cường. Và rồi thông ta vẫn cứ đứng đó, khẽ cau mày trách
cứ những cơn gió trong buổi sớm tháng sáu, khi vừng đông đang dần rạng ngoài
kia.
|
Sylvia's face was like a pale star, if one had seen it
from the ground, when the last thorny bough was past, and she stood trembling
and tired but wholly triumphant, high in the tree-top. Yes, there was the sea
with the dawning sun making a golden dazzle over it, and toward that glorious
east flew two hawks with slow-moving pinions. How low they looked in the air
from that height when one had only seen them before far up, and dark against
the blue sky. Their gray feathers were as soft as moths; they seemed only a
little way from the tree, and Sylvia felt as if she too could go flying away
among the clouds. Westward, the woodlands and farms reached miles and miles
into the distance; here and there were church steeples, and white villages,
truly it was a vast and awesome world
|
Gương mặt Sylvia như một ngôi sao mờ ảo tít tắp trên cao,
khi nó vượt qua được nhành cây gai góc cuối cùng, để đứng trên ngọn thông,
toàn thân run lẩy bẩy, mệt nhoài nhưng hoàn toàn chiến thắng. Kia rồi, biển
cả bao la như được dát vàng nhờ mặt trời buổi sớm, và một đôi chim ưng đang
chầm chậm xoải cánh bay về phía vừng đông rạng ngời ấy. Từ độ cao này nhìn ra
mới thấy chúng chậm rãi làm sao, nhất là khi trước đó người ta chỉ được thấy
chúng như những vệt thẫm xa tít tận trời xanh. Bộ lông xám của chúng mềm mượt
như những cánh bướm đêm, trông chúng có vẻ như rất gần với ngọn thông, và
Sylvia bất giác cũng tưởng như mình có thể bay lên cùng những đám mây. Xa về
trời tây, rừng cây và nông trang trải dài hàng nhiều dặm, đó đây điểm xuyết
những gác chuông nhà thờ, những ngôi làng màu trắng, tất cả hệt như một thế
giới rộng lớn bao la và tuyệt đẹp.
|
The birds sang louder and louder. At last the sun came up
bewilderingly bright. Sylvia could see the white sails of ships out at sea,
and the clouds that were purple and rose-colored and yellow at first began to
fade away. Where was the white heron's nest in the sea of green branches, and
was this wonderful sight and pageant of the world the only reward for having
climbed to such a giddy height? Now look down again, Sylvia, where the green
marsh is set among the shining birches and dark hemlocks; there where you saw
the white heron once you will see him again; look, look! a white spot of him
like a single floating feather comes up from the dead hemlock and grows
larger, and rises, and comes close at last, and goes by the landmark pine
with steady sweep of wing and outstretched slender neck and crested head. And
wait! wait! do not move a foot or a finger, little girl, do not send an arrow
of light and consciousness from your two eager eyes, for the heron has
perched on a pine bough not far beyond yours, and cries back to his mate on
the nest and plumes his feathers for the new day!
|
Tiếng muôn chim đua hót mỗi lúc càng thêm ồn ĩ. Rồi mặt
trời cũng lên cao, chan hòa ánh sáng. Sylvia có thể trông thấy những cánh
buồm trắng ngoài khơi xa, và những đám mây khi nãy đủ sắc tím, hồng, rồi vàng
giờ đây bắt đầu nhạt bớt. Ở đâu nhỉ, chiếc tổ của con cò trắng giữa muôn
trùng cành lá xanh tươi, và phải chăng khung cảnh kỳ vĩ tuyệt vời này cùng
khúc hoan ca của thế giới chính là phần thưởng cho việc leo trèo vượt qua một
độ cao điên cuồng như thế này? Này Sylvia ơi, hãy nhìn lại xuống bên dưới mà
xem, nơi đầm lầy xanh ngắt ở giữa mấy bụi bu-lô ngời sáng và những cây độc
cần xanh thẫm, ở chỗ mi đã có lần trông thấy con cò trắng, thế nào mi cũng sẽ
lại được nhìn thấy nó; kia, kìa, nhìn kìa, một đốm trắng là chính nó, giống như một chiếc lông trắng muốt
đang vút lên từ cây độc cần đã chết khô, rồi dần trở nên lớn hơn, và bay cao
hơn, rồi sau cùng đến gần hơn, và bay ngang qua chỗ cây thông với sải cánh
vững chãi, chiếc đầu với nhúm lông mào và chiếc cổ thanh tú vươn dài.
