MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Saturday, June 13, 2020

THE STORY OF MIMI-NASHI-HÔÏCHI - TRUYỆN CHÀNG HÔICHI CỤT TAI - Lafcadio Hearn

THE STORY OF MIMI-NASHI-HÔÏCHI
By Lafcadio Hearn
From Kwaidan,
March 25, 1904

TRUYN CHÀNG HÔICHI CT TAI
Lafcadio Hearn
Trong Truyện Kinh Dị
25/3/1904


MORE THAN SEVEN HUNDRED YEARS AGO, at Dan-no-ura, in the straits of Shimonoséki, was fought the last battle of the long contest between the Heiké, or Taira clan, and the Genji, or Minamoto clan. There the Heiké perished utterly, with their women and children, and their infant emperor likewise--now remembered as Antoku Tennô. And that sea and shore have been haunted for seven hundred years Elsewhere I told you about the strange crabs found there, called Heiké crabs, which have human faces on their backs, and are said to be the spirits of Heiké warriors. But there are many strange things to be seen and heard along that coast. On dark nights thousands of ghostly fires hover about the beach, or flit above the waves--pale lights which the fishermen call Oni-bi, or demon-fires; and, whenever the winds are up, a sound of great shouting comes from that sea, like a clamor of battle.

Cách đây hơn bảy trăm năm, vùng Dan no Ura ngang eo biển Shimonoseki là nơi xảy ra trận quyết chiến giữa hai giòng họ Minamoto và Taira. Ở Dan no Ura, một nhà Taira từ đàn bà con nít đến cả vị ấu chúa mà ngày nay người ta còn nhớ đến qua cái tên Thiên Hoàng Antoku (An Đức) đều bị tuyệt diệt. Từ đó đến nay bao nhiêu nước đã chảy qua cầu mà một vùng biển Dan no Ura vẫn còn xì xào về những chuyện kinh dị về hồn ma vất vưởng của dòng họ Taira. Đừng nói chi đến những con cua Heike (một tên khác của Taira) trên lưng mang hình mặt người như muốn giữ lại dấu tích oán hờn của các chiến sĩ Taira, (lũ cua mà người kể truyện đã có lần nhắc đến trong một tác phẩm khác), trên một vùng biển đó, người ta đã nghe, đã thấy bao nhiêu là sự kiện kỳ quái. Ví dụ cái cảnh hàng nghìn ánh lửa ma trơi không biết đâu ra, lướt trên ngọn sóng trong những đêm tối đen. Dân chài thường gọi đó là "quỉ hỏa", loại ánh sáng xanh lè lạnh lẽo. Nào đã thôi đâu, những ngày gió lớn, lúc đó từ ngoài khơi lại vọng về những tiếng thét gào cuồng nộ như âm thanh sát phạt trên bãi chiến trường.


In former years the Heiké were much more restless than they now are. They would rise about ships passing in the night, and try to sink them; and at all times they would watch for swimmers, to pull them down. It was in order to appease those dead that the Buddhist temple, Amidaji, was built at Akamagaséki. [1] A cemetery also was made close by, near the beach; and within it were set up monuments inscribed with names of the drowned emperor and of his great vassals; and Buddhist services were regularly performed there, on behalf of the spirits of them. After the temple had been built, and the tombs erected, the Heiké gave less trouble than before; but they continued to do queer things at interval--proving that they had not found the perfect peace.


Xưa đã thế nhưng ngày nay những con ma Taira còn lộng hành hơn trước nữa. Ma hiện ra trên thuyền bè đi lại ngoài khơi, tìm cách nhận đắm hoặc chờ những ai đang bơi lội giữa giòng, bất thần chụp lấy rồi kéo họ xuống đáy biển. Cái chùa A Di Đà lập lên ở vùng Akamagaseki (nay là Shimonoseki) vốn nhằm mục đích cúng tế, an ủi vong linh những con ma Taira ấy. Phần đất cuối chùa nơi sát biển, nhà chùa có dành ra một khu chôn cất, dựng bia mộ khắc tên vị thiên hoàng chết đuối cùng như tên quần thần của người, mọi năm đến ngày giỗ chạp, đều lập đàn tràng giải oan. Từ khi A Di Đà Tự lập ra, rồi đến khi bia đá dựng lên thì quỉ quái họ Taira cũng bớt quấy người. Dù vậy, những chuyện quái dị không vì thế mà hoàn toàn chấm dứt, điều đó chứng tỏ vong linh kia vẫn chưa được phiêu diêu về cõi thọ.

Some centuries ago there lived at Akamagaséki a blind man named Hôïchi, who was famed for his skill in recitation and in playing upon the biwa. [2] From childhood he had been trained to recite and to play; and while yet a lad he had surpassed his teachers. As a professional biwa-hôshi he became famous chiefly by his recitations of the history of the Heiké and the Genji; and it is said that when he sang the song of the battle of Dan-no-ura "even the goblins (kijin) could not refrain from tears."

Vài trăm năm trước ở vùng Akamagaseki có một chàng mù tên gọi Hôichi (Phương Nhất). Hôichi nổi danh về tài đánh tì bà và hát theo điệu đàn. Cái tài đánh đàn kể truyện anh chàng vốn có từ ngày còn bé. Khi hãy còn là một gã thiếu niên, tài chàng đã vượt cả thầy học. Chả thế mà mấy chốc Hôichi đã trở thành nhạc sư tì bà, sở trường về khúc "Truyện hai nhà Minamoto-Taira tranh hùng (1). Người ta bảo khi Hôichi chơi đến đoạn nói về cảnh thủy chiến ở Dan no Ura thì não nùng ai oán đến "quỉ thần cũng phải cảm thương nhỏ lệ".

At the outset of his career, Hôïchi was very poor; but he found a good friend to help him. The priest of the Amidaji was fond of poetry and music; and he often invited Hôïchi to the temple, to play and recite. Afterwards, being much impresed by the wonderful skill of the lad, the priest proposed that Hôïchi should make the temple his home; and this offer was gratefully accepted. Hôïchi was given a room in the temple-building; and, in return for food and lodging, he was required only to gratify the priest with a musical performance on certain evenings, when otherwise disengaged.

Lúc Hôichi chưa có danh chi, chàng ta rất nghèo. May nhờ có một người tri kỷ nâng đỡ anh. Người ấy là hòa thượng trụ trì chùa A Di Đà, một nhà tu hành tinh thông cả thi ca âm luật, lâu lâu vẫn gọi Hôichi đến chùa đánh tì bà cho cụ nghe. Hòa thượng thấy chàng trẻ tuổi tài cao, thường mến muốn giúp đỡ đến độ mời chàng đến trọ hẳn. Hôichi cảm lòng tốt của cụ, bèn nhận lời. Từ đó, Hôichi vào ở hẳn một gian hậu liêu. Cảm cái ơn cho nơi ăn chốn ở, hễ đêm nào không có khách mời chơi đàn, Hôichi vác tì bà đến đánh để hòa thượng giải sầu, và như thế thành lệ.

One summer night the priest was called away, to perform a Buddhist service at the house of a dead parishioner; and he went there with his acolyte, leaving Hôïchi alone in the temple. It was a hot night; and the blind man sought to cool himself on the verandah before his sleeping-room. The verandah overlooked a small garden in the rear of the Amidaji. There Hôïchi waited for the priest's return and tried to relieve his solitude by practicing upon his biwa. Mid-night passed; and the priest did not appear. But the atmosphere was still too warm for comfort within doors; and Hôïchi remained outside. At last he heard steps approaching from the backgate. Somebody crossed the garden, advanced to the verandah, and halted directly in front of him--but it was not the priest. A deep voice called the blind man's name--abruptly and unceremoniously in the manner of a samurai summoning an inferior:
"Hôïchi!"

Chuyện xảy ra vào một buổi chiều mùa hạ. Hôm đó, một đàn việt có tang ma, sư cụ phải đi đọc kinh suốt đêm, mấy chú tiểu chú điệu đều tháp tùng. Hôichi ở lại canh chùa một mình. Trời nóng hầm, Hôichi lò mò ra ngoài hàng hiên trước phòng ngủ để kiếm chút hơi mát. Hàng hiên này nhìn ra khu vườn nhỏ phía sau chùa. Hôichi ra ngồi đây với ý định chờ sư cụ về nhưng ngồi một mình mãi không làm gì cũng buồn, chàng mới bắt đầu dạo một khúc tì bà. Quá nữa đêm mà sư cụ vẫn chưa về. Hôichi dợm vào phòng nằm duỗi tay chân một chút thì thấy không khí trong phòng hãy còn nóng, chàng ta mới ra ngoài lại. Vừa trở ra, Hôichi bỗng nghe tiếng chân người tư øcánh cổng sau tiến lại gần. Ai đó đi xuyên qua cảnh vườn con, tiến về phía hàng hiên. Đang phỏng đoán như thế thì chàng ta thấy bước chân kia đã tới sát trước mặt mình, đứng sựng lại. Nhưng người đó không phải là hòa thượng. Một giọng to, khỏe cất lên gọi tên chàng mù. Giọng trịch thượng, kẻ cả như giọng samurai gay gắt gọi người dưới:
- Hôichi!

Hôïchi was too much startled, for the moment, to respond; and the voice called again, in a tone of harsh command:
"Hôïchi!"
"Hai!" answered the blind man, frightened by the menace in the voice--"I am blind!--I cannot know who calls!"
"There is nothing to fear," the stranger exclaimed, speaking more gently. "I am stopping near this temple, and have been sent to you with a message. My present lord, a person of exceedingly high rank, is now staying in Akamagaséki, with many noble attendants. He wished to view the scene of the battle of Dan-no-ura; and to-day he visited that place. Having heard of your skill in reciting the story of the battle, he now desires to hear your performance: So you will take your biwa and come with me at once to the house where the august assembly is waiting."

Hôichi quá kinh hoàng đến độ trong một chốc không cất thành tiếng. Giọng nói kia lại như ra lệnh:
- Hôichi!
- Thưa vâng!
Chàng mù lí nhí trả lời chả bù với giọng nói nhanh như gió cuốn của người lạ. "Thưa tôi mù loà, không thấy đường. Vị nào đang gọi tôi đấy ạ..."
- Ngươi chớ sợ.
Giọng nói bỗng có phần dịu lại, người lạ tiếp lời: "Ta nhân đóng quân ở gần vùng này, có việc mới ghé qua đây. Chủ quân của ta là bậc cao quí, xưa vẫn ra vào chỗ cung cấm. Nay bề trên và đoàn tuỳ tùng của ngài ghé trọ qua đêm ở vùng Akamagaseki này, biết đến trận quyết chiến ở Dan no Ura nên ghé vãng cảnh. Bề trên nghe đồn tài kể chuyện của ngươi rất cao diệu, ngài muốn nghe một khúc. Vậy ngươi hãy mau mau lấy đàn theo ta đến chỗ dừng chân của các bậc tôn quí. Các vị ấy đang chờ ngươi đó!"

In those times, the order of a samurai was not to be lightly disobeyed. Hôïchi donned sandals, took his biwa, and went away with the stranger, who guided him deftly, but obliged him to walk very fast. The hand that guided was iron; and the clank of the warrior's stride proved him fully armed--probably some palace-guard on duty. Hôïchi's first alarm was over: he began to imagine himself in good luck;--for, remembering the retainer's assurance about a "person of exceedingly high rank," he thought that the lord who wished to hear the recitation could not be less than a daimyô of the first class. Presently the samurai halted; and Hôïchi became aware that they had arrived at a large gateway;--and he wondered, for he could not remember any large gate in that part of the town, except the main gate of the Amidaji. "Kaimon!"

Thời ấy, samurai đã ra lệnh thì mọi người phải răm rắp tuân theo. Hôichi vội vội vàng vàng xỏ dép, vác đàn, đi theo người lạ. Người vũ sĩ nắm tay Hôichi một cách gọn gàng, kéo chàng ta đi nhanh như tên bắn. Bàn tay người lạ rắn như thép nguội, mỗi bước đi, bên sườn có tiếng lách cách như thể đang mang giáp trụ. Có lẽ người lạ là vũ sĩ cận vệ của một nhà quyền thế nào đó. Cái sợ hãi buổi đầu đã bớt dần. Hôichi điềm tĩnh trở lại và trong lòng bắt đầu rộn lên một niềm hãnh diện. Bởi vì anh chàng nhớ ra lúc nãy người lạ có nhắc đến mấy chữ "một bậc cao quí ngày xưa vốn ra vào chỗ cung cấm", như vậy tài đàn của mình đã lọt đến tai một bực đệ nhất công hầu nào rồi. Vừa nghĩ đến đó thì người vũ sĩ bỗng dừng bước. Hôichi lắng tai nghe và có cảm tưởng hai người đang đứng trước một cánh cổng lớn. Ở chốn xa thành thị phố xá như thế này, ngoài chùa A Di Đà chắc không làm sao có một cái cổng lớn cỡ này. Hôichi đang nghi hoặc thì tùy giả đã cất tiếng dõng dạc:
- Khai môn!


