|
|
The Arab spring at
one: a year of living dangerously
|
MÙA XUÂN ARẬP: MỘT
NĂM SỐNG TRONG NGUY HIỂM
|
By Fouad Ajami
|
Fouad Ajami
|
Foreign Affairs, March-April 2012
|
Foreign Affairs, tháng 3-4/2012
|
Throughout 2011, a rhythmic chant echoed across the Arab
lands: "The people want to topple the regime." It skipped borders
with ease, carried in newspapers and magazines, on Twitter and Facebook, on
the airwaves of al Jazeera and al Arabiya. Arab nationalism had been written
off, but here, in full bloom, was what certainly looked like a pan-Arab
awakening. Young people in search of political freedom and economic
opportunity, weary of waking up to the same tedium day after day, rose up
against their sclerotic masters.
|
Trong suốt năm 2011, một lời ca nhịp nhàng đã vang lên
trên khắp các vùng đất Arập: “Người dân muốn lật đổ chế độ”. Nó đã dễ dàng bỏ
qua các đường biên giới, được đưa vào các tờ báo và các tạp chí, trên Twitter
va Pacebook, trong các chương trình phát sóng của các đài truyền hình al
Jazeera và al Arabiya. Chủ nghĩa dân tộc Arập đã bị xóa bỏ, nhưng ở đây, đạt
đến đỉnh cao nhất, là thứ chắc chắn giống như sự thức tỉnh liên Arập. Những
người trẻ tuổi trong lúc tìm kiếm quyền tự do chính trị và cơ hội kinh tế, rã
rời nhận ra cùng sự buồn tẻ ngày này qua ngày khác, đã đứng dậy chống lại
những ông chủ khô cứng của họ.
|
It came as a surprise. For almost two generations, waves
of democracy had swept over other regions, from southern and eastern Europe
to Latin America, from East Asia to Africa. But not the Middle East. There,
tyrants had closed up the political world, become owners of their countries
in all but name. It was a bleak landscape: terrible rulers, sullen
populations, a terrorist fringe that hurled itself in frustration at an order
bereft of any legitimacy. Arabs had started to feel they were cursed, doomed
to despotism. The region's exceptionalism was becoming not just a human disaster
but a moral embarrassment.
|
Nó đã xảy đến như một sự ngạc nhiên. Trong gần hai thế hệ,
những làn sóng dân chủ đã quét qua những khu vực khác, từ Nam và Đông Âu đến
Mỹ Latinh, từ Đông Á đến châu Phi. Nhưng không phải Trung Đông, ở đó, những
kẻ bạo chúa đã đóng kín thế giới chính trị, trở thành những người chủ đất
nước của họ về tất cả trừ cái tên. Đó là một khung cảnh ảm đạm: những kẻ cầm
quyền tồi tệ, người dân chán nản, một nhóm khủng bố rơi vào sự thất vọng trước
một trật tự bị mất hết tính hợp pháp. Người Arập đã bắt đầu cảm thấy họ bị
nguyền rủa, phải chịu sống dưới chế độ chuyên chế. Chủ nghĩa ngoại lệ của khu
vực này trở thành không chỉ là một thảm họa nhân loại mà còn thành một sự xấu
hổ về đạo đức.
|
Outside powers had winked at this reality, silently
thinking this was the best the Arabs could do. In a sudden burst of
Wilsonianism in Iraq and after, the United States had put its power behind
liberty. Saddam Hussein was flushed out of a spider hole, the Syrian brigades
of terror and extortion were pushed out of Lebanon, and the despotism of
Hosni Mubarak, long a pillar of Pax Americana, seemed to lose some of its
mastery. But post-Saddam Iraq held out mixed messages: there was democracy,
but also blood in the streets and sectarianism. The autocracies hunkered down
and did their best to thwart the new Iraqi project. Iraq was set ablaze, and
the Arab autocrats could point to it as a cautionary tale of the folly of
unseating even the worst of despots. Moreover, Iraq carried a double burden
of humiliation for Sunni Arabs: the bearer of liberty there was the United
States, and the war had empowered the Shiite stepchildren of the Arab world.
The result was a standoff: the Arabs could not snuff out or ignore the
flicker of freedom, but nor did the Iraqi example prove the subversive beacon
of hope its proponents had expected.
|
Các cường quốc bên ngoài đã nhắm mắt làm ngơ trước thực
trạng này thầm nghĩ đây là điều tốt nhất các nước Arập có thể làm. Trong một
sự bùng nổ đột ngột của chủ nghĩa Wilson ở Irắc và sau đó, Mỹ đã đặt sức mạnh
của mình ơ đằng sau sự tự do. Saddam Hussein đã bị lôi ra khỏi hang nhện, các
lữ đoàn khủng bố và tống tiền của Xyri đã bị đẩy ra khỏi Libăng, và chế độ
chuyên chế của Hosni Mubarak, từ lâu đã là trụ cột của hòa bình theo kiểu Mỹ,
dường như mất đi phần nào ưu thế của mình. Nhưng Irắc hậu Saddam đã đưa ra những
thông điệp lẫn lộn: có chế độ dân chủ nhưng cũng có cả máu trên đường phố và
chủ nghĩa bè phái. Các chế độ chuyên quyền đã làm việc ráo riết và hết sức để
ngăn chặn kế hoạch Irắc mới. Irắc đã bừng cháy, và những kẻ chuyên quyền Arập
có thể lưu ý đến nó như một câu chuyện cảnh báo về hành động điên rồ hất cẳng
ngay cả kẻ tồi tệ nhất trong những kẻ chuyên quyền. Hơn nữa, Irắc đã mang
gánh nặng nhục nhã gấp đôi cho những người Arập dòng Sunni: người mang lại tự
do ở đó là Mỹ, và cuộc chiến tranh này đã trao quyền lực cho những đứa con
riêng Shitte của thế giới Arập. Kết quả là một thế bế tắc: người Arập không
thể dập tắt hay phớt lờ một thoáng tự do, nhưng tấm gương Irắc cũng không cho
thấy một tia hy vọng lật đổ mà những người khơi xướng nó đã mong đợi.
|
It was said by Arabs themselves that George W. Bush had
unleashed a tsunami on the region. True, but the Arabs were good at waiting
out storms, and before long, the Americans themselves lost heart and
abandoned the quest. An election in 2006 in the Palestinian territories went
the way of Hamas, and a new disillusionment with democracy's verdict overtook
the Bush administration. The "surge" in Iraq rescued the American
war there just in time, but the more ambitious vision of reforming the Arab
world was given up. The autocracies had survived the brief moment of American
assertiveness. And soon, a new standard-bearer of American power, Barack
Obama, came with a reassuring message: the United States was done with
change; it would make its peace with the status quo, renewing its partnership
with friendly autocrats even as it engaged the hostile regimes in Damascus and
Tehran. The United States was to remain on the Kabul hook for a while longer,
but the greater Middle East would be left to its Furies.
|
Chính người Arập nói rằng George W.Bush đã gây ra cơn sóng
thần ở khu vực này. Đó là sự thật, nhưng người Arập rất giỏi trú ẩn qua các
cơn bão, và trước đây rất lâu, bản thân người Mỹ đã chán nản và từ bỏ việc
tìm kiếm. Cuộc bầu cử năm 2006 ở các vùng lãnh thổ thuộc Palextin đã đi theo
con đường của Hamát, và một sự vỡ mộng mới với phán quyết của chế độ dân chủ
đã đến với Chính quyền Bush. “Việc tăng quân” ở Irắc đã kịp thời cứu thoát
cuộc chiến tranh của Mỹ ở đó, nhưng tầm nhìn nhiều tham vọng hơn về việc cải
cách thế giới Arập đã bị từ bỏ. Các chế độ chuyên quyền đã sống sót qua giây
phút ngắn ngủi của thái độ quyết đoán của Mỹ. Và chẳng bao lâu, người gánh
vác quyền lực Mỹ theo tiêu chuẩn mới, Barack Obama, đã xuất hiện với một
thông điệp làm yên lòng: Mỹ đã từ bỏ thay đổi: nước này sẽ tạo ra hòa bình
của mình với hiện trạng, tiếp tục lại quan hệ đối tác với những nhà chuyên
quyền thân thiện ngay cả khi nước này can dự với các chế độ thù địch ở Đamát
và Têhêran. Mỹ vẫn phải dính líu với Kabul trong một khoảng thời gian nữa,
nhưng Trung Đông lớn hơn sẽ được bỏ lại cho Nữ thần tóc rắn của mình.
|
When a revolt erupted in Iran against the theocrats in the
first summer of his presidency, Obama was caught flatfooted by the turmoil.
Determined to conciliate the rulers, he could not find the language to speak
to the rebels. Meanwhile, the Syrian regime, which had given up its dominion
in Lebanon under duress, was now keen to retrieve it. A stealth campaign of
terror and assassinations, the power of Hezbollah on the ground, and the
subsidies of Iran all but snuffed out the "Cedar Revolution" that
had been the pride of Bush's diplomacy.
|
Khi một cuộc nổi dậy nổ ra ở Irắc chống lại những kẻ cai
trị bằng thần quyền vào mùa Hè đầu tiên nhiệm kỳ tổng thống của Obama, ông đã
bị bắt gặp tỏ ra lúng túng trước tình trạng hỗn loạn này. Quyết tâm hòa giải
các nhà cầm quyền, ông không thể tìm được tiếng nói để nói chuyện với những
người nổi loạn. Trong khi đó, chế độ Xyri, đã buộc phải từ bỏ quyền chi phối
của mình ớ Libăng, hiện tha thiết muốn lấy lại điều đó. Một chiến dịch khủng
bố và ám sát lén lút, sức mạnh của Hezbollah tại địa bàn và những khoản trợ
cấp của Iran gần như đã kết thúc cuộc “Cách mạng Cedar” mà đã từng là niềm tự
hào của chính sách ngoại giao của Bush.
|
Observers looking at the balance of forces in the region
in late 2010 would have been smart to bet on a perpetuation of autocracy.