Và…đừng! đừng! Đừng vội nhúc nhích nghe mi, đừng phóng tia nhìn lấp lánh đầy
tỉnh táo từ đôi mắt cuồng nhiệt của mi ra nhé, vì cò đang đậu trên một cành
thông không xa mi lắm, nó ngoái lại gọi bạn rồi thong thả đứng rỉa lông đón
chào ngày mới!
|
The child gives a long sigh a minute later when a company
of shouting cat-birds comes also to the tree, and vexed by their fluttering
and lawlessness the solemn heron goes away. She knows his secret now, the
wild, light, slender bird that floats and wavers, and goes back like an arrow
presently to his home in the green world beneath. Then Sylvia, well
satisfied, makes her perilous way down again, not daring to look far below
the branch she stands on, ready to cry sometimes because her fingers ache and
her lamed feet slip. Wondering over and over again what the stranger would
say to her, and what he would think when she told him how to find his way
straight to the heron's nest.
|
Một phút sau, khi có con chim mèo ồn ào tới đậu trên cây,
kiểu đập cánh ầm ĩ vô lối của nó quá sức phiền nhiễu khiến con cò nghiêm
trang bay đi mất, làm đứa bé không khỏi thở dài. Giờ đây con bé đã biết bí
mật của cò rồi, con chim hoang dã thanh mảnh với bộ lông sáng cứ nhấp nhô như
lượn sóng rồi vụt bay trở về nơi trú ẩn của nó trong thế giới xanh rì bên
dưới. Thế là Sylvia, hoàn toàn mãn nguyện, bắt đầu thực hiện con đường gian
nan trở xuống. Nó không dám nhìn xuống xa hơn bên dưới cành cây mình đang đặt
chân, chuẩn bị sẽ bật khóc trong đôi lần nữa vì các ngón tay nhức buốt và đôi
chân bị trượt đi đau đớn. Trong đầu nó cứ mải mê với những lời lẽ tuyệt diệu
mà anh khách lạ ấy sẽ nói với nó và với những gì anh sẽ nghĩ tới khi nghe nó
chỉ đường đi thẳng tới tổ cò.
|
"Sylvy, Sylvy!" called the busy old grandmother
again and again, but nobody answered, and the small husk bed was empty and
Sylvia had disappeared.
|
“Sylvy! Sylvy!”, người bà già nua bận rộn gọi mãi, gọi mãi
mà không thấy tiếng thưa đáp lời, chiếc giường nhỏ bé với tấm nệm nhồi vỏ đậu
trống rỗng, còn Sylvia thì mất tăm mất tích.
|
The guest waked from a dream, and remembering his day's
pleasure hurried to dress himself that it might sooner begin. He was sure
from the way the shy little girl looked once or twice yesterday that she had
at least seen the white heron, and now she must really be made to tell. Here
she comes now, paler than ever, and her worn old frock is torn and tattered,
and smeared with pine pitch. The grandmother and the sportsman stand in the
door together and question her, and the splendid moment has come to speak of
the dead hemlock-tree by the green marsh.
|
Vị khách trẻ vừa thức giấc sau một giấc mơ, sực nhớ tới
ngày vui thú sắp đến nên vội vã ngồi dậy soạn sửa để có thể bắt đầu thật sớm.