[3] the samurai called--and there was a sound of unbarring; and the twain passed on. They traversed a space of garden, and halted again before some entrance; and the retainer cried in a loud voice, "Within there! I have brought Hôïchi." Then came sounds of feet hurrying, and screens sliding, and rain-doors opening, and voices of women in converse. By the language of the women Hôïchi knew them to be domestics in some noble household; but he could not imagine to what place he had been conducted. Little time was allowed him for conjecture. After he had been helped to mount several stone steps, upon the last of which he was told to leave his sandals, a woman's hand guided him along interminable reaches of polished planking, and round pillared angles too many to remember, and over widths amazing of matted floor,--into the middle of some vast apartment. There he thought that many great people were assembled: the sound of the rustling of silk was like the sound of leaves in a forest. He heard also a great humming of voices--talking undertones; and the speech was the speech of courts.

Không phải đợi lâu, có tiếng song hồng mở nặng nề, hai người đã bước vào bên trong cửa. Đi qua khỏi một khu đình viên khá rộng, cả hai đến một cánh cửa khác. Dừng chân ở đó, tuỳ giả lại hô lớn:"Có ai trong đó không, xin được bẩm đã đem Hôichi về đến đây rồi". Nói xong, có tiếng chân người từ bên trong đi ra, lại có tiếng vách giấy mở ra, tiếng rèm cửa cuốn lên, giọng đàn bà con gái xì xào. Nghe họ trò chuyện với nhau, Hôichi thầm nghĩ những người này phải là bọn thị tỳ trong một phủ đệ. Chàng mù đâm ra lo lắng không biết người ta sẽ dắt mình đi đâu. Chưa kịp nghĩ ngợi gì, có người đã đưa tay dắt chàng ta đi lên năm sáu bậc thang. Đến bậc cao nhất, có lệnh phải cởi dép. Bàn tay đàn bà lại tiếp tục dắt Hôichi đi qua những khu hành lang lát gỗ nhẵn thín và dài tưởng chừng bất tận. Chàng mù rẽ quặt không biết bao nhiêu lần ngõ ngách, cột trụ, xuyên qua mấy gian phòng trải chiếu rộng thênh thang trước khi được đưa vào trong một gian đại điện. Hôichi nghĩ ôi chao, đại điện này hẳn là nơi tụ tập các vị tôn quí vì hắn nghe tiếng vạt áo lụa chạm nhau sột soạt như tiếng lá trong rừng xao động, tiếng người đông đảo đang trò chuyện với nhau. Họ đang thì thầm những gì, Hôichi không hiểu rõ nhưng ngôn từ họ dùng là của nơi gác tía lầu son.

Hôïchi was told to put himself at ease, and he found a kneeling-cushion ready for him. After having taken his place upon it, and tuned his instrument, the voice of a woman--whom he divined to be the Rôjo, or matron in charge of the female service--addressed him, saying:

Hôichi được lệnh cứ tự nhiên. Người ta bày trước mặt chàng một tấm nệm tròn, mềm mại và bảo ngồi lên. Hôichi đang nắn lại giây đàn thì một giọng đàn bà đã cất lên, dường như tiếng của lão chủ quản trong cung:

"It is now required that the history of the Heiké be recited, to the accompaniment of the biwa."

Now the entire recital would have required a time of many nights: therefore Hôïchi ventured a question:

"As the whole of the story is not soon told, what portion is it augustly desired that I now recite?"

The woman's voice made answer:

"Recite the story of the battle at Dan-no-ura--for the pity of it is the most deep." [4]

- Mi hãy so dây, bắt đầu dạo khúc "Truyện Heike" cho bề trên thưởng thức đi. Nhưng nếu bà ta chỉ nói chừng đó thì Hôichi không biết phải bắt đầu từ đâu. Truyện nhà Taira dài lắm, kể biết mấy đêm mới xong. Hôichi mới đánh bạo:

- Dám thưa Truyện Heike khá dài, một buổi không sao kể hết. Chẳng hay bề trên muốn nghe đoạn nào?

Hỏi đến đây thì giọng lão bà lại trả lời:

- Hãy kể cho ngài nghe đoạn quyết chiến ở Dan no Ura. Trong cả một Truyện Heike, đoạn này nghe buồn thấm thía nhất đấy.

Then Hôïchi lifted up his voice, and chanted the chant of the fight on the bitter sea--wonderfully making his biwa to sound like the straining of oars and the rushing of ships, the whirr and the hissing of arrows, the shouting and trampling of men, the crashing of steel upon helmets, the plunging of slain in the flood. And to left and right of him, in the pauses of his playing, he could hear voices murmuring praise: "How marvelous an artist!"--"Never in our own province was playing heard like this!"--"Not in all the empire is there another singer like Hôïchi!" Then fresh courage came to him, and he played and sang yet better than before; and a hush of wonder deepened about him. But when at last he came to tell the fate of the fair and helpless--the piteous perishing of the women and children--and the death-leap of Nii-no-Ama, with the imperial infant in her arms--then all the listeners uttered together one long, long shuddering cry of anguish; and thereafter they wept and wailed so loudly and so wildly that the blind man was frightened by the violence of the grief that he had made. For much time the sobbing and the wailing continued. But gradually the sounds of lamentation died away; and again, in the great stillness that followed, Hôïchi heard the voice of the woman whom he supposed to be the Rôjo.
She said:

Hôichi bèn từ từ cất giọng, kể lớp nói về trận thủy chiến khủng khiếp. Tiếng đàn khéo làm sống lại nào là tiếng mái chèo quạt nước, tiếng đoàn thuyền lao lên xung trận, tiếng tên bay xé gió, tiếng chân rầm rập xen với tiếng quân reo hò, tiếng đao kiếm giáp trụ chạm vào nhau soang soảng, tiếng người bị đâm ngã ùm xuống nước. Trong lúc Hôichi đang ra sức trình tấu, chung quanh người nghe đã bắt đầu xuýt xoa tán thưởng. "Làm sao lại có tay đàn tuyệt vời như thế nhỉ" , "Ngay ở kinh đô, cũng chưa nghe ai đánh hay đến vậy", "Dưới gầm trời này, hỏi ai hơn được Hôichi!", bao nhiêu lời khen tặng lọt vào lỗ tai chàng mù. Trong lòng Hôichi rộn một niềm tự hào, chàng lại ra sức đàn hát. Tán thưởng tưởng còn như không dứt thì chung quanh bổng nhiên trở lại im lặng như tờ. Lúc ấy, khúc đàn đã tiến dần đến đoạn tả thảm cảnh nhà Taira, một đoàn người đẹp, trẻû thơ bổng nhiên gặp cảnh tuyệt mệnh, thương tâm, nhất là cảnh hai bà phi bồng ấu chúa trầm mình dưới giòng nước bạc. Người nghe ai nấy ngậm ngùi thở dài, chợt nổi lên đâu đây tiếng nấc tức tưởi nghẹn ngào rồi tiếng khóc oà vang. Tiếng khóc vỡ ra như không cầm lại được, chính Hôichi cũng phải ngạc nhiên không ngờ mình đã động mối thương tâm của người nghe đến thế. Tiếng khóc kéo dài một hồi lâu rồi như vơi đi, bốn bề bỗng yên tĩnh trở lại. Trong cái im lặng đó, giọng bà lão lại cất lên:


"Although we had been assured that you were a very skillful player upon the biwa, and without an equal in recitative, we did not know that any one could be so skillful as you have proved yourself tonight. Our lord has been pleased to say that he intends to bestow upon you a fitting reward. But he desires that you shall perform before him once every night for the next six nights--after which time he will probably make his august return-journey. To-morrow night, therefore, you are to come here at the same hour. The retainer who to-night conducted you will be sent for you...There is another matter about which I have been ordered to inform you. It is required that you shall speak to no one of your visits here, during the time of our lord's august sojourn at Akamagaséki. As he is traveling incognito, [5] he commands that no mention of these things be made. . . You are now free to go back to your temple."

- Người đàn như thế thật trên đời có một không hai. Đã đành từng nghe tiếng người đồn dãi nhưng hôm nay xem mi trổ tài mới biết lời đồn kia còn thua sự thật. Đức vương thượng rất hài lòng. Ngài còn giáng chỉ cho chúng ta bảo phải ban cho mi nhiều tặng vật để thưởng công. Vậy kể từ đêm nay, trong suốt sáu đêm, mỗi đêm ngươi phải tới đây đánh đàn tiếp cho chúng ta nghe. Nếu đức ngài không phải lên đường thượng kinh gấp, thì ngày mai, cũng vào giờ khắc này, sẽ có người gọi mi tới dinh nầy. Kẻ dẫn đường cho mi hôm nay ngày mai sẽ đến đón. Ta chỉ có một điều căn dặn ngươi là chuyện bề trên ngự đến vùng Akamagaseki này, ngươi không được hé môi cho ai. Đức ngài vi hành tới vùng này nên không muốn trong hay ngoài biết. Hôm nay như thế là xong, ngươi có thể lui về chùa được rồi.

After Hôïchi had duly expressed his thanks, a woman's hand conducted him to the entrance of the house, where the same retainer, who had before guided him, was waiting to take him home. The retainer led him to the verandah at the rear of the temple, and there bade him farewell.

Hôichi rạp mình chào xong, bàn tay thị nữ lại dắt chàng ta ra tận cửa, ở đó, người tùy giả lúc nãy đã đợi để đưa hắn về chùa. Vũ sĩ đưa Hôichi trở lại mái hiên chùa, rồi từ giã quay về.
It was almost dawn when Hôïchi returned; but his absence from the temple had not been observed--as the priest, coming back at a very late hour, had supposed him asleep. During the day Hôïchi was able to take some rest; and he said nothing about his strange adventure. In the middle of the following night the samurai again came for him, and led him to the august assembly, where he gave another recitation with the same success that had attended his previous performance. But during this second visit his absence from the temple was accidentally discovered; and after his return in the morning he was summoned to the presence of the priest, who said to him, in a tone of kindly reproach:

Lúc Hôichi trở lại chùa trời đã sáng bạch nhưng việc anh ta qua đêm ở ngoài, chẳng có ai để ý. Hòa thượng coi bộ đêm đó về khuya lắm, tưởng là chàng mù đã đi ngủ từ lâu nên chẳng bận tâm. Sáng hôm sau, Hôichi có nằm nướng một chút lấy sức nhưng cái chuyện kỳ lạ đêm qua, anh ta không để lọt ra ngoài một tiếng. Nửa đêm hôm đó, người vũ sĩ lại đến tìm Hôichi đi trình tấu ở chỗ các bậc tôn quí hội họp, và cũng như đêm trước, chàng thu lượm được muôn ngàn lời tán tụng. Tuy nhiên, trong lúc Hôichi đi đánh đàn, ở chùa người ta bổng phát giác sự vắng mặt của chàng mù. Khi về chùa lúc hừng sáng, chàng ta được gọi đến trước mặt sư cụ. Sư cụ không bằng lòng chút nào, luôn miệng trách mắng:

"We have been very anxious about you, friend Hôïchi. To go out, blind and alone, at so late an hour, is dangerous. Why did you go without telling us? I could have ordered a servant to accompany you. And where have you been?"

- Hôichi, ta nói điều này chỉ vì ta lo cho ngươi thôi. Đã mù lòa, một thân một mình mà bỏ chùa đi đâu suốt đêm đến sáng. Thật không có gì nguy hiểm hơn. Nếu có đi đâu sao không bảo tụi nhỏ đứa nào nó dắt đi mà tự ý đi một mình như vậy. Thế chớ đến nay, người đã đi những đâu?

Hôïchi answered, evasively:
"Pardon me, kind friend! I had to attend to some private business; and I could not arrange the matter at any other hour."

- Bạch sư cụ thứ lỗi cho con. Chỉ vì con có chút việc riêng mà ban ngày ban mặt không thu xếp xong phải kéo đến tối đấy ạ.

The priest was surprised, rather than pained, by Hôïchi's reticence: he felt it to be unnatural, and suspected something wrong. He feared that the blind lad had been bewitched or deluded by some evil spirits. He did not ask any more questions; but he privately instructed men-servants of the temple to keep watch upon Hôïchi's movements, and to follow him in case that he should again leave the temple after dark.

Hòa thượng coi mòi Hôichi không chịu nói thực, cụ không bực mình mà chỉ ngạc nhiên. Đây là chuyện không bình thường chút nào, hẳn có lý do chi đây. Hoậc giả chàng mù này đang gặp chuyện gì chẳng lành, bị ai lừa lọc gì chăng. Lo thì lo nhưng hỏi thêm không tiện, hoà thượng chỉ còn biết ra lệnh cho mấy điệu phải trông chừng nhất cử nhất động của chàng mù. Hễ mà đến đêm Hôichi còn bỏ chùa đi đâu nữa thì phải tức tốc theo dõi.

On the very next night, Hôïchi was seen to leave the temple; and the servants immediately lighted their lanterns, and followed after him. But it was a rainy night, and very dark; and before the temple-folks could get to the roadway, Hôïchi had disappeared. Evidently he had walked very fast--a strange thing, considering his blindness; for the road was in a bad condition. The men hurried through the streets, making inquiries at every house which Hôïchi was accustomed to visit; but nobody could give them any news of him. At last, as they were returning to the temple by way of the shore, they were startled by the sound of a biwa, furiously played, in the cemetery of the Amidaji. Except for some ghostly fires--such as usually flitted there on dark nights--all was blackness in that direction. But the men at once hastened to the cemetery; and there, by the help of their lanterns, they discovered Hôïchi--sitting alone in the rain before the memorial tomb of Antoku Tennô, making his biwa resound, and loudly chanting the chant of the battle of Dan-no-ura. And behind him, and about him, and everywhere above the tombs, the fires of the dead were burning, like candles. Never before had so great a host of Oni-bi appeared in the sight of mortal man. . . .


Đêm ấy, khi Hôichi vừa ra khỏi chùa thì đã có người biết. Mấy chú tiểu chú điệu liền xách lồng đèn theo dấu anh chàng. Thế nhưng trời đang mưa, đường tối mịt. Bọn nhà chùa vừa ra tới ngõ lớn thì đã hút mất bóng Hôichi. Làm như thể Hôichi có chuyện phải nhanh chân đi gấp. Không thấy đường mà đi được nhanh như thế thật có trời mới hiểu, nhất là đường sá gập ghềnh. Bọn nhà chùa bèn thử xuống dưới xóm, đến những nhà Hôichi quen biết xem hắn ta có ghé đó không. Họ điểm từng nhà hỏi thăm, không sót đâu cả thế mà chẳng ai rõ tung tích chàng mù. Lúc không còn biết đi đâu mới theo ven bãi lui gót trở lại chùa thì họ chợt hoảng kinh. Trong khu nghĩa địa chùa A Di Đà, bổng văng vẳng tiếng tì bà dồn dập. Phía khu mộ địa tối om vẫn chập chờn đôi ba ánh lửa ma trơi như mọi hôm. Theo ánh lửa đèn lồng, bọn trai trẻ nhà chùa rốt cục tìm ra Hôichi trong nghĩa địa. Giữa cơn mưa tầm tã, Hôichi đang ngồi thẳng lưng trước lăng Thiên Hoàng Antoku, tay đàn miệng hát, dáng điệu đau đớn thiết tha, kể sự tích cuộc tranh chiến ở Dan no Ura. Chung quanh Hôichi toàn là bia, là mộ, ngổn ngang gò đống, và trên đó, hàng hàng lớp lớp những ngọn lửa quỉ lạnh lẽo chập chờn. Từ trước đến giờ, chắc chắn chưa có ai thấy một nơi nào mà ma trơi tụ tập nhiều như ở đây.

"Hôïchi San!--Hôïchi San!"
the servants cried-- "you are bewitched! ..."Hôïchi San!"

But the blind man did not seem to hear. Strenuously he made his biwa to rattle and ring and clang;--more and more wildly he chanted the chant of the battle of Dan-no-ura. They caught hold of him; they shouted into his ear:
"Hôïchi San!--Hôïchi San!--come home with us at once!"
Reprovingly he spoke to them:

- Chú Hôichi ơi, chú ơi!
Bọn trai trẻ gào lên. "Chú Hôichi ơi, ma nó ám chú rồi!"

Chàng mù như không đếm xỉa gì đến lời nói đó. Không những thế, chàng ta càng mạnh tay đàn, cao giọng hát, dồn hết tâm lực như kể truyện trận quyết chiến Dan no Ura. Bọn nhà chùa nắm vai Hoichi, lay lấy lay để và nói như thét vào tai :"Chú Hôichi, chú Hôichi ơi, theo bọn tôi về chùa thôi!" Bỗng lúc đó, Hôichi quay lại chúng, nói như mắng:

"To interrupt me in such a manner, before this august assembly, will not be tolerated."
Whereat, in spite of the weirdness of the thing, the servants could not help laughing. Sure that he had been bewitched, they now seized him, and pulled him up on his feet, and by main force hurried him back to the temple--where he was immediately relieved of his wet clothes, by order of the priest, and reclad, and made to eat and drink.
Then the priest insisted upon a full explanation of his friend's astonishing behavior.

- Trước mặt bậc cao quí như thế này mà chúng mày dám ồn ào. Coi chừng mất đầu đấy nhé!

Lời nói chẳng ăn nhập gì đâu vào đâu làm bọn trai trẻ nhà chùa không khỏi phì cười. Đã đến mức này thì họ biết Hôichi gặp đúng của gì rồi. Họ bèn hè nhau dùng sức kéo Hôichi dậy và bốc hắn về chùa. Theo lời dạy của sư cụ, họ thay quần áo khô và cho hắn ăn hắn uống. Thế rồi hòa thượng giục Hôichi phải tường trình về hành vi lạ lùng của hắn.


Hôïchi long hesitated to speak. But at last, finding that his conduct had really alarmed and angered the good priest, he decided to abandon his reserve; and he related everything that had happened from the time of the first visit of the samurai.

Ban đầu, Hôichi còn trù trừ không muốn nói nhưng cuối cùng, nghĩ đến sư cụ xưa nay vẫn chu đáo với mình, mà mình lại làm phiền, mới đem tình thực giãi bày. Từ chuyện người samurai nửa đêm đến tìm mình cho đến những chuyện gì đã xảy ra từ đó đến nay, đều thuật lại cho nhà sư.

