|
|
The South China Sea
- Troubled waters
|
Biển Đông – Vùng biển rắc rối
|
by Banyan
|
Banyan
|
Aug 6th 2012
|
6/8/2012
|
|
|
LONG a zone of contention among a number of littoral
states, the South China Sea is fast becoming the focus of one of the most
serious bilateral disputes between America and China. Over the weekend
China’s foreign ministry summoned an American diplomat to express “strong
dissatisfaction and resolute opposition” to a statement issued by the state
department on August 3rd.
|
Là một khu vực tranh chấp giữa các nước duyên hải, từ lâu
Biển Đông nhanh chóng trở thành tâm điểm của một trong những tranh chấp song
phương nghiêm trọng nhất giữa Mỹ và Trung Quốc. Cuối tuần qua, Bộ Ngoại giao
Trung Quốc triệu tập một nhà ngoại giao Hoa Kỳ để bày tỏ “sự bất bình mạnh mẽ
và cương quyết phản đối” về một tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 3 tháng
8.
|
Tensions in the sea have mounted this year, especially
between China and the Philippines on the one hand, and between China and the
Vietnam on the other. Although there has not been a serious armed clash in
the sea since 1988, and none is likely now, there are worries that in the
current climate some low-level confrontation might escalate by accident.
|
Năm nay, các vụ căng thẳng trên biển đã gia tăng cao, nhất
là giữa Trung Quốc và Phillippines và mặt khác, giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Mặc dù đã không có một cuộc va chạm quân sự nghiêm trọng nào xảy ra trên biển
kể từ năm 1988, và bây giờ cũng khó có thể xảy ra, đã có những mối lo ngại
rằng với tình hình hiện tại thì một cuộc đối đầu ở mức độ nhẹ có thể leo
thang bất ngờ.
|
The specific Chinese complaint this weekend was over
America’s criticism of its recent upgrading of the administrative level of
Sansha city, on one of the Paracel islands (known in China as the Xisha),
from a county to a prefecture, and the establishment of a new military
garrison there. In its riposte China judged its own decision to be “normal
and reasonable”, though only a few hundred people live on the islets covered
by the vast new maritime prefecture.
|
Than phiền chính yếu của Trung Quốc là sự chỉ trích của
Hoa Kỳ về việc Trung Quốc nâng cấp hành chính của thành phố Tam Sa, trên một
hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), từ cấp huyện hạt
lên cấp quận, và việc thành lập một đơn vị đồn trú quân đội mới ở đó. Trong
lời đáp trả, Trung Quốc xem quyết định của họ là “bình thường và hợp lý”, cho
dù chỉ có vài trăm người sống trên những đảo nhỏ, bao quanh cái quận trên
biển mới thành lập đó là vùng nước mênh mông.
|
More broadly, China complains that America is taking sides
in the many territorial disputes in the sea. China and Taiwan both claim
virtually all the sea. Vietnam claims the Paracels, from which it was evicted
by China in 1974, as well as the Spratly chain further to the south. In the
south both overlap extensively with the exclusive economic zone the
Philippines claims under the United Nations Convention on the Law of the Sea
(UNCLOS).
|
Một cách tổng quát hơn, Trung Quốc than phiền rằng Hoa Kỳ
chọn phe trong nhiều tranh chấp lãnh thổ trên biển. Cả Trung Quốc và Đài Loan
đều đòi chủ quyền hầu như toàn bộ vùng biển. Việt Nam đòi chủ quyền quần đảo
Hoàng Sa do đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm năm 1974, cũng như chuỗi đảo Trường
Sa về phía nam. Trong vùng biển phía nam, đòi hỏi của cả hai nước [Trung Quốc
và Việt Nam] đều chồng lấn với tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của
Philippines theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
|
Further complicating things, Malaysia and Brunei also have
smaller territorial claims, and the regional club to which they, the
Philippines and Vietnam all belong, the Association of South-East Asian
Nations (ASEAN), has tried to play a co-ordinating and mediating role.
|
Càng phức tạp hơn, Malaysia và Brunei cũng có tuyên bố chủ
quyền lãnh thổ nhỏ hơn, và Hiệp hội Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) mà Việt Nam
và Philippines là thành viên, đã cố gắng thực hiện vai trò liên lạc và hòa
giải.
|
America insists it is entirely neutral on the territorial
disputes. However China has long seen it as a troublemaker, especially since,
at a security forum in Hanoi two years ago, Hillary Clinton, the secretary of
state, declared the United States’ “national interest” in the affairs of the
sea.
|
Hoa Kỳ nhấn mạnh vai trò trung lập của mình trong các
tranh chấp lãnh thổ. Nhưng Trung Quốc vẫn xem Hoa Kỳ là kẻ gây rối, nhất là
kể từ khi tại Diễn đàn An ninh Khu vực ở Hà Nội hai năm trước, bà Hillary
Clinton, Ngoại trưởng Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ có “lợi ích quốc gia”
đối với các vấn đề trên biển.
|
China blames America for encouraging—and perhaps even
instigating—a more aggressive approach from both the Philippines and Vietnam.
It asks why the American statement chose “to turn a blind eye” to what China
sees as provocations by (unnamed) other countries.
|
Trung Quốc đổ lỗi cho Hoa Kỳ đã khuyến khích – và có lẽ
ngay cả kích động – một thái độ hung hăng hơn từ Phillippines và Việt Nam.
Trung Quốc đặt câu hỏi tại sao tuyên bố của Hoa Kỳ chọn thái độ “làm ngơ”
trước những điều Trung Quốc coi là sự khiêu khích bởi những quốc gia khác
(không nêu tên).
|
This is a reference to Vietnam’s adoption of a maritime
law asserting its territorial claims, and to recent disputes with it and the
Philippines over fishing and the opening of disputed waters to oil and gas
exploration. One reason tempers are rising is that the seas are so abundant
in resources.
|
Điều này ám chỉ việc Việt Nam phê chuẩn luật biển, khẳng
định chủ quyền lãnh thổ và những tranh chấp mới đây với Trung Quốc và
Philippines về vấn đề đánh bắt cá và mở [thầu] các vùng biển tranh chấp để
khai thác dầu khí. Một lý do cho các cơn thịnh nộ gia tăng là vùng biển có
quá nhiều tài nguyên.
|
The most serious recent confrontation, between the
Philippines and China over the Scarborough Shoal, has eased after both sides
withdrew their armed patrols and competing fishing boats, as storms
approached. But the Philippines says the Chinese boats left the mouth of the
lagoon roped off to prevent other fishermen from entering.
|
Cuộc đối đầu nghiêm trọng nhất gần đây giữa Philippines
với Trung Quốc ở bãi cạn Scarborough đã giảm cường độ sau khi cả hai bên rút
các tàu tuần tra có trang bị vũ trang và tàu đánh cá về, khi những cơn bão ập
tới. Nhưng Philippines nói các tàu Trung Quốc đã để lại dây chắn ngang cửa
bãi cạn để ngăn cản ngư dân lui tới.
|
The American statement backs the multilateral approach to
the disputes championed by ASEAN. Its members are still smarting over their
failure—for the first time in the organisation’s 45-year history—to agree on
a joint statement after their annual foreign ministers’ meeting, which they
held last month in Phnom Penh. It was blocked because Cambodia, a faithful
Chinese client, refused to accept wording on the South China Sea demanded by
some of its fellow members.
|
Tuyên bố của Mỹ ủng hộ phương pháp đa phương để giải quyết
tranh chấp do ASEAN chủ trương. Các thành viên ASEAN vẫn đang khổ sở về sự
thất bại của họ – lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm kể từ khi tổ chức này
thành lập – về việc cho ra một tuyên bố chung sau cuộc họp giữa các bộ trưởng
ngoại giao hàng năm, đã tổ chức hồi tháng trước tại Phnom Penh. Bản tuyên bố
chung đã bị ngăn chặn bởi vì Cambodia, một thân chủ trung thành với Trung
Quốc, đã từ chối không chấp nhận cách diễn đạt về biển Đông theo yêu cầu của
một số thành viên khác.
|
Dogged Indonesian diplomacy subsequently managed to cobble
together a palatable, if bland, ASEAN position on the sea. China is working
(ever so slowly) with ASEAN towards a regional code of conduct to lessen the
risks of conflict. But it insists the territorial disputes are a series of
bilateral issues. It does not want its smaller neighbours ganging up on it,
still less if they are backed up by America.
|
Đường lối ngoại giao bền bỉ của Indonesia tiếp theo đã cố
hàn gắn lại tình trạng có thể chấp nhận được, cho dù tẻ nhạt, lập trường của
ASEAN về Biển Đông. Trung Quốc đang làm việc (một cách quá chậm) với ASEAN về
bộ quy tắc ứng xử khu vực để làm giảm những nguy cơ xung đột. Nhưng Trung
Quốc nhấn mạnh các tranh chấp lãnh thổ là vấn đề song phương. Trung Quốc
không muốn những nước láng giềng nhỏ hơn quy tụ lại để chống [Trung Quốc],
càng không muốn các nước này được Mỹ hỗ trợ.
|
It has a point when it says that the American statement
was one-sided. And it must be suspicious that, despite its denials, America
is backing its rivals’ claims. Mrs Clinton, for example, has taken to using
the term “the West Philippine Sea”. It is also understandable for China to
fear that America is trying to capitalise on the disputes, to cement its position
in the region, in keeping with the global “rebalancing” of its military
posture in favour of Asia and the Pacific.
|
Trung Quốc có lý do để nói rằng tuyên bố của Hoa Kỳ là
đứng về một phe. Và họ hẳn phải nghi ngờ rằng, mặc dù chối bỏ, Hoa Kỳ đang hỗ
trợ tuyên bố của các đối thủ của Trung Quốc. Chẳng hạn như, bà Clinton đã
dùng cụm từ “Biển Tây Philippines”. Điều cũng dễ hiểu là Trung Quốc sợ Hoa Kỳ
trục lợi trong vấn đề tranh chấp để củng cố vị thế trong khu vực, qua việc
“tái cân bằng” lực lượng quân sự nghiêng về châu Á – Thái Bình dương.
|
That the American approach is broadly appreciated in the
region, however, must give China pause. There are two reasons for the welcome
to America. The first is the perception that China has become more strident
and more of a bully in asserting its claims.
|
Tuy nhiên, sự tiếp cận của Hoa Kỳ được hoan nghênh rộng
rãi trong khu vực, đã phải làm cho Trung Quốc khựng lại. Có hai lý do để chào
đón Hoa Kỳ. Thứ nhất là, nhận thức rằng Trung Quốc đã trở nên hung hăng và
bắt nạt hơn trong việc xác lập chủ quyền.
|
The second is that it remains unclear what those claims
are based on. China couches many of its statements by reference to the islands,
islets and rocks over which it claims sovereignty, and their associated
waters, as if it were following UNCLOS. But it has not renounced the
“nine-dashed line” (see map) which it says gives it historic rights over
virtually the entire sea. China’s neighbours have reason to worry China sees
their sea as its lake
|
Thứ hai là Trung Quốc vẫn chưa rõ ràng về các tuyên bố đó
dựa trên cơ sở gì. Trung Quốc diễn tả trong nhiều tuyên bố có nhắc tới các
hòn đảo, đảo nhỏ và đá mà họ tuyên bố chủ quyền, và các các vùng biển liên
quan, như thể họ tuân theo luật lệ của UNCLOS. Nhưng Trung Quốc đã không từ
bỏ “đường chín đoạn” (xem ảnh) mà họ cho rằng họ có chủ quyền lịch sử đối với
toàn bộ khu vực. Các nước láng giềng của Trung Quốc có lý để lo sợ Trung Quốc
xem biển của họ như ao nhà của Trung Quốc.
|
|
|
|
Translated by Trần Văn Minh
|
|
|
|
|
http://www.economist.com/blogs/analects/2012/08/south-china-
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Sunday, August 12, 2012
The South China Sea - Troubled waters Biển Đông – Vùng biển rắc rối
No More Growth Miracles Không còn những kỳ tích phát triển
|
|
|
|
No More Growth
Miracles
|
Không còn những kỳ
tích phát triển
|
Dani Rodrik
|
Dani Rodrik
|
Theo Project Syndicate
Aug. 8, 2012
|
Theo Project Syndicate
8/8/2012
|
|
|
CAMBRIDGE – A year ago, economic analysts were giddy with
optimism about the prospects for economic growth in the developing world. In
contrast to the United States and Europe, where the growth outlook looked
weak at best, emerging markets were expected to sustain their strong
performance from the decade preceding the global financial crisis, and thus
become the engine of the global economy.
|
CAMBRIDGE – Một năm trước, các nhà phân tích kinh tế còn
đang quay cuồng với những dự đoán lạc quan về triển vọng tăng trưởng kinh tế
tại các quốc gia đang phát triển. Ngược lại với Hoa Kỳ và Châu Âu, nơi mà
tăng trưởng – nếu có – chỉ là èo uột, các thị trường mới nổi dự kiến sẽ tiếp
tục duy trì tốc độ phát triển mạnh mẽ của một thập niên trước cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu, và do đó trở thành động cơ chính của nền kinh tế
toàn cầu.
|
Economists at Citigroup, for example, boldly concluded
that circumstances had never been this conducive to broad, sustained growth
around the world, and projected rapidly rising global output until 2050, led
by developing countries in Asia and Africa. The accounting and consulting
firm PwC predicted that per capita GDP growth in China, India, and Nigeria
would exceed 4.5% well into the middle of the century. The consulting firm
McKinsey & Company christened Africa, long synonymous with economic failure,
the land of “lions on the move.”
|
Ví dụ, các nhà kinh tế tại Citigroup mạnh dạn kết luận
rằng chưa bao giờ có những điều kiện thuận lợi để đạt được tốc độ phát triển
rộng rãi và bền vững trên toàn cầu như hiện nay, và dự kiến sản lượng toàn
cầu sẽ tăng nhanh cho tới năm 2050, dẫn dắt bởi các quốc gia đang phát triển
ở Châu Á và Châu Phi. Công ty kế toán và tư vấn PwC dự đoán rằng GDP theo đầu
người ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nigeria sẽ tăng hơn 4,5% [mỗi năm] vào giữa thế
kỷ này. Công ty tư vấn McKinsey & Company chúc phúc cho Châu Phi, một nơi
từ lâu vẫn đồng nghĩa với sự thất bại kinh tế, gọi đây là mảnh đất của ”những
con sư tử thức giấc”.
|
Today, such talk has been displaced by concern about what
The Economist calls “the great slowdown.” Recent economic data in China,
India, Brazil, and Turkey point to the weakest growth performance in these
countries in years. Optimism has given way to doubt.
|
Tới hôm nay, những dự đoán như thế đã bị thay thế bởi lo
ngại về cái mà tờ Economist gọi là ”đại suy thoái”. Những dữ liệu kinh tế gần
đây ở Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin và Thổ Nhĩ Kỳ chỉ ra rằng các quốc gia này
đang trải nghiệm một tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong nhiều năm gần đây. Sự
lạc quan đang nhường chỗ cho nghi ngờ.
|
Of course, just as it was inappropriate to extrapolate
from the previous decade of strong growth, one should not read too much into
short-term fluctuations. Nevertheless, there are strong reasons to believe
that rapid growth will prove the exception rather than the rule in the
decades ahead.