Anh chàng tin chắc mình đã thấy đứa bé gái nhút nhát có dáng vẻ như thế nào
khi hôm qua nó có một hay hai lần nói rằng nó đã từng trông thấy con cò
trắng, và giờ đây chắc chắn nó phải được chuẩn bị để nói. Đây con bé đây rồi,
trông có vẻ nhợt nhạt hơn bao giờ, bộ váy áo cũ nhàu rách và lấm chấm đầy
gai. Bà ngoại và chàng thanh niên cùng đứng ngay cửa, gặng hỏi rối rít và đây
chính là khoảnh khắc quý giá để nói về cây cần độc khô bên bờ đầm lầy xanh
ngắt.
|
But Sylvia does not speak after all, though the old
grandmother fretfully rebukes her, and the young man's kind, appealing eyes
are looking straight in her own. He can make them rich with money; he has
promised it, and they are poor now. He is so well worth making happy, and he
waits to hear the story she can tell.
|
Nhưng Sylvia không nói một lời gì, dù bà nó ra sức cật
vấn, và dù đôi mắt ân cần của chàng trai cứ nhìn xoáy vào mắt nó. Anh ta có
thể làm cho hai bà cháu giàu lên, anh đã hứa như thế, mà hai bà cháu lại đang
nghèo khó. Anh ấy thật xứng đáng để được vui và giờ đây anh ấy đang chờ nghe
câu chuyện mà nó hoàn toàn có quyền kể.
|
No, she must keep silence! What is it that suddenly
forbids her and makes her dumb? Has she been nine years growing and now, when
the great world for the first time puts out a hand to her, must she thrust it
aside for a bird's sake? The murmur of the pine's green branches is in her
ears, she remembers how the white heron came flying through the golden air
and how they watched the sea and the morning together, and Sylvia cannot
speak; she cannot tell the heron's secret and give its life away.
|
Nhưng không, nó vẫn im lặng! Đã có điều gì đột nhiên ngăn
cản, khiến nó trở nên câm nín như thế? Chẳng phải nó đã chín tuổi rồi, và giờ
đây, khi lần đầu tiên trong đời, thế giới lớn lao chìa tay ra với nó, mà nó
lại vội hất đi chỉ vì một con cò? Tiếng rì rầm của mấy nhánh cành thông vẫn
văng vẳng trong đầu, nó vẫn nhớ như in hình dáng con cò trắng bay vụt lên
xuyên thủng khối không trung vàng óng, và cách chúng cùng nhau ngắm nhìn biển
cả trong buổi bình minh; Sylvia không nói được nên lời, nó không thể tiết lộ
điều bí mật sẽ tước đi mạng sống của cò.
|
Dear loyalty, that suffered a sharp pang as the guest went
away disappointed later in the day, that could have served and followed him
and loved him as a dog loves! Many a night Sylvia heard the echo of his
whistle haunting the pasture path as she came home with the loitering cow.
She forgot even her sorrow at the sharp report of his gun and the sight of
thrushes and sparrows dropping silent to the ground, their songs hushed and
their pretty feathers stained and wet with blood. Were the birds better
friends than their hunter might have been, -- who can tell? Whatever
treasures were lost to her, woodlands and summer-time, remember! Bring your
gifts and graces and tell your secrets to this lonely country child!
|
Kẻ trung thần đáng yêu vốn lẽ ra đã có thể lẽo đẽo theo
người, phục vụ người, và yêu người như một con cún yêu chủ đã bị thất kinh vì
tiếng súng bén ngót ngay sau khi khách lạ thất vọng bỏ đi vào hôm đó! Nhiều
lần sau nữa, mỗi khi đang cùng con bò cái ưa thơ thẩn quay trở về nhà, Sylvia
vẫn như nghe thấy tiếng huýt gió của chàng trai vọng đuổi theo nó trên con
đường mòn. Nó thậm chí đã quên cả nỗi buồn của chính mình lúc nghe thấy tiếng
súng sắc ngọt và tưởng như đang thấy mấy con se sẻ và chim hét rơi độp xuống
đất, những bài ca véo von vụt im bặt, những bộ lông xinh đẹp nhuộm bết máu
đào. Những chim muông ấy có khi lại là
những bè bạn đáng yêu hơn kẻ săn chúng gấp nhiều lần, phải thế không, nào ai
biết được? Dù với bất kỳ thứ của cải nào mà con bé đã đánh mất, này hỡi rừng
cây và thời khắc mùa hè, hãy nhớ nhé, hãy mang đến đây những tặng vật cùng
muôn vàn ân sủng, và thổ lộ những niềm riêng của các ngươi cho đứa bé gái quê
mọn lẻ loi này!
|
|
|
|
Translated
by Trần Đan Hà
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn