|
|
MiG-21 units of the
Vietnam war
|
Những chiếc MiG-21
trong chiến tranh Việt Nam
|
By Istvan Toperczer
|
Istvan Toperczer
|
VU DINH RANG
|
|
“Air force commanders picked verteran Mig- 21 pilot Dinh
Ton to take part in the action, for they believed his vast experience would
allow him to cope with the poor weather conditions that plagues the area. On
one of his early flight his departed from Noi Bai at 17:00 hours then
recovered at Dong Hoi to refuel. Taking off again at 19:00 hrs, he headed for
Route 9, but the Americans had by then become aware of his flight and pulled
all of their AC-130s out of the area for good.
|
Chỉ huy lực lượng Không quân Việt Nam chọn MiG-21 thí điểm
Đinh Tôn tham gia chiến dịch, vì họ tin rằng kinh nghiệm của anh sẽ cho phép
anh ta đối phó với các điều kiện thời tiết xấu trong khu vực hoạt động. Lúc
đầu anh cất cánh từ Nội Bài lúc 17 giờ sau đó hạ cánh tại Đồng Hới để nạp
nhiên liệu. Lúc 19 giờ anh cất cánh trở lại và bay về phía đường 9 nhưng người Mỹ trước đó đã nhận thấy chuyến bay của
anh nên đã đưa tất cả AC-130 của họ ra khỏi khu vực rồi.
|
VPAF missions against the B-52s met with less success in
the first half of 1971, however, so
several air force officers were sent to Mu Gia Pass to observe B-52 attack
patterns both during the day and at night. In September of that year, radar
units were sent to Ba Don, in Quang Binh province, and to Vinh Linh to track
B-52 activities.
|
Trong thời gian nửa đầu năm 1971, Không quân Việt Nam đối
phó với B-52 kém thành công, vì vậy một số sĩ quan quân lực đã được gửi đến đèo Mụ Giạ để quan sát các kiểu tấn công của B-52 cả ban ngày lẫn ban đêm.
Tháng chín năm đó, các đơn vị ra-đa được gửi đến Ba Đồn, Quảng
Bình, và Vĩnh Linh để theo dõi B-52 hoạt
động.
|
On 4 October, commanders of 921st sent Dinh Ton to Đong
Hoi, from where he would go “hunting” B-52s. The pilot took off after sunset,
but the USAF crews were effectively jamming all communications in the area
and he had to fly without ground radio contact. Dinh Ton soon found two B-52s
in front of him, but judged the situation unsuitable for combat and diverted
to Tho Xuan.
|
Ngày 04 Tháng Mười, chỉ huy của Biên đội 921 cử của Đinh
Tôn tới Đồng Hới, từ đó phi công này sẽ đi “săn” B-52. Anh cất cánh
sau lúc hoàng hôn, nhưng quân đội Hoa Kỳ đã gây nhiễu rất hiệu quả tất cả các
liên lạc trong khu vực này khiến cho anh phải bay mà không liên lạc được với
đài mặt đất. Đinh Tôn sớm phát hiện ra hai chiếc B-52 ở phía
trước, nhưng anh đánh giá tình hình không thích hợp để tấn công liền chuyển
hướng đến Thọ Xuân.
|
On 20 November, two more Mig- 21s were sent to Vinh, and
another jet to Anh Son. At 20:00 hrs that same day, B-52s were reported 60
ki-lô-mét to the north of Xam Nua. Pilot Vu Dinh Rang was about to become the
first fighter pilot within the VPAF to intercept a B-52s.
|
Ngày 20 tháng 11, thêm hai chiếc MiG-21 được gửi đến Vinh,
và máy bay phản lực khác tới Anh Sơn. 20 giờ cùng ngày, B-52s được phát
hiện ở phía bắc Xam Nua 60 ki-lô-mét. Phi công Vũ Đình Rạng trở thành
phi công máy bay chiến đấu đầu tiên của Không quân Việt Nam đánh chặn B-52.
|
At 2046 hrs he scrambled from Anh son airfield, and once
aloft he was informed by ground control that his three targets were 100 kilometers away. He dropped his fuel tank and climbed to 10,000 meters, and at a
distance of 15 kilometers, Vu Dinh Rang switched on his radar and applied full
throttle. At eight kilometers he fired an AAM at one of the B-52s, and as he
broke away from his attack, he spotted another bomber in front of him. Vu
Dinh Rang launched his second missile, and at 21:15 hrs he landed at Anh Son.
There, he was told that the first B-52 had been damaged and had to make an
emergency landing in Thailand.
|
Lúc 20 giờ 46 phút, Vũ Đình Rạng cất cánh từ sân bay Anh
Sơn. Lúc ở trên trời, anh được sở chỉ huy mặt đất thông báo có ba mục tiêu cách
anh 100 ki-lô-mét. Anh vứt thùng dầu phụ và leo lên độ cao 10.000 mét và ở
khoảng cách 15 ki-lô-mét Vũ Đình Rạng bật ra-đa, và tăng tốc tối đa. Lúc chỉ còn cách 8 ki-lô-mét anh bắn một quả tên lửa
không đối không trúng một trong những chiếc B-52 rồi tìm cách thoát, lúc đó anh đã phát hiện
một máy bay ném bom ở phía trước. Vũ Đình Rạng phóng tên lửa thứ hai, và lúc 21 giờ 15 phút anh đã hạ cánh tại Anh Sơn. Ở đó, anh nghe nói rằng
lần chiếc B-52 đầu tiên đã bị thương, và phải hạ cánh
khẩn cấp tại Thái Lan.
|
The attempt to shoot down B-52s, as well as an increased
movement of North Vietnamese troops towards the south, prompted President
Richard Nixon to warn Ha Noi that bombing strike would re-commence if such
activities continued. As part of this threat, fighter-bombers started
penetrating North Vietnamese airspace once again, and on 18 December the VPAF
struck back then Le Thanh Do and Vo Si Giap downed F-4Ds 66-0241 and 65-0799
of the 432nd TRW.
|
Những nỗ lực bắn hạ B-52, cũng như sự chuyển quân ngày một tăng của quân đội Bắc
Việt Nam hướng về phía nam đã nhắc Tổng thống Richard Nixon phải cảnh báo Hà Nội việc ném bom
sẽ nối lại nếu các hoạt động này vẫn tiếp diễn. Theo lời đe dọa này, các máy bay Mỹ bắt đầu thâm nhập Không phận Bắc Việt Nam trở lại và vào ngày 18 tháng 12 năm 1972 Lê Thành Đô và Võ Sĩ Giáp của Không quân Việt Nam đã bắn hạ hai
chiếc F4D số hiệu 66-0241 và 65-0799 của TRW 432.
|
The air war in Vietnmese was about to reach a dramatic climax”
|
Tới thời điểm này, những cuộc không chiến tại Bắc Việt Nam sắp sửa trở nên khốc liệt.
|
Translated by Thủy Hướng Dương
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Showing posts with label MILITARY-QUÂN SỰ. Show all posts
Showing posts with label MILITARY-QUÂN SỰ. Show all posts
Friday, January 4, 2013
MiG-21 units of the Vietnam war Những chiếc MiG-21 trong chiến tranh Việt Nam
Tuesday, September 4, 2012
Preparing for War with China Chuẩn bị chiến tranh với Trung Quốc
|
|
|
|
Preparing for War
with China
|
Chuẩn bị chiến tranh
với Trung Quốc
|
James Holmes
|
James Holmes
|
National Interest, August 16, 2012
|
National Interest, 16/8/2012
|
|
|
For an operational concept that has never been published,
the U.S. military’s AirSea Battle doctrine has elicited some fiery
commentary. Or maybe it stokes controversy precisely because the armed forces
haven’t made it official. Its details are subject to speculation. The chief
source of information about it remains an unclassified, unofficial study
published in 2010 by the Washington-based Center for Strategic and Budgetary
Assessments.
|
Do một khái niệm tác chiến vừa được công bố mà Học thuyết Tác
chiến Hải-Không của quân đội Mỹ đã gây nên những bình phẩm gay gắt. Có thể nó
gây nên các cuộc tranh cãi chỉ vì các lực lượng vũ trang vẫn chưa coi nó là
chính thức. Các chi tiết của nó là chủ đề của những lời ức đoán.Nguồn thông
tin chính về nó vẫn còn là một nghiên cứu không chính thức không thuộc loại bí
mật được Trung tâm đánh giá Chiến lược và Ngân sách có trụ sở tại Washington
công bố năm 2010.
|
The debate over AirSea Battle swirls mostly around
technology and whether the doctrine is aimed at China. To answer the latter
question first: Yes, it is about China. It has to be.
|
Cuộc tranh cãi về học thuyết Tác chiến Hải-Không chủ yếu xoay
quanh khía cạnh công nghệ và câu hỏi phải chăng học thuyết này nhằm vào Trung
Quốc. Có thể trả lời câu hỏi này trước: đúng, nó nhắm tới Trung Quốc.
|
This is no prophecy of doom. From a political standpoint,
war with China is neither inevitable nor all that likely. But military people
plan against the most formidable capabilities they may encounter. And from an
operational standpoint, China’s People’s Liberation Army (PLA) presents the
sternest “anti-access” challenge of any prospective antagonist. Either
strategists, planners and warfighters prepare for the hardest case, or the
United States must write off important regions or options.
|
Không có tiên đoán nào về sự diệt vong. Xét về khía cạnh
chính trị, cuộc chiến tranh với Trung Quốc không phải là không tránh khỏi,
cũng không phải là ít khả năng xảy ra. Nhưng giới chức quân đội đang lên kế
hoạch chống lại các khả năng kinh khủng nhất mà họ có thể phải đương đầu. Và
xét về khía cạnh chiến sự, Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA) đặt ra thách
thức "chống tiếp cận" cứng rắn nhất so với bất kỳ địch thủ nào
trong tương lai. Các chiến lược gia, các nhà hoạch định và cả binh sĩ đều
chuẩn bị cho tình huống gay cấn nhất, cả nước Mỹ phải xác định những khu vực
và lựa chọn quan trọng.
|
The PLA thus represents the benchmark for U.S. military
success in maritime Asia, by most accounts today’s crucible of great-power
competition. Other potential opponents, notably the Iranian military, fall
into what the Pentagon terms “lesser-included” challenges. If U.S. forces can
pierce the toughest anti-access defenses out there—if they can crack the
hardest nut—the softer defenses erected by weaker opponents will prove
manageable.
|
Như vậy, PLA được coi là cái mốc chuẩn cho sự thành công
của quân đội Mỹ tại khu vực biển ở châu Á, nơi hầu hết mọi người đều gọi là
cuộc thử thách gắt gao về cạnh tranh giữa các nước lớn trong thời đại ngày
nay. Các đối thủ tiềm năng khác, đặc biệt là quân đội Iran, được Lầu Năm Góc
xếp vào loại các thách thức "thức yếu". Bởi nếu các lực lượng của
Mỹ có thể chọc thủng hệ thống phòng thủ "chống tiếp cận" cứng rắn
nhất ở bên ngoài thì các hệ thống phòng thủ mềm hơn mà các đối thủ yếu hơn
dựng lên sẽ hoàn toàn dễ dàng bị quản lý.
|
That focus on anti-access is why AirSea Battle is about
China—because it’s the gold standard, not because anyone expects, let alone
wants, war in the Western Pacific.
|
Sự chú trọng tới chiến lược "chống tiếp cận"
giải thích tại sao học thuyết Tác chiến Hải Không là nhằm vào Trung Quốc - vì
tiêu chuẩn vàng của họ, không phải vì ai đó mong chờ xảy ra chiến tranh tại
Tây Thái Bình Dương.
|
The Technology
Anti-access is a catchy new name for the old concept of
layered defense. Like all naval officers, I was reared on it. Think about air
defense. When an aircraft-carrier task force goes in harm’s way, commanders
dispatch “combat air patrols” around the fleet, concentrating along the
“threat axis,” or direction from which air attack appears most likely.
Interceptors from the carrier air wing constitute the first, outermost line
of defense.
|
Công nghệ
"Chống tiếp cận" là một cái tên mới, hấp dẫn cho
một khái niệm cũ về phòng thủ từng lớp. Giống như mọi sỹ quan hải quân, tôi
đã phản ứng mạnh về nó. Hãy bàn về phòng không. Khi một đội đặc nhiệm tàu sân
bay có dấu hiệu bị tổn hại, các chỉ huy sẽ loại bỏ "kiểm soát không
chiến" xung quanh hạm đội, tập trung vào "trục đe dọa", hoặc
vào hướng dễ bị tấn công từ trên không nhất. Các lá chắn từ đơn vị không quân
trên tàu sân bay tạo thành hàng phòng thủ đầu tiên và ngoài cùng.
|
Then come surface-to-air missiles from the fleet’s picket
ships. If attackers get past the fighter- and missile-engagement zones,
“point” defenses such as short-range radar-guided missiles or gatling guns
essay a last-ditch effort. Each defensive system engages assailants as they
come within reach. Multiple engagements translate into multiple chances for a
kill, improving the fleet’s chances of withstanding the assault. A corollary:
defenses become denser and denser as an adversary closes in.
|
Sau đó tới các tên lửa hạm đối không trên các tàu của hạm
đội. Nếu kẻ tấn công vượt qua được các vùng chiến của tên lửa, các vũ khí
phòng thủ "mũi nhọn" như tên lửa tầm ngắn do radar điều khiển hoặc
súng sẽ tham chiến như một nỗ lực cuối cùng. Mỗi hệ thống phòng thủ chiến đấu
với kẻ tấn công khi chúng vào tầm với. Nhiều lớp như vậy sẽ làm tăng cơ hội
sát thương, tức là tăng khả năng chống cự của hạm đội. Kết quả tất yếu là:
các hệ thống phòng thủ ngày càng dày đặc khi kẻ thù càng tới gần.
|
The same logic applies to coastal defense but on a grand
scale. A nation intent on warding off adversaries fields a variety of weapons
and platforms to strike at sea and aloft. These systems have varying ranges
and design parameters. Tactical aircraft can fly hundreds of miles offshore
and fire missiles that extend their lethal reach still farther. Missile-armed
patrol boats have small fuel tanks and limited at-sea endurance, so they
stick relatively close to home. The same goes for diesel-electric submarines.
|
Logic tương tự cũng được áp dụng trong phòng thủ ven biển
nhưng trên một quy mô lớn. Một quốc gia muốn tránh kẻ thù bằng cách tung ra
một loạt vũ khí và học thuyết để tấn công trên biển và trên không. Các hệ
thống này có phạm vi khác nhau và được thiết kế các thông số khác nhau. Máy
bay chiến đấu chiến thuật có thể bay hàng trăm dặm ở ngoài khơi và bắn tên
lửa có tầm sát thương xa hơn thế. Các tàu tuần tra gắn tên lửa chỉ mang các
thùng chứa dầu nhỏ và hạn chế khả năng hoạt động ngoài khơi, vì vậy chúng chủ
yếu được cài cắm ở gần nhà. Tương tự với các tàu ngầm chạy bằng động cơ điện
diesel.
|
If anti-access is about mounting layered defenses, AirSea
Battle is about developing technologies and tactics for penetrating them.
Thus, in some sense China and America are replaying the interwar years. War
planning commenced in earnest following World War I. Imperial Japan planned
to shut the U.S. Pacific Fleet out of the waters, skies and landmasses within
a defense perimeter enclosing the Western Pacific, the China seas, Southeast
Asia and parts of the Bay of Bengal. Not to be outdone, U.S. Navy officers
devised and tested out war plans for breaching Japanese anti-access measures.
|
Nếu chiến lược chống tiếp cận là nấc cao hơn của phòng thù
từng lớp, thì Tác chiến Hải Không nhằm phát triển các công nghệ và chiến
thuật để thâm nhập chúng. Như vậy, hiểu theo cách nào đó thì Trung Quốc và Mỹ
đang chiếu lại những năm giữa hai cuộc chiến tranh. Việc hoạch định chiến
tranh đã bắt đầu ngay sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhật Hoàng đã
lên kế hoạch đuổi cổ hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ khỏi các vùng biển, vùng
trời và lãnh thổ nằm trong chu vi phòng thủ của mình, bao chùm Tây Thái Bình
Dương, các biển của Trung Quốc, Đông Nam Á và nhiều phần ở Vịnh Bengal. Không
để bị lấn át, các sĩ quan Hải quân Mỹ đã bày mưu và thử nghiệm các kế hoạch
chiến đấu để phá hỏng các biện pháp chống tiếp cận của Nhật Bản.
|
Weirdly, planners on both sides of the Pacific largely
agreed on how the coming conflict would unfold. Japan would lash out at the
U.S.-held Philippines. U.S. leaders would order the Pacific Fleet to relieve
the islands, confronting the Imperial Japanese Navy with a numerical
mismatch. Anti-access, Japanese style, meant forward-deploying warplanes to
islands along the defense perimeter and submarines to adjacent waters. Aerial
and undersea attacks would whittle the U.S. fleet down as it lumbered
westward—evening the odds before a decisive battle somewhere in Asian waters.
|
Rất lạ là các nhà hoạch định ở cả hai bên bờ Thái Bình
Dương đều đã có suy nghĩ giống nhau về cách thức cuộc xung đột sẽ diễn ra.
Nhật Bản sẽ đánh bất ngờ vào Philippines (đang được Mỹ ủng hộ). Giới chức Mỹ
sẽ ra lệnh cho Hạm đội Thái Bình Dương bảo vệ các đảo, chống lại Hải quân
Hoàng gia Nhật nhưng với số lượng không tương xứng. Chiến lược chống tiếp cận
kiểu Nhật là các máy bay chiến đấu được dàn quân phía trước các đảo dọc theo
chu vi phòng thủ và tàu ngầm thì được huy động ở các vùng nước liền kề. Các cuộc
tấn công trên không và dưới biển sẽ đuổi cổ hạm đội của Mỹ về hướng Tây trước
khi xảy ra một trận chiến quyết định ở đâu đó trong các vùng biển của châu Á.
|
Submarines and land-based tactical aircraft remain among
the panoply of anti-access weaponry. Complementing them are missile-armed
patrol boats acting as offshore pickets; shore-fired antiship cruise
missiles; and antiship ballistic missiles with ranges conservatively
estimated at over nine hundred statute miles. Beijing would expect the PLA
Navy surface fleet to handle whatever remnants of the U.S. Pacific Fleet limped
into East Asian waters following repeated aerial and subsurface onslaughts.
|
Các tàu ngầm và máy bay chiến thuật trên mặt đất vẫn là
một phần của "bộ áo giáp" vũ khí chống tiếp cận. Bổ sung cho chúng
là các tàu tuần tra gắn tên lửa hoạt động như đội quân cảnh ngoài khơi; các
tên lửa hành trình chống hạm được bắn từ mặt đất; và các tên lửa đạn đạo
chống hạm với tầm xa có thể lên tới hơn 900 dặm. Bắc Kinh có thể hy vọng hạm
đội mặt đất của Hải quân PLA đối phó với bất kỳ thứ gì còn sót lại của Hạm
đội Thái Bình Dương của Mỹ đang ì ạch trên các vùng biển ở Đông Á sau các
cuộc công kích liên tiếp từ trên không và dưới mặt nước.
|
The Human Element
The hardware dimension of the U.S.-China strategic competition,
however, is inextricable from the all-important human dimension. Weapons
don’t fight wars, as strategic thinkers from U.S. Air Force colonel John Boyd
to Chinese Communist Party chairman Mao Zedong remind us; people who operate
weapons do. Both individuals and the big institutions they serve have
deep-seated worldviews and ideas about how to cope with the strategic
surroundings. A culture that comports with strategic and operational
circumstances represents an asset. A culture that flouts reality is a huge
liability.
|
Yếu tố con người
Tuy nhiên, khía cạnh vũ khí hạng nặng trong cuộc cạnh
tranh chiến lược Mỹ - Trung không thể tách khỏi khía cạnh nhân lực vốn là vô
cùng quan trọng. Các loại vũ khí không tự nó giao đấu trong các cuộc chiến
tranh. Các nhà tư tưởng chiến lược từ Đại tá John Boyd thuộc lực lượng Không
quân Mỹ đến Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông đã nói: chính
con người vận hành các vũ khí làm nên việc này. Từng cá nhân và các thể chế
lớn mà họ phục vụ đều có thế giới quan và các ý tưởng sâu sắc về việc làm thế
nào để đối phó với các vùng biên chiến lược. Một nền văn hóa thích ứng với hoàn cảnh chiến lược
và tác chiến là một tài sản. Một nền văn hóa lăng nhục thực tế là một trách
nhiệm rất lớn.
|
So the struggle between AirSea Battle and anti-access is
about more than developing gee-whiz technologies. A culture war is brewing
between two great powers with very different conceptions of the relationship
among land, air and sea power. And again, ideas matter. As naval historian
Julian S. Corbett explains, armaments are “the expression in material of
strategical and tactical ideas that prevail at any given time.” What hardware
a nation’s armed forces acquire speaks volumes about how strategic leaders
think about war—and how they may wage it.
|
Như vậy, sự đấu tranh giữa học thuyết Tác chiến Hải Không và
chiến lược "chống tiếp cận" liên quan đến việc phát triển các công
nghệ mới tinh vi. Một cuộc chiến tranh văn hóa được hình thành giữa hai cường
quốc lớn với nhiều khái niệm khác nhau trong quan hệ giữa bộ binh, không quân
và hải quân. Một lần nữa, lại là vấn đề các ý tưởng! Theo nhà sử học về hải
quân Julian S. Corbett, các loại vũ khí là "cách thể hiện ra bên ngoài
của các tư tưởng chiến thuật và chiến lược được ưa chuộng vào một thời điểm
nào đó". Các loại vũ khí hạng nặng mà lực lượng vũ trang của một quốc
gia mua sắm cho thấy mức độ giới lãnh đạo chiến lược nước đó nghĩ về chiến
tranh, và cách họ có thể bắt đầu cuộc chiến ấy.
|
China conceives of land-based forces as intrinsic to sea
power and has done so at least since the inception of the People’s Republic.
This composite conception of sea power comes as second nature for the PLA.
Mao Zedong reportedly issued the PLA Navy’s founders three curt instructions:
“fly, dive, fast!” Commanders, that is, premised maritime defense on
short-range aircraft flying from airfields ashore, diesel submarines diving
beneath the waves, and fast patrol boats armed with guns and missiles. These
were the ancestors of today’s ultramodern anti-access force.
|
Trung Quốc coi các lực lượng có căn cứ trên mặt đất là cốt
lõi của lực lượng hải quân và quan điểm này có từ khi ra đời nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa. Khái niệm bổ trợ này về hải quân là bản chất thứ hai của
PLA. Mao Trạch Đông đã nhiều lần đưa ra ba chỉ dẫn ngắn gọn về nền tảng của
Hải quân PLA: "bay, lặn, nhanh!". Như vậy, các tư lệnh giả thuyết
phòng vệ biển dựa trên việc sử dụng các máy bay tầm ngắn từ căn cứ không quân
trên bờ, các tàu ngầm chạy bằng diesel lặn sâu dưới các con sóng, và các tàu
tuần tra nhanh được trang bị súng và tên lửa. Đây là hình thức sơ khai của
lực lượng chống tiếp cận siêu hiện đại ngày nay.
|
Maoist China viewed sea power as more than the fleet. It
was an amalgam of seagoing and land-based platforms and weaponry.
Accordingly, the navy remained close to home throughout Mao’s long tenure as
CCP chairman. That’s markedly different from the U.S. Navy, which kept
squadrons on foreign station from its earliest history. Forward deployment is
in American seafarers’ DNA. Think Thomas Jefferson and the Barbary Wars.
China, by contrast, has not forward deployed warships since the Ming
Dynasty—and even then it did so only intermittently. The ongoing
counterpiracy deployment off Somalia thus marks a break with centuries of
historical practice.
|
Trung Quốc thời Mao Trạch Đông đề cao sức mạnh hải quân
hơn các hạm đội. Đó là một sự pha trộn của các nền tảng và vũ khí trên đất
liền và ở ngoài khơi. Do đó, hải quân vẫn gắn liền với đất liền trong suốt
thời Mao Trạch Đông là Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Quan niệm trên hoàn
toàn khác với Hải quân Mỹ, vốn duy trì các hạm đội ở các căn cứ ngoài nước
ngay từ những ngày đầu lịch sử. Việc huy động lực lượng ra nước ngoài nằm
trong "ADN" của lực lượng biển của Mỹ. Ngược lại, Trung Quốc không
hề huy động tàu chiến ra nước ngoài kể từ triều nhà Minh, thậm chí sau đó, họ
cũng chỉ thỉnh thoảng làm việc này. Vì vậy, việc huy động lực lượng chống
cướp biển ở ngoài khơi Somalia đánh dấu một bước ngoặt sau nhiều thế kỷ.
|
The PLA Navy has remained true to its Maoist history even
while constructing a blue-water fleet. Coastal defense remains the service’s
core function, although it has vastly expanded its defensive zone.
|
Hải quân PLA vẫn đúng với lịch sử thời Mao Trạch Đông ngay
cả khi họ xây dựng một hạm đội biển xanh. Bảo vệ bờ biển vẫn là chức năng cốt
lõi của lực lượng này, dù họ đã mở rộng đáng kể khu vực phòng thủ của mình.
|
If the PLA Navy needs to reinvent its institutional
culture to operate far from Chinese coasts, the U.S. military faces an even
stiffer cultural challenge in orienting itself to new realities. The
post–Cold War U.S. military came to see naval power as a supporting arm of
land power. The U.S. Navy projected power onto distant shores, supporting the
army, Marines and air force as these sister services prosecuted air and
ground campaigns in theaters such as Iraq and Afghanistan.
|
Nếu Hải quân PLA cần tạo lại văn hóa thể chế của mình để
hoạt động ra xa bờ biển Trung Quốc, thì quân đội Mỹ phải đối mặt với một
thách thức văn hóa thậm chí còn lớn hơn trong việc hướng Đông tới các thực tế
mới. Quân đội Mỹ thời hậu chiến tranh Lạnh coi sức mạnh hải quân là vũ khí hỗ
trợ sức mạnh bộ binh. Hải quân Mỹ phô trương sức mạnh ở ngoài khơi xa, hỗ trợ
bộ binh, lực lượng lính thủy đánh bộ và không quân, như trường hợp các đơn vị
"chị em một nhà" này theo đuổi các chiến dịch không - bộ phối hợp
trong các mối đe dọa như ở Iraq hay Afghanistan.
|
Facing no competitor of the Soviet Navy’s stature, the
U.S. Navy leadership issued guidance stating that the navy could assume it
commanded the sea. There was no one to contest its mastery. Thus, in the
words of the 1992 directive "...From the Sea," the service could
“afford to de-emphasize efforts in some naval warfare areas.” In practice,
that meant capabilities like antisubmarine warfare and mine
countermeasures—capabilities critical to surviving and prospering in
anti-access settings—languished for two decades.
|
Không có đối thủ tầm cỡ Hải quân Liên Xô, giới lãnh đạo
Hải quân Mỹ đưa ra chỉ đạo nói rằng hải quân có thể cho rằng nó chỉ huy biển.
Không có ai để tranh cãi về địa vị chủ nhân của nó. Do đó, trong lời lẽ của
các chỉ thị năm 1992 có viết "... Từ Biển," dịch vụ này "có
thể đủ khả năng để giàm bớt nỗ lực trong một số lĩnh vực chiến tranh hải quân".
Trên thực tế, điều đó có nghĩa là các năng lực như chiến tranh chống tàu ngầm
và đáp trả ngư lôi - các năng lực quan trọng để sống sót và thành công trong
việc chống tiếp cận - đã phai mờ sau hai thập kỷ.
|
Only now are they being rejuvenated. As the anti-access
challenge has come into focus, the navy has started scrambling to upgrade its
weaponry and relearn half-forgotten skills. In all likelihood, the air force
is in worse straits. Despite Billy Mitchell’s early experiments with using
air power to defend American coasts—remember his famous 1920 sinking of a
battleship from the air—the modern U.S. Air Force does not consider fighting
at sea one of its central purposes. The services have some way to go before
they can put forth the cohesive effort AirSea Battle demands.
|
Hiện nay, các năng lực này đang tái sinh. Khi thách thức
chống tiếp cận trở thành trọng tâm, hải quân đã bắt đầu chạy đua nâng cấp vũ
khí và tái huấn luyện các kỹ năng đã bị quên lãng một nửa. Nhiều khả năng,
Không quân rơi vào tình cảnh khó khăn hơn. Bất chấp các cuộc thử nghiệm ban
đầu của Billy Mitchell với việc sử dụng không quân để bảo vệ các bờ biển của
Mỹ - còn nhớ vụ đánh chìm một chiến hạm từ trên không năm 1920 nổi tiếng của
ông - Không quân Mỹ hiện đại không coi chiến đấu trên biển là một trong các
mục đích chính.
|
Punching the Pillow
In short, the Asian continental power takes a holistic
view of sea power, while the power that rules the waves thinks of sea power
as subsidiary to land power. This cultural inversion would favor PLA
defenders in a U.S.-China war. After all, fighting offshore is familiar
terrain for them, whereas U.S. leaders long assumed they no longer had to
fight for sea control. The services must dispel that ingrained assumption.
The advantage goes to China unless the U.S. Navy and Air Force undertake a
cultural transformation ahead of time, learning to work together in the
maritime domain.
|
Đấm bị bông
Nói tóm lại, cường quốc lục địa châu Á có cái nhìn chính
thể luận đối với sức mạnh biển, trong khi cường quốc điều khiển các con sóng
lại coi sức mạnh biển là sự bổ trợ cho bộ binh. Sự đảo ngược về văn hóa này
sẽ có lợi cho những người ủng hộ PLA nếu xảy ra chiến tranh Mỹ - Trung. Sau
cùng, việc chiến đấu ở ngoài khơi là rất quen thuộc đối với họ, trong khi các
lãnh đạo Mỹ từ lâu cho rằng họ không còn phải đấu tranh để kiểm soát biển.
Các đơn vị phải xóa tan suy nghĩ thâm căn cố đế này. Lợi thế thuộc về Trung
Quốc, trừ phi Hải quân và Không quân Mỹ có sự biến chuyển về văn hóa trong
thời gian tới, và học cách phối hợp với nhau trên biển.
|
Reinventing military institutions in peacetime invariably
poses a high-order leadership challenge. It often takes some trauma—like
defeat—to clear minds. What to do, short of that doomsday scenario?
|
Tái thành lập các thể chế quân sự trong thời bình luôn đặt
ra một thách thức lớn cho các lãnh đạo cấp cao. Nó sẽ gây ra một số sang chấn
- như sự thất bại - đối với những ký ức còn rõ ràng. Phải làm gì đây, kịch
bản ngày tận thế chăng?
|
First, we need an official AirSea Battle concept to jolt
the services into action and impart direction. Let’s publish one. Second, the
navy and air force must embrace the concept, forging themselves into a joint
weapon of sea combat. And third, national leaders must hold the services
accountable for this project.
|
Trước tiên, Mỹ cần một khái niệm Tác chiến Hải Không để
kích hoạt các đơn vị hành động và đưa ra định hướng. Sau đó công bố nó. Thứ
hai, hải quân và không quân phải bám lấy khái niệm này, buộc mình vào một kho
vũ khí chung của chiến tranh trên biển. Và thứ ba, các lãnh đạo đất nước phải
có trách nhiệm giải thích với từng đơn vị về kế hoạch này.
|
Franklin Roosevelt once compared the U.S. Navy to a
pillow. Civilian officials could punch it as hard as they liked, but it
sprang back to the same shape. One suspects the U.S. Air Force bureaucracy is
the same way.
Keep punching, Washington.
|
Franklin Roosevelt từng so sánh Hải quân Mỹ với một chiếc gối
bông. Giới chức dân sự có thể đấm vào đó mạnh nhất có thể, nhưng nó sẽ bật
lại đúng như vậy. Một số người e rằng Không quân Mỹ cũng như vậy quan lieu như
thế.
Washington, cứ đấm đi.
|
James Holmes is an
associate professor of strategy at the Naval War College and a contributor to
Competitive Strategies for the 21st Century, just out from Stanford
University Press. The views voiced here are his alone.
|
James Holmes là một
giáo sư về chiến lược tại Đại học Hải Chiến. Ông là cộng tác viên cho Chiến
lược cạnh tranh cho thế kỷ 21, do Đại học Stanford xuất bản. Những quan điểm nêu
lên ở đây chỉ là quan điểm riêng của tác giả.
|
|
Translated by Châu Giang
|
|
|
http://nationalinterest.org/commentary/preparing-war-china-7352?page=show
|
Wednesday, July 25, 2012
Three Paths to Nuclear Escalation with China Ba con đường dẫn tới leo thang hạt nhân với Trung Quốc
|
|
Three Paths to
Nuclear Escalation with China
|
Ba con đường dẫn tới
leo thang hạt nhân với Trung Quốc
|
Joshua Rovner
|
Joshua Rovner
|
The National Interest July 19, 2012
|
The National Interest, 19/7/2012
|
The U.S. military has enjoyed extraordinary freedom of
maneuver since the end of the Cold War. The fall of the Soviet Union meant that
no one else was left to seriously challenge the United States when it decided
to act abroad. Today, however, strategists worry that U.S. rivals are
developing weapons that will make it difficult or impossible to gain access
to contested areas. Dealing with the so-called “anti-access” problem has
become a central task for civilian and military planners—and something close
to an obsession for the navy.
|
Kể từ khi kết thúc cuộc chiến tranh lạnh, lực lượng Mỹ có
được tự do khác thường về diễn tập quân sự. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết
có nghĩa là không có một quốc gia nào khác dám đương đầu với Mỹ khi quyết
định tham chiến tại nước ngoài. Tuy nhiên, ngày nay các nhà chiến lược lo
ngại rằng kẻ thù của Mỹ đang phát triển vũ khí hạt nhân, điều này sẽ gây khó
khăn cho Mỹ trong việc giành quyền tiếp cận đối với những khu vực tranh chấp.
Giải quyết cái gọi là vấn đề "chống tiếp cận" trở thành một nhiệm
vụ quan trọng các nhà chiến lược, đồng thời là một sự ám ảnh của lực lượng
hải quân Mỹ.
|
One popular solution is AirSea Battle (ASB). In its most
general sense, ASB is about increasing integration between the navy and the
air force. Service leaders argue that without serious advance planning,
coordination is likely to break down in the midst of a conflict. This must
include not just operational discussions about war fighting but also
integrated training, data sharing and weapons procurement. As the air force
and navy service chiefs put it in a recent article, the idea is to “take
‘jointness’ to a new level.” Jointness is a favorite buzzword in Washington,
and enthusiastic defense officials recently opened the AirSea Battle Office
in the Pentagon.
|
Một biện pháp phổ biến để giải quyết vấn đề trên là triển
khai cuộc chiến không quân trên biển (ASB). Trong một chiều hướng chung nhất,
ASB là sự tăng cường phối hợp giữa lực lượng hải quân và không quân. Giới
chức quân đội hiện đang tranh cãi về việc phải triển khai kế hoạch đồng bộ
cho chiến lược này như thế nào và lo ngại rằng nếu không thực hiện tốt sự
phối hợp giữa hai lực lượng trên thì Mỹ sẽ thất bại ngay giữa cuộc xung đột.
Điều này chắc chắn phải bao gồm quá trình thảo luận kế hoạch hành động về
cuộc chiến tranh cũng như phối hợp đào tạo, chia sẻ dữ liệu và mua bán vũ
khí. Do lực lượng không quân và người đứng đầu lực lượng hải quân đưa ra một
vài luận điểm gần đây, chủ yếu là ý kiến "tiến hành phối hợp" ở một
mức độ mới. "phối hơp" là một từ thường được giới chức quân sự Oasinhtơn
sử dụng trong thời gian gần đây, họ cũng đang có dự định khai trương một văn
phòng cuộc chiến không quân trên biển thuộc Bộ Quốc phòng.
|
Strangely, much of the discussion about AirSea Battle has
been about what it is not. Officials have stressed that ASB is not a single
operational concept about how to fight wars; they simply say that they want
to maximize interservice integration so that regional combatant commanders
have maximum confidence in their ability to carry out their operational
decisions. Officials also have stressed that ASB is not about China or any
other country. At a press conference describing the purposes of the AirSea
Battle Office, they went to great lengths to fend off such suggestions from
incredulous reporters.
|
Điều lạ là đã có rất nhiều sự thảo luận về cuộc chiến không quân trên
biển nhưng nội dụng lại không phải như vậy. Các quan chức nhấn mạnh rằng ASB
không phải là một khái niệm hoạt động đơn lẻ về việc tiến hành một cuộc chiến
tranh như thế nào; đơn giản hơn là họ muốn một sự phối hợp quân sự lớn nhất
trong khả năng có thể để tiến hành cuộc chiến trên. Tại một cuộc họp báo về
mục đích thành lập văn phòng ASB, họ đã tránh được nhiều phỏng đoán ngờ vực
của các phóng viên.
|
Not everyone buys these arguments. In theory, the
proliferation of anti-access weapons means that any country could create
problems for forward-deployed U.S. forces. In reality, there is a very short
list of countries that have both the interest and wherewithal to make life
nasty for the United States. China is first on the list. No one is investing
more in anti-access capabilities than China, which in the last decade has
acquired an impressive array of submarines, antiship ballistic missiles,
antiship cruise missiles and antisatellite weapons. And no one has a clearer
interest in denying U.S. forces entry in the event of a crisis. China has
particularly strong reasons for wanting to keep the U.S. Navy from
undertaking a show of force in or around the Taiwan Strait, as it did during
previous crises. U.S. planners are not naive about China's motives, and they
seek new ways of undermining China's new capabilities. “Let's just say it,”
two Naval War College professors recently wrote, “AirSea Battle in East Asia
is about China.”
|
Không phải tất cả mọi người đều đồng ý với luận điểm đó.
Theo lý thuyết, việc gia tăng nhanh chóng vũ khí chống tiếp cận đồng nghĩa
với việc nhiều nước đã tạo ra lý do để lực lượng Mỹ triển khai lực lượng.
Trên thực tế, có một số nước có cả lợi ích và tiền bạc để khiến cuộc sống ở
Mỹ trở nên khó chịu. Trung Quốc là nước đầu tiên trong danh sách đó. Không có
một quốc gia nào đầu tư vào vũ khí chống tiếp cận nhiều hơn Trung Quốc, quốc
gia này từ thập kỷ trước đã triển khai được một lược lượng đội quân tàu ngầm,
tên lửa dùng cho hải quân, tên lửa dùng cho tàu tuần tra và vũ khí chống tên
lửa đạn đạo một cách đầy ấn tượng. Và
không có một quốc gia nào có lợi ích rõ ràng hơn trong việc phủ nhận sự thâm
nhập của lực lượng Mỹ trong cuộc khủng hoảng. Trung Quốc có nhiều lý do đặc
biệt để cảnh báo sự hiện diện của hải quân Mỹ tại eo biển Đài Loan do nước
này đã thực hiện trước thời điểm khủng hoảng. Giới chức quân sự Mỹ cũng không
ngây thơ trước động thái của Trung Quốc và họ tìm kiếm những con đường mới để
khiến khả năng của Trung Quốc bị tiêu diệt. "Chỉ nói về nó" là bài
viết của hai giáo sư thuộc trường đại học chiến đấu hải quân Mỹ gần đây, bài
viết cho rằng "cuộc chiến không quân trên biển tại Đông á là nhằm vào
Trung Quốc".
|
Nor is it the case that AirSea Battle is just about
jointness. Last year the Center for Strategic and Budgetary Assessments
(CSBA) published a long monograph on the concept, which remains the most
comprehensive treatment to date. According to CSBA, AirSea Battle envisions a
sequence of operations designed to overcome enemy obstacles and guarantee
U.S. access. The first step is a “blinding attack” on key facilities,
including long-range weapons that threaten U.S. bases and carrier groups,
along with the radar systems needed to cue them. This initial volley would
deliberately strike the enemy’s intelligence, surveillance and reconnaissance
(ISR) systems and make it impossible to organize an attack in the aftermath.
The second step includes efforts to bottle up the enemy’s naval fleet behind
a distant blockade, which would allow the United States plenty of time to
bring superior forces to the theater.
|
Cuộc chiến không quân trên biển không chỉ đề cập đến việc
phối hợp. Năm ngoái, Trung tâm chiến lược và đánh giá ngân sách (CSBA) đã
xuất bản một chuyên đề dài về khái niệm này, bao gồm những phương pháp hoàn
chỉnh nhất mới được cập nhật cho đến ngày nay về cách ứng xử trong cuộc
chiến. Theo CSBA, cuộc chiến không quân trên biển là một chuỗi các hoạt động
được vạch ra nhằm thoát khỏi sự ngăn chặn của kẻ thù và đảm bảo cho sự thâm
nhập của lực lượng Mỹ. Bước đầu tiên là một "cuộc tấn công dọn
đường" nhằm vào các căn cứ quan trọng như vũ khí tầm xa, vốn là sự đe
dọa đối với các căn cứ của Mỹ và những nhóm vận chuyển cùng với hệ thống
rađa. Đây là bước tiến ban đầu có thể cân nhắc để tiến hành cuộc chiến đối
với hệ thống tình báo của kẻ thù như hệ thống giám sát và trinh sát (ISR) và
khiến cho cuộc chiến của Mỹ trở nên dễ dàng và có hiệu quả. Bước thứ hai là
"cầm chân" hạm đội hải quân của kẻ thù với một khoảng cách cố định, điều này cho
phép Mỹ có nhiều thời gian để triển khai lực lượng hùng mạnh đến đe dọa đối
phương.
|
While officials have not been specific about AirSea
Battle, there are reasons to believe that the CSBA version is close to the
mark. The United States, after all, has danced the same two-step in all of
its recent conventional wars. And despite arguments that ASB is not a single
operational approach, the service chiefs and officers from the AirSea Battle
Office write that it relies on a construct called “disrupt-destroy-defeat”
that closely follows the CSBA script. By disrupt they mean attacking the
enemy's ISR and command-and-control facilities. By destroy they mean killing
things like “ships, submarines, aircraft, and missile launchers.” Defeating
the enemy will be much easier after these two steps are complete.
|
Trong khi các quan chức không đưa ra chi tiết về cuộc
chiến không quân trên biển thì có nhiều lý do để tin rằng sách lược của CSBA
gần với mục đích của Mỹ. Mỹ đã nhảy hai bước giống nhau cùng một lúc trong
tất cả các cuộc chiến quy ước trong thời gian gần đây. Mặc dù có những tranh
cãi rằng ASB không chỉ là một các tiếp cận hoạt động đơn lẻ, chỉ huy lực
lượng và các quan chức từ văn phòng cuộc chiến không quân trên biển viết rằng
nó dựa vào cấu trúc gọi là "phá vỡ-phá hủy-thua trận" điều này gần
nhất với kịch bản của CSBA. Phá vỡ có nghĩa là tiêu diệt tất cả những thứ như
"tàu, tàu ngầm, máy bay, bệ phóng tên lửa". Chiến thắng kẻ thù sẽ
dễ dàng hơn nhiều sau khi hai bước trên được hoàn tất.
|
AirSea Battle is seductive. Some officials believe that it
may act as a competitive strategy that will lure rival states into
self-defeating arms races with the richer and more technologically advanced
United States. They also hope that AirSea Battle acts as a deterrent. If
adversaries like China become convinced that they cannot overcome U.S.
military superiority, they are unlikely to pick a fight in the first place.
Most important, however, is the alluring idea that AirSea Battle can undue years
of efforts by the Chinese to keep the United States out. China has invested
greatly in solving one big operational problem. AirSea Battle is an appealing
way to “unsolve” its operational breakthrough.
|
Cuộc chiến không quân trên biển rất hấp dẫn. Một vài quan
chức tin rằng nó có thể thực hiện như một chiến lược hoàn hảo và khiến các
quốc gia thù địch tự thất bại trong cuộc chạy đua vũ trang với nước giàu hơn
và có công nghệ tiên tiến như Mỹ. Họ cũng hy vọng rằng những hành động của
cuộc chiến không quân trên biển sẽ là một sự ngăn chặn. Nếu Trung Quốc chắn
chắn rằng họ không thể vượt qua quân đội hùng mạnh của Mỹ thì họ đã không
tiến hành cuộc chiến ở giai đoạn đầu tiên. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là
ý kiến đáng để ý khi cho rằng cuộc chiến không quân trên biển có thể không
đáng mất nhiều thời gian của của Trung Quốc để tìm cách hất cẳng Mỹ. Trung
Quốc đã đầu tư rất nhiều để giải quyết một hoạt động quân sự lớn. Cuộc chiến
không quân trên biển là một đề xuất thú vị trong khi Mỹ chưa tìm ra cách chọc
thủng phòng tuyến hoạt động quân sự của đối phương.
|
But there are also serious risks to this approach, including
the danger of nuclear escalation if AirSea Battle is ever implemented in a
shooting war with China.
|
Tuy nhiên, cũng có nhiều nguy cơ rủi ro trong cách tiếp
cận này, bao gồm sự nguy hiểm trong việc leo thang hạt nhân nếu cuộc chiến
không quân trên biển nhằm vào Trung Quốc.
|
There are three pathways to nuclear escalation.
Psychological pressures can lead to serious misperceptions about enemy
intentions, causing states to overreact to limited military actions.
Political pressures also can make escalation possible, especially if the
target government fears that it will lose power if it loses the war. In these
cases the government might take extraordinary risks in order to “gamble for
resurrection.” Finally, inadvertent escalation can occur when conventional
attacks put the enemy's nuclear capabilities at risk. In these cases the
enemy might worry that the attack is only the first phase of a larger war.
|
Có ba con đường để leo thang hạt nhân. Việc các nhà quân
sự gây áp lực có thể dẫn đến việc nhận thức sai lầm về mục đích của kẻ thù,
nguyên nhân khiến các quốc gia có phản ứng thái quá đối với việc giới hạn các
hành động quân sự. Áp lực về mặt chính trị cũng có thể khiến khả năng leo
thang gia tăng, đặc biệt nếu chính phủ mục tiêu sợ rằng nó sẽ mất quyền lực
nếu thua trận. Trong những trường hợp đó chính phủ phải lường trước được rủi
ro bất thường theo hướng "đánh bạc với sự phục hồi". Cuối cùng, sự
leo thang một cách thiếu thận trọng có thể xảy ra khi các cuộc tấn cộng một
cách qui ước làm cho cơ sở hạt nhân
của kẻ thù gặp rủi ro. Trong trường hợp này kẻ thù có thể lo lắng rằng cuộc
tấn công này chỉ là giai đoạn đầu của cuộc một chiến tranh lớn.
|
AirSea Battle opens all three pathways to escalation. By
deliberately launching a blinding attack, it would increase the chance of
serious misperceptions and complicate any effort to reassure China of limited
U.S. intentions. It also would exacerbate the political problem for the
Chinese Communist Party, which long ago gave up its ideological mandate and
now relies on a combination of nationalism and economic growth in order to
stay in power. Given signs of weakness in the Chinese economy, we soon may
face a situation in which the CCP relies on nationalism alone. Under these
circumstances it is likely to be very risk acceptant, and, if faced with a
humiliating defeat in the early stages of a conflict with the United States,
it will have strong political incentives to escalate.
|
Cuộc chiến không quân trên biển mở ra tất cả ba con đường để
leo thang. Bằng cách đưa ra một cuộc tấn công mở đường, nó có thể tăng khả
năng nhận thức sai lầm một cách nghiêm trọng và phức tạp tình hình trong bối
cảnh Trung Quốc nỗ lực giới hạn mục đích của Mỹ. Nó cũng trích dẫn vấn đề
chính trị của Đảng cộng sản Trung Quốc vốn kéo dài nhiều năm qua về sự tồn tại
hệ tư tưởng dựa chủ yếu vào sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân túy và tăng trưởng
kinh tế theo hướng duy trì quyền lực. Đưa ra dấu hiệu yếu kém của nền kinh tế
Trung Quốc, chúng ta sớm có thể đối mặt với một tình huống mà CCP chỉ dựa vào
chủ nghĩa dân túy. Theo đó, có nhiều nguy cơ nếu Trung Quốc thua trận ngay
trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột với Mỹ, nó sẽ có động chính trị mạnh mẽ
để leo thang.
|
Finally, AirSea Battle runs the risk of inadvertent
escalation, especially if the United States strikes the Chinese mainland. The
fact that strategists are so concerned about land-based Chinese ballistic
missiles suggests that these might well be targeted. U.S. planners may
believe they can distinguish conventional from nuclear sites, but Chinese
leaders might reasonably fear that the United States is attempting a
preemptive strike against its nuclear weapons and associated
command-and-control systems. In this scenario, Beijing might face a terrible
use-it-or-lose-it dilemma.
|
Cuối cùng, khởi động cuộc chiến không quân trên biển sẽ
đem đến nhiều rủi ro trong việc leo thang hạt nhân, đặc biệt nếu Mỹ đánh
Trung Quốc đại lục. Trên thực tế, nhiều nhà chiến lược cũng quan tâm đến cơ
sở đạn đạo trên đất liền của quốc gia này với ngụ ý rằng nơi đây có thể sẽ
trở thành mục tiêu. Các nhà kế hoach Mỹ tin rằng họ có thể nhận ra các cơ sở
hạt nhân. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng sợ rằng Mỹ sẽ nỗ lực
cho một cuộc chiến ưu tiên chống lại vũ khí hạt nhân của nước này và liên kết
giữa hệ thống điều hành và kiểm soát. Trong tình huống khó xử đó, Bắc Kinh có
thể phải đối mặt với một tình huống tiến thoái lương nan đầy khó khăn đó là
sử dụng nó hoặc bị phá hủy.
|
The original CSBA monograph, which seems to be close to
the “official” version of AirSea Battle, ignored the danger of nuclear
escalation. Instead, it simply assumed that any war between the United States
and China will remain at the conventional level because “agreement not to use
or threaten the use of nuclear weapons would appear to be in both parties’
interests.” But strikes on the Chinese mainland might provoke an overreaction
even if Chinese leaders would do better to show restraint. We should expect
nothing less: states do not take kindly to attacks on their own soil. Other
analysts recognize this danger and have offered operational concepts that
attempt to mitigate the risk of escalation by stressing patience and less
provocative plans. Given the stakes involved, defense officials should take
these alternatives seriously.
|
Trong bản chuyên đề đầu tiên của CSBA, dường như gần với
tầm nhìn của các nhà chức trách "thiết kế" cuộc chiến không quân
trên biển, lờ đi mối nguy hiểm trong việc leo thang hạt nhân. Thay vào đó, nó
tóm tắt một cách đơn giản rằng nhiều cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ duy
trì ở mức độ hiệp ước vì "hiệp ước không được dùng hoặc đe dọa sử dụng
vũ khí hạt nhân có thể xuất hiện đối với lợi ích của các hai đảng". Tuy
nhiên, cuộc chiến trên đại lục Trung Quốc có thể khiếu khích một phản ứng
thái quá thậm chí nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể làm tốt hơn để kiềm
chế. Các quốc gia không để yên khi có một cuộc tấn công trên đất nước họ. Các
nhà phân tích khác công nhận mối nguy hiểm này và đề nghị đưa ra một khái
niệm hoạt động theo hướng giảm nhẹ sự khiêu khích dẫn đến nguy cơ của leo
thang bằng cách nhấn mạnh sự kiên nhẫn và ít khiêu khích hơn trong kế hoạch.
Thay vào đó, các nhà quan chức quốc phòng nên đưa ra một kế hoạch liên quân và
có những biện pháp lựa chọn một cách nghiêm túc.
|
For a longer version of this essay, see “AirSea Battle and
Escalation Risks,” U.C. San Diego Institute on Global Conflict and
Cooperation, Policy Brief 12 (January 2012). The views here are the author’s
alone. They do not necessarily represent the views of the Naval War College,
the U.S. Navy or the Department of Defense.
|
Chuyên đề dài hơn của tiểu luận này vời nhan đề "Cuộc
chiến không quân trên biển và những nguy cơ" do Viện Sandiego về cuộc
xung đột toàn cầu và hợp tác phát hành tháng 1/2012. Quan điểm trên đây là
của riêng tác giả. Nó không nhất thiết đại diện cho những quan điểm của Đại
học chiến đấu hải quân, hải quân Mỹ hay Bộ quốc phòng.
|
Joshua Rovner is an
associate professor of strategy and policy at the U.S. Naval War College.
|
Joshua Rovner là
giáo sư chuyên ngành chiến lược và chính sách của Đại học đấu tranh hải quân
Mỹ.
|
|
|
|
Translated by Mai Linh
|
|
|
http://nationalinterest.org/blog/the-skeptics/three-paths-nuclear-escalation-china-7216?page=1
|
Sunday, July 1, 2012
Поля сражений будущего Những bãi chiến trường tương lai
|
|
Поля сражений
будущего
|
Những chiến
trường tương lai
|
Петер Зингер (Peter Singer)
("Sueddeutsche Zeitung", Германия)
|
Peter Singer
(Sueddeutsche Zeitung)
|
Арктика, космос и киберпространство – еще недавно эти
области либо были недоступны, либо еще просто не существовали, тогда как
сегодня они имеют огромное экономическое значение. История заставляет нас
быть готовыми к конфликтам в этих недавно освоенных сферах.
|
Bắc Băng Dương, vũ trụ và không gian mạng – những khu vực
mà trước đây con người chưa với tay tới hay đơn giản là không tồn tại, nhưng
hiện nay đã có ý nghĩa kinh tế vô cùng to lớn. Lịch sử buộc chúng ta phải
chuẩn bị cho những cuộc xung đột trong những khu vực mà mới gần đây vẫn chưa
có người đặt chân đến này.
|
Когда политические лидеры задумываются о том, где могут
вспыхнуть будущие войны, то они обращают свой взгляд прежде всего на горячие
точки географической карты. Они пытаются понять, какое государство разрушится
в ближайшее время (Пакистан, Йемен?), или какая страна будет следующим
кризисным очагом (Иран, Корея?). Те, кто считают себя современными Бисмарками
и бьются над разработкой крупномасштабных стратегий, склоняются к тому, чтобы
рассматривать мир в большей степени как связанные между собой тектонические
плиты. Их внимание обращено на такие стремительно развивающиеся страны как
Китай и Индия, меняющие геополитический ландшафт. Эти стратеги обычно смотрят
на то, где пересекаются региональные сферы влияния, и заняты они поисками
линий разлома, а также тех мест, где могут произойти новые землетрясения. Но
если отойти на шаг от карты, то становится понятным и нечто другое:
происходят еще более значимые сдвиги, которые будут влиять на то, где в новом
столетии – и при этом новым способом - будут вестись войны.
|
Khi các lãnh đạo chính trị suy nghĩ về những khu vực có
thể bùng nổ chiến tranh trong tương lai trước hết họ thường nhìn vào những
điểm nóng trên bản đồ địa lí. Họ cố gắng tìm hiểu xem nước nào sẽ sụp đổ
trong thời gian sắp tới (Pakistan hay Yemen?) hay nước nào sẽ trở thành nguồn
gốc của khủng hỏang (Iran, Bắc Triều Tiên?). Còn những người tự coi mình là
Bismark của thời hiện đại và đang sọan thảo những chiến lược ở tầm rộng lớn
thì lại coi thế giới như là được xây dựng bằng những viên gạch liên hệ mật
thiết với nhau. Họ chú ý tới những nước phát triển rất nhanh và đang làm biến
đổi khung cảnh địa chính trị, như là Trung Quốc và Ấn Độ. Các chiến lược gia
này thường tập trung chú ý vào những khu vực ảnh hưởng chồng lấn lên nhau, và
họ tập trung vào việc tìm những đường đứt gãy cũng như những điểm có thể xảy
ra những trận động đất mới. Nhưng nếu ta đi xa bản đồ vài bước thì ta sẽ hiểu
một điều khác: đang xảy ra những vận động đầy ý nghĩa, có ảnh hưởng đến sự
kiện là trong thế kỉ mới chiến tranh sẽ diễn ra ở đâu và bằng phương pháp
nào.
|
От первых доисторических битв за места охоты до
европейских войн за золото в Новом Свете (к этому можно добавить последние
конфликты, возникшие из-за месторождений нефти на Ближнем Востоке): как
только люди открывали богатые местности, то из-за них, как правило, возникали
конфликты. По мере того, как на карте земного шара оставалось все меньше
белых пятен, именно новые технологии становились областью конкурентной
борьбы. В течение 5000 лет люди сражались только за землю и за водную поверхность.
Затем на рубеже прошлого столетия появились технологии, которые незадолго до
этого существовали только в историях, сочиненных Жюль Верном, и они позволили
противоборствующими сторонам во время первой мировой войны вести боевые
действия под водой, а также в воздухе. Подводные и воздушные войны
потребовали создания новых вооруженных формирований, новых законов,
определявших правила этих войн.
|
Từ những cuộc chiến tranh tranh giành nơi săn bắn trong
thời tiền sử đến những cuộc chiến tranh giành địa điểm khai thác vàng ở Tân
thế giới (có thể kể thêm những cuộc xung đột vì mỏ dầu ở Cận Đông trong thời
gian gần đây): hễ tìm ra khu vục giàu có là y như rằng ở đó sẽ có xung đột.
Do càng ngày trên bản đồ càng có ít những điểm trắng cho nên các ngành công
nghệ mới sẽ trở thành lĩnh vực cạnh tranh. Trong hơn 5 ngàn năm, lòai người
chỉ đánh nhau nhằm tranh giành mặt đất và mặt nước. Sau đó, trong giai đọan
chuyển tiếp giữa thế kỉ XIX và thế kỉ XX đã xuất hiện những ngành công nghệ
mà trước đó không lâu chỉ có trong những câu chuyện của Jules Verne, tức là những
ngành công nghệ cho phép các bên đối địch trong Thế chiến I đánh nhau cả trên
trời và dưới nước nữa. Những cuộc chiến tranh trên trời và dưới nước đòi hỏi
những đơn vị quân sự mới, những qui định mới.
|
Здесь появляется целый ряд параллелей с 21-м веком.
Арктикой, например, в политических кругах долгое время никто не
интересовался. Однако из-за изменений, вызванных в глобальном климате нашими
технологиями, воды стали теплее. По этой причине появляются возможности
использования новых судоходных маршрутов, а также разработки месторождений
полезных ископаемых в этом регионе, который когда-то был белым пятном на
географической карте. Там может находится такое же количество нефти и
природного газа, как и в Саудовской Аравии.
|
Ở đây có nhiều sự tương đồng với thế kỉ XXI. Thí dụ như
Bắc Băng Dương, giới chính trị đã chẳng hề quan tâm đến khu vực này trong một
thời gian dài. Nhưng do những thay đổi khí hậu mà công nghệ của chúng ta gây
ra, nước đã ấm hơn. Do đó đã xuất hiện khả năng sử dụng những con đường giao
thương mới cũng như khai thác những mỏ mới trong khu vực này, một khu vực có
thời từng là điểm trắng trên bản đồ địa lí. Ở đây cũng có thể có trữ lượng
dầu mỏ và khí tự nhiên tương tự như ở Saudi Arabia.
|
Когда открывается новая часть земного шара, то в связи с
этим возникают новые вопросы безопасности. На самом деле, такого большого
региона с открытыми территориальными вопросами не было с того времени, как
Папа Александр VI попытался разделить Новый Свет межу Испанией и Португалией,
что и это стало причиной начала военных действий со стороны тех держав,
которые не приняли участие в этой сделке. Сегодня различные актеры готовят
себя к соперничеству в районе Северного полюса, хотя конфликт между ними и не
представляется неизбежным. Один из советников российского премьер-министра
Владимира Путина заявляет: «Арктика принадлежит нам». Канада, Норвегия,
Соединенные Штаты, а также такие не граничащие с Арктикой государства как
Катай, судя по всему, придерживаются на этот счет иной точки зрения, и они
начали наращивать свой потенциал для того, чтобы обозначить свои претензии.
|
Khi một khu vực mới được phát hiện thì đồng thời cũng xuất
hiện những vấn đề an ninh mới. Trên thực tế, một khu vực rộng lớn như thế với
những vấn đề lãnh thổ còn bỏ ngỏ như thế chưa từng xuất hiện, kể từ khi Giáo
hòang Alexander VI tìm cách chia Tân thế giới cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
và là nguyên nhân của những hành động quân sự của tất cả các nước không có
phần trong cuộc chia chác này. Hôm nay các diễn viên mới cũng đang chuẩn bị
cho cuộc cạnh tranh ở khu vực Bắc cực, mặc dù xung đột không phải là không
tránh khỏi. Một cố vấn của Thủ tướng Putin của Nga từng tuyên bố: “Bắc Băng
Dương là của chúng tôi”. Canada, Na Uy, Mĩ cũng như các nước không tiếp giáp
với Bắc Băng Dương, thí dụ như Trung Quốc - theo tất cả những gì đã biết - có
quan điểm khác và họ đang tăng cường tiềm lực để có thể đưa ra đòi hỏi của
mình.
|
То же самое происходит в космосе – раньше это была
недоступная область, но теперь ее экономическое и военное значение
стремительно возрастает. То пространство, о котором рассказывали фильмы Фрица
Ланга (Fritz Lang) и Джорджа Лукаса (Geoge Lucas), теперь населено 947
действующими спутниками, в запуске которых участвовали более 60 стран. Через
них проходят важнейшие артерии мировой торговли и коммуникаций, а также
военных операций. 80% коммуникаций в Соединенных Штатах осуществляется через спутники.
Иронично сославшись на Клаузевица, генерал американских ВВС Лэнс Лорд (Lance
Lord) назвал космос «новым центром притяжения». По заказу Пентагона было
проведено более 20 исследований о ведении военных действий в космическом
пространстве.
|
Trong vũ trụ cũng diễn ra những chuyện tương tự - trước
đây đấy là khu vực không ai có thể với tới, nhưng nay ý nghĩa kinh tế và quân
sự của nó đang gia tăng một cách cực kì nhanh chóng. Cái không gian mà những
thước phim của Fritz Lang và Geoge Lucas từng nói tới hiện có 947 vệ tinh do
60 nước phóng lên. Đấy là điểm nối của những động mạch quan trọng nhất của
ngành thương mại, giao dịch cũng như họat động quân sự trên thế giới. 80%
giao dịch của Mĩ được thực hiện thông qua các vệ tinh nhân tạo.Khôi hài là
một viên tướng không quân Mĩ tên là Lance Lord đã bắt chước Clausewitz và gọi
vũ trụ là “trung tâm hấp lực mới”. Theo đơn đặt hàng của Lầu năm góc, người
ta đã tiến hành hơn 20 cuộc nghiên cứu về cách thức tiến hành chiến tranh
trong vũ trụ.
|
Генерал-майор Я Юньчжу (Ya Yunzhu) из Академии военных
наук Китайской народной армии предупредил о том, что Соединенные Штаты, «если
они думают стать космической сверхдержавой, не будут, естественно, в этом
отношении одиноки». Китай в прошлом году перегнал США по количеству ракетных
стартов и планирует в этом десятилетии вывести на околоземную орбиту еще 100
гражданских и военных спутников. Еще более важным представляется то, что оба
государства в прошедшие годы неоднократно демонстрировали свою способность
уничтожать спутники при помощи кинетического воздействия. Россия, Индия, Иран
и даже такие негосударственные игроки как «Тигры освобождения» из Шри-Ланки
также пытались уничтожить спутники или проводили операции, направленные
против целей в космическом пространстве.
|
Thiếu tướng Ya Yunzhu thuộc Viện hàn lâm quân sự quân giải
phóng nhân dân Trung Quốc cảnh báo rằng “nếu Mĩ nghĩ đến việc trở thành siêu
cường trong vũ trụ thì đương nhiên là họ sẽ không phải là người đơn độc”. Năm
ngóai Trung Quốc đã phóng nhiều hỏa tiễn hơn Mĩ và dự định trong mười năm tới
sẽ đưa vào quĩ đạo gần trái đất 100 vệ tinh dân sự và quân sự nữa. Quan trọng
hơn là trong những năm qua cả hai nước đều đã nhiều lần chứng tỏ khả năng
tiêu diệt vệ tinh bằng những phương tiện tự động. Nga, Ấn Độ, Iran, thậm chí
các tay chơi không mang tầm vóc quốc gia như Những con hổ giải phóng ở giải
phóng ở Shri Lanka cũng tìm cách tiêu diệt vệ tinh hay tiến hành những công
việc nhằm chống lại những mục tiêu trong vũ trụ.
|
Киберпространство, в отличие от пространства под водой, в
воздухе, в полярном холоде или в космосе, не только долгое время было
недоступным - еще несколько лет назад оно практически не существовало. Тем не
менее его центральную функцию для нашего образа жизни даже трудно себе
представить. Числа, при помощи которых можно было бы описать эту сферу,
настолько велики, что кажутся выдуманными. Глобальный интернет состоит из
примерно 250 миллионов сайтов, а в год направляется приблизительно 90
триллионов электронных сообщений. Военное использование интернета также
потрясает. Только Пентагон имеет в своем распоряжении 15 000 компьютерных
сетей на 4000 своих баз и объектах, расположенных в 88 странах.
|
Không gian điều khiển, khác với không gian dưới mặt nước,
trong không khí, trong những khu vực lạnh lẽo của Bắc cực hay trên vũ trụ
không chỉ ở chỗ chỉ mới tồn tại trong thời gian gần đây. Tuy nhiên ta khó mà
tưởng tưởng nổi chức năng của nó đối với cách sống của chúng ta. Những con số
nhằm mô tả lĩnh vực này lớn đến nỗi có cảm giác như đấy là những điều bịa
đặt. Mạng internet tòan cầu bao gồm khỏang 250 triệu website, mỗi năm luân
chuyển khỏang 90 ngàn tỉ tin tức. Trong lĩnh vực quân sự, internet cũng được
sử dụng rất rộng rãi. Chỉ riêng Lầu năm góc đã có tới 15.000 mạng máy tính
đặt trên 4000 cơ sở và căn cứ ở 88 nước.
|
Однако ввиду фактической стоимости богатств, находящихся в
этом новом виртуальном пространстве, оно также превращается в сферу действия
преступников, арену конфликтов, а также политического и экономического
противостояния. Работающая в области безопасности ИТ-фирма Symantec
обнаружила в прошлом году 240 миллионов вредоносных программ, и более 100
организаций, судя по всему, принимали участие в проведении крупных военных,
разведывательных или террористических операций. ФБР считает кибератаки
третьей по значению глобальной угрозой, и при этом следует отметить, что еще
десять лет назад у шефа этой организации на столе даже не было компьютера.
Американское киберкомандование в течение нескольких лет из умозрительной
концепции превратилось в организацию, в которой работают 90 000 сотрудников,
а бюджет ее составляет 3 миллиарда долларов.
|
Nhưng do giá trị thực tế của không gian ảo mà nó cũng đã
trở thành lĩnh vực họat động của bọn tội phạm, trở thành đấu trường xung đột
cũng như đối đầu về chính trị và kinh tế. Công ty Symatec, chuyên họat động
trong lĩnh vực an ninh công nghệ thông tin, phát hiện ra rằng năm ngóai có
240 triệu chương trình độc hại và hơn 100 tổ chức tham gia thực hiện những
chiến dịch quân sự, tình báo và khủng bố lớn. Cục điều tra liên bang Mĩ (FBI)
cho rằng những cuộc tấn công trên không gian ảo là nguy cơ đứng hàng thứ ba,
cần phải nói thêm rằng các đây mười năm trên bàn làm việc của giám đốc tổ
chức này vẫn chưa có một chiếc máy tính nào. Từ ý tưởng trong đầu, trong vòng
có mấy năm bộ chỉ huy không gian điều khiển của Mĩ đã biến thành một tổ chức
với 90 000 nhân viên và ngân sách lên tới 3 tỉ dollar.
|
Большая часть дискуссий до последнего времени вращалась
вокруг таких преувеличенных сценариев как «цифровой Перл-Харбор»,
российско-грузинская «кибервойна» или неприятные публикации дипломатических
депеш. Значительное большинство такого рода атак доставляют неприятности,
однако их можно сравнить с кибер-граффити или кибер-утечками, но не с войной.
Даже если это и не звучит слишком привлекательно, тем не менее настоящая
опасность состоит в том, что наши инновационные способности и наша защита
интеллектуальной собственности из-за постоянного воздействия могут ослабеть,
хотя они и является ключевым фактором экономического благосостояния, а также
безопасности в странах Запада. По существующим оценкам, американским и
европейским предприятиям в год наносится ущерб в миллиард долларов вследствие
несостоявшихся сделок, напрасно потраченных средств на исследования и
разработки, и это происходит из-за кибератак, проводимых против них
политическими, военными организациями, а также спецслужбами. Хакеры, оперирующие
с территории одного из восточноазиатских государств, похитили информацию,
связанную с программой создания международного боевого истребителя F-35,
объем которой составил несколько терабайт (один терабайт – 1 000 000 000 000
байт, и это примерно объем всего интернета десять лет назад). Миллиарды
похищенных терабайт означают не только миллиарды, затраченные на исследования
и разработку, то также и от 10 до 20 лет потерянного технологического
преимущества – на мировом рынке, а также на возможных полях сражений
будущего.
|
Cho mãi đến tận thời gian gần đây phần lớn các cuộc thảo
luận vẫn xoay quanh những kịch bản bị thổi phồng như “Trân Châu Cảng-số”, hay
“cuộc chiến trên không gian điều khiển” giữa Nga và Gruzia hay tin tức ngọai
giao bị tiết lộ. Phần lớn những vụ tấn công như thế đều gây rắc rối nhưng chỉ
có thể coi đấy là những vụ rò rỉ chứ không thể là chiến tranh được. Mối nguy
thật sự nằm ở chỗ do bị tác động thường xuyên mà khả năng sáng tạo của chúng
ta cũng như việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của chúng ta có thể bị yếu đi,
mặc dù đấy chính là tác nhân quan trọng nhất đối với sự thịnh vượng và an
ninh trong các nước phương Tây. Theo những đánh giá hiện có, mỗi năm các công
ty Mĩ và châu Âu bị mất hàng tỉ dollar vì những thương vụ không thành, những
khỏan nghiên cứu và thử nghiệm vô ích, mà tất cả đều là do những cuộc tấn
công do các tổ chức chính trị và quân sự cũng như các cơ quan tình báo tiến
hành. Các haker họat động trên lãnh thổ của một nước Đông Nam Á đã ăn cắp
thông tin liên quan đến chương trình xây dựng máy bay tiêm kích F-35, với
dung lượng là mấy terabyte (1 terabyte = 1 000 000 000 000 byte, gần bằng
dung lượng của tòan bộ mạng internet mười năm trước). Hàng tỉ đồng bị đánh cắp
ở đây không chỉ là hàng tỉ đồng đã chi cho công tác nghiên cứu và thử nghiệm,
mà còn là mất ưu thế về công nghệ trên thị trường thế giới cũng như trên bãi
chiến trường tương lai từ 10 đến 20 năm.
|
Из этих трендов следует извлечь урок. Какой бы важной ни
представлялась в следующем году
обеспокоенность по поводу Афганистана или обозначившегося подъема Китая,
политики, принимающие решения в области безопасности, должны отдавать себе
отчет в том, что в мире происходят еще более масштабные изменения. В 21 веке
будут создаваться огромные ценности в тех областях, которые раньше были
недоступными или вообще не существовали. Это также означает, что мы – в
очередной раз в истории – должны быть готовыми к тому, чтобы бороться по ту
сторону географических карт и в тех местах, где мы этого еще никогда раньше
не делали.
|
Từ đó có thể rút ra một bài học. Đấy là dù mối lo về Afghanistan
hay sự trỗi dậy của Trung Quốc có quan trọng đến đâu thì các chính khác tham
gia quyết định những vấn đề trong lĩnh vực an ninh cũng phải nhận thức được
rằng trên thế giới đang diễn ra những thay đổi cực kì to lớn. Trong thế kỉ
XXI con người sẽ tạo ra những giá trị lớn trong những lĩnh vực mà trước đây
chưa ai với tới, thậm chí chưa hề tồn tại. Điều đó cũng có nghĩa là một lần
nữa chúng ta phải sẵn sàng chiến đấu ở những khu vực mà trước đây ta chưa bao
giờ làm.
|
Те, кому дорог мир, также должны усвоить этот урок. Можно
игнорировать эти новые сферы или просто отказаться от необходимой стратегии и
уповать на лучшее. Или следует работать над тем, чтобы предотвращать
конфликты и кризисы, создавая при этом нормы и институты для того, чтобы
иметь возможность с ними справляться и регулировать новые пространства,
определяющие облик нашего мира.
|
Những người yêu chuộng hòa bình cũng phải học bài học này.
Có thể làm ngơ những lĩnh vực đó hoặc đơn giản là từ bỏ chiến lược cần thiết
và hi vọng vào những điều tốt đẹp hơn. Hoặc là phải làm việc nhằm ngăn chặn
xung đột và khủng hỏang, tạo ra những định chế và tiêu chuẩn để có thể xử lí và
điều chỉnh những không gian mới, những không gian quyết định bộ mặt của thế
giới chúng ta.
|
Петер Зингер
является директором организации 21st Century Initiative в американском
исследовательском центре Brookings, а также автором книги «Wired for War».
|
Peter Singer là giám
đốc cơ sở Century Initiative trong thế kỉ XXI tại trung tâm nghiên cứu
Brookings (Mĩ), ông cũng là tác giả cuốn “Wired for War”.
|
Translated by Phạm Nguyên Trường
|
|
http://inosmi.ru/world/20110208/166329729.html
|
Subscribe to:
Posts (Atom)