|
Tất nhiên, cũng giống như không nên dùng tốc độ tăng
trưởng mạnh của thập niên vừa rồi để dự đoán tương lai, chúng ta không nên
quá tin vào những biến động ngắn hạn. Tuy nhiên, có nhiều lý do chính đáng để
tin rằng tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ sẽ chỉ là trường hợp ngoại lệ, chứ không
phải hiện tượng phổ biến, trong vài thập niên tới.
|
To see why, we need to understand how “growth miracles”
are made. Except for a handful of small countries that benefited from
natural-resource bonanzas, all of the successful economies of the last six
decades owe their growth to rapid industrialization. If there is one thing
that everyone agrees on about the East Asian recipe, it is that Japan, South
Korea, Singapore, Taiwan, and of course China all were exceptionally good at
moving their labor from the countryside (or informal activities) to organized
manufacturing. Earlier cases of successful economic catch-up, such as the US
or Germany, were no different
|
Để thấy lý do tại sao, chúng ta cần phải hiểu ”những nền
kinh tế phát triển thần kỳ” này được tạo ra bằng cách nào. Ngoại trừ một số
ít quốc gia nhỏ bé hưởng lợi từ tài nguyên thiên nhiên, tất cả những nền kinh
tế thành công trong 60 năm qua đều phát triển nhờ quá trình công nghiệp hóa
nhanh chóng. Nếu có một thứ mà mọi người có thể nhất trí về ”công thức [phát
triển] Đông Á”, thì đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và tất
nhiên cả Trung Quốc đều rất giỏi trong việc dịch chuyển lực lượng lao động
của mình từ nông thôn sang nền sản xuất có tổ chức. Những trường hợp của các
nền kinh tế thành công trong việc bắt kịp với các quốc gia giàu có hơn trước
đây, như Hoa Kỳ hay Đức, cũng không khác biệt.
|
Manufacturing enables rapid catch-up because it is
relatively easy to copy and implement foreign production technologies, even
in poor countries that suffer from multiple disadvantages. Remarkably, my
research shows that manufacturing industries tend to close the gap with the
technology frontier at the rate of about 3% per year regardless of policies,
institutions, or geography. Consequently, countries that are able to
transform farmers into factory workers reap a huge growth bonus.
|
Sản xuất cho phép đuổi kịp nhanh chóng bởi vì nó tương đối
dễ sao chép và thực thi các công nghệ sản xuất của nước ngoài, ngay cả ở
những quốc gia nghèo đang rất nhiều khó khăn. Điều đáng chú ý là, nghiên cứu
của tôi cho thấy các nước công nghiệp sản xuất có xu hướng rút ngắn khoảng
cách công nghệ với tỷ lệ trung bình 3% một năm, bất chấp sự khác biệt về khu
vực địa lý, chính sách hay thể chế. Kết quả là các quốc gia có khả năng biến
nông dân thành công nhân nhà máy sẽ gặt hái một tốc độ tăng trưởng thần tốc.
|
To be sure, some modern service activities are capable of
productivity convergence as well. But most high-productivity services require
a wide array of skills and institutional capabilities that developing
economies accumulate only gradually. A poor country can easily compete with
Sweden in a wide range of manufactures; but it takes many decades, if not
centuries, to catch up with Sweden’s institutions.
|
Chắc chắn là một số hoạt động dịch vụ hiện đại cũng có khả
năng giúp các quốc gia chậm phát triển đuổi kịp các quốc gia phát triển về
năng lực sản xuất. Nhưng phần lớn các dịch vụ có năng suất cao lại cần nhiều
kỹ năng và thể chế mà các quốc gia phát triển chỉ có thể tích lũy từ từ. Một
quốc gia nghèo có thể nhanh chóng cạnh tranh với Thụy Điển ở nhiều ngành sản
xuất; nhưng nó phải mất nhiều thập niên, nếu không nói thế kỷ, để bắt kịp với
Thụy Điển về mặt thể chế.
|
Consider India, which demonstrates the limitations of
relying on services rather than industry in the early stages of development.
The country has developed remarkable strengths in IT services, such as
software and call centers. But the bulk of the Indian labor force lacks the
skills and education to be absorbed into such sectors. In East Asia,
unskilled workers were put to work in urban factories, making several times
what they earned in the countryside. In India, they remain on the land or
move to petty services where their productivity is not much higher.
|
Hãy xem ví dụ Ấn Độ, để thấy hạn chế trong việc dựa vào
dịch vụ thay vì công nghiệp trong giai đoạn đầu quá trình phát triển. Ấn Độ
đã phát triển rất mạnh trong lĩnh vực dịch vụ tin học, như phần mềm và các
trung tâm chăm sóc khách hàng (call center). Nhưng một số lượng lớn lực lượng
lao động Ấn Độ thiếu kỹ năng và giáo dục để có thể được hấp thu vào khu vực
dịch vụ này. Ở Đông Á, lao động không có trình độ được đưa vào làm việc ở các
nhà máy, kiếm được vài lần so với số tiền họ kiếm được ở nông thôn. Ở Ấn Độ,
những người này tiếp tục ở lại nông thôn hoặc dịch chuyển vào những khu vực
dịch vụ nhỏ bé, nơi năng suất của họ không cao hơn là bao.
|
Successful long-term development therefore requires a
two-pronged push. It requires an industrialization drive, accompanied by the
steady accumulation of human capital and institutional capabilities to
sustain services-driven growth once industrialization reaches its limits.
Without the industrialization drive, economic takeoff becomes quite
difficult. Without sustained investments in human capital and
institution-building, growth is condemned to peter out.
|
Do đó, phát triển dài hạn thành công cần được thúc đẩy từ
hai hướng: Nó cần có động lực từ công nghiệp hóa, đi kèm với sự tích lũy ổn
định về vốn xã hội và khả năng thể chế để duy trì một nền kinh tế phát triển
dựa trên nền tảng dịch vụ, một khi công nghiệp hóa đã đạt tới giới hạn. Không
có sự thúc đẩy của công nghiệp hóa, sự cất cánh của nền kinh tế trở nên khó
khăn. Nhưng không có đầu tư bền vững vào vốn con người và việc xây dựng thể
chế, thì sự tăng trưởng sẽ có ngày cạn kiệt.
|
But this time-tested recipe has become a lot less
effective these days, owing to changes in manufacturing technologies and the
global context. First, technological advances have rendered manufacturing
much more skill- and capital-intensive than it was in the past, even at the
low-quality end of the spectrum. As a result, the capacity of manufacturing
to absorb labor has become much more limited. It will be impossible for the
next generation of industrializing countries to move 25% or more of their
workforce into manufacturing, as East Asian economies did.
|
Nhưng ngày nay công thức đã được thời gian thử nghiệm này
trở nên kém hiệu quả hơn nhiều, bởi những thay đổi trong công nghệ sản xuất
và bối cảnh toàn cầu. Thứ nhất, các tiến bộ công nghệ đã khiến sản suất thâm
dụng vốn và cần trình độ cao hơn trước, ngay cả ở phân đoạn chất lượng thấp.
Kết quả là, khả năng hấp thụ lực lượng lao động của khu vực sản xuất ngày
càng giảm. Và nó sẽ rất khó để các nước công nghiệp hóa thế hệ kế tiếp chuyển
25% hoặc hơn lực lượng lao động của mình vào khu vực sản xuất, như cách mà
các nền kinh tế Đông Á đã thành công.
|
Second, globalization in general, and the rise of China in
particular, has greatly increased competition on world markets, making it
difficult for newcomers to make space for themselves. Although Chinese labor
is becoming more expensive, China remains a formidable competitor for any
country contemplating entry into manufactures.
|
Thứ hai, toàn cầu hóa nói chung, và sự trỗi dậy của Trung
Quốc nói riêng, đã làm tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường thế giới lên
rất nhiều, gây trở ngại cho các quốc gia mới nổi tiến vào không gian này. Mặc
dù lao động ở Trung Quốc ngày càng trở nên đắt đỏ hơn, Trung Quốc vẫn là một
đối thủ cạnh tranh đáng gờm cho bất kỳ quốc gia nào dự tính tiến vào lĩnh vực
sản xuất.
|
Moreover, rich countries are unlikely to be as permissive
towards industrialization policies as they were in the past. Policymakers in
the industrial core looked the other way as rapidly growing East Asian
countries acquired Western technologies and industrial capabilities through
unorthodox policies such as subsidies, local content requirements, reverse
engineering, and currency undervaluation. Core countries also kept their
domestic markets open, allowing East Asian countries to export freely the
manufactured products that resulted.
|
Hơn nữa, các quốc gia giàu có không còn bi quan về các
chính sách công nghiệp hóa như họ đã từng trong quá khứ. Các nhà hoạch định
chinh sách trong các quốc gia công nghiệp phát triển đã nhìn ra chỗ khác khi
các quốc gia phát triển nhanh chóng ở Đông Á thu thập công nghệ và trình độ
kỹ thuật phương Tây thông qua các chính sách không chính thống như trợ cấp,
đòi hỏi nội địa hóa, nghiên cứu đảo ngược (reverse engineering), và định giá
nội tệ thấp. Các quốc gia này cũng đã để ngỏ thị trường của mình cho các quốc
gia Đông Á xuất khẩu thoải mái các mặt hàng đầu ra của nền sản xuất.
|
Now, however, as rich countries struggle under the
combined weight of high debt, low growth, unemployment, and inequality, they
will apply greater pressure on developing nations to abide by World Trade Organization
rules, which narrow the space for industrial subsidies. Currency
undervaluation à la China will not go unnoticed. Protectionism, even if not
in overt form, will be politically difficult to resist.
|
Giờ đây, các quốc gia giàu đang phải vận lộn với nợ, phát
triển èo uột, thất nghiệp và bất bình đẳng; họ sẽ tạo áp lực lớn hơn để các
quốc gia phát triển phải tuân thủ các luật lệ của WTO, giảm bớt liều lượng
trợ cấp cho nền công nghiệp. Đánh giá thấp tiền tệ như kiểu Trung Quốc sẽ khó
tránh khỏi sự chú ý. Chủ nghĩa bảo hộ, dù không phải dưới hình thức công
khai, cũng sẽ khó phản đối về mặt chính trị.
|
Manufacturing industries will remain poor countries’
“escalator industries,” but the escalator will neither move as rapidly, nor
go as high. Growth will need to rely to a much greater extent on sustained
improvements in human capital, institutions, and governance. And that means
that growth will remain slow and difficult at best.
|
Các ngành công nghiệp sản xuất sẽ tiếp tục là ”cái thang
cuốn” cho các nước nghèo, nhưng thang cuốn này có thể không di chuyển nhanh,
hay cao như trước. Phát triển sẽ phải dựa nhiều hơn vào sự tích lũy bền vững
của vốn xã hội, thể chế và khả năng quản lý của nhà nước. Và điều này có
nghĩa là phát triển có lẽ sẽ chậm và khó khăn.
|
Dani Rodrik is a
professor at Harvard University’s Kennedy School of Government and a leading
scholar of globalization and economic development.
|
Dani Rodrik là giáo
sư tại Khoa Chính phủ học Kennedy thuộc Đại học Harvard và là học giả hàng
đầu về toàn cầu hóa và phát triển kinh tế.
|
|
Translated by Nguyễn Công Huân
|
|
|
http://www.project-syndicate.org/commentary/no-more-growth-miracles-by-dani-rodrik
|
Subscribe to:
Posts (Atom)