Beholding Bashar al-Assad in Damascus, they would have been forgiven the
conclusion that a similar fate awaited Libya, Tunisia, Yemen, and the large
Egyptian state that had been the trendsetter in Arab political and cultural
life. Yet beneath the surface stability, there was political misery and
sterility. Arabs did not need a "human development report" to tell
them of their desolation. Consent had drained out of public life; the only
glue between ruler and ruled was suspicion and fear. There was no public
project to bequeath to a generation coming into its own--and this the largest
and youngest population yet.
|
Các nhà quan sát nhìn vào cán cân sức mạnh ở khu vực này
vào cuối năm 2010 sẽ là thông minh khi đặt cược vào sự trường tồn của chế độ
chuyên quyền. Quan sát Bashar al-Assad ở Đamát, họ sẽ được tha thứ cho kết
luận rằng một số phận tương tự chờ đợi Libi, Tuynidi, Yêmen, và Ai Cập rộng
lớn mà đã là nước tạo xu hướng trong đời sống chính trị và văn hóa của Arập.
Tuy nhiên, bên dưới bề nổi sự ổn định, có sự khốn cùng và vô ích về chính
trị. Người Arập không cần “báo cáo phát triển nhân loại” để nói với họ về nỗi
phiền muộn của mình. Sự đồng thuận đã không còn trong đời sống công chúng; sự
gắn kết duy nhất giữa người cai trị và những người bị trị là sự nghi ngờ và
nỗi lo sợ. Không có một dự án công cộng nào để lại cho một thế hệ đang trở
nên độc lập – và đây còn là dân số lớn nhất và trẻ nhất.
|
And then it happened. In December, a despairing Tunisian
fruit vendor named Mohamed Bouazizi took one way out, setting himself on fire
to protest the injustices of the status quo. Soon, millions of his unnamed
fellows took another, pouring into the streets. Suddenly, the despots,
seemingly secure in their dominion, deities in all but name, were on the run.
For its part, the United States scurried to catch up with the upheaval.
"In too many places, in too many ways, the region's foundations are
sinking into the sand," U.S. Secretary of State Hillary Clinton
proclaimed in Qatar in mid-January 2011, as the storm was breaking out. The
Arab landscape lent her remarks ample confirmation; what she omitted was that
generations of American diplomacy would be buried, too.
|
Và rồi điều đó đã xảy ra. Vào tháng 12/2012, một người bán
hoa quả dạo tuyệt vọng người Tuynidi tên là Mohamed Bouazizi đã tìm một lối
thoát, tự thiêu để phản đối những sự bất công của nguyên trạng. Không lâu sau
đó, hàng triệu người vô danh khác cũng đã tìm lối thoát khác, đổ ra những con
phố. Một cách bất ngờ, những kẻ chuyên quyền, dường như để đảm bảo sự thống
trị của họ, những vị chúa trời ở mọi mặt trừ cái tên, lại chạy trốn, về phần
mình, Mỹ đã vội vã bắt kịp cuộc chính biến. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã
tuyên bố ở Cata vào giữa tháng 1/2011, khi cơn báo đang càn quét: “Ở quá
nhiều nơi, theo quá nhiều cách, các nền tảng của khu vực này đang chìm trong
cát”. Quang cảnh Arập đã làm cho lời nhận xét của bà thêm phần chắc chắn;
điều bà đã bỏ sót là các thế hệ ngoại giao của Mỹ cũng sẽ bị chôn vùi.
|
THE FIRE THIS TIME
The revolt was a settlement of accounts between the powers
that be and populations determined to be done with despots. It erupted in a
small country on the margins of the Arab political experience, more educated
and prosperous and linked to Europe than the norm. As the rebellion made its
way eastward, it skipped Libya and arrived in Cairo, "the mother of the
world." There, it found a stage worthy of its ambitions.
|
Đám lửa lần này
Cuộc nổi dậy này là sự thanh toán giữa những thế lực ở bên
cạnh và người dân quyết định từ bỏ các nhà chuyên quyền. Nó đã nổ ra ở một
đất nước nhỏ bé nằm bên lề sự trải nghiệm chính trị của Arập, được giáo dục
tốt và thịnh vượng và có mối quan hệ với châu Âu tốt hơn so với bình thường.
Khi cuộc nổi dậy tiến về phía Đông, nó đã bỏ qua Libi và đến Cairô, “mẹ của
thế giới”. Ở đó, nó đã tìm thấy một vũ đài có giá trị cho những tham vọng của
mình.
|
Often written off as the quintessential land of political
submission, Egypt has actually known ferocious rebellions. It had been
Mubarak's good fortune that the land tolerated him for three decades. The
designated successor to Anwar al-Sadat, Mubarak had been a cautious man, but
his reign had sprouted dynastic ambitions. For 18 magical days in January and
February, Egyptians of all walks of life came together in Tahrir Square
demanding to be rid of him. The senior commanders of the armed forces cast
him aside, and he joined his fellow despot, Tunisia's Zine el-Abidine Ben
Ali, who had fallen a month earlier.
|
Thường bị coi thường như là vùng đất hoàn hảo của sự phục
tùng chính trị, Ai Cập đã thực sự biết đến những cuộc nổi loạn tàn bạo.
Mubarak đã có một cơ may khi vùng đất này đã chịu đựng ông trong 3 thập kỷ.
Là người kế nhiệm Anwar al-Sadat được chỉ định, Mubarak là một người đàn ông
thận trọng, nhưng sự trị vì của ông đã sinh ra những tham vọng triều đại.
Trong 18 ngày thần kỳ vào tháng 1 và tháng 2, người Ai Cập từ mọi nẻo đường
cuộc sống đã tập hợp ở Quảng trường Tahrir đòi gạt bỏ ông. Những chỉ huy cấp cao
của các lực lượng vũ trang đã bỏ rời ông, và ông đã chung số phận với một kẻ
chuyên quyền cùng hội, Zine el-Abidine Ben Ali cua Tuynidi, người đã bị truất
quyền một tháng trước.
|
From Cairo, the awakening became a pan-Arab affair,
catching fire in Yemen and Bahrain. As a monarchy, the latter was a rare
exception, since in this season it was chiefly the republics of strongmen that
were seized with unrest. But where most monarchies had a fit between ruler
and ruled, Bahrain was riven by a fault line between its Sunni rulers and its
Shiite majority. So it was vulnerable, and it was in the nature of things
that an eruption there would turn into a sectarian feud. Yemen, meanwhile,
was the poorest of the Arab states, with secessionist movements raging in its
north and south and a polarizing leader, Ali Abdullah Saleh, who had no
skills save the art of political survival. The feuds of Yemen were obscure,
the quarrels of tribes and warlords. The wider Arab tumult gave Yemenis eager
to be rid of their ruler the heart to challenge him.
|
Từ Cairo, sự thức tỉnh đã trở thành một vấn đề liên Arập,
bùng cháy ơ Yêmen và Baranh. Là một chế,độ quân chủ, Baranh là ngoại lệ hiếm
hoi do trong thời gian này chủ yếu là các chế độ cộng hòa của những người
hùng bị chìm trong tình trạng náo động. Nhưng ở nơi mà hầu hết các chế độ
quân chủ có sự đồng điệu giữa người cai trị và những người bị cai trị, Baranh
bị tan nát bởi một đường hướng sai lầm giữa những nhà cầm quyền người Sunni
và đa số dân chúng người Shiite. Chính vì vậy, nước này dễ bị tổn hại, và có
vẻ như là sự bùng nổ ở đó sẽ biến thành một mối hận thù bè phái. Trong khi
đó, Yêmen là nước nghèo nhất trong số các nước Arập, có các phong trào ly
khai nổ ra ở miền Bắc và miền Nam và nhà lãnh đạo trong tình trạng phân cực
Ali Abdullah Saleh không có các kỹ năng giữ được nghệ thuật sống sót chính
trị. Những mối hận thù của Yêmen là không rõ ràng, là những sự bất hòa giữa
các bộ tộc và các thủ lĩnh quân sự. tình trạng náo động rộng lớn hơn ở Arập
đã mang lại cho những người Yêmen mong muốn gạt bỏ nhà cầm quyền của họ dũng
khí để thách thức ông.
|
Then, the revolt doubled back to Libya. This was the
kingdom of silence, the realm of the deranged, self-proclaimed "dean of
Arab rulers," Muammar al-Qaddafi. For four tormenting decades, Libyans
had been at the mercy of this prison warden, part tyrant, part buffoon.
Qaddafi had eviscerated his country, the richest in Africa yet with an
abysmally impoverished population. In the interwar years, Libya had known
savage colonial rule under the Italians. It gained a brief respite under an
ascetic ruler, King Idris, but in the late 1960s was gripped by a revolutionary
fever. Iblis wa la Idris, went the maxim of the time, "Better the devil
than Idris." And the country got what it wanted. Oil sustained the
madness; European leaders and American intellectuals alike came courting.
Now, in 2011, Benghazi, at some remove from the capital, rose up, and history
gave the Libyans a chance.
|
Rồi cuộc nổi dậy đã quay trở lại Libi. Đây là một vương
quốc im lặng, lãnh địa của nhà lãnh đạo mất trí và tự cho mình là “người đứng
đầu các nhà cầm quyền Arập”, Muammar al-Gaddafi. Trong 4 thập kỷ đau khổ,
người Libi đã ở dưới quyền của một cai ngục, nửa độc tài, nửa như anh hề này.
Gaddati đã rút ruột đất nước ông, nước giàu nhất ở châu Phi nhưng lại có dân
chúng nghèo khổ khốn cùng. Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh, Libi đã
biết đến sự cai trị thuộc địa độc ác của người Italia. Nước này đã có khoảng
thời gian yên bình ngắn ngủi dưới thời nhà cầm quyền khổ hạnh, Vua Idris,
nhưng vào cuối nhừng năm 1960 đã bị thu hút bởi một cơn sốt cách mạng. “Iblis
wa la Idris” (Con quỷ còn tốt hơn Idris) đã trở thành câu châm ngôn của thời
đại. Và đất nước này đã có thứ mình muốn. Dầu lưa đã duy trì sự điên cuồng;
các nhà lãnh đạo châu Âu cũng như các trí thức của Mỹ đã đến ve vãn. Hiện
nay, vào năm 2011, Benghazi, cách xa thủ đô, đã trỗi dậy, và lịch sử đã trao
cho người Libi một cơ hôi.
|
The Egyptian rulers had said that their country was not
Tunisia. Qaddafi said that his republic was not Tunisia or Egypt. Eventually,
Assad was saying that Syria was not Tunisia, Egypt, or Libya. Assad was
young, not old; his regime had more legitimacy because it had confronted
Israel rather than collaborated with it. He spoke too soon: in mid-March, it
was Syria's turn.
|
Các nhà cầm quyền của Ai Cập đã nói rằng đất nước của họ
không phải là Tuynidi. Gaddatì đã nói rằng nền cộng hòa của ông không phái là
Tuynidi hay Ai Cập. Cuối cùng, Assad nói rằng Xyri không phải là Tuynidi, Ai
Cập hay Libi. Assad còn trẻ chứ không phải đã già, chế độ của ông chính đáng
hơn bởi vì nó đã đối đầu với Ixraen thay vì cộng tác với nước này. Ông đà nói
quá sớm: vào giữa tháng 3, lần này đến lượt Xyri.
|
Syria was where Islam had made its home after it outgrew
the Arabian Peninsula and before it slipped out of the hands of the Arabs
into those of the Persians and the Turks. Yet decades earlier, Bashar
al-Assad's father, Hafez--a man of supreme cunning and political skill--had
ridden the military and the Baath Party to absolute power, creating a regime
in which power rested with the country's Alawite minority. The marriage of
despotism and sectarianism begat the most fearsome state in the Arab east.
|
Xyri đã là nơi Hồi giáo coi là ngôi nhà của mình sau khi
nước này phát triển nhanh hơn Bán đảo Arập và trước khi nước này tuột ra khỏi
bàn tay của người Arập rơi vào tay người Ba Tư và người Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy
nhiên, những thập kỷ trước đây, cha của Bashar al-Assad, Hafez – một người
đàn ông khôn ngoan và có kỹ năng chính trị nhất – đã đưa quân đội và đảng
Baath lên đến quyền lực tuyệt đối, đang tạo ra một chế độ trong đó quyền lực
nằm trong tay thiểu số người Alawite của đất nước này. Sự kết. hợp giữa chủ
nghĩa chuyên quyền và chủ nghĩa bè phái đã sản sinh ra nhà nước đáng sợ nhất
ở Đông Arập.
|
When the rebellion broke out there in 2011, it had a
distinct geography, as the French political scientist Fabrice Balanche has shown,
based in the territories and urban quarters of the country's Sunni Arabs. It
erupted in Dara'a, a remote provincial town in the south, then spread to
Hamah, Homs, Jisr al-Shughour, Rastan, Idlib, and Dayr az Zawr--skipping over
Kurdish and Druze areas and the mountain villages and coastal towns that make
up the Alawite strongholds. The violence in the Syrian uprising has been most
pronounced in Homs, the country's third-largest city, because of its
explosive demographics--two-thirds Sunni, one-quarter Alawite, one-tenth
Christian.
|
Khi cuộc nổi loạn nổ ra ở đó vào năm 2011, nước này có vị trí
địa lý khác biệt, như nhà khoa học chính trị Pháp Fabrice Balanche đã chỉ ra,
nằm trên những vùng lãnh thổ và những khu vực thành thị của người Arập dòng
Sunni của đất nước này. Nó đã nổ ra ở Dara’a, một thị xã xa xôi ở miền Nam,
sau đó đã lan rộng sang Hamah, Homs, Jisr al-Shughour, Rastan, idlib và Dayr
az Zawr – bỏ qua các khu vực người Kurd và người Druze và các ngôi làng miền
núi và các thị trấn duyên hải tạo nên thành trì của người Alawite. Tình trạng
bạo lực trong cuộc nổi dậy của Xyri là rõ rệt nhất ở Homs, thành phố lớn thứ
ba của nước này, do dân số học dễ bùng nổ của nó – 2/3 dân số là người Sunni,
1/4 dân số là người Alawite, 1/10 là người Cơ đốc.
|
Sectarianism was not all, of course. Syria has had one of
the highest birthrates in the region, with its population having almost
quadrupled since Hafez seized power in 1970. The arteries of the regime had
hardened, with a military-merchant complex dominating political and economic
life. There was not much patronage left for the state to dispose of, since
under the banner of privatization in recent years, the state had pulled off a
disappearing act. The revolt fused a sense of economic disinheritance and the
wrath of a Sunni majority determined to rid itself of the rule of a godless
lot.
|
Dĩ nhiên, chủ nghĩa bè phái không phải là tất cả. Xyri có
tỷ lệ sinh cao nhất ở khu vực này, với dân số tăng gần gấp 4 lần kể từ khi
Hafez lên nắm quyền vào năm 1970. Những động mạch của chế độ này đã bị xơ
cứng với một phức hợp quân sự và thương mại đang chi phối đời sống chính trị
và kinh tế. Không còn lại nhiều sự bảo trợ để nhà nước sử dụng, do dưới khẩu
hiệu cấm tư nhân hóa trong những năm gần đây, nhà nước này đã thực hiện một
sự lẩn trốn. Cuộc nổi loạn đã gắn kết ý thức về sự tước quyền thừa kế kinh tế
và cơn phẫn nộ của đa số người Sunni quyết tâm tự giải thoát mình khỏi quy
luật của số mệnh độc ác.
|
WHERE THINGS STAND
|
Mọi việc ở đúng chỗ
của nó
|
There has, of course, been no uniform script for the Arab
regimes in play. Tunisia, an old state with a defined national identity,
settled its affairs with relative ease. It elected a constituent assembly in
which al Nahda, an Islamist party, secured a plurality. Al Nahda's leader,
Rachid al-Ghannouchi, was a shrewd man; years in exile had taught him
caution, and his party formed a coalition government with two secular
partners.
|
Dĩ nhiên là không có một kịch bản giống nhau nào dành cho
các chế độ Arập đang hoạt động. Tuynidi, một nhà nước già cỗi với bản sắc dân
tộc được xác định rõ đã giải quyết các công việc của mình một cách tương đối
dễ dàng. Nước này đã lựa chọn một hội đồng lập hiến trong đó al Nahda, một
đảng Hồi giáo, đảm bảo tính đa nguyên. Nhà lãnh đạo của al Nahda Rachi
al-Ghannouchi, là một người đàn ông sắc sảo; nhiều năm sống lưu vong đã dạy
cho ông phải thận trọng, và đảng của ông đã lập ra một chính phủ liên minh
với hai bên tham gia thế tục.
|
In Libya, foreign intervention helped the rebels topple the
regime. Qaddafi was pulled out of a drainage pipe and beaten and murdered,
and so was one of his sons. These were the hatreds and the wrath that the
ruler himself had planted; he reaped what he had sown. But wealth, a sparse
population, and foreign attention should see Libya through. No history in the
making there could be as deadly to Libyans, and others, as the Qaddafi years.
|
Ở Libi, sự can thiệp nước ngoài đã giúp những người nổi
dậy lật đổ chế độ. Gaddafi đã bị kéo ra khỏi một đường cống, bị đánh đập và
bị giết chết, và một trong những người con trai của ông cũng vậy. Đây là
những sự hận thù và phẫn nộ mà chính nhà cầm quyền này đã tạo nên; ông đã
nhận được những gì ông đã gieo rắc. Nhưng sự giàu có, một dân số thưa thớt và
sự chú ý của nước ngoài hẳn giúp Libi vượt qua khó khăn. Không có một lịch sử
đang hình thành nào có thể đầy chết chóc với người Libi, và các nước khác,
như những năm cầm quyền của Gaddafi.
|
The shadows of Iran and Saudi Arabia hover over Bahrain.
There is no mass terror, but the political order is not pretty. There is
sectarian discrimination and the oddness of a ruling dynasty, the House of
Khalifa, that conquered the area in the late years of the eighteenth century
but has still not made peace with the population. Outsiders man the security
forces, and true stability seems a long way off.
|
Bóng tối của Iran và Arập Xêút bao trùm lên Baranh. Không
có cuộc khủng bố lớn nhưng trật tự chính trị là không tốt. Có sự phân biệt bè
phái và vẻ bề ngoài kỳ quặc của triều đại đang cai trị, Hoàng gia Khalifa, đã
chinh phục khu vực này vào những năm cuối của thế kỷ 18 nhưng vẫn không tạo
ra hòa bình cho người dân. Những người ngoài mang lại nguồn nhân lực cho các
lực lượng an ninh, và sự ổn định thực sự dường như còn rất xa xôi.
|
As for Yemen, it is the quintessential failed state. The
footprint of the government is light, the rulers offer no redemption, but
there is no draconian terror. The country is running out of water; jihadists
on the run from the Hindu Kush have found a home: it is Afghanistan with a
coastline. The men and women who went out into the streets of Sanaa in 2011
sought the rehabilitation of their country, a more dignified politics than
they have been getting from the cynical acrobat at the helm for more than
three decades. Whether they will get it is unclear.
|
Về phần Yêmen, đây là nhà nước thất bại hoàn toàn. Dấu ấn
của chính quyền nước này là mờ nhạt, các nhà cầm quyền không có phương thuốc
cứu chữa nào, nhưng không có sự khủng bố tàn bạo. Đất nước này đang cạn kiệt
nguồn nước; các phần tử thánh chiến Hồi giáo chạy trốn từ Hindu Kush đã tìm
thấy ngôi nhà của mình: đó là Ápganixtan với bờ biển trải dài. Những người
đàn ông và phụ nữ đã đổ ra những con phố thuộc Sanaa vào năm 2011 để tìm kiếm
sự phục hồi của đất nước của họ, hoạt động chính trị có phẩm giá hơn so với
họ nhận được từ nhà chính trị đi trên dây hay hoài nghi cầm quyền trong hơn 3
thập kỷ. Không rõ họ có hiểu điều đó hay không.
|
Syria remains in chaos. Hamas left Damascus in December
because it feared being left on the wrong side of the mounting Arab consensus
against the Syrian regime. "No Iran, no Hezbollah; we want rulers who
fear Allah," has been one of the more meaningful chants of the
protesters. Alawite rule has been an anomaly, and the regime, through its
brutal response to the uprising, with security forces desecrating mosques,
firing at worshipers, and ordering hapless captives to proclaim, "There
is no God but Bashar," has written its own regional banishment. Hafez
committed cruelties of his own, but he always managed to remain within the
Arab fold. Bashar is different--reckless--and has prompted even the Arab
League, which has a history of overlooking the follies of its members, to
suspend Damascus' membership.
|
Xyri vẫn ở trong tình trạng hỗn loạn. Hamát đã bỏ rơi
Đamát vào tháng 12/2011 bởi vì nước này lo sợ bị bỏ lại ở mặt trái của sự
đồng thuận Arập đang gia tăng chống lại chế độ Xyri. Một trong những khẩu hiệu
có ý nghĩa của những người phản kháng: “Không Iran, không Hezbollah, chúng
tôi muốn có những nhà cầm quyền sợ hãi trước đấng Allah”. Luật lệ của Alawite
là bất thường và chế độ này, thông qua phản ứng tàn bạo của nó đối với cuộc
nổi dậy, với việc các lực lượng an ninh mạo phạm các nhà thờ Hồi giáo, nổ
súng vào các tín đồ, và ra lệnh cho những người bị bắt giữ bất hạnh phải nói
câu: “Không có Chúa mà chỉ có Bashar”, đã viết ra lệnh lưu đày khỏi khu vực
của chính mình. Hafez đã phạm phải những hành động tàn bạo của bản thân ông,
nhưng ông luôn tìm cách để vẫn ở bên trong khối Arập. Bashar thì khác – liều
lĩnh – và thúc giục ngay cả Liên đoàn Arập, có lịch sử bỏ qua những hành động
điên rồ của các nước thành viên, đình chỉ tư cách thành viên của Đamát.
|
The fight still rages, Aleppo and Damascus have not risen,
and the embattled ruler appears convinced that he can resist the laws of
gravity. Unlike in Libya, no foreign rescue mission is on the horizon. But
with all the uncertainties, this much can be said: the fearsome security
state that Hafez, the Baath Party, and the Alawite soldiers and intelligence
barons built is gone for good. When consent and popular enthusiasm fell away,
the state rested on fear, and fear was defeated. In Syria, the bonds between
the holders of power and the population have been irreparably broken.
|
Cuộc chiến đấu vẫn diễn ra ác liệt, Aleppo và Đamát không
trỗi dậy, và nhà cầm quyền đã tham chiến dường như tin rằng ông có thể chống
lại những định luật hấp dẫn. Không như ở Libi, chưa có dấu hiệu nào về một sứ
mệnh giải cứu của nước ngoài. Nhưng với tất cả những tình trạng không chắc
chắn này, có thể nói rằng: nhà nước an ninh gây sợ hãi mà Hafez, Đảng Baath,
và các binh lính Alawite và các ông “vua” tình báo tạo ra đã ra đi vĩnh viễn.
Khi sự đồng thuận và sự ủng hộ của dân chúng phai nhạt dần, nhà nước dựa trên
sự sợ hãi, và sự sợ hãi đã bị đánh bại. Ớ Xyri, mọi ràng buộc giữa các nhà
cầm quyền và dân chúng đã bị phá vỡ không thể sửa chữa được.
|
WHAT FOLLOWS PHARAOH
Egypt, meanwhile, may have lost the luster of old, but
this Arab time shall be judged by what eventually happens there. In the
scenarios of catastrophe, the revolution will spawn an Islamic republic: the
Copts will flee, tourism revenues be lost for good, and Egyptians will yearn
for the iron grip of a pharaoh. The strong performance of the Muslim
Brotherhood and of an even more extremist Salafi party in recent
parliamentary elections, together with the splintering of the secular,
liberal vote, appears to justify concern about the country's direction. But
Egyptians have proud memories of liberal periods in their history. Six
decades of military rule robbed them of the experience of open politics, and
they are unlikely to give it up now without a struggle.
|
Những gì đi theo sau
Pharaông
Trong khi đó, Ai Cập có thể đã đánh mất ánh hào quang; của
thời xa xưa, nhưng thời gian này của Arập sẽ được đánh giá bằng những gì cuối
cùng xay ra ờ đó. Trong những kịch bản thảm họa, cách mạng sẽ sản sinh ra một
nước cộng hòa Hồi giáo: người Cốp sẽ chạy trốn, doanh thu ngành du lịch vĩnh
yiễn mất đi, và người Ai Cập sẽ khát khao có bàn tay sắt của Pharaông. Thành
tích mạnh mẽ của tố chức Anh em Hồi giáo và của đảng Salafi thậm chí còn cực
đoan hơn trong các cuộc bầu cử quốc hội gần đây, cùng với sự phá vỡ cuộc bỏ
phiếu tự do thế tục, dường như chứng minh cho mối quan ngại về định hướng của
nước này. Những người Ai Cập tự hào với ký ức về những giai đoạn tự do trong
lịch sử của họ. 6 thập kỷ chịu sự cai trị quân sự đã cướp đi của họ cơ hội
trải nghiệm chính trị cởi mở, và hiện nay họ không thể từ bỏ điều đó mà không
cần có một cuộc đấu tranh.
|
The elections were transparent and clarifying. Liberal and
secular forces were not ready for the contest, whereas the Brotherhood had
been waiting for such a historic moment for decades and seized its
opportunity. No sooner had the Salafists come out of the catacombs than they
began to unnerve the population, and so they pulled back somewhat from their
extreme positions. The events in Tahrir Square transfixed the world, but as
the young Egyptian intellectual Samuel Tadros has put it, "Egypt is not
Cairo and Cairo is not Tahrir Square." When the dust settles, three
forces will contest Egypt's future--the army, the Brotherhood, and a broad
liberal and secular coalition of those who want a civil polity, the
separation of religion and politics, and the saving graces of a normal
political life.
|
Các cuộc bầu cử là minh bạch và sáng sủa. Các lực lượng tự
do và thế tục chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến đấu, trong khi Anh em Hồi giáo
đã chờ đợi một thời khắc lịch sử như vậy trong nhiều thập kỷ và đã tận dụng
cơ hội của mình. Ngay khi những người Hồi giáo dòng Salafi bước ra khỏi hầm
mộ, họ đã bắt đầu làm dân chúng lo lắng, và chính vì thế họ đã rút lại phần
nào quan điểm cực đoan của mình. Những sự kiện diễn ra ở Quảng trường Tahrir
làm cả thế giới sửng sốt, nhưng như trí thức trẻ tuổi người Ai Cập Samuel
Tadros đã nói, “Ai Cập không phải là Cairo và Cairo không phải là Quảng
trường Tahrir”. Khi cát bụi lắng xuống, 3 lực lượng sẽ tranh giành tương lai
của Ai Cập – quân đội, Anh em Hồi giáo, và một liên minh tự do và thế tục
rộng lớn gồm những người muốn có một chính thể dân sự, sự tách rời tôn giáo
và chính trị, và những sự bù đắp lại là một đời sống chính trị bình thường.
|
The Brotherhood brings to the struggle its time-honored
mix of political cunning and an essential commitment to imposing a political
order shaped by Islam. Its founder, Hasan al-Banna, was struck down by an
assassin in 1949 but still stalks the politics of the Muslim world. A
ceaseless plotter, he talked of God's rule, but in the shadows, he struck
deals with the palace against the dominant political party of his day, the
Wafd. He played the political game as he put together a formidable
paramilitary force, seeking to penetrate the officer corps--something his
inheritors have pined for ever since. He would doubtless look with admiration
on the tactical skills of his successors as they maneuver between the liberals
and the Supreme Council of the Armed Forces, partaking of the tumult of
Tahrir Square but stepping back from the exuberance to underline their
commitment to sobriety and public order.
|
Anh em Hồi giáo đem đến cuộc đấu tranh này sự pha trộn đã
đi vào truyền thống giữa thủ đoạn chính trị và cam kết thiết yếu với việc áp
đặt một trật tự chính trị được định hình bởi đạo Hồi. Người sáng lập tổ chức
này, Hasan al-Banna, bị một kẻ ám sát đánh gục vào năm 1949 nhưng vẫn bước đi
oai vệ trong công việc chính trị của thế giới Hồi giáo. Là một người không
ngừng bày mưu tính kế, ông đã nói về luật của Chúa, nhưng ở trong bóng tối,
ông đã đạt được các thỏa thuận với cung điện chống lại đảng chính trị chi
phối ở thời của ông, Wafd, Ông đã chơi một ván bài chính trị khi ông gắn kết
lại một, lực lượng bán quân sự đáng gờm, tìm cách xâm nhập các quân đoàn –
một thứ gì đó mà những người kế nhiệm ông đã giữ chặt suốt từ đó. Chắc chẵn
ông sẽ nhìn một cách ngưỡng mộ những kỳ năng chiến thuật của những người kế
nhiệm ông khi họ khéo léo vận động giữa những người có tư tưởng tự do và Hội
đồng tối cao các lực lượng vũ trang (SCÀF), cùng tham gia cuộc náo động ở
Quảng trường Tahrir nhưng không còn hồ hởi nhấn mạnh cam kết của họ với sự
đúng mức và trật tự xã xã hội.
|
The plain truth of it is that Egypt lacks the economic
wherewithal to build a successful modern Islamic order, whatever that might
mean. The Islamic Republic of Iran rests on oil, and even the moderate
ascendancy of the Justice and Development Party, or AKP, in Turkey is secured
by prosperity stemming from the "devout bourgeoisie" in the
Anatolian hill towns. Egypt lies at the crossroads of the world, living off
tourism, the Suez Canal, infusions of foreign aid, and remittances from
Egyptians abroad. Virtue must bow to necessity: in the last year, the
country's foreign reserves dwindled from $36 billion to $20 billion.