The priest said: "Hôïchi, my poor friend, you are now in great danger! How unfortunate that you did not tell me all this before! Your wonderful skill in music has indeed brought you into strange trouble. By this time you must be aware that you have not been visiting any house whatever, but have been passing your nights in the cemetery, among the tombs of the Heiké;--and it was before the memorial-tomb of Antoku Tennô that our people to-night found you, sitting in the rain. All that you have been imagining was illusion--except the calling of the dead. By once obeying them, you have put yourself in their power. If you obey them again, after what has already occurred, they will tear you in pieces. But they would have destroyed you, sooner or later, in any event.... Now I shall not be able to remain with you to-night: I am called to perform another service. But, before I go, it will be necessary to protect your body by writing holy texts upon it."

Hòa thượng lúc đó mới nói:"Hôichi, thật tội nghiệp cho ngươi. Ngươi đang gặp nạn lớn đấy. Khổ nỗi là ngươi không chịu kể cho ta chuyện này sớm hơn. Trăm điều nguy khốn xảy đến cho ngươi cũng vì do cái tài đánh đàn tì bà. Tuy nhiên, lúc này ngươi phải tỉnh táo để tìm cách chấm dứt cơ sự này. Mấy đêm nay ngươi chẳng đi đánh đàn ở nhà ai cả, chỉ ra ngồi ở khu mả họ Taira trong nghĩa trang nhà chùa đó thôi. Thật ra, hồi hôm, bọn nhỏ nó tìm ra ngươi giữa đêm mưa trước lăng thiên hoàng Antoku đấy. Có thể là ma dẫn lối quỉ đưa đường cho ngươi nhưng những gì ngươi đã gặp đều là huyễn ảnh thôi. Một khi đã nghe lời ma quỉ thì chúng sẽ trói buộc ngươi mãi mãi. Nay đã đến tình cảnh này chỉ còn có cách không bao giờ chịu nghe theo chúng nữa, nếu không có ngày chúng phanh thây. Thật đấy, chẳng chóng thì chầy chúng sẽ giết ngươi thôi... Mà này, Hôichi, hôm nay lại có đàn việt mời đi cầu siêu suốt đêm, bắt buộc ta phải rời chùa, không thể ở bên ngươi được. Dầu sao, trước khi đi ta cũng sẽ viết kinh lên trên người để làm bùa hộ mạng cho ngươi.

Before sundown the priest and his acolyte stripped Hôïchi: then, with their writing-brushes, they traced upon his breast and back, head and face and neck, limbs and hands and feet--even upon the soles of his feet, and upon all parts of his body--the text of the holy sutra called "Hannya-Shin-Kyô." [6] When this had been done, the priest instructed Hôïchi, saying:

Trước khi tắt nắng, hòa thượng bảo Hôichi phơi trần ra rồi cùng tăng sĩ trông việc sổ sách kho đụn, cả hai lấy bút lông xúm lại viết kinh lên người chàng mù. Từ ngực đến lưng, cả trên đầu, trên mặt, tay chân, cùi chỏ... ngay cả gan bàn chân cũng được chép đầy Ban Nhược Tâm Kinh, coi như toàn thân không thiếu chỗ nào. Chép kinh xong, hòa thượng mới ôn tồn:

"To-night, as soon as I go away, you must seat yourself on the verandah, and wait. You will be called. But, whatever may happen, do not answer, and do not move. Say nothing, and sit still--as if meditating. If you stir, or make any noise, you will be torn asunder. Do not get frightened; and do not think of calling for help--because no help could save you. If you do exactly as I tell you, the danger will pass, and you will have nothing more to fear."

- Đêm nay, khi ta đi xong, ngươi nhớ ra ngồi chỗ hàng hiên hậu liêu mà chờ. Tất nhiên ma kia sẽ đến đón. Thế nhưng dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa, nhất thiết ngươi không được trả lời, không được động đậy. Cứ câm như hến, ngồi đấy thiền định theo phép Tam Muội, chuyên tâm vô niệm cho ta. Hễ ngươi rục rịch hay mở mồm là ngươi tới số đó nhé. Nói vậy chứ ngươi đừng sợ hãi gì, có gì xảy ra cũng chớ mở miệng kêu cứu, kêu cứu chỉ tổ chết sớm. Cứ làm đúng từng li từng tí lời ta căn dặn thì ngươi sẽ thoát hiểm từ đây.

After dark the priest and the acolyte went away; and Hôïchi seated himself on the verandah, according to the instructions given him. He laid his biwa on the planking beside him, and, assuming the attitude of meditation, remained quite still--taking care not to cough, or to breathe audibly. For hours he stayed thus.

Tối đến, hòa thượng cùng tăng sĩ thủ kho ra đi. Hôichi đúng lời sư cụ dặn, ra ngồi trước hàng hiên. Chàng mù đặt cây đàn tì bà trên sàn ván, ngồi nghiêm trang nhập định. Tâm thần yên ắng, không một tiếng ho khẽ, không một hơi thở mạnh. Cứ như thế, Hôichi ngồi chờ từ giờ này sang giờ khác. Dần dà, đã nghe tiếng chân bước từ chỗ phía khách vãng lai tiến về phía mình. Tiếng chân đi ngang cửa gỗ, thông qua khu vườn đến bên hàng hiên, dừng lại trước mặt Hôichi.

Then, from the roadway, he heard the steps coming. They passed the gate, crossed the garden, approached the verandah, stopped--directly in front of him.

- Hôichi! Vẫn cái giọng khỏe, oang oang, cất tiếng gọi. Thế nhưng lần nầy, chàng mù nén thở, im tiếng, châu thân bất động.

"Hôïchi!" the deep voice called. But the blind man held his breath, and sat motionless.
"Hôïchi!" grimly called the voice a second time. Then a third time--savagely:
"Hôïchi!"
Hôïchi remained as still as a stone--and the voice grumbled:
"No answer!--that won't do! ...Must see where the fellow is." . . . .
There was a noise of heavy feet mounting upon the verandah. The feet approached deliberately--halted beside him. Then, for long minutes--during which Hôïchi felt his whole body shake to the beating of his heart--there was dead silence.
At last the gruff voice muttered close to him:

- Hôichi! Tiếng quát lần thứ hai lanh lảnh rợn người. Lần thứ ba nó trở nên hằn học.
- Hôichi!
Hôichi vẫn ngồi im như tượng đá. Giọng nói kia không giữ được sự bực bội:
- Không trả lời! Quái! Thằng khốn nạn kia nó biến đi đâu nhỉ?
Tức khắc đã nghe tiếng chân bước thô bạo lên hiên. Tiếng chân xáp gần Hôichi rồi bỗng nhiên khựng lại. Hôichi cảm thấy trống ngực đập thình thịch, người run lẩy bẩy. Bên cạnh, vẫn không có một tiếng động nào.
Thoạt nhiên , cái tiếng nói thô bạo kia bỗng ghé sát bên tai chàng mù:

"Here is the biwa; but of the biwa-player I see--only two ears!... So that explains why he did not answer: he had no mouth to answer with--there is nothing left of him but his ears...Now to my lord those ears I will take--in proof that the august commands have been obeyed, so far as was possible."

- Tì bà thì có mà nhạc sĩ tì bà không thấy. Chỉ có hai cái lỗ tai treo ở đây! ... Có tai mà không nghe để trả lời. Chắc muốn trả lời mà không có miệng. Cả người chỉ còn lại cặp tai! ... Được rồi, đến thế này thì ta chỉ còn cách đem cặp tai này cho bề trên để có chứng cứ là ta đã làm đúng mệnh lệnh của ngài.

At that instant Hôïchi felt his ears gripped by fingers of iron, and torn off. Great as the pain was, he gave no cry. The heavy footfalls receded along the verandah--descended into the garden--passed out to the roadway--ceased. From either side of his head, the blind man felt a thick warm trickling; but he dared not lift his hands.

Chỉ trong một sát na, Hôichi đã cảm thấy hai ngón tay cứng như thép nguội giật lấy tai hắn ta, rồi xoẹt, hai tai đã đứt lìa. Khỏi phải nói chàng mù đau nhói đến tâm can nhưng cắn răng không thốt nửa lời. Tiếng chân kia từ từ bước xuống khỏi hàng hiên, đi qua khu vườn, xa dần về phía cổng hậu rồi mất hút. Hôichi cảm thấy hai bên đầu có cái nước gì nóng nóng đang ròng ròng chảy xuống nhưng vẫn không dám đưa tay lên sờ.

Before sunrise the priest came back. He hastened at once to the verandah in the rear, stepped and slipped upon something clammy, and uttered a cry of horror;--for he saw, by the light of his lantern, that the clamminess was blood. But he perceived Hôïchi sitting there, in the attitude of meditation--with the blood still oozing from his wounds.

Tờ mờ đất, hòa thượng mới khăn gói về chùa. Đến nơi, cụ đã tức tốc chạy xuống phía hiên hậu liêu. Bỗng sư cụ dẫm lên cái gì nhờm nhớp, trượt chân suýt ngã. Rồi cụ bỗng hoảng hốt vì dưới ánh sáng ngọn đèn lồng, đó là một vũng máu. Nhìn ra thì trên hàng hiên, Hôichi vẫn ngồi chính tọa trong tư thế nhập định, từ vết thương, máu nhỏ xuống nhuộm đỏ cả người.

"My poor Hôïchi!" cried the startled priest--"what is this? . . . You have been hurt?" .
At the sound of his friend's voice, the blind man felt safe. He burst out sobbing, and tearfully told his adventure of the night.
"Poor, poor Hôïchi!" the priest exclaimed--"all my fault!--my very grievous fault! . . . Everywhere upon your body the holy texts had been written--except upon your ears! I trusted my acolyte to do that part of the work; and it was very, very wrong of me not to have made sure that he had done it! . . . Well, the matter cannot now be helped; --we can only try to heal your hurts as soon as possible...Cheer up, friend!--the danger is now well over. You will never again be troubled by those visitors."

- Hôichi đó hả ! Sư cụ ngạc nhiên kêu "Trời Phật ơi, làm sao đến nỗi bị thương thế này ? "
Nghe tiếng hòa thượng, Hôichi biết nguy hiểm đã qua, bật lên khóc rồi bù lu bù loa kể sự thể những gì xảy ra đêm qua.
- Tội nghiệp ơi là tội nghiệp !
Hòa thượng không cầm được tiếng than. "Trăm sự cũng tại ta bất cẩn. Viết kinh lên khắp người của ngươi mà lại không viết lên tai. Thấy chỗ tai hẹp, khó viết ta mới cậy thủ kho viết giùm, mà chính ta cũng chẳng chịu kiểm xem hắn có viết cho chưa. Để đến nỗi này là do ta sơ ý... Nhưng có hối cũng đã muộn, điều gấp rút bây giờ là trị liệu cho ngươi chóng bình phục. Hôichi, chớ có buồn nữa, phải vui lên vì kể từ nay, tai qua nạn khỏi rồi. Chắc chắn ma quỉ chẳng còn đến đây hạch sách quấy nhiễu ngươi nữa đâu ."

With the aid of a good doctor, Hôïchi soon recovered from his injuries. The story of his strange adventure spread far and wide, and soon made him famous. Many noble persons went to Akamagaséki to hear him recite; and large presents of money were given to him--so that he became a wealthy man...But from the time of his adventure, he was known only by the appellation of "Mimi-nashi-Hôïchi": Hôïchi-the-Earless.

Nhờ lương y tận tâm, chẳng bao lâu, vết thương của Hôichi đã lành lặn. Câu chuyện kinh dị xảy đến cho chàng mù được đồn đãi nhanh chóng, danh tiếng chàng nổi lên như cồn. Bao nhiêu nhà giàu có cao quí đua nhau tới vùng Akamagaseki để thưởng thức ngón đàn của chàng, thi nhau cho vàng tặng lụa. Chẳng mấy lúc Hôichi trở thành giàu có. Thế nhưng vì câu chuyện quái dị kể trên mà Hôichi mang cái hỗn danh là "chàng Hôichi cụt tai".


Nguyên tác : Hirai Teiichi dịch Lafcadio Hearn (từ Anh ra Nhật)
Nguyễn Nam Trân dịch từ tiếng Nhật ra tiếng Việt

[Footnote 1:] Or, Shimonoseki. The town is also known by the name of Bakkan.

