|
|
|
|
Meteorite explosion
over Chelyabinsk injures hundreds
|
Vụ nổ thiên thạch trên bầu trời Chelyabinsk làm bị thương hàng trăm người
|
Howard Amos in Moscow
guardian.co.uk
Friday 15 February 2013 13.28 GMT
|
Howard Amos in Moscow
guardian.co.uk
Thứ 6 ngày 15 tháng 2, 2013, 13.28 GMT
|
Almost 500 people
hurt as aftershock damages buildings and jammed mobile networks spread panic
|
Gần 500 người bị thương khi sóng xung kích gây thiệt
hại các tòa nhà và mạng lưới điện thoại di động bị nghẽn làm lây
lan hoảng loạn
|
Almost 500 people have been injured after a huge meteorite
flared spectacularly in the skies above the Russian city of Chelyabinsk. It
broke windows, damaged buildings and caused panic as mobile networks
overloaded.
|
Gần 500 người đã bị thương sau
khi một thiên thạch khổng lồ bùng cháy ngoạn mục trên bầu trời thành phố
Chelyabinsk của Nga. Nó
đã phá vỡ cửa sổ, làm hư hỏng các tòa nhà và gây hoảng loạn khi các mạng di động
quá tải.
|
|
|
Videos from the scene at 9:23am local time showed objects
plunging through the clear morning sky and erupting into enormous fireballs
to the sound of multiple explosions. Long vapour trails were seen hundreds of
miles away.
|
Hình ảnh Video tại hiện trường
lúc 9:23 sáng giờ địa phương cho thấy thiên thạch lao qua bầu trời trong vào buổi
sáng rõ ràng và cháy thành những quả cầu lửa khổng lồ với những âm thanh của nhiều
vụ nổ. Vệt hơi khói vẫn
được nhìn thấy ở cách xa hàng trăm dặm.
|
|
|
"I didn't understand what was going on," said
Galina Zaglumyonova, who lives in Chelyabinsk, a city of over a million
people to the south of the Ural mountains.
|
"Tôi không hiểu những gì
đang xảy ra", Galina Zaglumyonova, người sống ở Chelyabinsk, một thành
phố có hơn một triệu dân ở phía nam của dãy núi Ural.
|
|
|
"There was a big explosion and then a series of
little explosions … our first thought was that it was a plane crash,"
she said. The alarms of all the cars on the street went off after the loud
bangs. Shockwaves
were felt in buildings.
|
"Có một tiếng nổ lớn và
sau đó một loạt các vụ nổ nhỏ ... Đầu tiên chúng tôi nghĩ của rằng đó là một vụ
tai nạn máy bay", cô nói. Còi
báo động của tất cả các xe ô tô trên đường phố kêu lên sau khi có vụ nổ lớn. Sóng chấn động được
cảm thấy trong các tòa nhà.
|
|
|
The Russian Academy of Sciences estimated that the
meteorite weighed about 10 tons and entered the Earth's atmosphere at a speed
of at least 54,000 kph (33,000 mph), shattering about 30-50km (18-32 miles)
above ground.
|
Viện Hàn lâm khoa học Nga ước tính rằng thiên thạch nặng khoảng 10 tấn và đi vào
bầu khí quyển của Trái đất với tốc độ ít nhất là 54.000 km (33.000 mph), cháy vỡ hoàn toàn khi cách mặt
đất khoảng 30-50km (18-32 dặm).
|
|
|
Russian officials said that they had already found where
the main chunk of the meteorite had fallen, on the outskirts the city.
|
Các quan chức Nga cho biết họ
đã tìm thấy nơi phần chính
của thiên thạch đã rơi ở ngoại ô thành phố.
|
At the last count, 474 people had been injured with over
20 hospitalised, according to Russia's emergency situations ministry. The
figure rose throughout the morning and is expected to continue to rise. Many
of those who suffered were hit by flying glass, but there were no reports of
any deaths or life-threatening injuries.
|
Theo thống kê gần nhất, 474 người
đã bị thương với hơn 20 nhập viện, theo Bộ các tình huống khẩn cấp của Nga. Con
số bị thương tăng trong suốt buổi sáng và dự kiến sẽ
tiếp tục tăng. Nhiều
người trong số này bị ảnh hưởng bởi thủy tinh vỡ bay, nhưng không có báo cáo về
bất kỳ trường hợp tử vong hoặc chấn thương đe dọa tính mạng nào.
|
|
|
Zaglumyonova told the Guardian that the windows of her
balcony were shattered by the explosion, and the clay pots containing plants
on her windowsill were broken.
|
Zaglumyonova nói với Guardian
rằng các cửa sổ của ban công nhà cô bị vỡ bởi vụ nổ, và các chậu sứ trồng cây trên bậu cửa
sổ của cô cũng đã bị
vỡ.
|
|
|
Mobile networks were down for about two hours after the
meteorite plunged to Earth as people attempted to call each other and find
out what had happened, she added.
|
Các mạng di động đã nghẽn khoảng hai
giờ sau khi thiên thạch rơi xuống Trái đất khi mọi người tìm cách gọi nhau và tìm hiểu những gì đã xảy ra, cô nói thêm.
|
0"
height="330"
src="http://www.youtube.com/embed/b7mLUIDGqmw?feature=player_embedded"
frameborder="0" allowfullscreen>
|
|
The Chelyabinsk authorities said that radiation levels in
the region, which has several nuclear power stations, were normal and that
evacuations were not underway. But schools and universities were closed,
staff sent home early, and heavy damage reported at one zinc factory that
suffered broken windows and collapsed walls.
|
Các nhà chức trách Chelyabinsk
nói rằng mức phóng xạ
trong khu vực, trong đó có một số nhà máy điện hạt nhân, là bình thường
và sơ tán không được tiến hành. Nhưng
các trường phổ thông và các đại học đã đóng cửa, nhân viên về nhà sớm. Thiệt
hại nặng được báo cáo tại một nhà máy sản xuất kẽm nơi có cửa sổ bị phá vỡ và
các bức tường sụp đổ.
|
|
|
Rumours swirled in the hours after the incident. The
meteorite may have been engaged by local air defence units and blown apart at
an altitude of 20km (12.4 miles), according to reports on state-owned TV
channel Russia Today. There was no official confirmation of any military
action.
|
Có tin đồn lan đi mấy giờ sau
vụ nổ này. Thiên
thạch có thể được tác động bởi các đơn vị phòng không địa phương và được đẩy
ra xa ở độ cao 20 km (12,4 dặm), theo phóng sự trên kênh truyền hình nhà nước
Nga hôm nay. Không có
xác nhận chính thức về bất kỳ hành động quân sự nào.
|
|
|
The ultranationalist leader of Russia's Liberal Democrat
party, Vladimir Zhirinovsky, said that it was not a meteorite shower, but
"a test of new American weapons," Interfax reported.
|
Nhà lãnh đạo dân tộc cực đoan của
đảng Dân chủ Tự do Nga, Vladimir Zhirinovsky, nói rằng đó là không phải một
trận mưa thiên thạch, nhưng "một thử nghiệm vũ khí mới của Mỹ",
Interfax đưa tin.
|
|
|
Both the president, Vladimir Putin, and the prime minister,
Dmitry Medvedev, were informed about the incident.
|
Cả hai tổng thống Vladimir
Putin, thủ tướng, Dmitry Medvedev, đã được thông báo về vụ việc.
|
0"
height="330"
src="http://www.youtube.com/embed/90Omh7_I8vI?feature=player_embedded"
frameborder="0" allowfullscreen>
|
|
"I hope the consequences will not be serious,"
Medvedev said at an economic forum in Siberia, Interfax reported. "It's
proof that not only are economies vulnerable, but the whole planet."
|
"Tôi hy vọng hậu quả sẽ
không nghiêm trọng", ông Medvedev cho biết tại một diễn đàn kinh tế ở
Siberia, Interfax đưa tin. "Đó
là bằng chứng cho thấy rằng không những các nền kinh tế, mà toàn bộ hành tinh
rất dễ bị tổn thương."
|
0"
height="330"
src="http://www.youtube.com/embed/Hs1d4FpXItY?feature=player_embedded"
frameborder="0" allowfullscreen
|
|
The deputy prime minister, Dmitry Rogozin, Russia's former
ambassador to Nato, called for an international initiative to create a
warning system for "objects of an alien origin".
|
Phó Thủ tướng, Dmitry Rogozin,
cựu đại sứ Nga của NATO, kêu gọi một sáng kiến quốc tế để tạo ra hệ thống cảnh báo về các vật thể có
nguồn gốc ngoài hành tinh ".
|
Neither the United States nor Russia has the capability to
bring down such objects, he added.
|
Cả Mỹ cũng như Nga đều không có
khả năng bắn hạ các thiên thạch như thế đó, ông nói thêm.
|
http://www.guardian.co.uk/world/2013/feb/15/hundreds-injured-meteorite-russian-city-chelyabinsk
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Friday, February 15, 2013
Meteorite explosion over Chelyabinsk injures hundreds Vụ nổ thiên thạch trên bầu trời Chelyabinsk làm bị thương hàng trăm người
Obama’s 2013 State of the Union Address Thông điệp Liên bang của Tổng Thống Obama năm 2013
|
|
Obama’s 2013 State
of the Union Address
|
Thông điệp Liên bang
của Tổng Thống Obama năm 2013
|
PRESIDENT OBAMA: Mr. Speaker, Mr. Vice President, Members
of Congress, fellow citizens:
|
Tổng thống Obama: Kính thưa Chủ tịch Hạ Viện, Phó Tổng Thống, các thành viên Quốc hội, và các công dân:
|
Fifty-one years ago, John F. Kennedy declared to this
Chamber that “the Constitution makes us not rivals for power but partners for
progress…It is my task,” he said, “to report the State of the Union – to
improve it is the task of us all.”
|
Năm mươi năm trước, Tổng Thống John F.
Kennedy tuyên bố tại khán
phòng này rằng "Hiến pháp làm cho chúng ta không phải trở thành các đối
thủ tranh giành
quyền lực mà trở
thành các đối tác vì sự tiến bộ... Nhiệm vụ của tôi," ông nói,
"chính là báo cáo về tình trạng Liên Bang - cải thiện nó là nhiệm vụ của
tất cả chúng ta."
|
5 Ways China Could Become a Democracy 5 cách Trung Quốc có thể trở thành một nền dân chủ
|
|
|
|
5 Ways China Could
Become a Democracy
|
5 cách Trung Quốc có
thể trở thành một nền dân chủ
|
by Minxin Pei
The Diplomat
February 13, 2013
|
Bùi Mẫn Hân
Minxin Pei
13 tháng 2 2013
|
Speculating about China’s possible political futures is an
intellectual activity that intrigues some and puzzles many. The conventional wisdom is that the
entrenched Chinese Communist Party (CCP), so determined to defend and
perpetuate its political monopoly, has the means to survive for an extended
period (though not forever). A
minority view, however, holds that the CCP’s days are numbered. In fact, a transition to democracy in China
in the next 10 to 15 years is a high probability event. What stands behind this optimistic view
about China’s democratic future is accumulated international and historical
experience in democratic transitions (roughly 80 countries have made the
transition from authoritarian rule to varying forms and degrees of democracy
in the past 40 years) and decades of social science research that has yielded
important insights into the dynamics of democratic transition and
authoritarian decay (the two closely linked processes).
|
Suy đoán về tương lai chính trị khả dĩ của Trung Quốc đòi
hỏi một sự động não gây hấp dẫn đối với một số người và thách đố đối với
nhiều người. Theo lẽ thường thì đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), mà vốn đang
thúc thủ, và quyết tâm bảo vệ và duy trì độc quyền chính trị của mình, sẽ có
các phương sách để tồn tại trong một thời gian dài nữa (mặc dù không phải là
vĩnh viễn). Tuy nhiên, một quan điểm thiểu số, lại cho rằng thời gian tồn tại
của ĐCSTQ đang được đếm từng ngày. Trên thực tế, một quá trình chuyển đổi dân
chủ ở Trung Quốc trong 10 đến 15 năm tới là một biến cố có xác suất cao. Hậu
thuẫn cho cái nhìn lạc quan này về tương lai dân chủ của Trung Quốc là kinh
nghiệm tích lũy của quốc tế và lịch sử trong quá trình chuyển đổi dân chủ
(khoảng 80 quốc gia đã thực hiện các quá trình chuyển đổi từ chế độ độc tài sang
nhiều hình thức và mức độ dân chủ khác nhau trong 40 năm qua) và của nhiều
thập kỷ nghiên cứu khoa học xã hội mà đã mang lại những hiểu biết thấu đáo về
động lực của quá trình chuyển đổi dân chủ và sự suy rã của thể chế toàn trị (hai
quá trình có liên hệ chặt chẽ với nhau).
|
To be sure, those believing that China’s one-party regime
still has enough resilience to endure decades of rule can point to the CCP’s
proven and enormous capacity for repression (the most critical factor in the
survival of autocracies), its ability to adapt to socioeconomic changes
(although the degree of its adaptability is a subject of scholarly
contention), and its track record of delivering economic improvement as a
source of legitimacy.
|
Chắc chắn, những người tin rằng chế độ độc đảng của Trung
Quốc vẫn có khả năng phục hồi đủ để kéo dài nhiều thập kỷ cầm quyền có thể viện
dẫn năng lực áp chế to lớn đã được chứng minh của ĐCSTQ (đây là yếu tố quan
trọng nhất để một chế độ chuyên quyền sống còn), khả năng thích ứng của đảng
với các biển chuyển kinh tế-xã hội (mặc dù trình độ thích ứng của đảng là một
chủ đề còn gây tranh cãi trong giới học thuật), và thành tích đã có trong quá
khứ của đảng trong việc tạo dựng những tiến bộ kinh tế như là cơ sở cho tính
hợp pháp của mình.
|
To this list of reasons why the Chinese people should
resign themselves to decades of one-party rule will be a set of factors
singled out by proponents of the theory of predictable regime change in
China. Among many of the causes of the
decline and collapse of authoritarian rule, two stand out.
|
Bảng liệt kê các lý do tại sao người dân Trung Quốc phải
cam chịu nhiều thập kỷ chế độ độc đảng sẽ bao gồm hàng loạt các yếu tố được trưng
ra bởi những người ủng hộ lý thuyết về thay đổi chế độ có thể dự báo được ở
Trung Quốc. Trong rất nhiều nguyên nhân gây suy yếu và sụp đổ của chế độ cực
quyền, có hai nguyên nhân nổi bật.
|
First, there is the logic of authoritarian decay. One-party regimes, however sophisticated,
suffer from organizational ageing and decay.
Leaders get progressively weaker (in terms of capabilities and
ideological commitment); such regimes tend to attract careerists and
opportunists who view their role in the regime from the perspective of an
investor: they want to maximize their returns from their contribution to the
regime’s maintenance and survival. The
result is escalating corruption, deteriorating governance, and growing
alienation of the masses. Empirically,
the organizational decay of one-party regime can be measured by the limited
longevity of such regimes. To date,
the record longevity of a one-party regime is 74 years (held by the former
Communist Party of the Soviet Union).
One-party regimes in Mexico and Taiwan remained in power for 71 and 73
years respectively (although in the case of Taiwan, the accounting is
complicated by the Kuomintang’s military defeat on the mainland). Moreover, all of the three longest-ruling
one-party regimes began to experience system-threatening crisis roughly a
decade before they exited political power.
If the same historical experience should be repeated in China, where
the Communist Party has ruled for 63 years, we may reasonably speculate that
the probability of a regime transition is both real and high in the coming
10-15 years, when the CCP will reach the upper-limit of the longevity of
one-party regimes.
|
Nguyên nhân đầu tiên là logic suy tàn của chế độ cực quyền.
Các chế độ độc đảng, dù tinh vi đến mức nào, cũng đều bị lão hóa và suy yếu
về tổ chức. Các nhà lãnh đạo càng về sau càng yếu hơn (cả về năng lực và lập
trường tư tưởng); các chế độ như thế có xu hướng thu hút những kẻ hám danh và
những tên cơ hội nhìn nhận vai trò của họ trong chế độ đó từ quan điểm của một
nhà đầu tư: họ muốn tối đa hóa lợi tức của mình từ sự đóng góp của họ cho
việc duy trì và tồn vong của chế độ. Kết quả là tham nhũng leo thang, quản
trị tha hóa, và ngày càng xa rời quần chúng. Kinh nghiệm cho thấy, sự phân rã
về tổ chức của chế độ một đảng có thể đo bằng tuổi thọ giới hạn của chế độ đó.
Cho đến nay, tuổi thọ kỷ lục của một chế độ độc đảng là 74 năm (giữ kỷ lục
này là Đảng Cộng sản của Liên Xô trước đây). Chế độ một đảng cầm quyền ở
Mexico và Đài Loan có tuổi thọ là 71 và 73 năm (mặc dù trong trường hợp của
Đài Loan, sự tính toán khá phức tạp do thất bại quân sự trên đất liền của
Quốc Dân Đảng). Hơn nữa, cả ba chế độc đảng dài lâu nhất đều bắt đầu trải qua
khủng hoảng đe dọa hệ thống khoảng một thập kỷ trước khi rời khỏi quyền lực
chính trị. Nếu kinh nghiệm lịch sử đó lặp lại ở Trung Quốc, nơi mà Đảng Cộng sản
đã cai trị 63 năm nay, chúng ta có thể suy đoán một cách hợp lý rằng xác suất
chuyển đổi chế độ vừa hiện thực vừa cao trong vòng 10-15 năm tới, khi đó
ĐCSTQ sẽ đạt giới hạn trên của tuổi thọ của một chế độ độc đảng.
|
Second, the effects of socioeconomic change –rising
literacy, income, and urbanization rates, along with the improvement of
communications technologies — greatly reduce the costs of collective action,
de-legitimize autocratic rule, and foster demands for greater democracy. As a result, authoritarian regimes, which
have a relatively easy time ruling poor and agrarian societies, find it
increasingly difficult and ultimately impossible to maintain their rule once
socioeconomic development reaches a certain level. Statistical analysis shows that
authoritarian regimes become progressively more unstable (and democratic
transitions more likely) once income rises above $1,000 (PPP) per
capita. When per capita income goes
above $4,000 (PPP), the likelihood of democratic transitions increases more
dramatically. Few authoritarian
regimes, unless they rule in oil-producing countries, can survive once per
capita income hits more than $6,000 (PPP).
If we apply this observation and take into account the probable effect
of inflation (although the above PPP figures were calculated in constant
terms), we will find that China is well into this “zone of democratic
transition” because its per capita income is around $9,100 (PPP) today,
comparable to the income level of South Korea and Taiwan in the mid-1980s on
the eve of their democratic transitions.
In another 10-15 years, its per capita income could exceed $15,000 and
its urbanization rate will have risen to 60-65 percent. If the CCP has such a tough time today (in
terms of deploying its manpower and financial resources) to maintain its rule,
just imagine how impossible the task will become in 10-15 years’ time.
|
Nguyên nhân thứ hai là ảnh hưởng của thay đổi kinh tế xã
hội - tăng trình độ học vấn, tăng thu nhập, và đô thị hóa, cùng với sự cải
thiện của công nghệ truyền thông – đã làm giảm đáng kể phí tổn để tao ra hành
động tập thể, làm mất tính hợp pháp của chế độ chuyên quyền, và nuôi dưỡng
những đòi hỏi về dân chủ nhiều hơn. Kết quả là, các chế độ độc tài, mà đã có một
thời gian tương đối dễ dàng cai trị xã hội gồm những người nghèo và người làm
nông nghiệp, tự nhận thấy tình hình ngày càng khó khăn hơn và cuối cùng không
thể duy trì được nữa sự cầm quyền của
họ một khi phát triển kinh tế xã hội đạt đến một mức độ nhất định. Phân tích
thống kê cho thấy rằng chế độ độc tài ngày càng trở nên không ổn định (và càng
có nhiều khả năng chuyển đổi dân chủ) một khi thu nhập bình quân đầu người (PPP)
tăng lên trên 1.000 đô-la. Khi thu nhập bình quân đầu người trên 4000 đô-la,
khả năng chuyển đổi dân chủ tăng mạnh mẽ hơn. Rất ít chế độ độc tài, trừ khi
họ cầm quyền ở các nước sản xuất dầu mỏ, có thể tồn tại một khi thu nhập bình
quân đầu người đạt hơn 6000 đô-la. Nếu chúng ta áp dụng quan sát này và có
tính đến hiệu ứng có thể có của lạm phát (mặc dù các số liệu PPP trên được
tính toán hằng định), chúng ta sẽ thấy rằng Trung Quốc hẳn đã rơi vào
"khu vực của chuyển đổi dân chủ" vì thu nhập đầu người của nước này
hiện nay đạt khoảng 9.100 đô-la, ngang bằng với mức thu nhập của Hàn Quốc và
Đài Loan giữa những năm 1980, vào đêm trước của quá trình chuyển đổi dân chủ.
Trong 10-15 năm nữa, thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc có thể vượt
quá 15.000 đô-la và tỷ lệ đô thị hóa của nó sẽ tăng lên tới 60-65%. Nếu ĐCSTQ
ngày hôm nay đã có một thời gian khó khăn như thế (về triển khai nhân lực và
nguồn tài chính) để duy trì sự cầm quyền của mình, thì chỉ cần tưởng tượng
nhiệm vụ này sẽ trở thành bất khả thi như thế nào trong thời gian 10-15 năm
nữa.
|
If this analysis is convincing enough for us to entertain
the strong possibility of a democratic transition in China in the coming
10-15 years, the more interesting follow-up question is definitely “how will
such a transition happen?”
|
Nếu phân tích này đủ sức thuyết phục để chúng ta hy vọng vào khả năng chắc chắn của quá
trình chuyển đổi dân chủ ở Trung Quốc trong 10-15 năm tới, thì câu hỏi tiếp theo
thú vị hơn chắc hẳn là "quá trình chuyển đổi đó sẽ diễn ra như thế
nào?"
|
Again, based on the rich experience of democratic
transitions since the 1970s, there are five ways China could become
democratic:
|
Một lần nữa, dựa trên những kinh nghiệm phong phú của quá
trình chuyển đổi dân chủ từ những năm 1970, thì có năm cách để Trung Quốc có
thể trở thành một quốc gia dân chủ:
|
“Happy ending” would be the most preferable mode of
democratic transition for China. Typically, a peaceful exit from power managed
by the ruling elites of the old regime goes through several stages. It starts with the emergence of a
legitimacy crisis, which may be caused by many factors (such as poor economic
performance, military defeat, rising popular resistance, unbearable costs of
repression, and endemic corruption).
Recognition of such a crisis convinces some leaders of the regime that
the days of authoritarian rule are numbered and they should start managing a
graceful withdrawal from power. If
such leaders gain political dominance inside the regime, they start a process
of liberalization by freeing the media and loosening control over civil
society. Then they negotiate with
opposition leaders to set the rules of the post-transition political
system. Most critically, such negotiations
center on the protection of the ruling elites of the old regime who have
committed human rights abuses and the preservation of the privileges of the
state institutions that have supported the old regime (such as the military
and the secret police). Once such
negotiations are concluded, elections are held. In most cases (Taiwan and Spain being the
exceptions), parties representing the old regime lose such elections, thus
ushering in a new democratic era. At the moment, the transition in Burma is
unfolding according to this script.
|
"Kết thúc có hậu" sẽ là phương thức ưu tiên nhất
của quá trình chuyển đổi dân chủ cho Trung Quốc. Thông thường, một lối thoát
hòa bình để rời bỏ quyền lực được điều khiển bởi tầng lớp tinh hoa cầm quyền
của chế độ cũ phải kinh qua nhiều giai đoạn. Bắt đầu là sự xuất hiện của cuộc
khủng hoảng về tính hợp pháp, mà có thể được gây ra bởi nhiều yếu tố (như nền
kinh tế kém, thất bại quân sự, đối kháng của quần chúng gia tăng, chi phí
không thể chịu đựng nổi để thực hiện áp chế, và tệ nạn tham nhũng). Việc nhận
ra một cuộc khủng hoảng như thế thuyết phục một số nhà lãnh đạo của chế độ,
mà sự cầm quyền độc đoán đang đếm từng ngày, và họ thấy nên bắt đầu tìm cách
từ bỏ quyền lực một cách êm đẹp. Nếu các nhà lãnh đạo như vậy nắm được vai
trò thống soái chính trị bên trong chế độ, họ sẽ bắt đầu một quá trình tự do
hóa bằng cách giải phóng các phương tiện truyền thông và nới lỏng kiểm soát
đối với các tổ chức xã hội dân sự. Sau đó, họ đàm phán với các nhà lãnh đạo
đối lập để thiết lập các quy tắc của hệ thống chính trị hậu-chuyển đổi. Điều
quan trọng nhất là các cuộc đàm phán đó phải tập trung vào việc bảo vệ các
tầng lớp tinh hoa cầm quyền của chế độ cũ đã vi phạm nhân quyền và duy trì
đặc quyền của các thiết chế nhà nước đã hỗ trợ chế độ cũ (như quân đội và
cảnh sát mật). Một khi các cuộc đàm phán đã được thỏ thuận xong, bầu cử sẽ được
tổ chức. Trong hầu hết các trường hợp (Đài Loan và Tây Ban Nha là những
trường hợp ngoại lệ), các đảng phái đại diện cho chế độ cũ sẽ bị thất bại
trong các cuộc bầu cử đó, nhờ đó mà một kỷ nguyên dân chủ mới được mở ra. Vào
thời điểm này, quá trình chuyển đổi ở Miến Điện đang diễn ra theo kịch bản
này.
|
But for China, the probability of such a happy ending
hinges on, among other things, whether the ruling elites start reform before
the old regime suffers irreparable loss of legitimacy. The historical record of peaceful
transition from post-totalitarian regimes is abysmal mainly because such
regimes resist reform until it is too late.
Successful cases of “happy ending” transitions, such as those in
Taiwan, Mexico, and Brazil, took place because the old regime still
maintained sufficient political strength and some degree of support from key
social groups. So the sooner the
ruling elites start this process, the greater their chances of success. The paradox, however, is that regimes that
are strong enough are unwilling to reform and regimes that are weak cannot
reform. In the Chinese case, the odds
of a soft landing are likely to be determined by what China’s new leadership
does in the coming five years because the window of opportunity for a
political soft landing will not remain open forever.
|
Nhưng đối với Trung Quốc, ngoài những thứ khác, thì xác suất của một kết thúc có hậu gắn
liền với việc liệu tầng lớp tinh hoa cầm
quyền có chịu bắt đầu cải cách trước khi chế độ cũ mà vốn đã đánh mất tính
hợp pháp không khôi phục được hay không. Lịch sử ghi nhận hiếm có chuyển đổi
hòa bình từ sau chế độ độc tài toàn trị, mà chủ yếu là do chế độ đó tìm cách chống
lại cải cách cho đến khi quá muộn. Trường hợp thành công của quá trình chuyển
đổi với "kết thúc có hậu", chẳng hạn như ở Đài Loan, Mexico, và Brazil,
đã diễn ra bởi vì chế độ cũ vẫn duy trì đủ sức mạnh chính trị và có một số hỗ
trợ từ các nhóm xã hội quan trọng. Vì vậy, tầng lớp tinh hoa cầm quyền bắt
đầu quá trình này càng sớm bao nhiêu, cơ hội thành công của họ càng nhiều bấy
nhiêu. Tuy nhiên, có một nghịch lý là một chế độ đủ mạnh thì không muốn cải
cách và một chế độ yếu thì không thể cải cách. Trong trường hợp Trung Quốc,
tỷ lệ đặt cược cho một hạ cánh nhẹ nhàng có thể được xác định bởi những điều
mà ban lãnh đạo mới của Trung Quốc sẽ làm trong năm năm tới bởi vì cánh cửa dành
cho cơ hội hạ cánh chính trị nhẹ nhàng
sẽ không còn mở mãi.
|
“Gorby comes to China” is a variation of the “happy
ending” scenario with a nasty twist.
In such a scenario, China’s leadership misses the historic opportunity
to start the reform now. But in the
coming decade, a convergence of unfavorable economic, social, and political
trends (such as falling economic growth due to demographic ageing,
environmental decay, crony-capitalism, inequality, corruption and rising social
unrest) finally forces the regime to face reality. Hardliners are discredited
and replaced by reformers who, like Gorbachev, start a Chinese version of
glasnost and perestroika. But the
regime by that time has lost total credibility and political support from key
social groups. Liberalization triggers
mass political mobilization and radicalism.
Members of the old regime start to defect – either to the opposition
or their safe havens in Southern California or Switzerland. Amid political chaos, the regime suffers
another internal split, similar to that between Boris Yeltsin and Gorbachev,
with the rise of a radical democratizer replacing a moderate reformer. With their enormous popular support, the
dominant political opposition, including many defectors from the old regime,
refuses to offer concessions to the Communist Party since it is now literally
in no position to negotiate. The
party’s rule collapses, either as a result of elections that boot its
loyalists out of power or spontaneous seizure of power by the opposition.
|
"Gorbachev đến Trung Quốc" là một biến thể của
kịch bản "kết thúc có hậu" với một cú xoáy khó chịu. Trong kịch bản
này, giới lãnh đạo Trung Quốc bỏ lỡ cơ hội lịch sử để bắt đầu cải cách ngay
bây giờ. Tuy nhiên, trong thập kỷ tới, một sự hội tụ của các xu hướng bất lợi
về kinh tế, xã hội, và chính trị (chẳng hạn như giảm tăng trưởng kinh tế do
dân số bị lão hóa môi trường suy thoái, tư bản bè phái, bất bình đẳng, tham
nhũng và tăng bất ổn xã hội) cuối cùng sẽ buộc chế độ phải đối mặt với thực
tế. Những người theo đường lối cứng rắn bị mất uy tín và được thay thế bởi các
nhà cải cách, như Gorbachev chẳng hạn, và họ sẽ bắt đầu một phiên bản Trung
Quốc về “công khai hóa và cải tổ” (glasnost
i perestroika). Nhưng chế độ vào thời điểm đó đã bị mất đi toàn bộ uy tín
và hỗ trợ chính trị từ các nhóm xã hội quan trọng. Tự do hóa châm ngòi cho huy
động chính trị quần chúng và chủ nghĩa cực đoan. Các thành viên của chế độ cũ
bắt đầu đào thoát hoặc theo phe đối lập hoặc tìm nơi trú ẩn an toàn ở Nam
California hoặc Thụy Sĩ. Trong bối cảnh hỗn loạn chính trị, chế độ lại bị một
chia rẽ nội bộ khác, tương tự như giữa Boris Yeltsin và Gorbachev, và một nhà
dân chủ cực đoan nổi lên để thay thế một nhà cải cách ôn hòa. Với sự hỗ trợ to
lớn của công chúng, phe đối lập chính trị nổi trội, bao gồm cả những người đào
thoát từ chế độ cũ, từ chối đưa ra nhượng bộ với Đảng Cộng sản vì nó bây giờ hoàn
toàn không có tư cách để đàm phán. Cai trị độc đảng sụp đổ, hoặc do bầu cử để
tống những người trung thành với đảng ra khỏi chính quyền hoặc phe đối lập tự
phát nắm giữ quyền lực.
|
Should such a scenario occur in China, it would be the
most ironic. For the last twenty
years, the Communist Party has tried everything to avert a Soviet-style
collapse. If the “Gorby scenario” is
the one that brings democracy to China, it means the party has obviously
learned the wrong lesson from the Soviet collapse.
|
Nếu một kịch bản như vậy xảy ra ở Trung Quốc, đó sẽ là điều
mỉa mai nhất. Suốt hai mươi năm qua, Đảng Cộng sản đã thử tất cả mọi thứ để
ngăn chặn một sự sụp đổ kiểu Liên Xô. Nếu "kịch bản Gorbachev" là
kịch bản sẽ đem lại nền dân chủ cho Trung Quốc, thì điều đó có nghĩa là rõ
ràng đảng đã học được những bài học sai lầm từ sự sụp đổ của Liên Xô.
|
“Tiananmen redux” is a third possibility. Such a scenario can unfold when the party
continues to resist reform even amid signs of political radicalization and
polarization in society. The same
factors that contribute to the “Gorby scenario” will be at play here, except
that the trigger of the collapse is not a belated move toward liberalization
by reformers inside the regime, but by an unanticipated mass revolt that
mobilizes a wide range of social groups nationwide, as happened during
Tiananmen in 1989. The manifestations
of such a political revolution will be identical with those seen in the heady
days of the pro-democracy Tiananmen protest and the “Jasmine Revolution” in
the Middle East. In the Chinese case,
“Tiananmen redux” produces a different political outcome mainly because the
China military refuses to intervene again to save the party (in most cases of
crisis-induced transitions since the 1970s, the military abandoned the
autocratic rulers at the most critical moment).
|
"Nổi dậy Thiên An Môn" là một khả năng thứ
ba. Kịch bản này có thể diễn ra khi đảng
tiếp tục chống lại cải cách ngay cả trong bối cảnh có dấu hiệu cực đoan chính
trị và sự phân cực trong xã hội. Các yếu tố tương tự góp phần vào "kịch
bản Gorbachev" sẽ diễn ra ở đây, ngoại trừ rằng việc kích hoạt sụp đổ
không phải là một động thái muộn màng hướng tới giả phóng tự do bởi những người cải cách bên trong chế độ,
nhưng một cuộc nổi dậy hàng loạt bất ngờ huy động rất đông các nhóm xã hội
trên toàn quốc, như đã xảy ra tại quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989. Các
biểu hiện của một cuộc cách mạng chính trị như vậy sẽ giống hệt với những gì
người ta nhìn thấy trong những ngày sôi sục của cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ
Thiên An Môn và "Cách mạng Hoa nhài" ở Trung Đông. Trong trường hợp
Trung Quốc, " Nổi dậy Thiên An Môn" tạo ra một kết quả chính trị khác
biệt chủ yếu là do quân đội Trung Quốc từ chối can thiệp một lần nữa để bảo
vệ đảng (trong hầu hết các trường hợp chuyển đổi do khủng hoảng kích động từ
những năm 1970, quân đội bỏ rơi những người cai trị độc đoán vào thời điểm
quan trọng này).
|
“Financial meltdown” – our fourth scenario – can initiate
a democratic transition in China in the same way the East Asian financial
crisis in 1997-98 led to the collapse of Suharto in Indonesia. The Chinese bank-based financial system
shares many characteristics with the Suharto-era Indonesian banking system:
politicization, cronyism, corruption, poor regulation, and weak risk
management. It is a well-known fact
today that the Chinese financial system has accumulated huge non-performing
loans and may be technically insolvent if these loans are recognized. In addition, off-balance sheet activities
through the shadow-banking system have mushroomed in recent years, adding
more risks to financial stability. As
China’s capacity to maintain capital control erodes because of the
proliferation of methods to move money in and out of China, the probability
of a financial meltdown increases further.
To make matters worse, premature capital account liberalization by
China could facilitate capital flight in times of a systemic financial
crisis. Should China’s financial
sector suffer a meltdown, the economy would grind to a halt and social unrest
could become uncontrollable. If the
security forces fail to restore order and the military refuse to bail out the
party, the party could lose power amid chaos.
The probability of a collapse induced by a financial meltdown alone is
relatively low. But even if the party
should survive the immediate aftermath of a financial meltdown, the economic
toll exacted on China will most likely damage its economic performance to
such an extent as to generate knock-on effects that eventually delegitimize
the party’s authority.
|
"Cuộc khủng hoảng tài chính" - kịch bản thứ tư -
có thể bắt đầu một quá trình chuyển đổi dân chủ tại Trung Quốc theo cách thức
mà cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997-98 đã dẫn đến sự sụp đổ của
Suharto ở Indonesia. Hệ thống tài chính dựa vào Ngân hàng của Trung Quốc có nhiều
đặc điểm giống như hệ thống ngân hàng Indonesia thời Suharto: chính trị hóa, chủ
nghĩa thân hữu, tham nhũng, kỷ luật kém, và quản lý rủi ro yếu. Có một thực
tế hiện nay mà ai cũng biết là hệ thống tài chính Trung Quốc đã tích lũy các
khoản nợ xấu khổng lồ không thanh toán được, và có thể lâm vào tình trạng phá
sản về mặt kỹ thuật nếu các khoản vay này được công nhận. Ngoài ra, các hoạt
động ngoài bảng cân đối kế toán thông qua hệ thống ngân hàng trong bóng tối đã
mọc lên như nấm trong những năm gần đây, tăng thêm nhiều rủi ro đối với sự ổn
định tài chính. Khi năng lực của duy trì kiểm soát vốn của Trung Quốc bị xói
mòn do sự lan rộng các phương thức chuyển tiền vào và ra khỏi Trung Quốc, xác
suất của một cuộc khủng hoảng tài chính càng tăng lên. Vấn đề còn tồi tệ hơn
nữa khi tự do hóa tài khoản vốn non nớt của Trung Quốc có thể tạo điều kiện thuận
lợi cho việc bay vốn trong thời điểm khủng hoảng hệ thống tài chính. Nếu khu
vực tài chính của Trung Quốc phải chịu một cuộc khủng hoảng, nền kinh tế sẽ đình
đốn và tình trạng bất ổn xã hội có thể trở nên không thể kiểm soát được. Nếu
lực lượng an ninh không thể khôi phục trật tự và quân đội từ chối bảo vệ đảng,
đảng có thể bị mất quyền lực trong bối cảnh hỗn loạn. Xác suất của một sự sụp
đổ gây ra bởi một mình khủng hoảng tài chính là tương đối thấp. Nhưng ngay cả
khi đảng vượt qua được hậu quả trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính, tổn
thất kinh tế mà Trung Quốc phải gánh chịu sẽ rất có thể sẽ gây thiệt hại cho hoạt
động kinh tế đến mức có thể tạo ra hiệu ứng dây chuyền mà cuối cùng phá bỏ
tính hợp pháp của đảng.
|
“Environmental collapse” is our last regime change
scenario. Given the salience of
environmental decay in China these days, the probability of a regime change
induced by environmental collapse is not trivial. The feed-back loop linking environmental
collapse to regime change is complicated but not impossible to conceive. Obviously, the economic costs of
environmental collapse will be substantial, in terms of healthcare, lost
productivity, water shortage, and physical damages. Growth could stall,
undermining the CCP’s legitimacy and control. Environmental collapse in China
has already started to alienate the urban middle-class from the regime and
triggered growing social protest.
Environmental activism can become a political force linking different
social groups together in a common cause against a one-party regime seen as
insensitive, unresponsive, and incompetent on environmental issues. The
severe degradation of the environment in China also means that the
probability of a catastrophic environmental disaster – a massive toxic spill,
record drought, or extended period of poisonous smog– could trigger a mass
protest incident that opens the door for the rapid political mobilization of
the opposition.
|
"Môi trường sụp đổ" là kịch bản thay đổi chế độ
cuối cùng. Với những đặc tính nổi bật của môi trường ở Trung Quốc vào những
ngày này, xác suất của một sự thay đổi chế độ gây ra bởi sự suy thoái môi
trường là không nhỏ. Vòng lặp phản hồi nối kết sự sụp đổ môi trường với thay
đổi chế độ là phức tạp nhưng không phải không thể nhận ra. Rõ ràng, các chi
phí kinh tế của sự sụp đổ môi trường sẽ là rất lớn, về phương diện chăm sóc
sức khỏe, mất năng suất, thiếu nước, và bồi thường thể chất. Tăng trưởng có
thể bị ngừng lại, phá bỏ tính hợp pháp và kiểm soát của ĐCSTQ. Môi trường sụp
đổ ở Trung Quốc đã bắt đầu khiến các tầng lớp trung lưu đô thị xa lánh chế độ
và kích thích phản đối gia tăng trong xã hội. Các hoạt động môi trường có thể
trở thành một lực lượng chính trị liên kết các nhóm xã hội khác nhau vào một sự
nghiệp chung chống lại chế độ độc đảng được xem là vô cảm, lãnh đạm, và không
đủ năng lực giả quyết các vấn đề môi trường. Sự xuống cấp nghiêm trọng của
môi trường ở Trung Quốc cũng có nghĩa rằng xác suất của một thảm họa môi
trường nghiêm trọng - một sự tràn chất độc hại lớn, hạn hán kỷ lục, hoặc khói
độc kéo dài có thể kích hoạt một sự cố biểu tình đông đảo mở toang cánh cửa
cho việc huy động chính trị nhanh chóng của phe đối lập.
|
The take-away from this intellectual exercise should be
sobering, both for the CCP and the international community. To date, few have seriously thought about
the probability and the various plausible scenarios of a regime transition in
China. As we go through the likely
causes and scenarios of such a transition, it should become blindingly clear
that we need to start thinking about both the unthinkable and the inevitable.
|
Việc tiếp nhận bài tập trí tuệ này cần phải tỉnh táo đối
với cả Đảng Cộng sản Trung Quốc lẫn cộng đồng quốc tế. Cho đến nay, rất ít
người nghiêm túc suy nghĩ về khả năng và các kịch bản chính đáng khác nhau
của một quá trình chuyển đổi chế độ ở Trung Quốc. Khi chúng ta điểm qua những
nguyên nhân khả dĩ và các kịch bản của một quá trình chuyển đổi như thế, thì điều
hết sức rõ ràng là chúng ta cần phải bắt đầu suy nghĩ về cả những điều không dám
nghĩ lẫn những điều không thể tránh khỏi.
|
|
|
|
|
Subscribe to:
Posts (Atom)