Inflation hammers at the door, the price of imported wheat is high, and the
bills have to be paid. Four finance ministers have come and gone since
Mubarak's fall. A desire for stability now balances the heady satisfaction
that a despot was brought down.
|
Một sự thật hiển nhiên là Ai Cập thiếu tiềm lực kinh tế để
xây dựng một trật tự Hồi giáo hiện đại thành công, cho dù điều đó có thể có ý
nghĩa như thế nào. Cộng hòa Hồi giáo Iran phụ thuộc vào dầu lửa, và ngay cả uy
thế vừa phải của Đảng Công lý và Phát triển, hay AKP, ở Thổ Nhĩ Kỳ là được
đảm bảo bởi sự thịnh vượng có được từ “giai cấp tư sản nhiệt tình” ở các thị
trấn trên đồi Anatolia. Ai Cập nằm ở ngã tư của thế giới, kiếm tiền từ du
lịch, Kênh đào Xuyê, những dòng viện trợ nước ngoài, và những khoản tiền kiều
hối từ những người Ai Cập ở nước ngoài. Trong năm qua, dự trữ ngoại hối của
nước này đã thu nhỏ lại từ 36 tỷ USD xuống còn 20 tỷ USD. Lạm phát gõ cửa,
giá cả lúa mì nhập khẩu là cao, và các hóa đơn phải được thanh toán. 4 bộ
trưởng tài chính đã đến rồi đi kể từ khi Mubarak từ chức. Khao khát có được
sự ổn định hiện nay cân xứng với sự thỏa mãn rằng ke chuyên quyền đã bị hạ
bệ.
|
There are monumental problems staring Egypt's leaders in
the face, and the reluctance of both the Brotherhood and the armed forces to
assume power is telling. Good sense and pragmatism might yet prevail. A
plausible division of spoils and responsibility might give the Brotherhood
the domains of governance dearest to it--education, social welfare, and the
judiciary--with the military getting defense, intelligence, the peace with
Israel, the military ties to the United States, and a retention of the
officer corps' economic prerogatives. Liberal secularists would have large
numbers, a say in the rhythm of daily life in a country so hard to regiment
and organize, and the chance to field a compelling potential leader in a
future presidential election.
|
Có những vấn đề lớn bắt đầu xuất hiện trước mắt các nhà
lãnh đạo Ai Cập và sự miễn cưỡng của cả Anh em Hồi giáo lẫn các lực lượng vũ
trang nắm chính quyền đang nói lên điều đó. Lẽ phải và chủ nghĩa thực dụng
tuy thế có thể thắng thế. Sự phân chia hợp lý những chiến lợi phẩm và trách
nhiệm có thể mang lại cho Anh em Hồi giáo những lĩnh vực cai trị gần nhất với
nó – dáo dục, trợ cấp xã hội và bộ máy tư pháp – với quân đội phụ trách quốc
phòng, tình báo, hòa bình với Ixraen, các mối quan hệ quân sự với Mỹ, và duy
trì những đặc quyền kinh tế của các quân đoàn. Những người thế tục có tư tưởng
tự do sẽ có số lượng lớn, có tiếng nói trong nhịp điệu của cuộc sống thường
ngày ở một đất nước khó có thể đưa vào khuôn phép và tổ chức, và có cơ hội
đưa một nhà lãnh đạo có sức thuyết phục tiềm năng vào cuộc bầu cử tổng thống
trong tương lai.
|
For two centuries now, Egypt has been engaged in a
Sisyphean struggle for modernity and a place among the nations worthy of its
ambitions. It has not fared well, yet it continues to try. Last August, a
scene played out that could give Egyptians a measure of solace. The country's
last pharaoh--may it be so--came to court on a gurney. "Sir, I am
present," the former ruler said to the presiding judge. Mubarak was not
pulled out of a drainage pipe and slaughtered, as was Qaddafi, nor did he
hunker down with his family and murder his own people at will, as has Assad.
The Egyptians have always had, in E. M. Forster's words, the ability to
harmonize contending assertions, and they may do so once again.
|
Trong hai thế kỷ này, Ai Cập đã can dự vào cuộc đấu tranh
kiên trì vì sự hiện đại và một vị trí trong số các quốc gia xứng với những
tham vọng của nước này. Nước này không ở vào tình trạng tốt, nhưng vẫn đang
tiếp tục cố gắng. Tháng 8 năm ngoái, một cảnh tượng đã diễn ra mà có thể đem
lại một sự an ủi ở mức độ nào đó cho người Ai Cập. Vị Pharaông cuối cùng cua
nước này – có lẽ là vậy – đã đến tòa án trên một chiếc cáng. Nhà cai trị
trước đây của Ai Cập nói với vị thẩm phán chủ tọa phiên tòa: “Thưa ngài, tôi
có mặt”. Mubarak không bị kéo ra khỏi cống và bị giết chết như Gaddafì, cũng
không bỏ trốn cùng với gia đình và tùy ý giết người dân của mình, như Assad.
Theo lời của E.M.Forster, người Ai Cập đã luôn có khả năng làm hài hòa những
sự quả quyết cạnh tranh nhau, và họ có thể lại làm điều đó một lần nữa.
|
THE THIRD GREAT
AWAKENING
This tumult, this awakening, is the third of its kind in
modern Arab history. The first, a political-cultural renaissance born of a
desire to join the modern world, came in the late 1800s. Led by scribes and
lawyers, would-be parliamentarians and Christian intellectuals, it sought to
reform political life, separate religion from politics, emancipate women, and
move past the debris of the Ottoman Empire. Fittingly enough, that great
movement, with Beirut and Cairo at the head of the pack, found its chronicler
in George Antonius, a Christian writer of Lebanese birth, Alexandrian youth,
a Cambridge education, and service in the British administration in
Palestine. His 1938 book, The Arab Awakening, remains the principal manifesto
of Arab nationalism.
|
Đại thức tỉnh thứ ba
Tình trạng hỗn hoạn này, sự thức tỉnh này là sự thức tỉnh
thứ ba trong lịch sử Ai Cập hiện đại. Sự thức tỉnh thứ nhất, thời kỳ Phục
hưng chính trị văn hóa sinh ra từ mong muốn gia nhập thế giới hiện đại, đã
xuất hiện vào cuối những năm 1800. Được lãnh đạo bởi những người chép thuê và
các luật sư, những người thích làm nghị sĩ và các trí thức theo đạo Cơ đốc,
nó đã tìm kiếm việc cải cách đời sống chính trị, tách biệt vấn đề tôn giáo
khởi công việc chính trị, giải phóng phụ nữ, và đưa đống đổ nát của Đế chế
Ôttôman vào quá khứ. Khá phù hợp, Đại phong trào đó, với Bâyrút và Cai rô
đứng đầu, đã tìm thấy người ghi chép biên niên sử của mình ở George Antonius,
một nhà văn Cơ đốc giáo gốc Libăng, được đàọ tạo ở Cambridge, và làm việc
trong Chính quyền Anh ở Palextin. Cuốn sách in năm 1938 của ông, Ả Rập bừng tỉnh, vẫn còn là bản tuyên
ngôn chủ yếu của chủ nghĩa dân tộc Ả Rập.
|
The second awakening came in the 1950s and gathered force
in the decade following. This was the era of Gamal Abdel Nasser in Egypt,
Habib Bourguiba in Tunisia, and the early leaders of the Baath Party in Iraq
and Syria. No democrats, the leaders of that time were intensely political
men engaged in the great issues of the day. They came from the middle class
or even lower and had dreams of power, of industrialization, of ridding their
people of the sense of inferiority instilled by Ottoman and then colonial
rule. No simple audit can do these men justice: they had monumental
accomplishments, but then, explosive demographics and their own authoritarian
proclivities and shortcomings undid most of their work. When they faltered,
police states and political Islam filled the void.
|
Sự thức tỉnh thứ hai xuất hiện vào những năm 1950 và tập
hợp sức mạnh trong các thập kỷ sau đó. Đây là thời đại của Gamal Abdel Nasser
tại Ai Cập, Habib Bourguiba ở Tunisia, và các nhà lãnh đạo đầu tiên của Đảng
Baath ở Iraq và Syria. Không có dân chủ, các nhà lãnh đạo thời ấy là các nhân
vật chính trị mạnh mẽ chú tâm vào những vấn đề lớn của thời đại. Họ đến từ
tầng lớp trung lưu hoặc thậm chí thấp hơn và có những giấc mơ quyền lực, công
nghiệp hóa, đưa người dân của họ thoát khỏi cảm giác tự ti do người Ottoman
và sau đó là chế độ thực dân áp đặt. Không có kiểm toán đơn giản nào có thể công
bằng phán xét những nhân vật này: họ đã có những thành tích hoành tráng,
nhưng sau đó, nhân khẩu học bùng nổ và thiên hướng chuyên chế và thiếu sót
của họ đã hủy hoại hầu hết các thành tích của họ. Khi họ lúng túng, nhà nước cảnh
sát và Hồi giáo chính trị nhảy vào lấp khoảng trống.
|
This third awakening came in the nick of time. The Arab
world had grown morose and menacing. Its populations loathed their rulers and
those leaders' foreign patrons. Bands of jihadists, forged in the cruel
prisons of dreadful regimes, were scattered about everywhere looking to kill
and be killed. Mohamed Bouazizi summoned his fellows to a new history, and
across the region, millions have heeded his call. Last June, the Algerian
author Boualem Sansal wrote Bouazizi an open letter. "Dear
Brother," it said,
|
Lần thức tỉnh thứ ba này xuất hiện thật đúng lúc. Thế giới
Ả Rập đã trở nêmn đáng lo ngại và và đầy đe dọa. Dân chúng căm ghét những kẻ
cai trị của họ và những người bảo trợ nước ngoài của các lãnh đạo này. Băng
nhóm các chiến binh thánh chiến, được tôi luyện trong các nhà tù tàn ác của các
chế độ khủng khiếp, đã phân tán đi khắp mọi nơi, tìm cách giết người và bị người
giết. Mohamed Bouazizi triệu tập các đồng bọn của mình vì một lịch sử mới, và
trong khu vực này, hàng triệu người đã hưởng ứng lời kêu gọi của ông. Tháng sáu
năm ngoái, tác giả người Algeria, Boualem Sansal, viết cho Bouazizi một bức
thư ngỏ. Thư viết: "Thưa Người Anh em,"
|
I write these few
lines to let you know we're doing well, on the whole, though it varies from
day to day: sometimes the wind changes, it rains lead, life bleeds from every
pore....
|
Tôi viết những dòng
này để báo cho bạn biết nhìn chung, tình hình chúng tôi đang tốt đẹp, mặc dù
nó cũng thay đổi từ ngày này sang ngày khác: đôi khi gió dữ, trời phong ba, cuộc
sống chảy máu từ mỗi lỗ chân lông của nó....
|
But let's take the
long view for a moment. Can he who does not know where to go find the way? Is
driving the dictator out the end? From where you are, Mohamed, next to God,
you can tell that not all roads lead to Rome; ousting a tyrant doesn't lead
to freedom. Prisoners like trading
one prison for another, for a change of scenery and the chance to gain a
little something along the way.
|
Nhưng chúng ta hãy có
cái nhìn dài hạn vào thời điểm này. Liệu có ai đó dù không biết mình đi đâu nhưng
vẫn có thể tìm ra được đường đi đến? Liệu việc xua đuổi kẻ độc tài có phải là
cái đích? Từ vị trí của người, Mohamed, bên cạnh Thiên Chúa, liệu người có
thể nói rằng không phải tất cả các con đường đều dẫn đến Rome, lật đổ một bạo
chúa không dẫn đến tự do. Các tù nhân có vẻ giống như đang bán một nhà tù để
mua một nhà tù khác, để thay đổi cảnh quan và kiếm cơ hội nhằm kiếm được một
chút gì đó trên đường đi.
|
"The best day after a bad emperor is the first,"
the Roman historian Tacitus once memorably observed. This third Arab
awakening is in the scales of history. It has in it both peril and promise,
the possibility of prison but also the possibility of freedom.
|
Sử gia người La mã Tacitus đã từng có nhận xét đáng nhớ:
“Ngày tốt đẹp nhất sau thời đại của một vị hoàng đế tồi tệ là ngày đầu tiên”.
Sự thức tỉnh thứ ba của Arập này nằm trong các nấc thang lịch sử. Nó chứa
đựng trong nó hoàn cả hiểm họa lẫn hứa hẹn, cả khả năng bị giam cầm lẫn khả năng
được tự do.
|
FOUAD AJAMI is a
Senior Fellow at Stanford University's Hoover Institution and Co-Chair of the
Hoover Institution's Herbert and Jane Dwight Working Group on Islamism and
the International Order.
|
Fouad Ajami là
nghiên cứu sinh cao cấp tại Viện Hoover của Đại học Stanford và là đồng Chủ
tịch của Nhóm công tác Hoover và Jane Dwight của Học viện Herbert nghiên cứu về
Hồi giáo và giáo phái quốc tế.
|
http://business.highbeam.com/409744/article-1G1-289121029/arab-spring-one-year-living-dangerously
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Sunday, July 22, 2012
The Arab spring at one: a year of living dangerously MÙA XUÂN ARẬP: MỘT NĂM SỐNG TRONG NGUY HIỂM
Clinton Engineers Expansion Of Asian NATO To Contain China Clinton bố trí mở rộng NATO châu Á để kiềm chế Trung Quốc
|
|
Clinton Engineers
Expansion Of Asian NATO To Contain China
|
Clinton bố trí mở rộng NATO châu Á để kiềm chế Trung Quốc
|
By: Rick Rozoff
July 16, 2012
|
Rick Rozoff
16/7/2012
|
Eurasia Review
|
Eurasia Review
|
The global proconsul and plenipotentiary of the world’s
sole military superpower began a two-week tour of her empire’s provinces, old
and new, in Asia and the Middle East in Paris on July 5 and 6 where she
lambasted Russia and China for not attending the third Friends of Syria
regime change conclave, threatening they would “pay a price” for their lack
of subservience to Washington’s agenda in Syria and by implication worldwide.
|
Bà thống đốc toàn cầu, đại diện toàn quyền của siêu cường
quân sự duy nhất của thế giới, đã bắt đầu một chuyến công du hai tuần đến các
vùng miền thuộc đế quốc của bà, cả cũ lẫn mới, ở châu Á và Trung Đông. Tại
Paris vào ngày 5 và 6 tháng 6, bà lên án Nga và Trung Quốc là đã không tham
gia hội nghị “Những người bạn của Syria” lần thứ ba – tức là cuộc họp kín bàn
về thay đổi chế độ ở Syria, dọa rằng họ sẽ phải “trả giá” vì đã không chịu
tuân thủ chương trình nghị sự của Washington ở Syria, với hệ lụy toàn thế giới.
|
Having served notice to the U.S.’s two main challengers in
Eurasia, and the world, in such an unequivocal manner, Secretary of State
Hillary Clinton flew into Afghanistan on the 7th to declare the war-ravaged
country the U.S.’s latest major non-NATO ally, joining Argentina, Australia,
Bahrain, Egypt, Israel, Japan, Jordan, Kuwait, Morocco, New Zealand,
Pakistan, the Philippines, South Korea and Thailand in that category, then
left for Japan to attend a Conference on Afghanistan in Tokyo.
|
Sau khi đã tuyên bố như thế với hai thách thức lớn nhất
của Mỹ ở lục địa Âu-Á, và với thế giới, bằng một giọng mập mờ như thế, Ngoại
trưởng Hillary Clinton bay sang Afghanistan vào ngày 7 để tuyên bố rằng đất
nước bị chiến tranh tàn phá này là đồng minh ngoài NATO quan trọng mới đây
của Mỹ, hiện diện cùng với Argentina, Australia, Bahrain, Ai Cập, Israel,
Nhật Bản, Jordan, Kuwait, Morocco, New Zealand, Pakistan, Philippines, Hàn
Quốc và Thái Lan trong danh mục này. Sau đó bà rời Afghanistan sang Nhật Bản
để dự một hội nghị về Afghanistan tổ chức ở Tokyo.
|
On July 9 she was in Mongolia, on the 10th in Vietnam, on
the 11th in Laos and from the 11th-13th in Cambodia.
|
Vào ngày 9-7, bà có mặt ở Mông Cổ, và ngày 10, ở Việt Nam;
ngày 11 sang Lào và từ 11 đến 13 thì ở Campuchia.
|
She left the last-named nation for Egypt where she arrived
on July 14, and from where she will depart for Israel to meet with the
nation’s leaders on July 16 and 17.
|
Bà rời đất nước cuối cùng trong danh sách trên đây để sang
Ai Cập vào ngày 14-7, rồi từ đó bay sang Israel để gặp gỡ các lãnh đạo nước
này vào ngày 16 và 17-7.
|
The five Asian countries she visited are all near China,
three – Afghanistan, Laos and Vietnam – bordering it. Her trip followed a
nine-day Asian tour by Defense Secretary Leon Panetta last month which took
him to Singapore, Vietnam and India in the opening salvo of Washington’s
strategic pivot toward the Asia-Pacific region.
|
Năm nước châu Á bà đã đi thăm đều nằm gần Trung Quốc. Ba
trong số đó – Afghanistan, Lào và Việt Nam – còn tiếp giáp Trung Quốc. Chuyến
đi của bà diễn ra sau một chuyến công du châu Á 9 ngày của Bộ trưởng Quốc
phòng Leon Panetta tháng trước, trong đó ông Panetta đi thăm Singapore, Việt
Nam và Ấn Độ, trong tràng pháo tay hoan hô sự chuyển hướng chiến lược của
Washington về khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
|
Since her 13-day, seven-nation tour of the Asia-Pacific
region two years ago, which took her to Joint Base Pearl Harbor-Hickam in
Hawaii, the 17th Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) Regional
Forum in Vietnam and from there to China, Cambodia, Malaysia, Papua New
Guinea, New Zealand and Australia, Clinton has softened the political ground
for the Pentagon to follow up with basing and other agreements with nations
in the area.
|
Kể từ chuyến thăm 7 quốc gia, kéo dài 13 ngày của bà tới
khu vực châu Á-Thái Bình Dương cách đây hai năm, trong đó bà tới thăm Căn cứ
chung Trân Châu Cảng-Hickam ở Hawaii, Diễn đàn Khu vực ASEAN lần thứ 17 ở
Việt Nam, rồi từ đó bay sang Trung Quốc, Cambodia, Malaysia, Papua New
Guinea, New Zealand và Australia, bà Clinton đã làm dịu lập trường chính trị
của Lầu Năm Góc, để theo đuổi việc lập căn cứ (basing) và những thỏa thuận
khác với các quốc gia trong khu vực.
|
Her current trip pursues the same objective, particularly
in Mongolia and Indochina, where Washington has now acquired four partners
which during the Cold War era were allies of the Soviet Union. (Cambodia
after the overthrow of the Khmer Rouge in 1979.)
|
Chuyến đi lần này của bà cũng theo đuổi mục tiêu đó, đặc
biệt là ở Mông Cổ và Đông Dương, nơi Washington bây giờ đã có được bốn đối
tác vốn là đồng minh của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. (Campuchia,
sau vụ lật đổ Khmer Đỏ năm 1979.)
|
The U.S. State Department and Defense Department work so
thoroughly in tandem as to be indistinguishable most of the time, from U.S.