[Footnote 2:] The biwa, a kind of four-stringed lute, is chiefly used in musical recitative. Formerly the professional minstrels who recited the "Heiké-Monogatari," and other tragical histories, were called biwa-hôshi, or "lute-priests." The origin of this appellation is not clear; but it is possible that it may have been suggested by the fact that "lute-priests," as well as blind shampooers, had their heads shaven, like Buddhist priests. The biwa is played with a kind of plectrum, called bachi, usually made of horn.

[Footnote 3:] A respectful term, signifying the opening of a gate. It was used by samurai when calling to the guards on duty at a lord's gate for admission.

[Footnote 4:] Or the phrase might be rendered, "for the pity of that part is the deepest." The Japanese word for pity in the original text is awaré.

[Footnote 5:] "Traveling incognito" is at least the meaning of the original phrase--"making a disguised august-journey" (shinobi no go-ryokô).

[Footnote 6:] The smaller Pragña-Pâramitâ-Hridaya-Sutra is thus called in Japanese. Both the smaller and larger sutras called Pragña-Paramita ("Transcendent Wisdom") have been translated by the late Professor Max Müller, and can be found in volume xlix of the Sacred Books of the East ("Buddhist Mahâyâna Sutras"). Apropos of the magical use of the text, as described in this story, it is worth remarking that the subject of the sutra is the Doctrine of the Emptiness of Forms--that is to say, of the unreal character of all phenomena or noumena..."Form is emptiness; and emptiness is form. Emptiness is not different from form; form is not different from emptiness. What is form--that is emptiness. What is emptiness--that is form...Perception, name, concept, and knowledge, are also emptiness...There is no eye, ear, nose, tongue, body, and mind. . . But when the envelopment of consciousness has been annihilated, then he [the seeker] becomes free from all fear, and beyond the reach of change, enjoying final Nirvana."

Chú thích
(1) Cuộc thư hùng giữa hai giòng họ quyền thần Taira, (Bình, còn gọi là Heike (Bình gia)) và Minamoto (Nguyên, còn gọi là Nguyên thị (Genji)) thời trung cổ Nhật Bản, cũng giống như những cuộc tranh phong Trịnh Nguyễn, Lê Mạc của ta. Tháng 3 năm 1185, danh tướng Yoshitsune nhà Minamoto đánh tan đoàn chiến thuyền Taira ở Dan no Ura và mở màn cho chính trị mạc-phủ Kamakura. Cả một nhà Taira bị diệt vong, thiên hoàng Antoku (cháu ngoại họ Taira, tuổi hãy còn thơ) cũng chết trong trận thủy chiến. Sinh hoạt của hai giòng họ đã để lại những cổ điển bất hủ như Genji monogatari (Nguyên thị vật ngữ), một tác phẩm phong lưu được coi như truyện Kiều của Nhật, hay anh hùng ca Heike monogatari (Bình gia vật ngữ).

Lời người dịch

Gió luồn qua ngàn liễu bến Matsue (Tùng Giang), thành phố nhỏ nhìn ra biển Nhật Bản bốn mùa phong vũ. Đến nay, liễu vẫn thắm xanh trên bến như cái thuở con người phiêu bạt Lafcadio Hearn (1850-1904) đến định cư để tìm hiểu một nền văn hóa xa lạ đối với ông. Hearn (người Nhật đọc là Haan hay Herun) sinh năm 1850 ở quần đảo Ionia, Hy Lạp. Cha Ái Nhĩ Lan, mẹ Hy Lạp. Từ khi cha mẹ ly hôn, ông rày đây mai đó cho đến năm 1890, ngày đặt chân lên đất Phù Tang. Lấy tên Koizumi Yakumo (Tiểu Tuyền Bát Vân), ông viết nhiều tùy bút, biên khảo về đất nước và con người Nhật Bản.

Hearn lớn lên ở Pháp, chu du Mỹ, Canada, Martiniques... trước khi sự tình cờ đưa ông cập bến Yokohama năm đã 40 tuổi. Yêu mến phong cảnh hữu tình đất Matsue, ông sống một chuỗi ngày thật hạnh phúc ở đây, sau vì bệnh hoạn phải xuống Kumamota rồi lên Tokyo dạy Anh ngữ ở những đại học nỗi tiếng như Waseda, Tokyo, trước khi qua đời năm 1904 vì nghẽn mạch tim.

Viết văn, ông chịu ảnh hưởng Robert Stevenson, Gustave Flaubert, Guy de Maupassant, những nhà kể truyện nỗi tiếng. Ông muốn từ bỏ thế giới Tây Phương để mạo hiểm đến những miền đất lạ như nhiều nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Paul Gauguin và Pierre Loti.

Hearn đặc biệt yêu thích những truyện kinh dị không cứ gì của Nhật mà của quần đảo Antilles, của cả Trung Quốc. Lúc mới đến Nhật, chưa rành mặt chữ, phu nhân Setsuko đọc truyện ma quái Nhật cho ông nghe. Ông soạn lại bằng tiếng Anh, sau mới được dịch ra Nhật ngữ. Người ta biết Hearn nhiều qua tập Kaidan (Quái Đàm) mà "Truyện Chàng Hôichi Cụt Tai" (Miminashi Hôichi no Hanashi) này là một .... Nguyên tác (chỉ dài có một phần ba bản văn) vốn mang tên "Tì Bà Bí Khúc Khấp U Linh" lấy từ tác phẩm cổ điển "Ngọa Du Kỳ Đàm" do một ẩn sĩ tên Nhất Tịch Tản Nhân soạn, bản cổ nhất còn lưu lại in năm 1782.

Tham khảo:
1) Hirakawa Sukehiro, Koizumi Yakumo, Kaidan, Kidan, (Tiểu Tuyền Bát Vân, Truyện Kinh Dị) Kodansha, 1990.
2) Hirakawa Sukehiro, Koizumi Yakumo, Kureơru Monogatari, (Tiểu Tuyền Bát Vân, Truyện cổ vùng đảo Antilles) Kodansha, 1991.
3) Lafcadio Hearn (Tashiro Michitoshi dịch), Kaidan, Kidan (Truyện Kinh Dị), Kadogawa, 1956, ấn bản năm 1995.
4) Lafcadio Hearn (Hirai Teiichi dịch), Kaidan, Iwanami, 1940, ấn bản năm 2000.

https://www.sacred-texts.com/shi/kwaidan/index.htm



No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn