|
|
Competition in the
Indian Ocean
|
CẠNH TRANH TRÊN ẤN
ĐỘ DƯƠNG
|
With the exception of the war between them in 1962, India
and China have existed with little geopolitical interaction. The situation
along their shared 3,000-kilometer (1,864-mile) border has not changed, but
shifts in China's economic structure have led Beijing to increasingly operate
in the Indian Ocean Basin, which is New Delhi's sphere of influence. India is
facing limitations as it tries to project power in the Indian Ocean to
counter this growing Chinese involvement.
|
Không tính cuộc chiến tranh giữa hai nước năm 1962, Ấn Độ
và Trung Quốc đã sống chung với mà không có mấy tương tác địa chính trị. Tình
hình dọc theo 3.000 km biên giới (1,864 dặm) đã không thay đổi, nhưng sự thay
đổi trong cơ cấu kinh tế của Trung Quốc đã khiến Bắc Kinh hoạt động ngày càng
tăng trong thủy vực Ấn Độ Dương, vốn là phạm vi ảnh hưởng của New Delhi. Ấn
Độ đang đối mặt với các giới hạn khi quốc gia này nỗ lực tăng cường sưca mạnh
ở Ấn Độ Dương nhằm chống lại sự thâm nhập đang gia tăng của Trung Quốc vào
khu vực này.
|
Separating China and India are the Himalayan Mountains.
From India's perspective, Nepal and Bhutan are buffer states situated between
the northeastern and northwestern sections of the Indian-Chinese border. The
mountainous state of Sikkim was a third buffer, located between the other
two, and former Indian Prime Minister Indira Gandhi's government sought to
fully absorb this state into India. When anti-monarchy riots broke out in
Sikkim in 1973, India, fearful that China would step in and claim the area as
part of Tibet, used a mixture of political and military maneuvers to persuade
Sikkim's last monarch to accept Sikkim as India's 23rd state. This allowed
New Delhi to increase its leverage over China through its support for Tibetan
separatists living in Sikkim.
|
Chia tách giữa Ấn Độ và Trung Quốc là dãy núi Himalaya.
Đối với Ấn Độ, Nêpan và Butan là những quốc gia đệm ở khu vực biên giới Đông
Bắc và Tây Bắc giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Bang miền núi Sikkim là tấm đệm thứ
3 giữa hai quốc gia và chính phủ của cựu Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi đã tìm
cách đưa toàn bộ bang này vào Ấn Độ. Khi các cuộc bạo loạn chống chế độ quân
chủ bùng nổ tại Sikkim năm 1973, do lo ngại Trung Quốc có thể nhảy vào và đòi
đây là một phần của Tây Tạng nên Ấn Độ đã sử dụng tổng hợp chiến thuật chính
trị và quân sự để thuyết phục vị vua cuối cùng của Sikkim chấp nhận Sikkim là
bang thứ 23 của Ấn Độ. Điều này giúp Niu Đêli có thêm đòn bẩy đối với Trung
Quốc thông qua việc hỗ trợ các phần tử Tây Tạng ly khai đang sống tại Sikkim.
|
There are numerous territorial disputes along the
mountainous Indian-Chinese border. China possesses extensive territory in
northwestern India's Kashmir region in three areas: the Shaksgam Valley,
Aksai Chin and Demchok. Beijing also claims a considerable amount of
territory that forms the northern rim of the northeast Indian state of
Arunachal Pradesh.
|
Có rất nhiều tranh chấp lãnh thổ dọc đường biên giới Ấn Độ
– Trung Quốc. Trung Quốc có lãnh thổ rộng lớn trong khu vực Casơmia, ở phía
Tây Bắc của Ấn Độ, tại 3 khu vực là Thung lũng Shaksgam, Aksai Chin và
Demchok. Bắc Kinh cũng tuyên bố chủ quyền một phần đáng kể của khu vực hình
thành nên vành đai Đông Bắc của Ấn Độ – bang Arunachal Pradesh.
|
Tensions, But Little
Action, Along the Border
|
Trung Quốc, căng
thẳng nhưng ít hành động dọc Biên giới
|
The Himalayas effectively prevent India and China from
making any significant military advances against each other. However, this
has not eliminated tensions altogether. Over the past six decades, there has
been frequent clamor in India about potential threats from the Chinese
People's Liberation Army (PLA) in various areas along India's northern flank.
(The Indian states of Himachal Pradesh and Uttarakhand, located between Nepal
and Kashmir along the border with China, are also considered vulnerable to
Chinese military incursions.) In recent years, this perceived threat has led
New Delhi to enhance its military defenses in relation to Beijing.
|
Dãy Himalaya đã ngăn chặn hiệu quả, không cho Ấn Độ và
Trung Quốc thực hiện được hoạt động quân sự đáng kể nào chống lại nhau. Tuy
nhiên, điều này không loại bỏ hoàn toàn được những căng thẳng. Hơn 6 thập kỷ
qua, tại Ấn Độ, thường xuyên có những phản đối về các mối đe dọa tiềm tàng từ
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) ở nhiều khu vực dọc theo sườn phía
Bắc của Ấn Độ (các bang Himachal Pradesh và Uttarakhand, nằm giữa Nêpan và
Casơmia dọc biên giới với Trung Quốc, cũng bị xem là có nguy cơ bị quân đội
Trung Quốc xâm nhập). Trong những năm gần đây, mối đe dọa này đã dẫn đến việc
Niu Đêli tăng cường phòng thủ quân sự trong mối quan hệ với Bắc Kinh.
|
Officials in the Indian state of Arunachal Pradesh occasionally
will claim that the Chinese are building up their military on their side of
the border. These claims typically are followed by statements highlighting
India's efforts to increase security on its side, which the Chinese construe
as hostility. However, such statements form the Chinese are largely
rhetorical. Chinese sources have told Stratfor that what is happening in
these instances is periodic construction work with defensive purposes by
China's army corps of engineers, which the Indians consider offensive moves.
Aggravating these tensions are accusations that each country is assisting the
other's rebel forces, with India claiming that China backs various ethnic
insurgent groups in India's northeastern states (Assam, Nagaland, Mizoram,
Tripura and Meghalaya) while China criticizes India for providing havens for
Tibetan separatists.
|
Các quan chức tại bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ thỉnh
thoảng khẳng định rằng Trung Quốc đang xây dựng quân đội ở phía bên giới của
họ. Những tuyên bố này thường theo sau bởi những báo cáo nêu bật những nỗ lực
của Ấn Độ nhằm tăng cường an ninh bên phía mình và coi Trung Quốc là thù
địch. Các nguồn tin của Trung Quốc cho Stratfor biết rằng cái đang diễn ra
trong những trường hợp này là việc các quân đoàn công binh Trung Quốc thường
kỳ xây dựng các công trình có mục đích phòng thủ, nhưng Ấn Độ lại coi như là
những động thái tấn công. Làm trầm trọng thêm những căng thẳng này là những
cáo buộc rằng nước này đang hỗ trợ cho những phần tử nổi loạn ở nước kia. Ấn
Độ thì khẳng định rằng Trung Quốc đang hỗ trợ nhiều nhóm nổi dậy khác nhau ở
các bang Đông Bắc của Ấn Độ như Assam, Nagaland, Mizoram, Tripura và
Meghalaya. Trong khi đó thì Trung Quốc chỉ trích Ấn Độ về việc cung cấp chỗ
trú ẩn cho các phần tử ly khai Tây Tạng.
|
Aside from these accusations and military preparedness
measures, India's border with China has remained calm for the last 50 years
-- except for rare and minor incidents. This is not likely to change in the
foreseeable future.
|
Ngoài những cáo buộc và các biện pháp chuẩn bị quân sự
này, biên giới của Ấn Độ với Trung Quốc vẫn bình yên trong 50 năm qua, ngoại
trừ các sự cố hiếm hoi và nhỏ lẻ. Điều này khó có khả năng thay đổi trong
tương lai gần.
|
The Pakistani Factor
in Indian-Chinese Relations
|
Yếu tố Pakixtan
trong quan hệ Ấn Độ – Trung Quốc
|
India's fear of a Chinese encirclement drives the thinking
of Indian strategists and policymakers. A key part of this thinking has to do
with the historical alliance between China and Pakistan, India's archrival
and western neighbor. China has used the rivalry between India and Pakistan
as a significant lever against New Delhi.
|
Việc lo ngại bị Trung Quốc bao vây đã tác động đến tư duy
của các chiến lược gia và các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ. Phần quan
trọng của tư duy này liên quan đến mối quan hệ đồng minh giữa Trung Quốc và
Pakixtan – nước láng giềng đối thủ ở phía Tây của Ấn Độ. Trung Quốc đã sử
dụng sự thù địch giữa Ấn Độ và Pakixtan làm đòn bẩy chống lại Niu Đêli.
|
Beijing's military cooperation with and economic
assistance to Islamabad has allowed the Chinese to establish a considerable
presence in Pakistan. From New Delhi's perspective, Chinese involvement in
developing transportation corridors in Pakistan's northern Gilgit-Baltistan
region, which the Pakistanis seized in the 1948 war in the Kashmir region,
enhances Pakistan's position in the disputed territory. In recent years, New
Delhi has alleged that Pakistan allowed up to 11,000 PLA troops to be
stationed in Gilgit-Baltistan.
|
Hợp tác quân sự và trợ giúp kinh tế cho Ixlamabát đã cho
phép Trung Quốc thiết lập sự hiện diện đáng kể tại Pakixtan. Đối với Niu
Đêli, sự tham dự của Trung Quốc vào việc phát triển hành lang giao thông ở
khu vực Gilgit-Baltistan, Đông Bắc Pakixtan, mà Pakixtan đã giành được trong
cuộc chiến tranh 1948 tại khu vực Casơmia, đã giúp nâng cao vị thế của
Pakixtan tại vùng lãnh thổ tranh chấp này. Trong những năm gần đây, Niu Đêli
đã cáo buộc rằng Pakixtan đã cho phép 11.000 quân PLA vào đồn trú tại
Gilgit-Baltistan.
|
China would like to use the full length of Pakistan's territory
as a land bridge for exports and, far more important, imports. This ability
would allow China to bypass the shipping lanes between its eastern and
southern seaboard that run through the Strait of Malacca and the Indian Ocean
-- an important step in making China's energy imports from the Middle East
more secure.
|
Trung Quốc có thể muốn sử dụng toàn bộ chiều dài lãnh thổ
Pakixtan làm cầu nối cho hàng xuất khẩu và quan trọng hơn là nhập khẩu. Khả
năng này sẽ giúp Trung Quốc tránh các tuyến đường biển giữa vùng biển phía
Đông và phía Nam chạy qua eo biển Malắca và Ấn Độ Dương. Đây là một bước đi
quan trọng giúp việc nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc từ Trung Đông trở
nên bảo đảm hơn.
|
Beijing can do just that if it can establish a robust and
secure transportation corridor between the Khunjerab Pass border crossing on
the Pakistani-Chinese border and the port of Gwadar on the Arabian Sea (which
the Chinese have helped develop). However, technological and financial
obstacles, as well as security, climate and terrain-related issues, have
prevented the Chinese from developing road and rail infrastructure along the
full length of Pakistan's territory. Given Pakistan's domestic convulsions
and the coming withdrawal of NATO forces from Afghanistan, only meager
progress on this front can be expected for a long time to come. However, the
port at Gwadar holds immense maritime value for Beijing and can serve as a
key Chinese naval outpost in the northwestern end of the Indian Ocean.
|
Bắc Kinh có thể thực hiện được điều này nếu họ có thể
thiết lập một hành lang giao thông tốt và an toàn giữa đèo Khunjerab ở biên
giới Pakixtan – Trung Quốc và cảng Gwadar ở Biển Arập (một cơ sở Trung Quốc
đã giúp xây dựng). Tuy nhiên, những trở ngại về kỹ thuật và tài chính cũng
như các vấn đề về an ninh, khí hậu và địa chất, đã ngăn cản Trung Quốc xây
dựng cơ sở hạ tầng đường sá và đường sắt dọc toàn bộ chiều dài lãnh thổ
Pakixtan. Do sự rối loạn trong nước của Pakixtan và việc NATO sẽ rút quân
khỏi Ápganixtan, về lâu dài, Bắc Kinh sẽ chỉ đạt được một phần nhỏ trong tham
vọng này. Tuy nhiên, cảng Gwadar lại có giá trị hàng hải rất lớn đối với Bắc
Kinh và có thể là một cảng hải quân quan trọng của Trung Quốc ở phía Tây Bắc
của Ấn Độ Dương.
|
Despite China's involvement in Pakistan, there are problems
with using that involvement as leverage against India. Instability within
Pakistan and the transnational Islamist militants headquartered there are
turning Pakistan into more of a liability than an asset. Pakistani-Chinese
relations are also affected by the United States' role in South Asia, and
Beijing has to balance its commitments to Islamabad with its relationship
with Washington. China also is neither willing nor able to play a role in
Pakistan -- financially or politically -- similar to the United States. More
important, China's geopolitical needs extend far beyond Pakistan.
|
Mặc dù có sự can dự của Trung Quốc vào Pakixtan, nhưng vấn
có nhiều khó khăn trong việc sử dụng sự can dự đó để chống lại Ấn Độ. Sự bất
ổn tại Pakixtan và các phần tử vũ trang Hồi giáo quốc tế đóng tổng hành dinh
tại đó đã biến Pakixtan thành một gánh nợ hơn là một tài sản. Quan hệ Trung
Quốc – Pakixtan cũng bị ảnh hưởng bởi vai trò của Mỹ ở Nam Á và Bắc Kinh phải
cân bằng những cam kết của mình với Ixlamabát và mối quan hệ với Oasinhtơn.
Trung Quốc cũng không sẵn sàng hoặc không thể đảm nhận một vai trò tại
Pakixtan, về mặt tài chính hoặc chính trị như Mỹ. Quan trọng hơn, nhu cầu địa
chính trị của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở Pakixtan.
|
The shifts in China's political economy in recent decades
have forced Beijing to transform from a land power to a maritime one. Its
growing need for energy and other resources to feed its industrial engine and
thus its export sector require that the shipping lanes from its coasts to
Africa and the Middle East remain open. China has had to establish and
enhance its presence in the Indian Ocean Basin accordingly.
|
Sự thay đổi kinh tế chính trị của Trung Quốc trong những
thập kỷ gần đây đă buộc Bắc Kinh phải chuyển đổi từ cường quốc đất liền sang
cường quốc biển. Nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng và các nguồn tài nguyên
khác để nuôi bộ máy công nghiệp và do lĩnh vực xuất khẩu yêu cầu các tuyến
đường vận chuyển từ bờ biển của Trung Quốc đến châu Phi và Trung Đông, Trung
Quốc phải thiết lập và tăng cường sự hiện diện của mình ở Ấn Độ Dương cho phù
hợp.
|
Though it will be a while before China develops considerable
blue-water naval capabilities, the Chinese reportedly have started developing
outposts of influence across the Indian Ocean in the form of port development
plans. While in many cases China has financed construction operations of
those ports, these projects in Myanmar, Bangladesh, Sri Lanka, the Maldives
and elsewhere are also potential sources of revenue for Chinese construction
companies. However, this intrusion into India's southern flank has
exacerbated India's security concerns regarding China.
|
Mặc đù sẽ mất thời gian để Trung Quốc có thể xây dựng năng
lực hải quân, nhưng Trung Quốc đã bắt đầu phát triển các tiền đồn ảnh hưởng
trên khắp Ấn Độ Dương. Mặc dù trong nhiều trường hợp Trung Quốc cung cấp tài
chính cho hoạt động xây dựng các cảng này, các dự án này tại Mianma,
Bănglađét, Xri Lanca, Manđivơ và những nơi khác cũng là nguồn thu tiềm năng
cho các công ty xây dựng của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc bị xâm nhập vào sườn
phía Nam này đã làm trầm trọng thêm sự lo ngại của Ấn Độ đối với Trung Quốc
trong vấn đề an ninh.
|
India's Options
Because China is a larger economic power and has much more
substantial long-range naval capabilities than India, New Delhi feels
pressured to work against Chinese encroachment on what the Indians consider
their territorial waters. Although India has not been able to use the Indian
Ocean for power projection beyond the basin, it has established significant
influence there. Furthermore, as India's own need for resources, especially
energy resources, grows, it will need to ensure the security of its shipping
lanes from Africa and the Middle East and from Southeast Asia. Along with
India's desire to protect its ownership of the Andaman and Nicobar Islands in
the Bay of Bengal and the Lakshadweep Islands near the Arabian Sea, this need
makes friction between China and India in the Indian Ocean Basin inevitable.
Since India is incapable of countering China's advances in the Indian Ocean
on its own, New Delhi cooperates with Washington, which has its own interest
in containing China's influence in the region.
|
Những lựa chọn của
Ấn Độ
Vì Trung Quốc là một cường quốc kinh tế lớn hơn và có khả
năng hải quân tầm xa tốt hơn so với Ấn Độ, Niu Đêli cảm thấy phải sớm hành
động để chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc đối với những cái mà Ấn Độ coi là
lãnh hải của mình. Mặc dù Ấn Độ không có khả năng sử dụng Ấn Độ Dương cho
việc phát huy sức mạnh ra bên ngoài khu vực, nhưng nước này đã thiết lập được
ảnh hưởng đáng kể ở đây. Hơn nữa, do chính nhu cầu của Ấn Độ đối với các
nguồn tài nguyên, đặc biệt là năng lượng, đang tăng lên, Ấn Độ cần phải bảo
đảm an ninh cho các tuyến đường biển của mình từ châu Phi, Trung Đông và Đông
Nam Á. Cùng với mong muốn của Ấn Độ trong việc bảo vệ quyền sở hữu các quần
đảo Andaman và Nicobar tại vịnh Bengan và quần đảo Lakshadweep gần Biển Arập,
nhu cầu này làm cho những va chạm giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên khu vực Ấn Độ
Dương là điều không thể tránh khỏi. Do Ấn Độ không có khả năng tự mình chống
lại sức mạnh Trung Quốc trên Ấn Độ Dương nên Niu Đêli đã hỢp tác với
Oasinhtơn. Oasinhtơn cũng có lợi ích riêng khi kiềm chế ảnh hưởng của Trung
Quốc ở khu vực.
|
From India's standpoint, the southern reaches of the Bay
of Bengal are critical because of their proximity to the Strait of Malacca.
The strait is important to India's 20-year-old "Look East" policy,
driven by energy and trade needs and a strong interest in countering China
that has stagnated after several attempts at reinvigoration. The policy
involves New Delhi's developing close relations with Myanmar and the other
countries in the region formerly known as Indochina.
|
Từ góc độ của Ấn Độ, phần phía Nam của vịnh Bengan là rất
quan trọng vì nó gần với eo biển Malắcca. Eo biển Malắcca quan trọng đối với
chính sách “Hướng Đông” 20 năm tuổi của Ấn Độ, một chính sách được thúc đẩy
bởi nhu cầu năng lượng và thương mại và sự quan tâm mạnh mẽ đến việc chống
lại Trung Quốc. Chính sách này liên quan đến việc Ấn Độ phát triển mối quan
hệ chặt chẽ với Mianma và các nước khác trong khu vực vốn trước đây được gọi
là các nước Đông Dương.
|
In the past two decades, India has re-established close
relations with the ruling junta in Myanmar, a longtime Chinese ally. By
taking advantage of Myanmar's need for international partners, given the
country's pariah status, India has not only developed another source of
natural gas but has also begun offering China competition. Additionally,
energy cooperation deals with Vietnam have allowed India to establish a
presence in the South China Sea region -- an area China considers its
exclusive sphere of influence.
|
Trong 2 thập kỷ qua, Ấn Độ đã tái thiết lập quan hệ gần
gũi với Mianma, một đồng minh lâu đời của Trung Quốc. Bằng việc tận dụng nhu
cầu của Mianma cần có các đối tác quốc tế, do vị thế cùng khổ của nước này,
Ấn Độ đã không chỉ phát triển nguồn tài nguyên khí đốt mà còn bắt đầu cạnh
tranh với Trung Quốc, Ngoài ra, các thoả thuận hợp tác năng lượng với Việt
Nam cũng cho phép Ấn Độ thiết lập sự hiện diện ở khu vực Biển Đông – một khu
vực Trung Quốc coi là độc quyền ảnh hưởng.
|
India has also developed close economic ties with other
key Southeast Asian states including Thailand, Singapore and Malaysia. This
has allowed India to establish a free trade agreement with the Association of
Southeast Asian Nations (ASEAN). Southeast Asian countries share India's
desire to counter China's growing influence.
|
Ấn Độ cũng xây dựng các mối quan hệ kinh tế gần gũi với
các quốc gia Đông Nam Á quan trọng khác như Thái Lan, Xinhgapo và Malaixia.
Điều này cho phép Ấn Độ thành lập một thoả thuận tự do thương mại với Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Các nước Đông Nam Á cũng chia sẻ mong
muốn của Ấn Độ trong việc chống lại ảnh hưởng đang tăng lên của Trung Quốc.
|
Beyond Southeast Asia, India is working with Japan, which
also has a strong interest in counterbalancing China. Both countries are
working with the United States to create a foothold in the South China Sea --
a trilateral arrangement that could help India. However, India's own ability
to counter China on its southern flank is limited by New Delhi's domestic,
political and economic situation.
|
Ngoài Đông Nam Á, Ấn Độ cũng đang làm việc với Nhật Bản,
nước cũng rất quan tâm đến việc đối trọng lại Trung Quốc. Cả hai nước đang
cùng làm việc với Mỹ để thiết lập chỗ đứng tại Biển Đông – một thoả thuận 3
bên có thể có ích cho Ấn Độ. Tuy nhiên, khả năng của Ấn Độ trong việc chống
lại Trung Quốc ở sườn phía Nam của mình bị hạn chế do tình hình nội bộ, chính
trị và kinh tế của Niu Đêli.
|
The Role of
Bilateral Trade
In the past decade or so, India's general outlook toward
China has changed so that enhanced trade relations and economic cooperation
have complemented the strategic competition between the two. The strengthened
Indian-Chinese economic ties have also increased India's importance to the
point where China feels it is necessary to balance its historical ties with
Pakistan with the need to work with India. Further, China's concern about a
strategic encirclement by the United States, of which New Delhi is a single
but significant part, has been working in India's favor. This has given New
Delhi the ability to deal with Islamabad, India's main security threat.
|
Vai trò của thương
mại song phương
Trong khoảng một thập kỷ qua, quan điểm chung của Ấn Độ
đối với Trung Quốc đã thay đổi, tăng cường quan hệ thương mại và hợp tác kinh
tế đã bổ sung cho sự cạnh tranh chiến lược giữa hai quốc gia. Các mối quan hệ
kinh tế Ấn Độ – Trung Quốc đã nâng tầm quan trọng của Ấn Độ tới mức mà Trung
Quốc cảm thấy cần phải cân bằng các mối quan hệ lịch sử của mình với Pakixtan
để hợp tác với Ấn Độ. Hơn nữa, mối lo ngại của Trung Quốc về sự bao vây chiến
lược của Mỹ, trong đó Niu Đêli là một phần quan trọng, đã tạo thuận lợi cho
Ấn Độ. Điều này giúp Niu Đêli có khả năng để đối phó với Ixlamabát – mối đe
dọa an ninh chính của Ấn Độ.
|
However, there is a long-term trend in which China has
become India's largest trade partner while India's relevance to China has
remained static. From 2001-2010, India's trade with China steadily increased
from around 3 percent of overall trade to around 10 percent. However, China's
trade with India as a percentage of its overall trade stayed almost flat,
increasing from about 1 to 2 percent over the same period. In 2010, total
trade between the two was approximately $50 billion.
|
Tuy nhiên, có một xu hướng dài hạn theo đó Trung Quốc sẽ
trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ trong khi vai trò của Ấn Độ
đối với Trung Quốc không thay đổi. Từ năm 2001 đến 2010, thương mại của Ấn Độ
với Trung Quốc tăng đều đặn từ 3% lên 10% tổng thương mại. Tuy nhiên, thương
mại của Trung Quốc với Ấn Độ tính theo phần trăm trong tổng thương mại của
nước này gần như đứng im, tăng từ 1 – 2% trong giai đoạn trên. Năm 2010, tổng
kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt khoảng 50 tỷ USD.
|
Much of this trend can be attributed to increased Indian
consumption of Chinese electronics and machinery (a full 42 percent of
imports in 2010). In 2001, Indian imports of Chinese goods totaled $1.8
billion, including about $200 million of electronic goods and $200 million of
machinery. By 2010, Indian imports of Chinese goods totaled $33 billion,
including $9 billion of electronic goods and $5.6 billion of machinery.
|
Xu hướng này phần lớn là do việc Ấn Độ tăng cường tiêu thụ
thiết bị điện tử và máy móc của Trung Quốc (mặt hàng chiếm 42% nhập khẩu
trong năm 2010). Năm 2001, Ấn Độ nhập khẩu 1,8 tỷ USD hàng hoá từ Trung Quốc,
trong đó có khoảng 200 triệu USD hàng điện tử và 200 triệu USD máy móc. Đến
năm 2010, Ấn Độ nhập tổng cộng 33 tỷ USD hàng hoá của Trung Quốc, trong đó
hàng điện tử là 9 tỷ USD và máy móc là 5,6 tỷ USD.
|
This means China has been able to sell its low-cost manufactured
goods to India, in part displacing domestic manufacturers, while India has
been unable to sell China its major goods, such as refined petroleum
products, diamonds, jewelry, cars and electronics, and its higher value-added
services, such as software development, engineering and information
technology development. This imbalance has implications for the countries'
broader rivalry.
|
Điều này có nghĩa là Trung Quốc có khả năng bán các hàng
hoá có chi phí sản xuất thấp vào Ấn Độ, chiếm mất thị phần của các nhà sản
xuất nội địa, trong khi Ấn Độ không thể bán cho Trung Quốc các loại hàng hoá
chính của mình như các sản phẩm hoá dầu, kim cương, đồ trang sức, ôtô, hàng
điện tử và các dịch vụ giá trị gia tăng cao như phát triển phần mềm, kỹ thuật
và phát triển công nghệ thông tin. Sự mất cân bằng này có những tác động đến
sự kình địch chung giữa hai quốc gia.
|
Ultimately India depends more on China economically and
thus is in the weaker position in the countries' larger strategic
competition, which will continue playing out in the Indian Ocean rather than
along their shared border.
|
Cuối cùng, Ấn Độ phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về
kinh tế và do đó sẽ ở vị trí yếu trong cuộc cạnh tranh chiến lược giữa hai
nước – một cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra trên Ấn Độ Dương chứ không phải là ở
biên giới chung giữa hai nước.
|
|
|
|
|
http://www.irgamag.com/?page=Competition_04042012
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Sunday, April 29, 2012
Competition in the Indian Ocean CẠNH TRANH TRÊN ẤN ĐỘ DƯƠNG
Peace lies beyond the South China Sea horizon Hòa bình trên Biển Đông nằm ở chân trời xa xôi
|
|
Peace lies beyond
the South China Sea horizon
|
Hòa bình trên Biển
Đông nằm ở chân trời xa xôi
|
By Jingdong Yuan
|
Jingdong Yuan
|
|
28-4-2012
|
SYDNEY - The ongoing standoff between China and the
Philippines over the Scarborough Shoal (Huangyan Island in Chinese) is again
focusing the international spotlight on the long-standing territorial
disputes between China and a number of claimant states in the South China
Sea.
|
Sydney – Vụ cãi vã đang tiếp diễn giữa Trung Quốc và
Philippines quanh bãi cạn Scarborough (quần đảo Hoàng Nham – Huangyan trong
tiếng Trung) lại một lần nữa thu hút cả thế giới nhìn về những cuộc tranh
chấp chủ quyền kéo dài giữa Trung Quốc và một loạt quốc gia có yêu sách chủ
quyền khác ở Biển Đông.
|
The latest tension began in early April when a Philippine
naval frigate confronted Chinese fishermen and attempted to place them under
arrest under the charge of illegal fishing and poaching in what Manila claims
as its territory.
|
Căng thẳng mới nhất này bắt đầu vào đầu tháng 4, khi một
tàu chiến của hải quân Philippines chạm trán với ngư dân Trung Quốc, và cố
bắt họ vì tội đánh bắt cá bất hợp pháp và đột nhập vào nơi mà Manila tuyên bố
là thuộc chủ quyền của mình.
|
Beijing responded by sending its maritime surveillance
vessels to the area to block the Philippine warship. The two countries
subsequently entered into discussions with each side standing firm on its
territorial claims while pledging a diplomatic way out. At the time of
writing the Chinese maritime vessels and fishing boats have reportedly left
the Scarborough Shoal. But the maritime disputes are far from over.
|
Bắc Kinh phản ứng lại bằng cách gửi tàu hải giám tới khu
vực để ngăn chiến hạm của Philippines. Sau đó hai nước bắt đầu tranh cãi, bên
nào cũng giữ nguyên lập trường về yêu sách chủ quyền của mình, trong khi đó
vẫn hứa hẹn tìm một giải pháp ngoại giao. Vào thời điểm tác giả viết bài này,
nghe nói tàu hải quân và tàu cá Trung Quốc đã rời bãi cạn Scarborough. Nhưng
tranh chấp hàng hải thì còn lâu mới kết thúc.
|
Territorial disputes in the South China Sea emerged in the
early 1970s when it was discovered that the region could contain significant
deposits of oil and natural gas. China and Vietnam were embroiled in military
clashes in 1974 and 1988 and in 1992 Beijing promulgated legislation making
territorial claims to the South China Sea based on historical discoveries.
|
Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông nổi lên từ đầu thập
niên 1970, khi người ta phát hiện ra rằng khu vực này có thể chứa những mỏ
dầu và khí tự nhiên có trữ lượng đáng kể. Trung Quốc và Việt Nam từng xung
đột quân sự vào năm 1974 và 1988, và tới năm 1992, Bắc Kinh chính thức ban
hành luật, khẳng định rằng các yêu sách chủ quyền của họ đối với Biển Đông là
dựa vào những phát kiến lịch sử.
|
The 1990s saw an escalation of tensions between China and
the other Southeast Asian claimants - Vietnam, Malaysia, Indonesia, Brunei,
and the Philippines, with the 1995 Chinese occupation of the Mischief Reef
the most controversial development. Since then, Beijing and Manila, and
subsequently China and the 10-member Association of Southeast Asian Nations
(ASEAN) entered into a series of dialogues and negotiation, paving the way
for the signing of the Declaration on the Conduct of Parties in the South
China Sea in 2002.
|
Thập niên 1990 chứng kiến căng thẳng leo thang giữa Trung
Quốc và các nước Đông Nam Á có yêu sách chủ quyền khác – gồm Việt Nam,
Malaysia, Indonesia, Brunei, và Philippines, với việc năm 1995, Trung Quốc
chiếm bãi đá Vành Khăn (Mischief reef) và đó là diễn biến gây tranh cãi nhiều
nhất. Kể từ đó, Bắc Kinh và Manila, rồi tiếp theo là Trung Quốc cùng 10 thành
viên của Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bước vào một loạt cuộc đối
thoại và đàm phán, mở đường cho việc ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên
trên Biển Đông, năm 2002.
|
Over the past few years, however, some of the key claimant
states to the territorial disputes in the South China Sea, principally China,
Vietnam, and the Philippines, have sought to reiterate and strengthen their
claims both through stating their positions publicly and and by taking more
assertive and at time aggressive actions to stake out their claims based on
their own interpretations of the 1982 United Nations Convention on the Law of
the Sea (UNCLOS).
|
Tuy nhiên, trong vài năm qua, một số quốc gia chính trong
cuộc tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, nổi bật là Trung Quốc, Việt Nam và
Philippines, đã tìm cách nhắc lại và củng cố yêu sách của mình, thông qua
việc vừa tuyên bố lập trường một cách công khai, vừa tiến hành những hoạt
động khẳng định chủ quyền mạnh mẽ hơn, đôi khi hung hăng hơn, căn cứ vào cách
họ diễn giải Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS).
|
These include more active maritime surveillance and
exploration activities, tussles over fishing grounds, arrests and harassment
of fishermen by each country's maritime authorities, and threats and
endangerment of foreign navigation. These developments have caused serious concerns
over the potential escalation of disputes into major maritime and military
conflicts.
|
Những hoạt động đó bao gồm hải giám và thăm dò tài nguyên,
tranh giành bãi cá, bắt giữ và quấy nhiễu ngư dân, đe dọa và gây nguy hiểm
cho tàu bè nước ngoài. Các diễn biến đã gây lo ngại sâu sắc về khả năng tranh
chấp leo thang thành xung đột hải quân và quân sự lớn.
|
This is in sharp contrast to the relative peace and
tranquility since the signing of the Declaration on the Conduct of Parties in
the South China Sea in 2002 by China and ASEAN countries. What happened?
|
Điều này đối ngược một cách sâu sắc với nền hòa bình và
yên tĩnh tương đối đã có được kể từ khi các bên, gồm Trung Quốc và ASEAN, ký
Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông (năm 2002). Điều gì đã xảy
ra?
|
The Scarborough Shoal dispute is a reflection of the
underlying tension and competition between China and its neighbors over
sovereignty, resources, and security in the South China Sea and has deeper
strategic drivers beyond the immediate zone of potential conflict.
|
Tranh chấp quanh bãi cạn Scarborough là tấm gương phản
chiếu những căng thẳng và tranh giành ngầm giữa Trung Quốc và các nước láng
giềng của họ: tranh giành chủ quyền, tài nguyên, và an ninh trên Biển Đông;
và cuộc tranh chấp này có những động cơ chiến lược sâu sắc vượt ra khỏi ranh
giới xung đột tiềm năng, tức thời.
|
One is the growing need of all the claimant states for
energy and resources in order to sustain growth and achieve prosperity
against shrinking land-based resources and growing dependence on critical production
inputs imported from the Middle East, Africa, and the Persian Gulf. This
recognition of the potential limits to future growth highlights the
importance of the South China Sea.
|
Thứ nhất là nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng và tài
nguyên của tất cả các nước có yêu sách chủ quyền, để duy trì tăng trưởng và
tạo sự thịnh vượng. Đối lập với đó là việc tài nguyên đất liền ngày càng eo
hẹp và sự phụ thuộc của họ vào những đầu vào sản xuất mang tính quyết định,
nhập khẩu từ Trung Đông, châu Phi và vịnh Ba Tư, ngày càng tăng. Các nước đã
nhận ra những giới hạn tiềm tàng, ngăn cản tăng trưởng tương lai. Điều này
càng làm nổi bật thêm tầm quan trọng của Biển Đông.
|
Second, while none of the claimant states is unrealistic
enough to believe that it can secure its territorial claims against the
others short of using military force and risking significant diplomatic
backlash and serious economic consequences, each has strong incentives to
stand on and strengthen its claim, hoping to be better positioned in future
negotiations on the final resolution of the dispute.
|
Thứ hai là, không quốc gia nào hão huyền đến mức tin rằng
họ có thể bảo vệ yêu sách chủ quyền của mình trước các nước khác mà lại không
sử dụng sức mạnh quân sự và không gặp rủi ro là tạo ra những khe hở đáng kể
về ngoại giao cùng những hậu quả kinh tế nghiêm trọng. Nhưng đồng thời, nước
nào cũng có động cơ lớn là phải đứng vững và củng cố yêu sách của mình, hy
vọng có thể có vị thế khá hơn trong những cuộc đàm phán tương lai về một giải
pháp cuối cùng cho tranh chấp.
|
Rising nationalism and the revolution in communications
provide accessible and increasingly influential platforms for public opinions
that in turn affect foreign policy formulation and implementation, making
conciliation difficult. Witness the highly nationalistic rhetoric in China's
blogosphere and anti-China demonstrations on the streets of Hanoi and Ho Chi
Minh City.
|
Chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy cùng với cuộc cách mạng về
truyền thông đã tạo ra cho công luận những nền tảng ngày càng dễ tiếp cận và
có ảnh hưởng hơn. Đến lượt nó, công luận gây tác động đến quá trình hình
thành và thực thi chính sách đối ngoại, càng khiến việc điều hòa các bên
tranh chấp trở nên khó khăn. Hãy xem những lời lẽ đầy màu sắc dân tộc chủ
nghĩa trên các blog của người Trung Quốc và những cuộc biểu tình chống Trung
Quốc trên đường phố Hà Nội và TP.HCM.
|
Third, for rising powers such as China, a growing debate
and emerging consensus have informed leaderships that sea power, even for
continental countries, is the key to commanding the global commons and an
essential ingredient of great powers in the future. And finally, growth and
prosperity over the past two decades in East Asia provide the financial
wherewithal for military modernization, in particular in the naval patrol and
power projection capabilities.
|
Thứ ba là, đối với những siêu cường đang nổi lên như Trung
Quốc, một cuộc tranh biện ngày càng gia tăng và đồng thuận ngày càng lớn đã
cho giới lãnh đạo thấy rằng, sức mạnh trên biển, ngay cả với những nước nằm
trong lục địa, là chìa khóa để nắm lấy những nguồn lợi chung toàn cầu và là
nguyên liệu chủ chốt để làm nên những siêu cường trong tương lai. Và cuối
cùng, tăng trưởng và thịnh vượng trong hai thập niên vừa qua ở Đông Á đã đưa
đến năng lực tài chính đủ để hiện đại hóa quân sự, đặc biệt là trong các lĩnh
vực tuần tra đường biển và thể hiện (phóng chiếu) sức mạnh trên biển.
|
|
(Nguồn lợi chung
toàn cầu, tiếng Anh là “global commons”, là các nguồn lợi tự nhiên hỗ trợ đời
sống thiết yếu, như hệ thống khí hậu của trái đất, tầng ozone, các đại dương
và biển. Chúng thuộc về toàn thể nhân loại chứ không chỉ thuộc riêng bất cứ
nước hay doanh nghiệp tư nhân nào – ND chú thích theo Quỹ Môi trường Toàn
cầu).
|
The geostrategic ramifications of the ongoing territorial
disputes in the South China Sea go beyond their geographic confines and
affect US interests and its relations with China. To begin with, the growing
Chinese assertiveness, whether misperceived or real, raises serious questions
about US interests and staying power in the region, as well as the
credibility of its alliance commitments.
|
Sự phân nhánh địa chiến lược của những cuộc tranh chấp chủ
quyền hiện nay trên Biển Đông đi vượt ra ngoài vấn đề địa lý, và nó ảnh hưởng
tới lợi ích của Mỹ cũng như quan hệ của nước này với Trung Quốc. Trước hết,
thái độ ngày một hung hăng của Trung Quốc, cho dù là bị hiểu nhầm hay là thật
thì đều đặt ra những câu hỏi quan trọng về lợi ích của Mỹ, khả năng Mỹ tiếp
tục là siêu cường trong khu vực, cũng như độ tin cậy của những cam kết của họ
với các đồng minh.
|
First, the re-emergence and intensification of territorial
disputes are taking place during a period of perceived US retraction from the
region in the aftermath of the Afghanistan and Iraq wars and the global
financial crisis of 2008, which have left Washington increasingly focused on
domestic issues and budgetary woes. In contrast, the past decade has
witnessed the phenomenal rise of China, in economic power, political
influence, and military capabilities.
|
Đầu tiên, tranh chấp chủ quyền xuất hiện trở lại và trở
nên gay gắt hơn đúng vào thời kỳ Mỹ rút khỏi khu vực – hậu quả của hai cuộc
chiến tại Afghanistan và Iraq và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008,
khiến cho Washington phải tập trung nhiều hơn vào các vấn đề trong nước cùng
những khó khăn về ngân sách. Ngược lại, thập kỷ qua lại chứng kiến sự nổi lên
như một hiện tượng của Trung Quốc, trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, và
sức mạnh quân sự.
|
Second, China's sovereignty claims and its growing
assertiveness directly challenge what Washington has always regarded as its
fundamental right - freedom of navigation in the South China Sea. This allows
the US to carry out its diplomatic and military missions and fulfill its
alliance commitments, including joint military exercises, search and rescue,
and humanitarian assistance.
|
Thứ hai, yêu sách chủ quyền cùng với thái độ hung hăng của
Trung Quốc thách thức trực tiếp cái mà Washington luôn coi là quyền căn bản
của họ – tự do hàng hải trên Biển Đông. Điều đó cho phép Mỹ tiến hành các
hoạt động ngoại giao và quân sự, và thực hiện cam kết với các đồng minh của
mình, gồm những việc như tập trận chung, tìm kiếm và cứu hộ, cứu trợ nhân
đạo.
|
However, while Beijing maintains that it does not challenge
the principle of freedom of navigation, it does raise serious concerns over
and publicly objects to the military intelligence gathering and surveillance
close to China's naval installations. The Hainan Island incident in 2001 and
the USS Impeccable incident of 2009 are reflection of this growing tension
between China and the United States.
|
Tuy nhiên, mặc dù Bắc Kinh luôn nói rằng họ không chống
lại nguyên tắc tự do hàng hải, họ lại gây rất nhiều lo ngại, và họ công khai
phản đối việc giám sát và thu thập thông tin tình báo quân sự gần nơi lắp đặt
các thiết bị hải quân của Trung Quốc. Sự cố trên đảo Hải Nam năm 2001 và vụ
việc của tàu Impeccable của Mỹ năm 2009 phản ánh tình trạng căng thẳng ngày
càng gia tăng giữa Trung Quốc và Mỹ.
|
Third, being the smaller and weaker parties to the South
China Sea disputes, Vietnam and the Philippines, and indeed other ASEAN
claimant states, naturally have strong incentives to get US support to
counter China. In recent years, Hanoi and Manila have sought out and engaged
Washington in ever expanding military, as well as diplomatic and economic
ties, with defense exchanges, naval port calls and joint exercises, and
purchases of US equipment. Manila in particular has sought to secure firm
commitments from Washington with regard to the latter's obligation to the
1951 mutual defense treaty should the country get into military conflicts
with China.
|
Thứ ba, là những nước nhược tiểu trong tranh chấp Biển
Đông, Việt Nam và Philippines, mà thật ra là cả các nước ASEAN khác, đương
nhiên có động cơ rất mạnh về việc phải được Mỹ ủng hộ để chống lại Trung
Quốc. Trong những năm qua, Hà Nội và Manila đã tìm kiếm sự giúp đỡ bên ngoài
và vận động Washington tham gia vào việc mở rộng hơn bao giờ hết quan hệ quân
sự cũng như ngoại giao và kinh tế, với những trao đổi về quốc phòng, thăm
cảng hải quân của nhau, tập trận chung, và mua sắm trang thiết bị của Mỹ. Đặc
biệt, Manila đã tìm cách có được những cam kết vững chắc từ phía Washington,
liên quan đến nghĩa vụ của Washington trong hiệp ước phòng thủ chung ký năm
1951, đề phòng trường hợp Philippines có xung đột quân sự với Trung Quốc.
|
This presents serious challenges for the Barack Obama
administration - not least how to manage China's rise and not be entrapped in
the territorial disputes in the South China Sea. The administration's
"pivoting" or "rebalancing" to East Asia is clearly
driven by its geo-strategic calculations against the changing power relations
in the region. But this hedging does not preclude engaging China and
certainly does not preordain direct confrontation between the world's two
largest powers.
|
Điều này đem đến những thách thức nghiêm trọng cho chính
quyền Barack Obama – việc quan trọng là phải làm sao kiểm soát được sự trỗi
dậy của Trung Quốc và không bị sa vào tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.
Chính sách “chuyển hướng ưu tiên” hay “tái lập thế cân bằng” về Đông Á rõ
ràng có động cơ xuất phát từ những tính toán địa chiến lược nhằm đương đầu
với những thay đổi trong quan hệ giữa các siêu cường ở khu vực. Nhưng biện
pháp tự bảo hiểm này không loại trừ việc kéo Trung Quốc vào và chắc chắn
không định trước là sẽ có đối đầu trực tiếp giữa hai siêu cường lớn nhất thế
giới.
|
Clearly, the right approach for Washington is to remain
impartial while encouraging dialogue among the claimant parties. To
strengthen its own case in maritime navigation, the US has to seriously consider
its legal status within the framework of UNCLOS. But most importantly,
Washington and Beijing need to discuss and/or implement existing and new
bilateral mechanisms to manage and prevent future incidents at sea that could
drag the two navies into open conflict. The next round of Strategic and
Economic Dialogue may be the right platform to begin serious discussion.
|
Rõ ràng, cách tiếp cận đúng đắn cho Washington là duy trì
thái độ không thiên vị (không đứng về bên nào), trong khi vẫn khuyến khích
đối thoại giữa các nước có yêu sách chủ quyền. Để phát triển hoạt động hàng
hải của chính mình, Mỹ phải xem xét một cách nghiêm túc địa vị pháp lý của họ
trong khuôn khổ UNCLOS (hiện giờ Mỹ chưa tham gia UNCLOS – ND). Nhưng quan
trọng nhất là, Washington và Bắc Kinh cần thảo luận và/hoặc thực thi những cơ
chế song phương mới, hoặc cơ chế đang hiện hành, để kiểm soát và ngăn chặn
các vụ việc xảy ra trên biển trong tương lai, vốn dĩ có thể kéo hải quân hai
nước vào xung đột công khai. Vòng tiếp theo của Đối thoại về Chiến lược và
Kinh tế có thể sẽ là nền tảng tốt để đôi bên bắt đầu thảo luận nghiêm túc.
|
Proper management and eventual resolution of the
territorial disputes in the South China Sea requires both bilateral (China
vis-a-vis its key claimant states and US-China) and multilateral efforts
(ASEAN Regional Forum, ASEAN plus one, plus three, East Asia Summit) for
crisis management, conflict control, and confidence building. None is easy
and requires strategic vision and diplomacy, which are in critical demands at
a time of rising nationalism, leadership transition, and the growing
importance of maritime resources for national economic development.
|
Quản lý một cách phù hợp và đưa ra giải pháp chung cuộc
cho tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông đòi hỏi các nỗ lực cả song phương
(Trung Quốc với các nước có yêu sách chủ quyền khác, Trung Quốc với Mỹ) và đa
phương (Diễn đàn Khu vực ASEAN, ASEAN+1, ASEAN+3, Hội nghị Thượng đỉnh Đông
Á), để kiểm soát khủng hoảng, xung đột, và xây dựng niềm tin. Chẳng có việc
gì dễ dàng, việc nào cũng đòi hỏi tầm ngoại giao và tầm nhìn chiến lược – là
những yếu tố đang rất cần thiết trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc gia tăng,
chuyển giao lãnh đạo (ở Trung Quốc), và các nguồn tài nguyên biển thì có tầm
quan trọng ngày càng lớn đối với công
cuộc phát triển kinh tế quốc dân.
|
Dr Jingdong Yuan is
Acting Director of the Center for International Security Studies and an
Associate Professor at the Department of Government and International
Relations, University of Sydney.
|
Tiến sỹ Jingdong
Yuan là quyền giám đốc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Quốc tế, Giáo sư tại khoa
Chính quyền và Quan hệ Quốc tế, Đại học Sydney.
|
|
|
|
Translated by Thủy Trúc
|
|
|
http://www.atimes.com/atimes/China/ND28Ad01.html
|
Subscribe to:
Posts (Atom)