Africa Command to the Trans-Sahara Counterterrorism Partnership to the Global
Peace Operations Initiative employed to train and integrate the militaries of
scores of countries in Africa and Asia.
|
Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ phối hợp triệt để đến độ
nói chung không thể phân biệt được họ với nhau, từ Bộ Tư lệnh Mỹ đặc trách
châu Phi đến Đối tác Chống khủng bố Xuyên-Sahara, đến Sáng kiến Thực thi Hòa
bình Toàn cầu được triển khai nhằm đào tạo và liên kết quân đội của hàng chục
nước ở châu Phi và châu Á.
|
In visiting Laos on July 11, Clinton was the first
secretary of state to do so since John Foster Dulles was the guest of King
Sisavang Phoulivong in 1955.
|
Khi thăm Lào vào ngày 11-7, bà Clinton trở thành Ngoại
trưởng Mỹ đầu tiên tới nước này kể từ thời John Foster Dulles là khách của
Vua Sisavang Phoulivong, năm 1955.
|
Two years ago Clinton met with Laotian Foreign Minister
Thongloun Sisoulith at the State Department to hold the two nations’
highest-level talks since the Vietnam War. The visit was the first to the
United States by a leading Laotian official since the ruling Lao People’s
Revolutionary Party came to power in 1975. The year before a similar
initiative was launched by the White House and State Department with fellow
ASEAN member Myanmar which culminated last November in Clinton visiting the
country and switching it from the Chinese to the U.S. column.
|
Cách đây hai năm, bà Clinton đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao
Lào Thongloun Sisoulith tại Bộ Ngoại giao Mỹ để tổ chức đối thoại cấp cao
nhất giữa hai nước tính từ thời chiến tranh Việt Nam. Chuyến thăm đó là
chuyến thăm Mỹ đầu tiên của một quan chức lãnh đạo Lào, kể từ năm 1975 khi
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lên nắm chính quyền. Năm trước đó, một sáng kiến
tương tự đã được Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao thực hiện với thành viên ASEAN là
Myanmar, mà đỉnh điểm là vào tháng 11 khi bà Clinton thăm Lào và chuyển Lào từ
trục Trung Quốc sang trục Mỹ.
|
During Clinton’s hosting of the Laotian foreign minister
in 2010, then-State Department Spokesman Philip Crowley stated: “The United
States is committed to building our relationship with Laos as part of our
broader efforts to expand engagement with Southeast Asia.”
|
Trong thời gian bà Clinton tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Lào
hồi năm 2010, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó là Philip Crowley
đã tuyên bố: “Hoa Kỳ cam kết xây dựng quan hệ với Lào như là một phần trong
các nỗ lực to lớn hơn nhằm mở rộng sự tham dự vào Đông Nam Á”.
|
Nine days later at the ASEAN Regional Forum in Hanoi,
Clinton openly challenged China in asserting that “The United States…has a
national interest in freedom of navigation, open access to Asia’s maritime
commons, and respect for international law in the South China Sea,” adding
“The United States is a Pacific nation, and we are committed to being an
active partner with ASEAN.”
That is, exploiting the ten-member organization (Brunei,
Cambodia, Indonesia, Laos, Malaysia, Myanmar, the Philippines, Singapore,
Thailand and Vietnam) against China, particularly in respect to island
disputes in the South China Sea and East China Sea. In fact to add ASEAN
members to mainstay American military allies in the Asia-Pacific – Australia,
Japan, New Zealand, South Korea and Taiwan, with whom Washington has mutual
defense treaties – in forming the nucleus of a rapidly evolving Asian NATO
that will also encompass Afghanistan, Bangladesh, India, Kazakhstan, Kyrgyzstan,
Mongolia, Nepal, Pakistan, Sri Lanka, Tajikistan, Timor-Leste, Turkmenistan
and Uzbekistan.
|
Chín ngày sau, tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội, bà
Clinton công khai thách thức Trung Quốc khi khẳng định rằng, “Mỹ có lợi ích
quốc gia trong (việc bảo đảm quyền) tự do hàng hải, quyền tự do ra vào những
vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng luật quốc tế trên Biển Đông”. Bà nói
thêm: “Hoa Kỳ là một quốc gia Thái Bình Dương, và chúng tôi cam kết sẽ là một
đối tác chủ động của ASEAN”.
Tức là, tận dụng tổ chức 10 nước (Brunei, Campuchia,
Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt
Nam) này chống lại Trung Quốc, nhất là trong vấn đề tranh chấp đảo ở biển Hoa
Nam (tức Biển Đông) và biển Hoa Đông. Trên thực tế, là để đưa các thành viên
ASEAN vào danh sách đồng minh quân sự chính thức của Mỹ ở châu Á-Thái Bình
Dương – gồm Australia, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc và Đài Loan, những
nước mà Washington đã ký với họ hiệp ước bảo vệ lẫn nhau – trong việc hình
thành nên hạt nhân của một NATO châu Á phát triển nhanh chóng, sẽ bao gồm
Afghanistan, Bangladesh, Ấn Độ, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Mông Cổ, Nepal,
Pakistan, Sri Lanka, Tajikistan, Đông Timor, Turkmenistan và Uzbekistan.
|
The Philippines of late has officially designated the
South China Sea the West Philippine Sea, with the State Department likely to
follow suit as it has with Russia’s South Kuril Islands, which it has
referred to as (Japan’s) Northern Territories, and the Persian Gulf,
frequently deemed the Arabian Gulf to taunt Iran. Cartographic aggression as
it were.
|
Philippines cho tới gần đây đã chính thức gọi biển Đông là
biển Tây Philippines, và Bộ Ngoại giao chắc chắn sẽ làm như chuyện từng xảy
ra với quần đảo Nam Kuril của Nga, mà họ gọi là “lãnh thổ phía bắc” (của Nhật
Bản), và vịnh Ba Tư (Péc-xích), thường được coi như vịnh Ảrập, để chế giễu
Iran. Đó là sự công kích bằng bản đồ, không là cái gì khác.
|
The month after Clinton’s attendance at the ASEAN Regional
Forum in Vietnam two years ago, Vietnamese officials were hosted by the USS
George Washington aircraft carrier off the nation’s coast and the USS John S
McCain guided missile destroyer arrived in Da Nang to lead a joint exercise
in the South China Sea, the first between the U.S. and unified Vietnam.
|
Hai năm về trước, sau khi bà Clinton tham dự Diễn đàn khu
vực ASEAN ở Việt Nam, tháng sau đó, quan chức Việt Nam đã được hàng không mẫu
hạm Mỹ mời lên thăm khi nó neo ngoài khơi Việt Nam, và được tàu khu trục gắn
tên lửa định hướng John S McCain tiếp khi tàu này đến Đà Nẵng để tham gia tập
trận chung ở Biển Đông – cuộc tập trận chung đầu tiên giữa Mỹ và Việt Nam
thống nhất.
|
While in Mongolia earlier this week, Clinton stated: “My
trip reflects a strategic priority of American foreign policy today. After 10
years in which we focused a great deal of attention on the conflicts in
Afghanistan and Iraq, the United States is making substantially increased
investments — diplomatic, economic, strategic and otherwise — in this part of
the world. It’s what we call our pivot toward Asia.”
|
Đầu tuần này, trong khi đang ở Mông Cổ, bà Clinton tuyên
bố: “Chuyến đi của tôi phản ánh mối quan tâm chiến lược trong chính sách đối
ngoại của Mỹ ngày nay. Sau 10 năm tập trung chú ý rất nhiều vào xung đột ở
Afghanistan và Iraq, Mỹ đang tăng cường đầu tư đáng kể – ngoại giao, kinh tế,
chiến lược và những thứ khác – vào phần này của thế giới. Đó là cái mà chúng
tôi gọi là sự chuyển hướng của Mỹ về châu Á”.
|
She praised the government of President Tsakhia Elbegdorj
for being a model democracy “in territory surrounded by Russia and China” as
the Wall Street Journal phrased it, and celebrated recent reforms in Myanmar,
now a friend of Washington.
|
Tờ Wall Street Journal trích dẫn lời bà khen ngợi chính
quyền của Tổng thống Tsakhia Elbegdorj rằng họ đã trở thành một mô hình dân
chủ “tại một lãnh thổ bị Nga và Trung Quốc bao vây”, và bà hoan nghênh các
cải cách gần đây ở Myanmar, đất nước giờ đây là bạn của Washington.
|
Next month the U.S. will launch the latest Khaan Quest
multinational military exercise in Mongolia, which since 2003 have been
conducted by U.S. Pacific Command to train local troops for deployment to,
first, Iraq and afterward Afghanistan where they serve under NATO command.
|
Tháng tới, Mỹ sẽ tổ chức cuộc tập trận quân sự đa quốc gia
mới nhất, Khaan Quest, ở Mông Cổ. Cuộc tập trận này đã được Bộ tư lệnh Hoa Kỳ
tại Thái Bình Dương tổ chức từ năm 2003 để huấn luyện quân đội địa phương
triển khai trước hết là tới Iraq, sau đó tới Afghanistan, hoạt động dưới
quyền chỉ huy của NATO.
|
In 2006 the exercise included, in addition to U.S. and
Mongolian forces, troops from Bangladesh, Fiji, South Korea, Thailand and
Tonga. South Korea and Tonga now have contingents attached to the NATO-run
International Security Assistance Force in Afghanistan along with fellow
Asia-Pacific nations Australia, Japan, Malaysia, New Zealand, Singapore,
South Korea and Mongolia itself.
|
Hồi năm 2006, bên cạnh quân Mỹ và Mông Cổ, cuộc tập trận
đã có cả quân đội từ Bangladesh, Fiji, Hàn Quốc, Thái Lan và Tonga. Hàn Quốc
và Tonga giờ đã có những đạo quân nhỏ gắn với Lực lượng Hỗ trợ An ninh Quốc
tế do NATO chỉ huy ở Afghanistan, cùng với các nước đồng minh châu Á-Thái
Bình Dương là Australia, Nhật Bản, Malaysia, New Zealand, Singapore, Hàn Quốc
và bản thân Mông Cổ.
|
Khaan Quest 2007 included over 1,000 troops from the U.S.,
the host country, Bangladesh, Brunei, Cambodia, Indonesia, South Korea, Sri
Lanka and Tonga.
|
Khaan Quest 2007 bao gồm hơn 1000 lính từ Mỹ – nước chủ
nhà, tới Bangladesh, Brunei, Campuchia, Indonesia, Hàn Quốc, Sri Lanka và
Tonga.
|
Khaan Quest 2008 added forces from India, Nepal and
Thailand as well as NATO member France.
|
Khaan Quest 2008 có thêm các lực lượng đến từ Ấn Độ,
Nepal, Thái Lan, cũng như thành viên NATO: Pháp.
|
The next year’s exercise included troops from Cambodia,
India, Japan and South Korea.
|
Cuộc tập trận năm sau sẽ có quân từ Campuchia, Ấn Độ, Nhật
Bản và Hàn Quốc.
|
Khaan Quest 2010 involved troops from four NATO nations –
the U.S., Canada, France and Germany – as well as five Asian states:
Mongolia, India, Japan, South Korea and Singapore.
|
Khaan Quest 2010 có quân đội từ bốn nước NATO: Mỹ, Canada,
Pháp và Đức; cũng như 5 nước châu Á: Mông Cổ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và
Singapore.
|
Last year’s exercise saw American and Mongolian forces
joined by those from Australia, Cambodia, Canada, Germany, India, Indonesia,
Japan, Singapore and South Korea.
|
Trong cuộc tập trận năm ngoái, quân Mỹ và Mông Cổ hoạt
động bên cạnh quân đội Australia, Campuchia, Canada, Đức, Ấn Độ, Indonesia,
Nhật Bản, Singapore và Hàn Quốc.
|
This March Mongolia became the first country to be granted
the new NATO Individual Partnership and Cooperation Programme and has since
been identified as one of eight members of NATO’s new Partners Across the
Globe program. The other seven are also in the broader Asia-Pacific region:
Afghanistan, Australia, Iraq, Japan, New Zealand, Pakistan and South Korea.
|
Tháng 3 năm nay, Mông Cổ trở thành nước đầu tiên được trao
Chương trình Hợp tác và Đối tác Riêng của NATO, và từ đó đã được xác định là
một trong 8 thành viên của chương trình Đối tác toàn cầu của NATO. Bảy thành
viên kia cũng nằm trong khu vực mở rộng của châu Á-Thái Bình Dương, gồm:
Afghanistan, Australia, Iraq, Nhật Bản, New Zealand, Pakistan và Hàn Quốc.
|
Last month The Diplomat reported that China is
increasingly wary of U.S. and NATO engagement with and recruitment of
Mongolia.
|
Tháng trước, tờ The Diplomat đưa tin, Trung Quốc ngày càng
cảnh giác trước sự can dự của Mỹ và NATO vào Mông Cổ cũng như hành động tuyển
lựa Mông Cổ của họ.
|
The magazine stated, “while Khaan Quest is becoming more
infused with Asian powers, it remains a stage for Mongolia to display its
strategic relationship with the United States and NATO,” noting that “it
remains a stage for Mongolia to display its strategic relationship with the
United States and NATO.” It mentioned that NATO granting the Individual
Partnership and Cooperation Programme to Mongolia “mark[ed] the formalization
of a relationship that has blossomed within the past decade.
|
Tờ báo này tuyên bố: “Trong khi Khaan Quest ngày càng thâm
nhập sâu vào các siêu cường châu Á, vẫn còn một giai đoạn để cho Mông Cổ thể
hiện quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ và NATO”. Họ nói, NATO trao quy chế
Chương trình Hợp tác và Đối tác Riêng của NATO cho Mông Cổ là việc làm “đánh
dấu sự hình thành một mối quan hệ đã trổ hoa trong thập niên qua”.
|
In reference to Mongolia becoming NATO’s outpost between
China and Russia, the source added:
|
Đề cập đến việc Mông Cổ trở thành tiền đồn của NATO giữa
Trung Quốc và Nga, tờ báo này nói thêm rằng:
|
“Cooperation between the two is expected to focus on
building up the capacity of the MAF [Mongolian Armed Forces] as well as
improving interoperability with NATO troops. Mongolia has been steadily
improving its ties with NATO through its commitment of troops during the
Kosovo conflict and its current efforts in Afghanistan. There more than 100
MAF currently serving in Afghanistan as part of the International Security
Assistance Force. Mongolia also committed troops to the NATO mission in
Kosovo from 2005 to 2007.”
|
“Hoạt động hợp tác giữa hai bên được kỳ vọng là sẽ tập
trung vào xây dựng năng lực của Lực lượng Vũ trang Mông Cổ (MAF) cũng như
phát triển sự tương kết với quân đội NATO. Mông Cổ đã không ngừng cải thiện
quan hệ của họ với NATO, một cách ổn định, thông qua những cam kết về quân
đội, quân sự trong chiến tranh Kosovo và trong các nỗ lực quân sự hiện nay ở
Afghanistan. Hơn 100 MAF hiện phục vụ tại Afghanistan như là một phần của Lực
lượng Hỗ trợ An ninh Quốc tế. Mông Cô cũng đã cam kết gửi quân tới phục vụ
các chiến dịch của NATO ở Kosovao từ năm 2005 tới năm 2007”
|
Less than four months before Hillary Clinton arrived in
Cambodia to attend the ASEAN heads of government meeting, the East Asia Summit
Foreign Ministers Meeting and the U.S.-ASEAN Post-Ministerial Conference,
U.S. Pacific Command and U.S. Army Pacific led the third annual Angkor
Sentinel command post and field training exercises in Cambodia. The exercises
are held under the auspices of the Global Peace Operations Initiative,
managed by the U.S. State Department’s Bureau of Political-Military Affairs.
|
Không đầy bốn tháng trước khi Hillary Clinton sang
Campuchia để dự hội nghị những người đứng đầu chính phủ các nước ASEAN, Hội
nghị thượng đỉnh các bộ trưởng ngoại giao Đông Á và Hội nghị hậu bộ trưởng
Mỹ-ASEAN, Bộ tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương và Quân đội Thái Bình Dương của Mỹ
đã tổ chức tập trận chỉ huy Angkor Sentinel thường niên lần thứ ba và tập
trận thực địa chung ở Campuchia. Các cuộc tập trận được tiến hành dưới sự bảo
trợ của Sáng kiến Thực thi Hòa bình Toàn cầu, do Văn phòng các vấn đề chính
trị-quân sự trực thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ tổ chức.
|
Khaan Quest 2007 was also assisted by the Global Peace
Operations Initiative – to train troops for deployment to Afghanistan – as
were the second Shanti Doot exercise in Bangladesh in 2008 and the Garuda
Shield 2009 exercise in Indonesia.
|
Khaan Quest 2007 còn được hỗ trợ bởi Sáng kiến Thực thi
Hòa bình Toàn cầu – đào tạo quân đội để triển khai tới Afghanistan – cũng
giống như cuộc tập trận Shanti Doot lần thứ hai ở Bangladesh năm 2008 và tập
trận Garuda Shield năm 2009 ở Indonesia.
|
Angkor Sentinel 2010 involved over 1,000 military
personnel from 21 nations, among them the U.S., Cambodia, Britain, France,
Germany, Italy, Australia, India, Indonesia, Japan, Mongolia and the
Philippines. That is, from five NATO member states and seven prospective
Asian NATO nations. Mongolian troops participate in Angkor Sentinel exercises
and Cambodian ones in Khaan Quest exercises.
|
Angkor Sentinel 2010 có hơn 1000 nhân viên quân sự đến từ
21 nước, trong số đó có Mỹ, Campuchia, Anh, Pháp, Đức, Ý, Australia, Ấn Độ,
Indonesia, Nhật Bản, Mông Cổ và Philippines. Nghĩa là, từ 5 nước thành viên
NATO và 7 nước triển vọng là thành viên NATO châu Á. Quân đội Mông Cổ tham
gia tập trận Angkor Sentinel, còn quân Campuchia thì tham gia tập trận Khaan
Quest.
|
Last year’s Angkor Sentinel included military personnel
from 26 nations.
|
Năm ngoái, Angkor Sentinel thu hút nhân viên quân sự từ 26
nước.
|
Next year’s exercise can be expected to include increased
participation from fellow ASEAN member states like Laos, Malaysia, Singapore,
Thailand and Vietnam. Other ASEAN members are also likely to join Singapore,
the Philippines and Thailand in offering bases for the deployment of American
troops, ships and aircraft.
|
Tập trận năm tới dự kiến sẽ có thêm nhiều quân đội tham
dự, từ các nước thành viên ASEAN như Lào, Malaysia, Singapore, Thái Lan và
Việt Nam. Các nước thành viên ASEAN khác chắc chắn cũng sẽ tham gia cùng
Singapore, Philippines và Thái Lan trong việc cung cấp căn cứ cho Mỹ làm nơi
triển khai quân đội, tàu và máy bay.
|
The Obama administration and its NATO allies are
constructing a military network throughout the length and breadth of the
Asia-Pacific region to isolate and confront China and Russia. China in the
first place.
|
Chính quyền Obama và các đồng minh NATO của họ đang xây
dựng mạng lưới quân sự rộng và sâu trên khắp khu vực châu Á-Thái Bình Dương,
để cô lập và để đương đầu với Trung Quốc và Nga, mà đầu tiên là Trung Quốc.
|
Rick Rozoff is a
journalist and blogger and many of his articles may be found at the Stop NATO
blog.
|
Rick Rozoff là nhà
báo, blogger, có nhiều bài đăng ở blog Stop NATO.
|
|
Translated by Đỗ Quyên
|
|
|
http://www.eurasiareview.com/16072012-clinton-engineers-expansion-of-asian-nato-to-contain-china-oped/
|
Subscribe to:
Posts (Atom)