MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Showing posts with label MILITARY-QUÂN SỰ. Show all posts
Showing posts with label MILITARY-QUÂN SỰ. Show all posts

Friday, January 4, 2013

MiG-21 units of the Vietnam war Những chiếc MiG-21 trong chiến tranh Việt Nam





MiG-21 units of the Vietnam war
Những chiếc MiG-21 trong chiến tranh Việt Nam
By Istvan Toperczer
Istvan Toperczer

VU DINH RANG
“Air force commanders picked verteran Mig- 21 pilot Dinh Ton to take part in the action, for they believed his vast experience would allow him to cope with the poor weather conditions that plagues the area. On one of his early flight his departed from Noi Bai at 17:00 hours then recovered at Dong Hoi to refuel. Taking off again at 19:00 hrs, he headed for Route 9, but the Americans had by then become aware of his flight and pulled all of their AC-130s out of the area for good.

Chỉ huy lực lượng Không quân Việt Nam chọn MiG-21 thí điểm Đinh Tôn tham gia chiến dịch, vì họ tin rằng kinh nghiệm của anh sẽ cho phép anh ta đối phó với các điều kiện thời tiết xấu trong khu vực hoạt động. Lúc đầu anh cất cánh từ Nội Bài lúc 17 giờ sau đó hạ cánh tại Đồng Hới để nạp nhiên liệu. Lúc 19 giờ anh cất cánh trở lại và bay về phía đường 9 nhưng người Mỹ trước đó đã nhận thấy chuyến bay của anh nên đã đưa tất cả AC-130 của họ ra khỏi khu vực rồi.

VPAF missions against the B-52s met with less success in the first  half of 1971, however, so several air force officers were sent to Mu Gia Pass to observe B-52 attack patterns both during the day and at night. In September of that year, radar units were sent to Ba Don, in Quang Binh province, and to Vinh Linh to track B-52 activities.

Trong thời gian nửa đầu năm 1971, Không quân Việt Nam đối phó với B-52 kém thành công, vì vậy một số sĩ quan quân lực đã được gửi đến đèo Mụ Giạ để quan sát các kiểu tấn công của B-52 cả ban ngày lẫn ban đêm. Tháng chín năm đó, các đơn vị ra-đa được gửi đến Ba Đồn, Quảng Bình, và Vĩnh Linh  để theo dõi B-52 hoạt động.

On 4 October, commanders of 921st sent Dinh Ton to Đong Hoi, from where he would go “hunting” B-52s. The pilot took off after sunset, but the USAF crews were effectively jamming all communications in the area and he had to fly without ground radio contact. Dinh Ton soon found two B-52s in front of him, but judged the situation unsuitable for combat and diverted to Tho Xuan.

Ngày 04 Tháng Mười, chỉ huy của Biên đội 921 cử  của Đinh Tôn tới Đồng Hới, từ đó phi công này sẽ đi “săn” B-52. Anh cất cánh sau lúc hoàng hôn, nhưng quân đội Hoa Kỳ đã gây nhiễu rất hiệu quả tất cả các liên lạc trong khu vực này khiến cho anh phải bay mà không liên lạc được với đài mặt đất. Đinh Tôn sớm phát hiện ra hai chiếc B-52 ở phía trước, nhưng anh đánh giá tình hình không thích hợp để tấn công liền chuyển hướng đến Thọ Xuân.

On 20 November, two more Mig- 21s were sent to Vinh, and another jet to Anh Son. At 20:00 hrs that same day, B-52s were reported 60 ki-lô-mét to the north of Xam Nua. Pilot Vu Dinh Rang was about to become the first fighter pilot within the VPAF to intercept a B-52s.

Ngày 20 tháng 11, thêm hai chiếc MiG-21 được gửi đến Vinh, và máy bay phản lực khác tới Anh Sơn. 20 giờ cùng ngày, B-52s được phát hiện ở phía bắc Xam Nua 60 ki-lô-mét. Phi công Vũ Đình Rạng trở thành phi công máy bay chiến đấu đầu tiên của Không quân Việt Nam đánh chặn B-52.

At 2046 hrs he scrambled from Anh son airfield, and once aloft he was informed by ground control that his three targets were 100 kilometers away. He dropped his fuel tank and climbed to 10,000 meters, and at a distance of 15 kilometers, Vu Dinh Rang switched on his radar and applied full throttle. At eight kilometers he fired an AAM at one of the B-52s, and as he broke away from his attack, he spotted another bomber in front of him. Vu Dinh Rang launched his second missile, and at 21:15 hrs he landed at Anh Son. There, he was told that the first B-52 had been damaged and had to make an emergency landing in Thailand.

Lúc 20 giờ 46 phút, Vũ Đình Rạng cất cánh từ sân bay Anh Sơn. Lúc ở trên trời, anh được sở chỉ huy mặt đất thông báo có ba mục tiêu cách anh 100 ki-lô-mét. Anh vứt thùng dầu phụ và leo lên độ cao 10.000 mét và ở khoảng cách 15 ki-lô-mét Vũ Đình Rạng bật ra-đa, và tăng tốc tối đa. Lúc chỉ còn cách 8 ki-lô-mét anh bắn một quả tên lửa không đối không trúng một trong những chiếc B-52 rồi tìm cách thoát, lúc đó anh đã phát hiện một máy bay ném bom ở phía trước. Vũ Đình Rạng phóng tên lửa thứ hai, và lúc 21 giờ 15 phút anh đã hạ cánh tại Anh Sơn. Ở đó, anh nghe nói rằng lần chiếc B-52 đầu tiên đã bị thương, và phải hạ cánh khẩn cấp tại Thái Lan.

The attempt to shoot down B-52s, as well as an increased movement of North Vietnamese troops towards the south, prompted President Richard Nixon to warn Ha Noi that bombing strike would re-commence if such activities continued. As part of this threat, fighter-bombers started penetrating North Vietnamese airspace once again, and on 18 December the VPAF struck back then Le Thanh Do and Vo Si Giap downed F-4Ds 66-0241 and 65-0799 of the 432nd TRW.

Những nỗ lực bắn hạ B-52, cũng như  sự chuyển quân ngày một tăng của quân đội Bắc Việt Nam hướng về phía nam đã nhắc Tổng thống Richard Nixon phải cảnh báo Hà Nội việc ném bom sẽ nối lại nếu các hoạt động này vẫn tiếp diễn. Theo lời đe dọa này, các máy bay Mỹ bắt đầu thâm nhập Không phận Bắc Việt Nam trở lại và vào ngày 18 tháng 12 năm 1972 Lê Thành Đô và Võ Sĩ Giáp của Không quân Việt Nam đã bắn hạ hai chiếc F4D số hiệu 66-0241 và 65-0799 của TRW 432.

The air war in Vietnmese was about to reach a dramatic climax”

Tới thời điểm này, những cuộc không chiến tại Bắc Việt Nam sắp sửa trở nên khốc liệt.


Translated by Thủy Hướng Dương

Tuesday, September 4, 2012

Preparing for War with China Chuẩn bị chiến tranh với Trung Quốc






Preparing for War with China

Chuẩn bị chiến tranh với Trung Quốc

James Holmes
James Holmes
National Interest, August 16, 2012
National Interest, 16/8/2012


For an operational concept that has never been published, the U.S. military’s AirSea Battle doctrine has elicited some fiery commentary. Or maybe it stokes controversy precisely because the armed forces haven’t made it official. Its details are subject to speculation. The chief source of information about it remains an unclassified, unofficial study published in 2010 by the Washington-based Center for Strategic and Budgetary Assessments.

Do một khái niệm tác chiến vừa được công bố mà Học thuyết Tác chiến Hải-Không của quân đội Mỹ đã gây nên những bình phẩm gay gắt. Có thể nó gây nên các cuộc tranh cãi chỉ vì các lực lượng vũ trang vẫn chưa coi nó là chính thức. Các chi tiết của nó là chủ đề của những lời ức đoán.Nguồn thông tin chính về nó vẫn còn là một nghiên cứu không chính thức không thuộc loại bí mật được Trung tâm đánh giá Chiến lược và Ngân sách có trụ sở tại Washington công bố năm 2010.


The debate over AirSea Battle swirls mostly around technology and whether the doctrine is aimed at China. To answer the latter question first: Yes, it is about China. It has to be.

Cuộc tranh cãi về học thuyết Tác chiến Hải-Không chủ yếu xoay quanh khía cạnh công nghệ và câu hỏi phải chăng học thuyết này nhằm vào Trung Quốc. Có thể trả lời câu hỏi này trước: đúng, nó nhắm tới Trung Quốc.


This is no prophecy of doom. From a political standpoint, war with China is neither inevitable nor all that likely. But military people plan against the most formidable capabilities they may encounter. And from an operational standpoint, China’s People’s Liberation Army (PLA) presents the sternest “anti-access” challenge of any prospective antagonist. Either strategists, planners and warfighters prepare for the hardest case, or the United States must write off important regions or options.

Không có tiên đoán nào về sự diệt vong. Xét về khía cạnh chính trị, cuộc chiến tranh với Trung Quốc không phải là không tránh khỏi, cũng không phải là ít khả năng xảy ra. Nhưng giới chức quân đội đang lên kế hoạch chống lại các khả năng kinh khủng nhất mà họ có thể phải đương đầu. Và xét về khía cạnh chiến sự, Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA) đặt ra thách thức "chống tiếp cận" cứng rắn nhất so với bất kỳ địch thủ nào trong tương lai. Các chiến lược gia, các nhà hoạch định và cả binh sĩ đều chuẩn bị cho tình huống gay cấn nhất, cả nước Mỹ phải xác định những khu vực và lựa chọn quan trọng.


The PLA thus represents the benchmark for U.S. military success in maritime Asia, by most accounts today’s crucible of great-power competition. Other potential opponents, notably the Iranian military, fall into what the Pentagon terms “lesser-included” challenges. If U.S. forces can pierce the toughest anti-access defenses out there—if they can crack the hardest nut—the softer defenses erected by weaker opponents will prove manageable.

Như vậy, PLA được coi là cái mốc chuẩn cho sự thành công của quân đội Mỹ tại khu vực biển ở châu Á, nơi hầu hết mọi người đều gọi là cuộc thử thách gắt gao về cạnh tranh giữa các nước lớn trong thời đại ngày nay. Các đối thủ tiềm năng khác, đặc biệt là quân đội Iran, được Lầu Năm Góc xếp vào loại các thách thức "thức yếu". Bởi nếu các lực lượng của Mỹ có thể chọc thủng hệ thống phòng thủ "chống tiếp cận" cứng rắn nhất ở bên ngoài thì các hệ thống phòng thủ mềm hơn mà các đối thủ yếu hơn dựng lên sẽ hoàn toàn dễ dàng bị quản lý.


That focus on anti-access is why AirSea Battle is about China—because it’s the gold standard, not because anyone expects, let alone wants, war in the Western Pacific.

Sự chú trọng tới chiến lược "chống tiếp cận" giải thích tại sao học thuyết Tác chiến Hải Không là nhằm vào Trung Quốc - vì tiêu chuẩn vàng của họ, không phải vì ai đó mong chờ xảy ra chiến tranh tại Tây Thái Bình Dương.


The Technology

Anti-access is a catchy new name for the old concept of layered defense. Like all naval officers, I was reared on it. Think about air defense. When an aircraft-carrier task force goes in harm’s way, commanders dispatch “combat air patrols” around the fleet, concentrating along the “threat axis,” or direction from which air attack appears most likely. Interceptors from the carrier air wing constitute the first, outermost line of defense.

Công nghệ

"Chống tiếp cận" là một cái tên mới, hấp dẫn cho một khái niệm cũ về phòng thủ từng lớp. Giống như mọi sỹ quan hải quân, tôi đã phản ứng mạnh về nó. Hãy bàn về phòng không. Khi một đội đặc nhiệm tàu sân bay có dấu hiệu bị tổn hại, các chỉ huy sẽ loại bỏ "kiểm soát không chiến" xung quanh hạm đội, tập trung vào "trục đe dọa", hoặc vào hướng dễ bị tấn công từ trên không nhất. Các lá chắn từ đơn vị không quân trên tàu sân bay tạo thành hàng phòng thủ đầu tiên và ngoài cùng.


Then come surface-to-air missiles from the fleet’s picket ships. If attackers get past the fighter- and missile-engagement zones, “point” defenses such as short-range radar-guided missiles or gatling guns essay a last-ditch effort. Each defensive system engages assailants as they come within reach. Multiple engagements translate into multiple chances for a kill, improving the fleet’s chances of withstanding the assault. A corollary: defenses become denser and denser as an adversary closes in.

Sau đó tới các tên lửa hạm đối không trên các tàu của hạm đội. Nếu kẻ tấn công vượt qua được các vùng chiến của tên lửa, các vũ khí phòng thủ "mũi nhọn" như tên lửa tầm ngắn do radar điều khiển hoặc súng sẽ tham chiến như một nỗ lực cuối cùng. Mỗi hệ thống phòng thủ chiến đấu với kẻ tấn công khi chúng vào tầm với. Nhiều lớp như vậy sẽ làm tăng cơ hội sát thương, tức là tăng khả năng chống cự của hạm đội. Kết quả tất yếu là: các hệ thống phòng thủ ngày càng dày đặc khi kẻ thù càng tới gần.


The same logic applies to coastal defense but on a grand scale. A nation intent on warding off adversaries fields a variety of weapons and platforms to strike at sea and aloft. These systems have varying ranges and design parameters. Tactical aircraft can fly hundreds of miles offshore and fire missiles that extend their lethal reach still farther. Missile-armed patrol boats have small fuel tanks and limited at-sea endurance, so they stick relatively close to home. The same goes for diesel-electric submarines.


Logic tương tự cũng được áp dụng trong phòng thủ ven biển nhưng trên một quy mô lớn. Một quốc gia muốn tránh kẻ thù bằng cách tung ra một loạt vũ khí và học thuyết để tấn công trên biển và trên không. Các hệ thống này có phạm vi khác nhau và được thiết kế các thông số khác nhau. Máy bay chiến đấu chiến thuật có thể bay hàng trăm dặm ở ngoài khơi và bắn tên lửa có tầm sát thương xa hơn thế. Các tàu tuần tra gắn tên lửa chỉ mang các thùng chứa dầu nhỏ và hạn chế khả năng hoạt động ngoài khơi, vì vậy chúng chủ yếu được cài cắm ở gần nhà. Tương tự với các tàu ngầm chạy bằng động cơ điện diesel.

If anti-access is about mounting layered defenses, AirSea Battle is about developing technologies and tactics for penetrating them. Thus, in some sense China and America are replaying the interwar years. War planning commenced in earnest following World War I. Imperial Japan planned to shut the U.S. Pacific Fleet out of the waters, skies and landmasses within a defense perimeter enclosing the Western Pacific, the China seas, Southeast Asia and parts of the Bay of Bengal. Not to be outdone, U.S. Navy officers devised and tested out war plans for breaching Japanese anti-access measures.


Nếu chiến lược chống tiếp cận là nấc cao hơn của phòng thù từng lớp, thì Tác chiến Hải Không nhằm phát triển các công nghệ và chiến thuật để thâm nhập chúng. Như vậy, hiểu theo cách nào đó thì Trung Quốc và Mỹ đang chiếu lại những năm giữa hai cuộc chiến tranh. Việc hoạch định chiến tranh đã bắt đầu ngay sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhật Hoàng đã lên kế hoạch đuổi cổ hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ khỏi các vùng biển, vùng trời và lãnh thổ nằm trong chu vi phòng thủ của mình, bao chùm Tây Thái Bình Dương, các biển của Trung Quốc, Đông Nam Á và nhiều phần ở Vịnh Bengal. Không để bị lấn át, các sĩ quan Hải quân Mỹ đã bày mưu và thử nghiệm các kế hoạch chiến đấu để phá hỏng các biện pháp chống tiếp cận của Nhật Bản.


Weirdly, planners on both sides of the Pacific largely agreed on how the coming conflict would unfold. Japan would lash out at the U.S.-held Philippines. U.S. leaders would order the Pacific Fleet to relieve the islands, confronting the Imperial Japanese Navy with a numerical mismatch. Anti-access, Japanese style, meant forward-deploying warplanes to islands along the defense perimeter and submarines to adjacent waters. Aerial and undersea attacks would whittle the U.S. fleet down as it lumbered westward—evening the odds before a decisive battle somewhere in Asian waters.

Rất lạ là các nhà hoạch định ở cả hai bên bờ Thái Bình Dương đều đã có suy nghĩ giống nhau về cách thức cuộc xung đột sẽ diễn ra. Nhật Bản sẽ đánh bất ngờ vào Philippines (đang được Mỹ ủng hộ). Giới chức Mỹ sẽ ra lệnh cho Hạm đội Thái Bình Dương bảo vệ các đảo, chống lại Hải quân Hoàng gia Nhật nhưng với số lượng không tương xứng. Chiến lược chống tiếp cận kiểu Nhật là các máy bay chiến đấu được dàn quân phía trước các đảo dọc theo chu vi phòng thủ và tàu ngầm thì được huy động ở các vùng nước liền kề. Các cuộc tấn công trên không và dưới biển sẽ đuổi cổ hạm đội của Mỹ về hướng Tây trước khi xảy ra một trận chiến quyết định ở đâu đó trong các vùng biển của châu Á.

Submarines and land-based tactical aircraft remain among the panoply of anti-access weaponry. Complementing them are missile-armed patrol boats acting as offshore pickets; shore-fired antiship cruise missiles; and antiship ballistic missiles with ranges conservatively estimated at over nine hundred statute miles. Beijing would expect the PLA Navy surface fleet to handle whatever remnants of the U.S. Pacific Fleet limped into East Asian waters following repeated aerial and subsurface onslaughts.


Các tàu ngầm và máy bay chiến thuật trên mặt đất vẫn là một phần của "bộ áo giáp" vũ khí chống tiếp cận. Bổ sung cho chúng là các tàu tuần tra gắn tên lửa hoạt động như đội quân cảnh ngoài khơi; các tên lửa hành trình chống hạm được bắn từ mặt đất; và các tên lửa đạn đạo chống hạm với tầm xa có thể lên tới hơn 900 dặm. Bắc Kinh có thể hy vọng hạm đội mặt đất của Hải quân PLA đối phó với bất kỳ thứ gì còn sót lại của Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đang ì ạch trên các vùng biển ở Đông Á sau các cuộc công kích liên tiếp từ trên không và dưới mặt nước.

The Human Element

The hardware dimension of the U.S.-China strategic competition, however, is inextricable from the all-important human dimension. Weapons don’t fight wars, as strategic thinkers from U.S. Air Force colonel John Boyd to Chinese Communist Party chairman Mao Zedong remind us; people who operate weapons do. Both individuals and the big institutions they serve have deep-seated worldviews and ideas about how to cope with the strategic surroundings. A culture that comports with strategic and operational circumstances represents an asset. A culture that flouts reality is a huge liability.


Yếu tố con người

Tuy nhiên, khía cạnh vũ khí hạng nặng trong cuộc cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung không thể tách khỏi khía cạnh nhân lực vốn là vô cùng quan trọng. Các loại vũ khí không tự nó giao đấu trong các cuộc chiến tranh. Các nhà tư tưởng chiến lược từ Đại tá John Boyd thuộc lực lượng Không quân Mỹ đến Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông đã nói: chính con người vận hành các vũ khí làm nên việc này. Từng cá nhân và các thể chế lớn mà họ phục vụ đều có thế giới quan và các ý tưởng sâu sắc về việc làm thế nào để đối phó với các vùng biên chiến lược. Một nền văn hóa thích ứng với hoàn cảnh chiến lược và tác chiến là một tài sản. Một nền văn hóa lăng nhục thực tế là một trách nhiệm rất lớn.


So the struggle between AirSea Battle and anti-access is about more than developing gee-whiz technologies. A culture war is brewing between two great powers with very different conceptions of the relationship among land, air and sea power. And again, ideas matter. As naval historian Julian S. Corbett explains, armaments are “the expression in material of strategical and tactical ideas that prevail at any given time.” What hardware a nation’s armed forces acquire speaks volumes about how strategic leaders think about war—and how they may wage it.


Như vậy, sự đấu tranh giữa học thuyết Tác chiến Hải Không và chiến lược "chống tiếp cận" liên quan đến việc phát triển các công nghệ mới tinh vi. Một cuộc chiến tranh văn hóa được hình thành giữa hai cường quốc lớn với nhiều khái niệm khác nhau trong quan hệ giữa bộ binh, không quân và hải quân. Một lần nữa, lại là vấn đề các ý tưởng! Theo nhà sử học về hải quân Julian S. Corbett, các loại vũ khí là "cách thể hiện ra bên ngoài của các tư tưởng chiến thuật và chiến lược được ưa chuộng vào một thời điểm nào đó". Các loại vũ khí hạng nặng mà lực lượng vũ trang của một quốc gia mua sắm cho thấy mức độ giới lãnh đạo chiến lược nước đó nghĩ về chiến tranh, và cách họ có thể bắt đầu cuộc chiến ấy.


China conceives of land-based forces as intrinsic to sea power and has done so at least since the inception of the People’s Republic. This composite conception of sea power comes as second nature for the PLA. Mao Zedong reportedly issued the PLA Navy’s founders three curt instructions: “fly, dive, fast!” Commanders, that is, premised maritime defense on short-range aircraft flying from airfields ashore, diesel submarines diving beneath the waves, and fast patrol boats armed with guns and missiles. These were the ancestors of today’s ultramodern anti-access force.

Trung Quốc coi các lực lượng có căn cứ trên mặt đất là cốt lõi của lực lượng hải quân và quan điểm này có từ khi ra đời nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Khái niệm bổ trợ này về hải quân là bản chất thứ hai của PLA. Mao Trạch Đông đã nhiều lần đưa ra ba chỉ dẫn ngắn gọn về nền tảng của Hải quân PLA: "bay, lặn, nhanh!". Như vậy, các tư lệnh giả thuyết phòng vệ biển dựa trên việc sử dụng các máy bay tầm ngắn từ căn cứ không quân trên bờ, các tàu ngầm chạy bằng diesel lặn sâu dưới các con sóng, và các tàu tuần tra nhanh được trang bị súng và tên lửa. Đây là hình thức sơ khai của lực lượng chống tiếp cận siêu hiện đại ngày nay.


Maoist China viewed sea power as more than the fleet. It was an amalgam of seagoing and land-based platforms and weaponry. Accordingly, the navy remained close to home throughout Mao’s long tenure as CCP chairman. That’s markedly different from the U.S. Navy, which kept squadrons on foreign station from its earliest history. Forward deployment is in American seafarers’ DNA. Think Thomas Jefferson and the Barbary Wars. China, by contrast, has not forward deployed warships since the Ming Dynasty—and even then it did so only intermittently. The ongoing counterpiracy deployment off Somalia thus marks a break with centuries of historical practice.

Trung Quốc thời Mao Trạch Đông đề cao sức mạnh hải quân hơn các hạm đội. Đó là một sự pha trộn của các nền tảng và vũ khí trên đất liền và ở ngoài khơi. Do đó, hải quân vẫn gắn liền với đất liền trong suốt thời Mao Trạch Đông là Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Quan niệm trên hoàn toàn khác với Hải quân Mỹ, vốn duy trì các hạm đội ở các căn cứ ngoài nước ngay từ những ngày đầu lịch sử. Việc huy động lực lượng ra nước ngoài nằm trong "ADN" của lực lượng biển của Mỹ. Ngược lại, Trung Quốc không hề huy động tàu chiến ra nước ngoài kể từ triều nhà Minh, thậm chí sau đó, họ cũng chỉ thỉnh thoảng làm việc này. Vì vậy, việc huy động lực lượng chống cướp biển ở ngoài khơi Somalia đánh dấu một bước ngoặt sau nhiều thế kỷ.



The PLA Navy has remained true to its Maoist history even while constructing a blue-water fleet. Coastal defense remains the service’s core function, although it has vastly expanded its defensive zone.

Hải quân PLA vẫn đúng với lịch sử thời Mao Trạch Đông ngay cả khi họ xây dựng một hạm đội biển xanh. Bảo vệ bờ biển vẫn là chức năng cốt lõi của lực lượng này, dù họ đã mở rộng đáng kể khu vực phòng thủ của mình.


If the PLA Navy needs to reinvent its institutional culture to operate far from Chinese coasts, the U.S. military faces an even stiffer cultural challenge in orienting itself to new realities. The post–Cold War U.S. military came to see naval power as a supporting arm of land power. The U.S. Navy projected power onto distant shores, supporting the army, Marines and air force as these sister services prosecuted air and ground campaigns in theaters such as Iraq and Afghanistan.

Nếu Hải quân PLA cần tạo lại văn hóa thể chế của mình để hoạt động ra xa bờ biển Trung Quốc, thì quân đội Mỹ phải đối mặt với một thách thức văn hóa thậm chí còn lớn hơn trong việc hướng Đông tới các thực tế mới. Quân đội Mỹ thời hậu chiến tranh Lạnh coi sức mạnh hải quân là vũ khí hỗ trợ sức mạnh bộ binh. Hải quân Mỹ phô trương sức mạnh ở ngoài khơi xa, hỗ trợ bộ binh, lực lượng lính thủy đánh bộ và không quân, như trường hợp các đơn vị "chị em một nhà" này theo đuổi các chiến dịch không - bộ phối hợp trong các mối đe dọa như ở Iraq hay Afghanistan.


Facing no competitor of the Soviet Navy’s stature, the U.S. Navy leadership issued guidance stating that the navy could assume it commanded the sea. There was no one to contest its mastery. Thus, in the words of the 1992 directive "...From the Sea," the service could “afford to de-emphasize efforts in some naval warfare areas.” In practice, that meant capabilities like antisubmarine warfare and mine countermeasures—capabilities critical to surviving and prospering in anti-access settings—languished for two decades.

Không có đối thủ tầm cỡ Hải quân Liên Xô, giới lãnh đạo Hải quân Mỹ đưa ra chỉ đạo nói rằng hải quân có thể cho rằng nó chỉ huy biển. Không có ai để tranh cãi về địa vị chủ nhân của nó. Do đó, trong lời lẽ của các chỉ thị năm 1992 có viết "... Từ Biển," dịch vụ này "có thể đủ khả năng để giàm bớt nỗ lực trong một số lĩnh vực chiến tranh hải quân". Trên thực tế, điều đó có nghĩa là các năng lực như chiến tranh chống tàu ngầm và đáp trả ngư lôi - các năng lực quan trọng để sống sót và thành công trong việc chống tiếp cận - đã phai mờ sau hai thập kỷ.


Only now are they being rejuvenated. As the anti-access challenge has come into focus, the navy has started scrambling to upgrade its weaponry and relearn half-forgotten skills. In all likelihood, the air force is in worse straits. Despite Billy Mitchell’s early experiments with using air power to defend American coasts—remember his famous 1920 sinking of a battleship from the air—the modern U.S. Air Force does not consider fighting at sea one of its central purposes. The services have some way to go before they can put forth the cohesive effort AirSea Battle demands.


Hiện nay, các năng lực này đang tái sinh. Khi thách thức chống tiếp cận trở thành trọng tâm, hải quân đã bắt đầu chạy đua nâng cấp vũ khí và tái huấn luyện các kỹ năng đã bị quên lãng một nửa. Nhiều khả năng, Không quân rơi vào tình cảnh khó khăn hơn. Bất chấp các cuộc thử nghiệm ban đầu của Billy Mitchell với việc sử dụng không quân để bảo vệ các bờ biển của Mỹ - còn nhớ vụ đánh chìm một chiến hạm từ trên không năm 1920 nổi tiếng của ông - Không quân Mỹ hiện đại không coi chiến đấu trên biển là một trong các mục đích chính.

Punching the Pillow

In short, the Asian continental power takes a holistic view of sea power, while the power that rules the waves thinks of sea power as subsidiary to land power. This cultural inversion would favor PLA defenders in a U.S.-China war. After all, fighting offshore is familiar terrain for them, whereas U.S. leaders long assumed they no longer had to fight for sea control. The services must dispel that ingrained assumption. The advantage goes to China unless the U.S. Navy and Air Force undertake a cultural transformation ahead of time, learning to work together in the maritime domain.


Đấm bị bông

Nói tóm lại, cường quốc lục địa châu Á có cái nhìn chính thể luận đối với sức mạnh biển, trong khi cường quốc điều khiển các con sóng lại coi sức mạnh biển là sự bổ trợ cho bộ binh. Sự đảo ngược về văn hóa này sẽ có lợi cho những người ủng hộ PLA nếu xảy ra chiến tranh Mỹ - Trung. Sau cùng, việc chiến đấu ở ngoài khơi là rất quen thuộc đối với họ, trong khi các lãnh đạo Mỹ từ lâu cho rằng họ không còn phải đấu tranh để kiểm soát biển. Các đơn vị phải xóa tan suy nghĩ thâm căn cố đế này. Lợi thế thuộc về Trung Quốc, trừ phi Hải quân và Không quân Mỹ có sự biến chuyển về văn hóa trong thời gian tới, và học cách phối hợp với nhau trên biển.


Reinventing military institutions in peacetime invariably poses a high-order leadership challenge. It often takes some trauma—like defeat—to clear minds. What to do, short of that doomsday scenario?

Tái thành lập các thể chế quân sự trong thời bình luôn đặt ra một thách thức lớn cho các lãnh đạo cấp cao. Nó sẽ gây ra một số sang chấn - như sự thất bại - đối với những ký ức còn rõ ràng. Phải làm gì đây, kịch bản ngày tận thế chăng?

First, we need an official AirSea Battle concept to jolt the services into action and impart direction. Let’s publish one. Second, the navy and air force must embrace the concept, forging themselves into a joint weapon of sea combat. And third, national leaders must hold the services accountable for this project.

Trước tiên, Mỹ cần một khái niệm Tác chiến Hải Không để kích hoạt các đơn vị hành động và đưa ra định hướng. Sau đó công bố nó. Thứ hai, hải quân và không quân phải bám lấy khái niệm này, buộc mình vào một kho vũ khí chung của chiến tranh trên biển. Và thứ ba, các lãnh đạo đất nước phải có trách nhiệm giải thích với từng đơn vị về kế hoạch này.


Franklin Roosevelt once compared the U.S. Navy to a pillow. Civilian officials could punch it as hard as they liked, but it sprang back to the same shape. One suspects the U.S. Air Force bureaucracy is the same way.
Keep punching, Washington.

Franklin Roosevelt từng so sánh Hải quân Mỹ với một chiếc gối bông. Giới chức dân sự có thể đấm vào đó mạnh nhất có thể, nhưng nó sẽ bật lại đúng như vậy. Một số người e rằng Không quân Mỹ cũng như vậy quan lieu như thế.
Washington, cứ đấm đi.

James Holmes is an associate professor of strategy at the Naval War College and a contributor to Competitive Strategies for the 21st Century, just out from Stanford University Press. The views voiced here are his alone.
James Holmes là một giáo sư về chiến lược tại Đại học Hải Chiến. Ông là cộng tác viên cho Chiến lược cạnh tranh cho thế kỷ 21, do Đại học Stanford xuất bản. Những quan điểm nêu lên ở đây chỉ là quan điểm riêng của tác giả.


Translated by Châu Giang


http://nationalinterest.org/commentary/preparing-war-china-7352?page=show

Wednesday, July 25, 2012

Three Paths to Nuclear Escalation with China Ba con đường dẫn tới leo thang hạt nhân với Trung Quốc



Three Paths to Nuclear Escalation with China

Ba con đường dẫn tới leo thang hạt nhân với Trung Quốc

Joshua Rovner
Joshua Rovner

The National Interest July 19, 2012

The National Interest, 19/7/2012
The U.S. military has enjoyed extraordinary freedom of maneuver since the end of the Cold War. The fall of the Soviet Union meant that no one else was left to seriously challenge the United States when it decided to act abroad. Today, however, strategists worry that U.S. rivals are developing weapons that will make it difficult or impossible to gain access to contested areas. Dealing with the so-called “anti-access” problem has become a central task for civilian and military planners—and something close to an obsession for the navy.

Kể từ khi kết thúc cuộc chiến tranh lạnh, lực lượng Mỹ có được tự do khác thường về diễn tập quân sự. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết có nghĩa là không có một quốc gia nào khác dám đương đầu với Mỹ khi quyết định tham chiến tại nước ngoài. Tuy nhiên, ngày nay các nhà chiến lược lo ngại rằng kẻ thù của Mỹ đang phát triển vũ khí hạt nhân, điều này sẽ gây khó khăn cho Mỹ trong việc giành quyền tiếp cận đối với những khu vực tranh chấp. Giải quyết cái gọi là vấn đề "chống tiếp cận" trở thành một nhiệm vụ quan trọng các nhà chiến lược, đồng thời là một sự ám ảnh của lực lượng hải quân Mỹ.


One popular solution is AirSea Battle (ASB). In its most general sense, ASB is about increasing integration between the navy and the air force. Service leaders argue that without serious advance planning, coordination is likely to break down in the midst of a conflict. This must include not just operational discussions about war fighting but also integrated training, data sharing and weapons procurement. As the air force and navy service chiefs put it in a recent article, the idea is to “take ‘jointness’ to a new level.” Jointness is a favorite buzzword in Washington, and enthusiastic defense officials recently opened the AirSea Battle Office in the Pentagon.


Một biện pháp phổ biến để giải quyết vấn đề trên là triển khai cuộc chiến không quân trên biển (ASB). Trong một chiều hướng chung nhất, ASB là sự tăng cường phối hợp giữa lực lượng hải quân và không quân. Giới chức quân đội hiện đang tranh cãi về việc phải triển khai kế hoạch đồng bộ cho chiến lược này như thế nào và lo ngại rằng nếu không thực hiện tốt sự phối hợp giữa hai lực lượng trên thì Mỹ sẽ thất bại ngay giữa cuộc xung đột. Điều này chắc chắn phải bao gồm quá trình thảo luận kế hoạch hành động về cuộc chiến tranh cũng như phối hợp đào tạo, chia sẻ dữ liệu và mua bán vũ khí. Do lực lượng không quân và người đứng đầu lực lượng hải quân đưa ra một vài luận điểm gần đây, chủ yếu là ý kiến "tiến hành phối hợp" ở một mức độ mới. "phối hơp" là một từ thường được giới chức quân sự Oasinhtơn sử dụng trong thời gian gần đây, họ cũng đang có dự định khai trương một văn phòng cuộc chiến không quân trên biển thuộc Bộ Quốc phòng.


Strangely, much of the discussion about AirSea Battle has been about what it is not. Officials have stressed that ASB is not a single operational concept about how to fight wars; they simply say that they want to maximize interservice integration so that regional combatant commanders have maximum confidence in their ability to carry out their operational decisions. Officials also have stressed that ASB is not about China or any other country. At a press conference describing the purposes of the AirSea Battle Office, they went to great lengths to fend off such suggestions from incredulous reporters.


Điều lạ là đã có rất nhiều sự  thảo luận về cuộc chiến không quân trên biển nhưng nội dụng lại không phải như vậy. Các quan chức nhấn mạnh rằng ASB không phải là một khái niệm hoạt động đơn lẻ về việc tiến hành một cuộc chiến tranh như thế nào; đơn giản hơn là họ muốn một sự phối hợp quân sự lớn nhất trong khả năng có thể để tiến hành cuộc chiến trên. Tại một cuộc họp báo về mục đích thành lập văn phòng ASB, họ đã tránh được nhiều phỏng đoán ngờ vực của các phóng viên.

Not everyone buys these arguments. In theory, the proliferation of anti-access weapons means that any country could create problems for forward-deployed U.S. forces. In reality, there is a very short list of countries that have both the interest and wherewithal to make life nasty for the United States. China is first on the list. No one is investing more in anti-access capabilities than China, which in the last decade has acquired an impressive array of submarines, antiship ballistic missiles, antiship cruise missiles and antisatellite weapons. And no one has a clearer interest in denying U.S. forces entry in the event of a crisis. China has particularly strong reasons for wanting to keep the U.S. Navy from undertaking a show of force in or around the Taiwan Strait, as it did during previous crises. U.S. planners are not naive about China's motives, and they seek new ways of undermining China's new capabilities. “Let's just say it,” two Naval War College professors recently wrote, “AirSea Battle in East Asia is about China.”


Không phải tất cả mọi người đều đồng ý với luận điểm đó. Theo lý thuyết, việc gia tăng nhanh chóng vũ khí chống tiếp cận đồng nghĩa với việc nhiều nước đã tạo ra lý do để lực lượng Mỹ triển khai lực lượng. Trên thực tế, có một số nước có cả lợi ích và tiền bạc để khiến cuộc sống ở Mỹ trở nên khó chịu. Trung Quốc là nước đầu tiên trong danh sách đó. Không có một quốc gia nào đầu tư vào vũ khí chống tiếp cận nhiều hơn Trung Quốc, quốc gia này từ thập kỷ trước đã triển khai được một lược lượng đội quân tàu ngầm, tên lửa dùng cho hải quân, tên lửa dùng cho tàu tuần tra và vũ khí chống tên lửa đạn đạo một cách đầy ấn tượng.  Và không có một quốc gia nào có lợi ích rõ ràng hơn trong việc phủ nhận sự thâm nhập của lực lượng Mỹ trong cuộc khủng hoảng. Trung Quốc có nhiều lý do đặc biệt để cảnh báo sự hiện diện của hải quân Mỹ tại eo biển Đài Loan do nước này đã thực hiện trước thời điểm khủng hoảng. Giới chức quân sự Mỹ cũng không ngây thơ trước động thái của Trung Quốc và họ tìm kiếm những con đường mới để khiến khả năng của Trung Quốc bị tiêu diệt. "Chỉ nói về nó" là bài viết của hai giáo sư thuộc trường đại học chiến đấu hải quân Mỹ gần đây, bài viết cho rằng "cuộc chiến không quân trên biển tại Đông á là nhằm vào Trung Quốc".


Nor is it the case that AirSea Battle is just about jointness. Last year the Center for Strategic and Budgetary Assessments (CSBA) published a long monograph on the concept, which remains the most comprehensive treatment to date. According to CSBA, AirSea Battle envisions a sequence of operations designed to overcome enemy obstacles and guarantee U.S. access. The first step is a “blinding attack” on key facilities, including long-range weapons that threaten U.S. bases and carrier groups, along with the radar systems needed to cue them. This initial volley would deliberately strike the enemy’s intelligence, surveillance and reconnaissance (ISR) systems and make it impossible to organize an attack in the aftermath. The second step includes efforts to bottle up the enemy’s naval fleet behind a distant blockade, which would allow the United States plenty of time to bring superior forces to the theater.


Cuộc chiến không quân trên biển không chỉ đề cập đến việc phối hợp. Năm ngoái, Trung tâm chiến lược và đánh giá ngân sách (CSBA) đã xuất bản một chuyên đề dài về khái niệm này, bao gồm những phương pháp hoàn chỉnh nhất mới được cập nhật cho đến ngày nay về cách ứng xử trong cuộc chiến. Theo CSBA, cuộc chiến không quân trên biển là một chuỗi các hoạt động được vạch ra nhằm thoát khỏi sự ngăn chặn của kẻ thù và đảm bảo cho sự thâm nhập của lực lượng Mỹ. Bước đầu tiên là một "cuộc tấn công dọn đường" nhằm vào các căn cứ quan trọng như vũ khí tầm xa, vốn là sự đe dọa đối với các căn cứ của Mỹ và những nhóm vận chuyển cùng với hệ thống rađa. Đây là bước tiến ban đầu có thể cân nhắc để tiến hành cuộc chiến đối với hệ thống tình báo của kẻ thù như hệ thống giám sát và trinh sát (ISR) và khiến cho cuộc chiến của Mỹ trở nên dễ dàng và có hiệu quả. Bước thứ hai là "cầm chân" hạm đội hải quân của kẻ thù  với một khoảng cách cố định, điều này cho phép Mỹ có nhiều thời gian để triển khai lực lượng hùng mạnh đến đe dọa đối phương.


While officials have not been specific about AirSea Battle, there are reasons to believe that the CSBA version is close to the mark. The United States, after all, has danced the same two-step in all of its recent conventional wars. And despite arguments that ASB is not a single operational approach, the service chiefs and officers from the AirSea Battle Office write that it relies on a construct called “disrupt-destroy-defeat” that closely follows the CSBA script. By disrupt they mean attacking the enemy's ISR and command-and-control facilities. By destroy they mean killing things like “ships, submarines, aircraft, and missile launchers.” Defeating the enemy will be much easier after these two steps are complete.


Trong khi các quan chức không đưa ra chi tiết về cuộc chiến không quân trên biển thì có nhiều lý do để tin rằng sách lược của CSBA gần với mục đích của Mỹ. Mỹ đã nhảy hai bước giống nhau cùng một lúc trong tất cả các cuộc chiến quy ước trong thời gian gần đây. Mặc dù có những tranh cãi rằng ASB không chỉ là một các tiếp cận hoạt động đơn lẻ, chỉ huy lực lượng và các quan chức từ văn phòng cuộc chiến không quân trên biển viết rằng nó dựa vào cấu trúc gọi là "phá vỡ-phá hủy-thua trận" điều này gần nhất với kịch bản của CSBA. Phá vỡ có nghĩa là tiêu diệt tất cả những thứ như "tàu, tàu ngầm, máy bay, bệ phóng tên lửa". Chiến thắng kẻ thù sẽ dễ dàng hơn nhiều sau khi hai bước trên được hoàn tất.


AirSea Battle is seductive. Some officials believe that it may act as a competitive strategy that will lure rival states into self-defeating arms races with the richer and more technologically advanced United States. They also hope that AirSea Battle acts as a deterrent. If adversaries like China become convinced that they cannot overcome U.S. military superiority, they are unlikely to pick a fight in the first place. Most important, however, is the alluring idea that AirSea Battle can undue years of efforts by the Chinese to keep the United States out. China has invested greatly in solving one big operational problem. AirSea Battle is an appealing way to “unsolve” its operational breakthrough.


Cuộc chiến không quân trên biển rất hấp dẫn. Một vài quan chức tin rằng nó có thể thực hiện như một chiến lược hoàn hảo và khiến các quốc gia thù địch tự thất bại trong cuộc chạy đua vũ trang với nước giàu hơn và có công nghệ tiên tiến như Mỹ. Họ cũng hy vọng rằng những hành động của cuộc chiến không quân trên biển sẽ là một sự ngăn chặn. Nếu Trung Quốc chắn chắn rằng họ không thể vượt qua quân đội hùng mạnh của Mỹ thì họ đã không tiến hành cuộc chiến ở giai đoạn đầu tiên. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là ý kiến đáng để ý khi cho rằng cuộc chiến không quân trên biển có thể không đáng mất nhiều thời gian của của Trung Quốc để tìm cách hất cẳng Mỹ. Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều để giải quyết một hoạt động quân sự lớn. Cuộc chiến không quân trên biển là một đề xuất thú vị trong khi Mỹ chưa tìm ra cách chọc thủng phòng tuyến hoạt động quân sự của đối phương.

But there are also serious risks to this approach, including the danger of nuclear escalation if AirSea Battle is ever implemented in a shooting war with China.


Tuy nhiên, cũng có nhiều nguy cơ rủi ro trong cách tiếp cận này, bao gồm sự nguy hiểm trong việc leo thang hạt nhân nếu cuộc chiến không quân trên biển nhằm vào Trung Quốc.


There are three pathways to nuclear escalation. Psychological pressures can lead to serious misperceptions about enemy intentions, causing states to overreact to limited military actions. Political pressures also can make escalation possible, especially if the target government fears that it will lose power if it loses the war. In these cases the government might take extraordinary risks in order to “gamble for resurrection.” Finally, inadvertent escalation can occur when conventional attacks put the enemy's nuclear capabilities at risk. In these cases the enemy might worry that the attack is only the first phase of a larger war.


Có ba con đường để leo thang hạt nhân. Việc các nhà quân sự gây áp lực có thể dẫn đến việc nhận thức sai lầm về mục đích của kẻ thù, nguyên nhân khiến các quốc gia có phản ứng thái quá đối với việc giới hạn các hành động quân sự. Áp lực về mặt chính trị cũng có thể khiến khả năng leo thang gia tăng, đặc biệt nếu chính phủ mục tiêu sợ rằng nó sẽ mất quyền lực nếu thua trận. Trong những trường hợp đó chính phủ phải lường trước được rủi ro bất thường theo hướng "đánh bạc với sự phục hồi". Cuối cùng, sự leo thang một cách thiếu thận trọng có thể xảy ra khi các cuộc tấn cộng một cách qui ước  làm cho cơ sở hạt nhân của kẻ thù gặp rủi ro. Trong trường hợp này kẻ thù có thể lo lắng rằng cuộc tấn công này chỉ là giai đoạn đầu của cuộc một chiến tranh lớn.


AirSea Battle opens all three pathways to escalation. By deliberately launching a blinding attack, it would increase the chance of serious misperceptions and complicate any effort to reassure China of limited U.S. intentions. It also would exacerbate the political problem for the Chinese Communist Party, which long ago gave up its ideological mandate and now relies on a combination of nationalism and economic growth in order to stay in power. Given signs of weakness in the Chinese economy, we soon may face a situation in which the CCP relies on nationalism alone. Under these circumstances it is likely to be very risk acceptant, and, if faced with a humiliating defeat in the early stages of a conflict with the United States, it will have strong political incentives to escalate.


Cuộc chiến không quân trên biển mở ra tất cả ba con đường để leo thang. Bằng cách đưa ra một cuộc tấn công mở đường, nó có thể tăng khả năng nhận thức sai lầm một cách nghiêm trọng và phức tạp tình hình trong bối cảnh Trung Quốc nỗ lực giới hạn mục đích của Mỹ. Nó cũng trích dẫn vấn đề chính trị của Đảng cộng sản Trung Quốc vốn kéo dài nhiều năm qua về sự tồn tại hệ tư tưởng dựa chủ yếu vào sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân túy và tăng trưởng kinh tế theo hướng duy trì quyền lực. Đưa ra dấu hiệu yếu kém của nền kinh tế Trung Quốc, chúng ta sớm có thể đối mặt với một tình huống mà CCP chỉ dựa vào chủ nghĩa dân túy. Theo đó, có nhiều nguy cơ nếu Trung Quốc thua trận ngay trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột với Mỹ, nó sẽ có động chính trị mạnh mẽ để leo thang.


Finally, AirSea Battle runs the risk of inadvertent escalation, especially if the United States strikes the Chinese mainland. The fact that strategists are so concerned about land-based Chinese ballistic missiles suggests that these might well be targeted. U.S. planners may believe they can distinguish conventional from nuclear sites, but Chinese leaders might reasonably fear that the United States is attempting a preemptive strike against its nuclear weapons and associated command-and-control systems. In this scenario, Beijing might face a terrible use-it-or-lose-it dilemma.


Cuối cùng, khởi động cuộc chiến không quân trên biển sẽ đem đến nhiều rủi ro trong việc leo thang hạt nhân, đặc biệt nếu Mỹ đánh Trung Quốc đại lục. Trên thực tế, nhiều nhà chiến lược cũng quan tâm đến cơ sở đạn đạo trên đất liền của quốc gia này với ngụ ý rằng nơi đây có thể sẽ trở thành mục tiêu. Các nhà kế hoach Mỹ tin rằng họ có thể nhận ra các cơ sở hạt nhân. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng sợ rằng Mỹ sẽ nỗ lực cho một cuộc chiến ưu tiên chống lại vũ khí hạt nhân của nước này và liên kết giữa hệ thống điều hành và kiểm soát. Trong tình huống khó xử đó, Bắc Kinh có thể phải đối mặt với một tình huống tiến thoái lương nan đầy khó khăn đó là sử dụng nó hoặc bị phá hủy.


The original CSBA monograph, which seems to be close to the “official” version of AirSea Battle, ignored the danger of nuclear escalation. Instead, it simply assumed that any war between the United States and China will remain at the conventional level because “agreement not to use or threaten the use of nuclear weapons would appear to be in both parties’ interests.” But strikes on the Chinese mainland might provoke an overreaction even if Chinese leaders would do better to show restraint. We should expect nothing less: states do not take kindly to attacks on their own soil. Other analysts recognize this danger and have offered operational concepts that attempt to mitigate the risk of escalation by stressing patience and less provocative plans. Given the stakes involved, defense officials should take these alternatives seriously.


Trong bản chuyên đề đầu tiên của CSBA, dường như gần với tầm nhìn của các nhà chức trách "thiết kế" cuộc chiến không quân trên biển, lờ đi mối nguy hiểm trong việc leo thang hạt nhân. Thay vào đó, nó tóm tắt một cách đơn giản rằng nhiều cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ duy trì ở mức độ hiệp ước vì "hiệp ước không được dùng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân có thể xuất hiện đối với lợi ích của các hai đảng". Tuy nhiên, cuộc chiến trên đại lục Trung Quốc có thể khiếu khích một phản ứng thái quá thậm chí nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể làm tốt hơn để kiềm chế. Các quốc gia không để yên khi có một cuộc tấn công trên đất nước họ. Các nhà phân tích khác công nhận mối nguy hiểm này và đề nghị đưa ra một khái niệm hoạt động theo hướng giảm nhẹ sự khiêu khích dẫn đến nguy cơ của leo thang bằng cách nhấn mạnh sự kiên nhẫn và ít khiêu khích hơn trong kế hoạch. Thay vào đó, các nhà quan chức quốc phòng nên đưa ra một kế hoạch liên quân và có những biện pháp lựa chọn một cách nghiêm túc.


For a longer version of this essay, see “AirSea Battle and Escalation Risks,” U.C. San Diego Institute on Global Conflict and Cooperation, Policy Brief 12 (January 2012). The views here are the author’s alone. They do not necessarily represent the views of the Naval War College, the U.S. Navy or the Department of Defense.


Chuyên đề dài hơn của tiểu luận này vời nhan đề "Cuộc chiến không quân trên biển và những nguy cơ" do Viện Sandiego về cuộc xung đột toàn cầu và hợp tác phát hành tháng 1/2012. Quan điểm trên đây là của riêng tác giả. Nó không nhất thiết đại diện cho những quan điểm của Đại học chiến đấu hải quân, hải quân Mỹ hay Bộ quốc phòng.
Joshua Rovner is an associate professor of strategy and policy at the U.S. Naval War College.
Joshua Rovner là giáo sư chuyên ngành chiến lược và chính sách của Đại học đấu tranh hải quân Mỹ.




Translated by Mai Linh


http://nationalinterest.org/blog/the-skeptics/three-paths-nuclear-escalation-china-7216?page=1

Sunday, July 1, 2012

Поля сражений будущего Những bãi chiến trường tương lai




Поля сражений будущего

Những chiến trường tương lai

Петер Зингер (Peter Singer)
("Sueddeutsche Zeitung", Германия)

Peter Singer
(Sueddeutsche Zeitung)
Арктика, космос и киберпространство – еще недавно эти области либо были недоступны, либо еще просто не существовали, тогда как сегодня они имеют огромное экономическое значение. История заставляет нас быть готовыми к конфликтам в этих недавно освоенных сферах.

Bắc Băng Dương, vũ trụ và không gian mạng – những khu vực mà trước đây con người chưa với tay tới hay đơn giản là không tồn tại, nhưng hiện nay đã có ý nghĩa kinh tế vô cùng to lớn. Lịch sử buộc chúng ta phải chuẩn bị cho những cuộc xung đột trong những khu vực mà mới gần đây vẫn chưa có người đặt chân đến này.


Когда политические лидеры задумываются о том, где могут вспыхнуть будущие войны, то они обращают свой взгляд прежде всего на горячие точки географической карты. Они пытаются понять, какое государство разрушится в ближайшее время (Пакистан, Йемен?), или какая страна будет следующим кризисным очагом (Иран, Корея?). Те, кто считают себя современными Бисмарками и бьются над разработкой крупномасштабных стратегий, склоняются к тому, чтобы рассматривать мир в большей степени как связанные между собой тектонические плиты. Их внимание обращено на такие стремительно развивающиеся страны как Китай и Индия, меняющие геополитический ландшафт. Эти стратеги обычно смотрят на то, где пересекаются региональные сферы влияния, и заняты они поисками линий разлома, а также тех мест, где могут произойти новые землетрясения. Но если отойти на шаг от карты, то становится понятным и нечто другое: происходят еще более значимые сдвиги, которые будут влиять на то, где в новом столетии – и при этом новым способом - будут вестись войны.

Khi các lãnh đạo chính trị suy nghĩ về những khu vực có thể bùng nổ chiến tranh trong tương lai trước hết họ thường nhìn vào những điểm nóng trên bản đồ địa lí. Họ cố gắng tìm hiểu xem nước nào sẽ sụp đổ trong thời gian sắp tới (Pakistan hay Yemen?) hay nước nào sẽ trở thành nguồn gốc của khủng hỏang (Iran, Bắc Triều Tiên?). Còn những người tự coi mình là Bismark của thời hiện đại và đang sọan thảo những chiến lược ở tầm rộng lớn thì lại coi thế giới như là được xây dựng bằng những viên gạch liên hệ mật thiết với nhau. Họ chú ý tới những nước phát triển rất nhanh và đang làm biến đổi khung cảnh địa chính trị, như là Trung Quốc và Ấn Độ. Các chiến lược gia này thường tập trung chú ý vào những khu vực ảnh hưởng chồng lấn lên nhau, và họ tập trung vào việc tìm những đường đứt gãy cũng như những điểm có thể xảy ra những trận động đất mới. Nhưng nếu ta đi xa bản đồ vài bước thì ta sẽ hiểu một điều khác: đang xảy ra những vận động đầy ý nghĩa, có ảnh hưởng đến sự kiện là trong thế kỉ mới chiến tranh sẽ diễn ra ở đâu và bằng phương pháp nào.

От первых доисторических битв за места охоты до европейских войн за золото в Новом Свете (к этому можно добавить последние конфликты, возникшие из-за месторождений нефти на Ближнем Востоке): как только люди открывали богатые местности, то из-за них, как правило, возникали конфликты. По мере того, как на карте земного шара оставалось все меньше белых пятен, именно новые технологии становились областью конкурентной борьбы. В течение 5000 лет люди сражались только за землю и за водную поверхность. Затем на рубеже прошлого столетия появились технологии, которые незадолго до этого существовали только в историях, сочиненных Жюль Верном, и они позволили противоборствующими сторонам во время первой мировой войны вести боевые действия под водой, а также в воздухе. Подводные и воздушные войны потребовали создания новых вооруженных формирований, новых законов, определявших правила этих войн.


Từ những cuộc chiến tranh tranh giành nơi săn bắn trong thời tiền sử đến những cuộc chiến tranh giành địa điểm khai thác vàng ở Tân thế giới (có thể kể thêm những cuộc xung đột vì mỏ dầu ở Cận Đông trong thời gian gần đây): hễ tìm ra khu vục giàu có là y như rằng ở đó sẽ có xung đột. Do càng ngày trên bản đồ càng có ít những điểm trắng cho nên các ngành công nghệ mới sẽ trở thành lĩnh vực cạnh tranh. Trong hơn 5 ngàn năm, lòai người chỉ đánh nhau nhằm tranh giành mặt đất và mặt nước. Sau đó, trong giai đọan chuyển tiếp giữa thế kỉ XIX và thế kỉ XX đã xuất hiện những ngành công nghệ mà trước đó không lâu chỉ có trong những câu chuyện của Jules Verne, tức là những ngành công nghệ cho phép các bên đối địch trong Thế chiến I đánh nhau cả trên trời và dưới nước nữa. Những cuộc chiến tranh trên trời và dưới nước đòi hỏi những đơn vị quân sự mới, những qui định mới.

Здесь появляется целый ряд параллелей с 21-м веком. Арктикой, например, в политических кругах долгое время никто не интересовался. Однако из-за изменений, вызванных в глобальном климате нашими технологиями, воды стали теплее. По этой причине появляются возможности использования новых судоходных маршрутов, а также разработки месторождений полезных ископаемых в этом регионе, который когда-то был белым пятном на географической карте. Там может находится такое же количество нефти и природного газа, как и в Саудовской Аравии.

Ở đây có nhiều sự tương đồng với thế kỉ XXI. Thí dụ như Bắc Băng Dương, giới chính trị đã chẳng hề quan tâm đến khu vực này trong một thời gian dài. Nhưng do những thay đổi khí hậu mà công nghệ của chúng ta gây ra, nước đã ấm hơn. Do đó đã xuất hiện khả năng sử dụng những con đường giao thương mới cũng như khai thác những mỏ mới trong khu vực này, một khu vực có thời từng là điểm trắng trên bản đồ địa lí. Ở đây cũng có thể có trữ lượng dầu mỏ và khí tự nhiên tương tự như ở Saudi Arabia.

Когда открывается новая часть земного шара, то в связи с этим возникают новые вопросы безопасности. На самом деле, такого большого региона с открытыми территориальными вопросами не было с того времени, как Папа Александр VI попытался разделить Новый Свет межу Испанией и Португалией, что и это стало причиной начала военных действий со стороны тех держав, которые не приняли участие в этой сделке. Сегодня различные актеры готовят себя к соперничеству в районе Северного полюса, хотя конфликт между ними и не представляется неизбежным. Один из советников российского премьер-министра Владимира Путина заявляет: «Арктика принадлежит нам». Канада, Норвегия, Соединенные Штаты, а также такие не граничащие с Арктикой государства как Катай, судя по всему, придерживаются на этот счет иной точки зрения, и они начали наращивать свой потенциал для того, чтобы обозначить свои претензии.


Khi một khu vực mới được phát hiện thì đồng thời cũng xuất hiện những vấn đề an ninh mới. Trên thực tế, một khu vực rộng lớn như thế với những vấn đề lãnh thổ còn bỏ ngỏ như thế chưa từng xuất hiện, kể từ khi Giáo hòang Alexander VI tìm cách chia Tân thế giới cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha và là nguyên nhân của những hành động quân sự của tất cả các nước không có phần trong cuộc chia chác này. Hôm nay các diễn viên mới cũng đang chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh ở khu vực Bắc cực, mặc dù xung đột không phải là không tránh khỏi. Một cố vấn của Thủ tướng Putin của Nga từng tuyên bố: “Bắc Băng Dương là của chúng tôi”. Canada, Na Uy, Mĩ cũng như các nước không tiếp giáp với Bắc Băng Dương, thí dụ như Trung Quốc - theo tất cả những gì đã biết - có quan điểm khác và họ đang tăng cường tiềm lực để có thể đưa ra đòi hỏi của mình.


То же самое происходит в космосе – раньше это была недоступная область, но теперь ее экономическое и военное значение стремительно возрастает. То пространство, о котором рассказывали фильмы Фрица Ланга (Fritz Lang) и Джорджа Лукаса (Geoge Lucas), теперь населено 947 действующими спутниками, в запуске которых участвовали более 60 стран. Через них проходят важнейшие артерии мировой торговли и коммуникаций, а также военных операций. 80% коммуникаций в Соединенных Штатах осуществляется через спутники. Иронично сославшись на Клаузевица, генерал американских ВВС Лэнс Лорд (Lance Lord) назвал космос «новым центром притяжения». По заказу Пентагона было проведено более 20 исследований о ведении военных действий в космическом пространстве.


Trong vũ trụ cũng diễn ra những chuyện tương tự - trước đây đấy là khu vực không ai có thể với tới, nhưng nay ý nghĩa kinh tế và quân sự của nó đang gia tăng một cách cực kì nhanh chóng. Cái không gian mà những thước phim của Fritz Lang và Geoge Lucas từng nói tới hiện có 947 vệ tinh do 60 nước phóng lên. Đấy là điểm nối của những động mạch quan trọng nhất của ngành thương mại, giao dịch cũng như họat động quân sự trên thế giới. 80% giao dịch của Mĩ được thực hiện thông qua các vệ tinh nhân tạo.Khôi hài là một viên tướng không quân Mĩ tên là Lance Lord đã bắt chước Clausewitz và gọi vũ trụ là “trung tâm hấp lực mới”. Theo đơn đặt hàng của Lầu năm góc, người ta đã tiến hành hơn 20 cuộc nghiên cứu về cách thức tiến hành chiến tranh trong vũ trụ.


Генерал-майор Я Юньчжу (Ya Yunzhu) из Академии военных наук Китайской народной армии предупредил о том, что Соединенные Штаты, «если они думают стать космической сверхдержавой, не будут, естественно, в этом отношении одиноки». Китай в прошлом году перегнал США по количеству ракетных стартов и планирует в этом десятилетии вывести на околоземную орбиту еще 100 гражданских и военных спутников. Еще более важным представляется то, что оба государства в прошедшие годы неоднократно демонстрировали свою способность уничтожать спутники при помощи кинетического воздействия. Россия, Индия, Иран и даже такие негосударственные игроки как «Тигры освобождения» из Шри-Ланки также пытались уничтожить спутники или проводили операции, направленные против целей в космическом пространстве.


Thiếu tướng Ya Yunzhu thuộc Viện hàn lâm quân sự quân giải phóng nhân dân Trung Quốc cảnh báo rằng “nếu Mĩ nghĩ đến việc trở thành siêu cường trong vũ trụ thì đương nhiên là họ sẽ không phải là người đơn độc”. Năm ngóai Trung Quốc đã phóng nhiều hỏa tiễn hơn Mĩ và dự định trong mười năm tới sẽ đưa vào quĩ đạo gần trái đất 100 vệ tinh dân sự và quân sự nữa. Quan trọng hơn là trong những năm qua cả hai nước đều đã nhiều lần chứng tỏ khả năng tiêu diệt vệ tinh bằng những phương tiện tự động. Nga, Ấn Độ, Iran, thậm chí các tay chơi không mang tầm vóc quốc gia như Những con hổ giải phóng ở giải phóng ở Shri Lanka cũng tìm cách tiêu diệt vệ tinh hay tiến hành những công việc nhằm chống lại những mục tiêu trong vũ trụ.


Киберпространство, в отличие от пространства под водой, в воздухе, в полярном холоде или в космосе, не только долгое время было недоступным - еще несколько лет назад оно практически не существовало. Тем не менее его центральную функцию для нашего образа жизни даже трудно себе представить. Числа, при помощи которых можно было бы описать эту сферу, настолько велики, что кажутся выдуманными. Глобальный интернет состоит из примерно 250 миллионов сайтов, а в год направляется приблизительно 90 триллионов электронных сообщений. Военное использование интернета также потрясает. Только Пентагон имеет в своем распоряжении 15 000 компьютерных сетей на 4000 своих баз и объектах, расположенных в 88 странах.


Không gian điều khiển, khác với không gian dưới mặt nước, trong không khí, trong những khu vực lạnh lẽo của Bắc cực hay trên vũ trụ không chỉ ở chỗ chỉ mới tồn tại trong thời gian gần đây. Tuy nhiên ta khó mà tưởng tưởng nổi chức năng của nó đối với cách sống của chúng ta. Những con số nhằm mô tả lĩnh vực này lớn đến nỗi có cảm giác như đấy là những điều bịa đặt. Mạng internet tòan cầu bao gồm khỏang 250 triệu website, mỗi năm luân chuyển khỏang 90 ngàn tỉ tin tức. Trong lĩnh vực quân sự, internet cũng được sử dụng rất rộng rãi. Chỉ riêng Lầu năm góc đã có tới 15.000 mạng máy tính đặt trên 4000 cơ sở và căn cứ ở 88 nước.


Однако ввиду фактической стоимости богатств, находящихся в этом новом виртуальном пространстве, оно также превращается в сферу действия преступников, арену конфликтов, а также политического и экономического противостояния. Работающая в области безопасности ИТ-фирма Symantec обнаружила в прошлом году 240 миллионов вредоносных программ, и более 100 организаций, судя по всему, принимали участие в проведении крупных военных, разведывательных или террористических операций. ФБР считает кибератаки третьей по значению глобальной угрозой, и при этом следует отметить, что еще десять лет назад у шефа этой организации на столе даже не было компьютера. Американское киберкомандование в течение нескольких лет из умозрительной концепции превратилось в организацию, в которой работают 90 000 сотрудников, а бюджет ее составляет 3 миллиарда долларов.


Nhưng do giá trị thực tế của không gian ảo mà nó cũng đã trở thành lĩnh vực họat động của bọn tội phạm, trở thành đấu trường xung đột cũng như đối đầu về chính trị và kinh tế. Công ty Symatec, chuyên họat động trong lĩnh vực an ninh công nghệ thông tin, phát hiện ra rằng năm ngóai có 240 triệu chương trình độc hại và hơn 100 tổ chức tham gia thực hiện những chiến dịch quân sự, tình báo và khủng bố lớn. Cục điều tra liên bang Mĩ (FBI) cho rằng những cuộc tấn công trên không gian ảo là nguy cơ đứng hàng thứ ba, cần phải nói thêm rằng các đây mười năm trên bàn làm việc của giám đốc tổ chức này vẫn chưa có một chiếc máy tính nào. Từ ý tưởng trong đầu, trong vòng có mấy năm bộ chỉ huy không gian điều khiển của Mĩ đã biến thành một tổ chức với 90 000 nhân viên và ngân sách lên tới 3 tỉ dollar.


Большая часть дискуссий до последнего времени вращалась вокруг таких преувеличенных сценариев как «цифровой Перл-Харбор», российско-грузинская «кибервойна» или неприятные публикации дипломатических депеш. Значительное большинство такого рода атак доставляют неприятности, однако их можно сравнить с кибер-граффити или кибер-утечками, но не с войной. Даже если это и не звучит слишком привлекательно, тем не менее настоящая опасность состоит в том, что наши инновационные способности и наша защита интеллектуальной собственности из-за постоянного воздействия могут ослабеть, хотя они и является ключевым фактором экономического благосостояния, а также безопасности в странах Запада. По существующим оценкам, американским и европейским предприятиям в год наносится ущерб в миллиард долларов вследствие несостоявшихся сделок, напрасно потраченных средств на исследования и разработки, и это происходит из-за кибератак, проводимых против них политическими, военными организациями, а также спецслужбами. Хакеры, оперирующие с территории одного из восточноазиатских государств, похитили информацию, связанную с программой создания международного боевого истребителя F-35, объем которой составил несколько терабайт (один терабайт – 1 000 000 000 000 байт, и это примерно объем всего интернета десять лет назад). Миллиарды похищенных терабайт означают не только миллиарды, затраченные на исследования и разработку, то также и от 10 до 20 лет потерянного технологического преимущества – на мировом рынке, а также на возможных полях сражений будущего.


Cho mãi đến tận thời gian gần đây phần lớn các cuộc thảo luận vẫn xoay quanh những kịch bản bị thổi phồng như “Trân Châu Cảng-số”, hay “cuộc chiến trên không gian điều khiển” giữa Nga và Gruzia hay tin tức ngọai giao bị tiết lộ. Phần lớn những vụ tấn công như thế đều gây rắc rối nhưng chỉ có thể coi đấy là những vụ rò rỉ chứ không thể là chiến tranh được. Mối nguy thật sự nằm ở chỗ do bị tác động thường xuyên mà khả năng sáng tạo của chúng ta cũng như việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của chúng ta có thể bị yếu đi, mặc dù đấy chính là tác nhân quan trọng nhất đối với sự thịnh vượng và an ninh trong các nước phương Tây. Theo những đánh giá hiện có, mỗi năm các công ty Mĩ và châu Âu bị mất hàng tỉ dollar vì những thương vụ không thành, những khỏan nghiên cứu và thử nghiệm vô ích, mà tất cả đều là do những cuộc tấn công do các tổ chức chính trị và quân sự cũng như các cơ quan tình báo tiến hành. Các haker họat động trên lãnh thổ của một nước Đông Nam Á đã ăn cắp thông tin liên quan đến chương trình xây dựng máy bay tiêm kích F-35, với dung lượng là mấy terabyte (1 terabyte = 1 000 000 000 000 byte, gần bằng dung lượng của tòan bộ mạng internet mười năm trước). Hàng tỉ đồng bị đánh cắp ở đây không chỉ là hàng tỉ đồng đã chi cho công tác nghiên cứu và thử nghiệm, mà còn là mất ưu thế về công nghệ trên thị trường thế giới cũng như trên bãi chiến trường tương lai từ 10 đến 20 năm.

Из этих трендов следует извлечь урок. Какой бы важной ни представлялась  в следующем году обеспокоенность по поводу Афганистана или обозначившегося подъема Китая, политики, принимающие решения в области безопасности, должны отдавать себе отчет в том, что в мире происходят еще более масштабные изменения. В 21 веке будут создаваться огромные ценности в тех областях, которые раньше были недоступными или вообще не существовали. Это также означает, что мы – в очередной раз в истории – должны быть готовыми к тому, чтобы бороться по ту сторону географических карт и в тех местах, где мы этого еще никогда раньше не делали.


Từ đó có thể rút ra một bài học. Đấy là dù mối lo về Afghanistan hay sự trỗi dậy của Trung Quốc có quan trọng đến đâu thì các chính khác tham gia quyết định những vấn đề trong lĩnh vực an ninh cũng phải nhận thức được rằng trên thế giới đang diễn ra những thay đổi cực kì to lớn. Trong thế kỉ XXI con người sẽ tạo ra những giá trị lớn trong những lĩnh vực mà trước đây chưa ai với tới, thậm chí chưa hề tồn tại. Điều đó cũng có nghĩa là một lần nữa chúng ta phải sẵn sàng chiến đấu ở những khu vực mà trước đây ta chưa bao giờ làm.


Те, кому дорог мир, также должны усвоить этот урок. Можно игнорировать эти новые сферы или просто отказаться от необходимой стратегии и уповать на лучшее. Или следует работать над тем, чтобы предотвращать конфликты и кризисы, создавая при этом нормы и институты для того, чтобы иметь возможность с ними справляться и регулировать новые пространства, определяющие облик нашего мира.

Những người yêu chuộng hòa bình cũng phải học bài học này. Có thể làm ngơ những lĩnh vực đó hoặc đơn giản là từ bỏ chiến lược cần thiết và hi vọng vào những điều tốt đẹp hơn. Hoặc là phải làm việc nhằm ngăn chặn xung đột và khủng hỏang, tạo ra những định chế và tiêu chuẩn để có thể xử lí và điều chỉnh những không gian mới, những không gian quyết định bộ mặt của thế giới chúng ta.


Петер Зингер является директором организации 21st Century Initiative в американском исследовательском центре Brookings, а также автором книги «Wired for War».
Peter Singer là giám đốc cơ sở Century Initiative trong thế kỉ XXI tại trung tâm nghiên cứu Brookings (Mĩ), ông cũng là tác giả cuốn “Wired for War”.




Translated by Phạm Nguyên Trường


http://inosmi.ru/world/20110208/166329729.html