PHILOSOPHY FOR LIFE
Be patient
Be openminded
Smile often
Savor special moments
|
TRIẾT LÝ SỐNG
Hãy kiên nhẫn
Hãy nhìn xa trông rộng Hãy thường xuyên mỉm cười Giữ lấy những khoảnh khắc đặc biệt |
Make new friends
Rediscover old ones
Tell them that you love them
And when you love them
Feel it deeply
|
Hãy kết bạn mới
Và tái khám phá những người bạn cũ Nói với họ rằng bạn yêu họ Và khi bạn yêu họ Hãy cảm nhận tình yêu sâu sắc |
Ignore worries
Forget problems
Pardon enemies
Keep promises
|
Hãy bỏ mặc lo toan
Hãy quên bao vấn đề
Hãy tha thứ cừu thù
Và giữ trọn lời hứa |
If you get more than one chance, try again
Prize your good ideas
|
Nếu bạn nhận được nhiều hơn một cơ hội, hãy thử lại lần nữa
Hãy tưởng thưởng cho những ý tưởng tốt của bạn |
Try not to make mistakes
And if you do, learn from them
|
Cố gắng không phạm sai lầm
Và nếu đã sai rồi, hãy học hỏi từ những điều sai |
Be crazy
Appreciate miracles when they happen
|
Hãy cuồng nhiệt
Hãy biết ơn phép mầu đã đến với bạn |
Notice where the sun is in the sky
Listen to the rain
Watch for rainbows and falling stars
Look for the beauty around you
|
Hãy xem mặt trời ở đâu trên bầu trời
Lắng nghe mưa rơi Hãy ngắm cầu vồng và những ngôi sao băng Hãy tìm kiếm cái đẹp xung quanh bạn |
Smile with your heart
Confide in others
Give to others
Be gentle with others, always
|
Hãy cười vui, cởi mở tấm lòng
Hãy tin cậy mọi người Và trao tặng cho đời
Hãy dịu dàng với người, nên luôn thế
|
Hope
Desire
Grow
Work hard
|
Hãy hy vọng
Hãy khát khao Hãy vươn lên Hãy cố gắng |
Be yourself
|
Hãy là chính mình
|
Be understanding, when it’s needed
Have confidence in life
Have faith
Comfort a friend
Have confidence in yourself
Enjoy Life
Translated by nguyenquang
|
Hãy cảm thông, khi cần thông cảm
Hãy tin yêu cuộc sống Hãy trung thành Và biết ủi an bè bạn Hãy tin vào chính mình Mà tận hưởng cuộc sống
Hue – Jan-2011
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Friday, January 21, 2011
PHILOSOPHY FOR LIFE - TRIẾT LÝ SỐNG
A Rose for Emily - Bông Hồng Cho Emily - William Faulkner
Tải mp3 để nghe bản tiếng Anh.
Click here to download the Audiobook.
AUDIO
A Rose for Emily William Faulkner | Bông Hồng Cho Emily William Faulkner |
I When Miss Emily Grierson died, our whole town went to her funeral: the men through a sort of respectful affection for a fallen monument, the women mostly out of curiosity to see the inside of her house, which no one save an old man-servant—a combined gardener and cook—had seen in at least ten years. | 1 Khi cô Emily Grierson chết, cả tỉnh chúng tôi đi dự đám tang; đàn ông thì vì lòng quí mến một thứ gì cổ kính đã sụp đổ; còn đàn bà thì hầu hết là vì tính hiếu kì muốn dòm ngó phía trong nhà cô, ít ra cũng đã mười năm không ai được đặt chân tới, trừ ông lão bộc vừa là người đầu bếp, vừa là người làm vườn.
|
It was a big, squarish frame house that had once been white, decorated with cupolas and spires and scrolled balconies in the heavily lightsome style of the seventies, set on what had once been our most select street. But garages and cotton gins had encroached and obliterated even the august names of that neighborhood; only Miss Emily's house was left, lifting its stubborn and coquettish decay above the cotton wagons and the gasoline pumps—an eyesore among eyesores. And now Miss Emily had gone to join the representatives of those august names where they lay in the cedar-bemused cemetery among the ranked and anonymous graves of Union and Confederate soldiers who fell at the battle of Jefferson. | Đây là một toà nhà bằng gỗ to lớn vuông vắn, trước kia đã có lần sơn trắng. Toà nhà đó với đường mái cong, với những chóp nhọn hoắt, với những bao lơn cuốn vòng theo đúng lối kiến trúc thanh kỳ của những năm 70, toạ lạc tại một khu phố sang trọng nhất nước kia. Nhưng rồi thì những nhà sửa xe, những nhà máy cán bông lấn dần và xoá mờ ngay cả những danh hiệu cổ kính của khu phố, chỉ còn trơ lại có nhà cô Emily vẫn ngạo nghễ vươn lên với dáng suy tàn mà đỏng đảnh giữa đám xe goòng chở bông và những trạm sơn băng, đúng là một cảnh trướng mắt giữa những cảnh trướng mắt khác. Và giờ đây, cô Emily đã nối gót theo những đại diện của hai danh hiệu cổ kính ấy vào nằm trong nghĩa trang dưới bóng tùng vi vu, giữa những dãy mồ vô danh của các Hợp chủng miền Bắc và Liên Quân miền Nam đã gục ngã trên chến trường Jefferson.
|
Alive, Miss Emily had been a tradition, a duty, and a care; a sort of hereditary obligation upon the town, dating from that day in 1894 when Colonel Sartoris, the mayor—he who fathered the edict that no Negro woman should appear on the streets without an apron—remitted her taxes, the dispensation dating from the death of her father on into perpetuity. Not that Miss Emily would have accepted charity. Colonel Sartoris invented an involved tale to the effect that Miss Emily's father had loaned money to the town, which the town, as a matter of business, preferred this way of repaying. Only a man of Colonel Sartoris' generation and thought could have invented it, and only a woman could have believed it. | Lúc sinh thời, cô Emily là một truyền thống, một nghĩa vụ, một lo âu, một thứ đảm phụ thế truyền vào năm 1894 đè nặng lê cả tỉnh kể từ ngày viên đại tá thị trưởng Sartoris, người đã ban hành điều luật cấm các phụ nữa da đen ra phố nếu không quấn tạp dề, đã miễn hẳn mọi khoản thuế cho cô. Việc xá thuế này được tính từ ngày cha cô qua đời, và có hiệu lực vĩnh viễn. Không phải là cô Emily sẽ mang tiếng chịu nhận cứu trợ. Đại tá Sartoris đã bịa ra một câu chuyện loanh quanh là trước đây thân phụ cô Emily đã cho tỉnh vay tiền, và như vậy theo lẽ sòng phẳng thường tình, tỉnh mới tìm cách trả nợ như thế. Chỉ có người thuộc cùng thế hệ và với tầm kiến thức như đại tá Sartoris mới có thể bịa ra câu chuyện tương tự, mà cũng chỉ có phụ nữ mới tin được chuyện đó.
|
When the next generation, with its more modern ideas, became mayors and aldermen, this arrangement created some little dissatisfaction. On the first of the year they mailed her a tax notice. February came, and there was no reply. They wrote her a formal letter, asking her to call at the sheriff's office at her convenience. A week later the mayor wrote her himself, offering to call or to send his car for her, and received in reply a note on paper of an archaic shape, in a thin, flowing calligraphy in faded ink, to the effect that she no longer went out at all. The tax notice was also enclosed, without comment. | Khi thế hệ sau với tư tưởng mới mẻ hơn lên làm thị trưởng, làm hội viên hàng tỉnh thì việc thu xếp như vậy đã gây ra ít nhiều điều bất bình. Vào ngày đầu năm, họ gửi giấy báo thuế cho cô. Sang tháng hai rồi mà cũng chẳng nhận được hồi âm. Họ bèn gửi tới cô một công văn chính thức yêu cầu cô lúc nào thuận tiện hãy tới văn phòng ông quận trưởng viết giấy đề nghị là sẽ đến nhà cô hoặc là đánh xe tới đón cô. Ông nhận được thư trả lời viết trên một khổ giấy cổ lỗ, tuồng chữ trôi chảy, nhỏ xíu, nét mực mờ mờ. Thư đáp rằng cô sẽ chẳng bao giờ ra khỏi nhà, giấy bào thuế gửi hoàn không một lời giải thích.
|
They called a special meeting of the Board of Aldermen. A deputation waited upon her, knocked at the door through which no visitor had passed since she ceased giving china-painting lessons eight or ten years earlier. They were admitted by the old Negro into a dim hall from which a stairway mounted into still more shadow. It smelled of dust and disuse—a close, dank smell. The Negro led them into the parlor. It was furnished in heavy, leather-covered furniture. When the Negro opened the blinds of one window, they could see that the leather was cracked; and when they sat down, a faint dust rose sluggishly about their thighs, spinning with slow motes in the single sun-ray. On a tarnished gilt easel before the fireplace stood a crayon portrait of Miss Emily's father. | Họ triệu tập một phiên hội đồng hàng tỉnh bất thường. Một toán đại diện được cử đến nhà cô, họ gõ cửa, cánh cửa đã tám năm hay mười năm nay không một người khách nào lọt qua, kể từ ngày cô thôi không dạy vẽ hình trên đồ sứ nữa. Người lão bộ da đen ra mở cửa, họ vào một hành lang tôi tối, nơi đây có một cầu thang hun hút đưa lên một chỗ còn tối tăm hơn nữa. Thoang thoảng có mùi bụi và mùi mốc, một thứ mùi bưng bít ẩm ướt. Người lão bộ da đen dẫn họ vào phòng khách: đồ đạc chắc nịch, ghế có bọc da. Khi người da đen kéo cái màn ở một cửa sổ ra họ nhìn thấy mặt da ghế đã rạn nứt. Đến lúc họ ngồi xuống thì một đám bụi mỏng uể oải bốc lên quanh đùi họ. Trên một cái giá vẽ mạ véc ni đã xạm màu đặt trước lò sưởi có bức chân dung thân phụ cô Emily vẽ bằng chì than.
|
They rose when she entered—a small, fat woman in black, with a thin gold chain descending to her waist and vanishing into her belt, leaning on an ebony cane with a tarnished gold head. Her skeleton was small and spare; perhaps that was why what would have been merely plumpness in another was obesity in her. She looked bloated, like a body long submerged in motionless water, and of that pallid hue. Her eyes, lost in the fatty ridges of her face, looked like two small pieces of coal pressed into a lump of dough as they moved from one face to another while the visitors stated their errand. | Họ đứng dậy khi cô Emily vào, người cô thấp và mập bận đồ đen, đeo một dây chuyền mảnh bằng vàng xệ tới bụng buông lẫn vào trong dây lưng. Cô chống một cây gậy gỗ mun có tay cầm bịt vàng đã xạm mày. Cốt cách cô mảnh nhỏ, vì vậy vẻ mập mạp đó với người khác là khoẻ mạnh nhưng với cô chỉ là béo bệu mà thôi. Trông cô trương phù lên như một xác chết lâu ngày ngâm trong vũng nước tù, màu da lờn lợt. Cặp mắt cô chìm lẫn dưới những nếp nhăn bệu mỡ trông tựa hai mẩu than nhận chìm trên tấm bánh bột phồng, cặp mắt đưa đẩy lần lượt ngó vào mặt từng người trong khi họ bày tỏ lý do đến nhà cô |
|
|
She did not ask them to sit. She just stood in the door and listened quietly until the spokesman came to a stumbling halt. Then they could hear the invisible watch ticking at the end of the gold chain. Her voice was dry and cold. "I have no taxes in Jefferson. Colonel Sartoris explained it to me. Perhaps one of you can gain access to the city records and satisfy yourselves." "But we have. We are the city authorities, Miss Emily. Didn't you get a notice from the sheriff, signed by him?" "I received a paper, yes," Miss Emily said. "Perhaps he considers himself the sheriff… I have no taxes in Jefferson." "But there is nothing on the books to show that, you see. We must go by the—" "See Colonel Sartoris. I have no taxes in Jefferson." "But, Miss Emily—" "See Colonel Sartoris." (Colonel Sartoris had been dead almost ten years.) "I have no taxes in Jefferson. Tobe!" The Negro appeared. "Show these gentlemen out." | Cô chẳng buồn mời họ ngồi. Cô cứ đứng sững nơi ngưỡng cửa, im lặng nghe cho đến khi một người trong bọn họ dứt lời. Lúc đó họ nghe tích tắc của cái đồng hồ khuất nẻo nơi đầu sợi dây chuyền vàng của cô. Cô cất giọng khô khan lạnh lẽo: - Nhưng mà chúng tôi đã làm việc đó rồi. Chúng tôi là nhân viên toà thị chính mà, thưa cô. Cô không nhận được một giấy báo thuế do ông quận trưởng ký gửi sao? - Không thấy sổ sách nào ghi như vậy cả, cô hiểu cho chúng tôi phải... |
| |
II So she vanquished them, horse and foot, just as she had vanquished their fathers thirty years before about the smell. That was two years after her father's death and a short time after her sweetheart—the one we believed would marry her—had deserted her. After her father's death she went out very little; after her sweetheart went away, people hardly saw her at all. A few of the ladies had the temerity to call, but were not received, and the only sign of life about the place was the Negro man—a young man then—going in and out with a market basket. | 2 Như vậy là cô đã chế ngự được họ, đúng như cô đã thắng cả những bậc cha chú của họ, ba mươi năm về trước đối với cái mùi hôi thối phát ra tự nhà cô. Vụ này xảy ra hai năm sau khi thân phụ cô mất, ít lâu sau khi người tình của cô bỏ đi nơi khác, một người mà chúng tôi ai cũng nghĩ là sẽ cưới cô làm vợ. Sau khi thân phụ cô mất, ít khi cô ra ngoài; và khi người tình bỏ cô mà ra đi, khó có ai thấy được mặt cô. Có một vài bà táo gan dám liều đến thăm cô, nhưng họ không được cô tiếp, dấu hiệu sinh hoạt duy nhất nơi cô ở là người đàn ông da đen - thuở đó ông ta còn trẻ - cắp làn chợ, đi đi về về.
|
"Just as if a man—any man—could keep a kitchen properly," the ladies said; so they were not surprised when the smell developed. It was another link between the gross, teeming world and the high and mighty Griersons. A neighbor, a woman, complained to the mayor, Judge Stevens, eighty years old. "But what will you have me do about it, madam?" he said. "Why, send her word to stop it," the woman said. "Isn't there a law?" "I'm sure that won't be necessary," Judge Stevens said. "It's probably just a snake or a rat that nigger of hers killed in the yard. I'll speak to him about it." The next day he received two more complaints, one from a man who came in diffident deprecation. "We really must do something about it, Judge. I'd be the last one in the world to bother Miss Emily, but we've got to do something." That night the Board of Aldermen met—three graybeards and one younger man, a member of the rising generation. | - " Bất kỳ một người dàn ông nào trông nom bếp nước đều như thế cả!" . Các bà tán với nhau như vậy, nên chẳng ai ngạc nhiên khi có mùi hôi thối phát ra, thế là có một mối liên quan mới giữa đám người đông đảo, thô kệch với giòng họ Grierson cao cả và hiển hách. Một bà láng giềng của cô tìm đến phàn nàn với ông thị trưởng là vị thẩm phán tám mươi tuổi Stevens. - Bà bảo tôi làm thế nào bây giờ? - Ông thị trưởng hỏi. - Khó gì, ông thị trưởng cứ việc ra lệnh bắt phải chặn đứng cái đó lại. Không còn luật pháp gì nữa sao? - Tôi chắc là chẳng cần đến như thế - Ông thẩm phán nói - hẳn đây chỉ là con rắn hay con chuột mà anh chàng da đen đập chết ở trong sân nhà mà thôi. Để tôi bảo hắn. - Đã đến lúc bắt buộc phải làm một cái gì, ông thẩm phán ạ. Bất đắc dĩ lắm tôi mới phải tính đến chuyện quấy rầy cô Emily, nhưng quả thật đã đến lúc chúng ta phải làm một cái gì. Tối hôm ấy, hội đồng thành phố họp: ba người đứng tuổi và một thanh niên, một nhân vật của thế hệ đang lên.
|
"It's simple enough," he said. "Send her word to have her place cleaned up. Give her a certain time to do it in, and if she don't . . ." "Dammit, sir," Judge Stevens said, "will you accuse a lady to her face of smelling bad?" So the next night, after midnight, four men crossed Miss Emily's lawn and slunk about the house like burglars, sniffing along the base of the brickwork and at the cellar openings while one of them performed a regular sowing motion with his hand out of a sack slung from his shoulder. They broke open the cellar door and sprinkled lime there, and in all the outbuildings. As they recrossed the lawn, a window that had been dark was lighted and Miss Emily sat in it, the light behind her, and her upright torso motionless as that of an idol. They crept quietly across the lawn and into the shadow of the locusts that lined the street. After a week or two the smell went away. | - Giản dị lắm - chàng thanh niên nói - bảo cô phải tẩy uế nhà cửa. Hạn cho cô một thời gian, nếu không thì... - Trời đất, thưa ông bạn - lời ông thẩm phán Stevens - liệu ông có thể sỗ sàng nói thẳng vào mặt một phụ nữ rằng người bà ta hôi hám sao? Thế rồi đêm hôm sau vào lúc quá nửa đêm, bốn người đàn ông băng qua sân cỏ nhà cô Emily, lén vào như bọn ăn trộm, họ đánh hơi dọc cái hầm nhà xây gạch, theo những cửa thông hơi phía trên hầm, đồng thời một người thọc tay vào bao tải đeo trên lưng, rồi vung tay ra đều đặn hệt như người gieo mạ. Họ đẩy cửa hầm, đi vào trong, rắc vôi bột, rắc cả những gian nhà phụ bên ngoài. Khi họ trở ra, cũng lại băng qua sân cỏ, thì thấy một khung cửa sổ lúc trước tối, bây giờ có ánh sáng, và họ thấy cô Emily ngồi đó trước ánh dèn, cô ngồi thẳng im lìm như một pho tượng. Họ lặng lẽ bò qua sân cỏ, lẩn vào bóng những hàng cây dạ hợp trồng dọc theo hè phố. Một hai tuần sau thì mùi hôi thối không còn.
|
That was when people had begun to feel really sorry for her. People in our town, remembering how old lady Wyatt, her great-aunt, had gone completely crazy at last, believed that the Griersons held themselves a little too high for what they really were. None of the young men were quite good enough for Miss Emily and such. We had long thought of them as a tableau; Miss Emily a slender figure in white in the background, her father a spraddled silhouette in the foreground, his back to her and clutching a horsewhip, the two of them framed by the back-flung front door. So when she got to be thirty and was still single, we were not pleased exactly, but vindicated; even with insanity in the family she wouldn't have turned down all of her chances if they had really materialized. | Chừng đó mọi người mới thấy thương hại cô. Dân trong tỉnh lại nhớ đến bà cụ Wyatt, bà cô của cô ta, sau cùng đã thực sự phát điên vì nhận ra là giòng họ Grierson đã tự đề cao hơi quá lố. Không một chàng trai tráng nào khả dĩ có thể xứng hợp với cô Emily. Chúng tôi thường hình dung những nhân vật trong dòng họ cô như những hình trên một bức ảnh - phía trong cùng là cô Emily mặc đồ trắng, dáng mảnh mai, phía trước là cha cô, xây lưng lại phía cô, hai chân dang ra, tay lăm lăm chiếc roi ngự, cả hai nổi bật trong khung cửa mặt tiền. Vì vậy khi cô vừa ba chục tuổi xuân mà vẫn chưa chồng, chúng tôi đúng ra nào có sung sướng gì, nhưng cũng cảm thấy được hả giận. Ngay cả khi có chứng điên trong gia đình, cô cũng chẳng bỏ lỡ tất cả những cơ hội may mắn nếu quả những cơ hội đó có đến thật.
|
When her father died, it got about that the house was all that was left to her; and in a way, people were glad. At last they could pity Miss Emily. Being left alone, and a pauper, she had become humanized. Now she too would know the old thrill and the old despair of a penny more or less. | Khi thân phụ cô qua đời, người ta đồn rằng tất cả của cải để lại cho cô chỉ còn căn nhà đó, dân chúng về một phương diện nào đó có vẻ bằng lòng. Bây giờ thì họ có thể rủ lòng thương hại cuộc đời cô được rồi. Bị bỏ lại trong cô độc và nghèo nàn lúc ấy cô mới thấm thía nhân tình, lúc ấy cô mới hiểu thế nào là niềm vui hoặc nỗi buồn của một đồng xu kiếm được hoặc mất đi. |
|
|
The day after his death all the ladies prepared to call at the house and offer condolence and aid, as is our custom. Miss Emily met them at the door, dressed as usual and with no trace of grief on her face. She told them that her father was not dead. She did that for three days, with the ministers calling on her, and the doctors, trying to persuade her to let them dispose of the body. Just as they were about to resort to law and force, she broke down, and they buried her father quickly. | Sau hôm thân phụ cô mất tất cả các bà đều sẵn sàng qua nhà cô để phân ưu và giúp đỡ theo thông lệ. Cô Emily tiếp họ ở cửa, cô ăn bận như ngày thường, tuyệt không một nét buồn rầu thoáng hiện, cô bảo các bà là thân phụ cô không chết. Cô cũng đã nói như vậy ba ngày liên tiếp với các mục sư đến viếng, với các y sĩ đến thuyết phục cô để lo liệu cho xác chết. Mãi đến lúc họ định dựa vào pháp luật để cưỡng bách cô thì cô mới nhượng bộ, và họ vội vàng chôn cất cha cô. |
|
|
|
|
We did not say she was crazy then. We believed she had to do that. We remembered all the young men her father had driven away, and we knew that with nothing left, she would have to cling to that which had robbed her, as people will. | Chúng tôi không cho là cô điên. Chúng tôi nghĩ là cô chẳng thể nào làm khác được, chúng tôi nhớ tới những chàng trai trẻ mà thân phụ cô đã xua đuổi đi, và chúng tôi hiểu giờ đây cô thấy chẳng còn có gì, nên phải bám víu lấy cái đã tước đoạt mọi thứ nơi cô như mọi người vẫn thường làm thế.... |
| |
III She was sick for a long time. When we saw her again, her hair was cut short, making her look like a girl, with a vague resemblance to those angels in colored church windows—sort of tragic and serene. | 3. |
The town had just let the contracts for paving the sidewalks, and in the summer after her father's death they began the work. The construction company came with niggers and mules and machinery, and a foreman named Homer Barron, a Yankee—a big, dark, ready man, with a big voice and eyes lighter than his face. The little boys would follow in groups to hear him cuss the niggers, and the niggers singing in time to the rise and fall of picks. Pretty soon he knew everybody in town. Whenever you heard a lot of laughing anywhere about the square, Homer Barron would be in the center of the group. Presently we began to see him and Miss Emily on Sunday afternoons driving in the yellow-wheeled buggy and the matched team of bays from the livery stable. | Thành phố vừa ký những hợp đồng lát đá các lề đường, và mùa hè sau năm thân phụ cô mất, người ta khởi công. Hãng thầu tới đem theo bọn phu da đen với những con la và máy móc. Có gã đốc công tên là Homer Barron, dân Bắc Mỹ, vạm vỡ da ngăm tính tình cương quyết, tiếng nói oang oang, với cặp mắt sáng hơn màu da mặt. Lũ trẻ con xúm nhau đi theo nghe gã nhiếc mắng bọn da đen và nghe bọn này cất tiếng hát theo nhịp cuốc. Chẳng bao lâu gã quen khắp mặt trong tỉnh. Cứ mỗi khi nghe tiếng cười ran ở đâu là y như có gã Homer Barron giữa đám nới đó rồi. Thời gian này, vào những chiều chủ nhật, chúng tôi bắt đầu thấy gã và cô Emily ngồi trên chiếc xe ngựa thuê không mui hai chỗ, bánh màu vàng đóng cặp ngựa hồng. |
|
|
At first we were glad that Miss Emily would have an interest, because the ladies all said, "Of course a Grierson would not think seriously of a Northerner, a day laborer." But there were still others, older people, who said that even grief could not cause a real lady to forget noblesse oblige—without calling it noblesse oblige. They just said, "Poor Emily. Her kinsfolk should come to her." She had some kin in Alabama; but years ago her father had fallen out with them over the estate of old lady Wyatt, the crazy woman, and there was no communication between the two families. They had not even been represented at the funeral. | Thoạt nhìn, chúng tôi lấy làm hoan hỉ khi thấy cô Emily đã có được niềm vui sống, bởi các bà đều bàn tán: - Dĩ nhiên là con gái dòng họ Grierson chẳng thể cặp bồ với một anh chàng người miền Bắc, kẻ làm công nhật được. - Tội nghiệp cho Emily. Thân quyến cô sẽ phải đến với cô. Cô có một số thân quyến ở Alabama, nhưng mấy năm trước, thân phụ cô đã xích mích với họ về việc kế thừa tài sản của bà Wyatt, một bà cụ điên, vì vậy mà hai gia đình cắt đứt liên lạc với nhau. Chẳng một ai ở gia đình bên kia đến phúng điếu nữa.
|
And as soon as the old people said, "Poor Emily," the whispering began. "Do you suppose it's really so?" they said to one another. "Of course it is. What else could . . ." This behind their hands; rustling of craned silk and satin behind jalousies closed upon the sun of Sunday afternoon as the thin, swift clop-clop-clop of the matched team passed: "Poor Emily." | Rồi chẳng bao lâu các bà lại chép miệng: Rồi họ thì thào hỏi nhau: Kẻ tán vào thì bảo: - Dĩ nhiên là thế. Còn gì bằng... Những lời đàm tiếu đó thốt ra sau những bàn tay che miệng, phía sau những màn lụa và sa tanh, bên trong những bức mành che nắng, được sột soạt cuộn lén vào những chiều chủ nhật khi vừa có tiếng clop clop clop của cặp ngựa hồng lanh lẹ lướt qua. "Tội nghiệp cho Emily." |
|
|
She carried her head high enough—even when we believed that she was fallen. It was as if she demanded more than ever the recognition of her dignity as the last Grierson; as if it had wanted that touch of earthiness to reaffirm her imperviousness. Like when she bought the rat poison, the arsenic. That was over a year after they had begun to say "Poor Emily," and while the two female cousins were visiting her. | Cô vẫn ngẩng cao đầu - ngay cả khi chúng tôi cho rằng cô thật thế - Có thể nói hơn bao giờ hết cô đòi mọi người phải công nhận cái phẩm cách của cô như một người cuối cùng trong giòng họ Grierson dường như chính cái vẻ tầm thường ấy tái xác nhận nhân cách bất khả xâm phạm của cô. Ví như hôm cô đi mua thuốc giệt chuột, chất nhân ngôn. Đó là việc xảy ra hơn một năm sau lời thốt thương hại " Tội nghiệp cho Emily" của thiên hạ, vào thời gian hai người chị họ cô đến chơi ở nhà, cô bảo với người bán thuốc: |
"I want some poison," she said to the druggist. She was over thirty then, still a slight woman, though thinner than usual, with cold, haughty black eyes in a face the flesh of which was strained across the temples and about the eyesockets as you imagine a lighthouse-keeper's face ought to look. "I want some poison," she said. | - Tôi muốn mua độc dược. Năm ấy cô ngoài ba chục. Người cô vẫn mảnh mai tuy có gầy hơn thường lệ, cặp mắt đen láy của cô lạnh lùng, ngạo mạn trên một khuôn mặt mà da thịt căng xếch tới thái dương bao quanh hai quầng mẳt trông tựa khuôn mặt của kẻ gác hải đăng |
|
|
"Yes, Miss Emily. What kind? For rats and such? I'd recom—" "I want arsenic." | - Vâng được, cô Emily, loại nào thưa cô? Cho chuột hay giống vật nào khác? Theo như tôi biết thì... - Tôi muốn thứ mạnh nhất mà nhà hàng có. Bất cứ loại nào. Người bán thuốc nêu một số rồi nói: |
The druggist looked down at her. She looked back at him, erect, her face like a strained flag. "Why, of course," the druggist said. "If that's what you want. But the law requires you to tell what you are going to use it for." | Người bán thuốc nhìn cô, cô nhìn lại ông ta, đứng thẳng người, mặt như là cờ căng gió. |
|
|
Miss Emily just stared at him, her head tilted back in order to look him eye for eye, until he looked away and went and got the arsenic and wrapped it up. The Negro delivery boy brought her the package; the druggist didn't come back. When she opened the package at home there was written on the box, under the skull and bones: "For rats." | Cô Emily chỉ nhìn chằm chằm vào mặt ông ta, đầu cô ngả ra phía sau, mắt dán vào ông ta đến nỗi ông phải quay lưng đi rồi lấy thạch tín gói lại. Một chú bé giao hàng người da đen mang gói thạch tín đến cho cô; người bán thuốc không ra nữa. Khi về đến nhà, cô mở gói thì thấy trên cái hộp, hình sọ người và hai xương ống bắt chéo, hàng chữ "Dùng cho chuột" |
| |
IV So the next day we all said, "She will kill herself"; and we said it would be the best thing. When she had first begun to be seen with Homer Barron, we had said, "She will marry him." Then we said, "She will persuade him yet," because Homer himself had remarked—he liked men, and it was known that he drank with the younger men in the Elks' Club—that he was not a marrying man. Later we said, "Poor Emily" behind the jalousies as they passed on Sunday afternoon in the glittering buggy, Miss Emily with her head high and Homer Barron with his hat cocked and a cigar in his teeth, reins and whip in a yellow glove. | 4. |
|
|
Then some of the ladies began to say that it was a disgrace to the town and a bad example to the young people. The men did not want to interfere, but at last the ladies forced the Baptist minister—Miss Emily's people were Episcopal—to call upon her. He would never divulge what happened during that interview, but he refused to go back again. The next Sunday they again drove about the streets, and the following day the minister's wife wrote to Miss Emily's relations in Alabama. | Rồi thì có vài bà nghĩ đó là điều xỉ nhục cho cả tỉnh, làm gương xấu cho giới trẻ. Bọn đàn ông thì không muốn can dự đến; nhưng sau cùng các bà ép mục sư giáo phái Baptist - gia đình cô Emily theo giáo phái Episcopal - đến tiếp xúc với cô. Mục sư không tiết lộ những gì đã xảy ra trong cuộc tiếp xúc ấy, nhưng từ khước không trở lại nhà cô nữa. Ngày chủ nhật sau đó, họ lại đánh xe đi với nhau ở ngoài phố, và hôm sau thì bà vợ ông mục sư biên thư cho thân quyến cô Emily ở Alabama. |
|
|
So she had blood-kin under her roof again and we sat back to watch developments. At first nothing happened. Then we were sure that they were to be married. We learned that Miss Emily had been to the jeweler's and ordered a man's toilet set in silver, with the letters H. B. on each piece. | Thế là trong nhà cô lại có thân quyến tới ở, và chúng tôi ngồi chờ xem diễn biến, Thoạt thì chẳng thấy gì hết. Sau rồi chúng tôi yên chí là họ sắp sửa lấy nhau. Kế đó chúng tôi được tin là cô Emily đã tới hiệu kim hoàn đặt một bộ trang sức cho nam giới bằng bạc có khắc hai chữ đầu H.B ở mỗi món đồ. |
Two days later we learned that she had bought a complete outfit of men's clothing, including a nightshirt, and we said, "They are married. " We were really glad. We were glad because the two female cousins were even more Grierson than Miss Emily had ever been. | Hai hôm sau, chúng tôi lại được tin cô sắm một lô quần áo đàn ông, có cả áo ngủ, và chúng tôi kết luận: "Họ lấy nhau thật rồi" . Chúng tôi rất mừng. Mừng là vì hai cô chị họ còn điệu bộ Grierson hơn cả cô Emily nữa. |
So we were not surprised when Homer Barron—the streets had been finished some time since—was gone. We were a little disappointed that there was not a public blowing-off, but we believed that he had gone on to prepare for Miss Emily's coming, or to give her a chance to get rid of the cousins. (By that time it was a cabal, and we were all Miss Emily's allies to help circumvent the cousins.) Sure enough, after another week they departed. And, as we had expected all along, within three days Homer Barron was back in town. A neighbor saw the Negro man admit him at the kitchen door at dusk one evening. | Thế nên chúng tôi không ngạc nhiên khi thấy Homer Barron - lề đường phố khi đó lát đã xong được ít lâu rồi - bỏ đi. Chúng tôi hơi thất vọng là chẳng có cuộc vui chung nào, nhưng chúng tôi tin rằng gã ra đi để sửa soạn đón cô Emily, hay để cô có cơ hội thuận tiện tống khứ được hai người chị họ đi. Vào thời gian ấy quả là chúng tôi đã hùa nhau, đứng về phe cô Emily, giúp cô mưu kế để đẩy cho bằng được hai cô chị họ kia. Có điều khá chắc chắn là trong vòng một tuần lễ cả hai người chị họ đều ra đi. Và đúng như chúng tôi trông chờ, chưa đầy ba ngày, Homer Barron trở lại thành phố, Ngưòi láng giềng của cô trông thấy anh hầu da đen để gã vào lối cửa bếp một buổi nọ lúc trời nhá nhem tối.
|
And that was the last we saw of Homer Barron. And of Miss Emily for some time. The Negro man went in and out with the market basket, but the front door remained closed. Now and then we would see her at a window for a moment, as the men did that night when they sprinkled the lime, but for almost six months she did not appear on the streets. Then we knew that this was to be expected too; as if that quality of her father which had thwarted her woman's life so many times had been too virulent and too furious to die. | Và đó là lần chót chúng tôi thấy Homer Barron. Rồi cả cô Emily cũng chả thấy mặt trong suốt một thời gian. Vẫn chỉ thấy anh da đen đi đi về về với cái làn đi chợ, còn cửa chính thì đóng im ỉm. Thỉnh thoảng chúng tôi trông thấy cô ở cửa sổ một lúc như tối hôm nào mấy người rắc vôi bột xung quanh nhà cô, nhưng đến gần sáu tháng trời không thấy cô xuất hiện ở ngoaì thành phố. Lúc đó chúng tôi mới ngã ngửa người ra là cũng phải dự liệu cả đến điều này nữa: dường như tính nết đó của thân phụ cô, đã quá nhiều lần mâu thuẫn với nếp sống phụ nữ của cô, nó độc địa quá, dữ dằn quá đến không thể tiêu tan đi được. |
When we next saw Miss Emily, she had grown fat and her hair was turning gray. During the next few years it grew grayer and grayer until it attained an even pepper-and-salt iron-gray, when it ceased turning. Up to the day of her death at seventy-four it was still that vigorous iron-gray, like the hair of an active man. | Khi chúng tôi gặp được cô Emily sau này, thì thấy người cô béo phệ ra, tóc cô xám thêm đến độ ngả sang màu muối tiêu, màu xám sắt thì giữ màu không đổi nữa. Cho đến ngày cô chết, vào tuổi bảy mươi tư, tóc cô vẫn giữ nguyên màu xám sắt mạnh mẽ như tóc người đàn ông năng hoạt động vậy. |
|
|
From that time on her front door remained closed, save for a period of six or seven years, when she was about forty, during which she gave lessons in china-painting. She fitted up a studio in one of the downstairs rooms, where the daughters and grand-daughters of Colonel Sartoris' contemporaries were sent to her with the same regularity and in the same spirit that they were sent to church on Sundays with a twenty-five-cent piece for the collection plate. Meanwhile her taxes had been remitted. | Từ độ đó trở đi cửa nhà cô vẫn đóng chặt, trừ một thời gian khoảng sáu, bảy năm, thuở cô trạc bốn mươi, cô dạy vẽ hình trên đồ sứ. Cô thu dọn một phòng ở tầng một làm xưởng vẽ, nơi đây những con gái, cháu gái của những người đồng thời với đại tá Sartoris được gửi tới học đều đặn, cần mẫn như đi nhà thờ vào ngày chủ nhật, mang theo đồng hai mươi lăm xu để góp trong đĩa. ấy thế mà thuế má của cô được xá hết. |
Then the newer generation became the backbone and the spirit of the town, and the painting pupils grew up and fell away and did not send their children to her with boxes of color and tedious brushes and pictures cut from the ladies' magazines. The front door closed upon the last one and remained closed for good. When the town got free postal delivery Miss Emily alone refused to let them fasten the metal numbers above her door and attach a mailbox to it. She would not listen to them. | Rồi khi thế hệ trẻ trở thành cột trụ và linh hồn của thành phố, và những học trò lớp vẽ của cô lớn lên, tản lạc đi các nơi, họ cũng chẳng gửi con cái họ đến học cô, mang theo những hộp màu, những cọ sơn buồn nản và những hình cắt trong các tập san phụ nữ, cửa tiền nhà cô đóng chặt sau lưng đứa học trò cuối cùng, rồi đóng kín như thế mãi. Khi thành phố được phát thư tín miễn phí, riêng một mình cô Emily từ chối không cho họ treo bảng số trên cửa nhà, mà cũng không cho gắn hộp thư vào cửa, cô nhất thiết không chịu nghe một lời phân giải nào. |
|
|
Daily, monthly, yearly we watched the Negro grow grayer and more stooped, going in and out with the market basket. Each December we sent her a tax notice, which would be returned by the post office a week later, unclaimed. Now and then we would see her in one of the downstairs windows—she had evidently shut up the top floor of the house - like the carven torso of an idol in a niche, looking or not looking at us, we could never tell which. Thus she passed from generation to generation- dear, inescapable, impervious, tranquil, and perverse. | Ngày, tháng, năm trôi qua, chúng tôi thấy anh người làm da đen tóc thêm xạm màu, lưng thêm còng, vẫn đi đi về về với cái làn đi chợ. Cứ mỗi tháng chạp tới, chúng tôi lại gửi đến nhà cô một giấy báo thuế và sau đó một tuần nhận được giấy gửi hoàn toàn qua bưu điện, vơi mấy chữ: không người nhận. Thỉnh thoảng chúng tôi có trông thấy cô xuất hiện sau một khung cửa sổ tầng dưới- hẳn là cô đã khó kín tầng trên - như một pho tượng. Cứ như vậy cô sống trải từ thế hệ này qua thế hệ khác, cao giá, không lẩn trốn, bất khả xâm phạm, trầm tĩnh, ngang bướng. |
|
|
And so she died. Fell ill in the house filled with dust and shadows, with only a doddering Negro man to wait on her. We did not even know she was sick; we had long since given up trying to get any information from the Negro. He talked to no one, probably not even to her, for his voice had grown harsh and rusty, as if from disuse. | Và rồi cô chết. Cô lâm bệnh trong can nhà đầy bụi bặm và bóng tối với người lão bộc da đen lụm cụm hầu hạ. Chúng tôi cũng không hay là cô đau, đã từ lâu chúng tôi từ bỏ việc hỏi dò người lão bộc về cô. Lão chẳng nói với ai lời nào, chắc cả với cô cũng vậy, tiếng lão đã khàn khàn, rỉ sét bởi đã từ lâu không dùng. |
|
|
She died in one of the downstairs rooms, in a heavy walnut bed with a curtain, her gray head propped on a pillow yellow and moldy with age and lack of sunlight. | Cô chết ở một trong mấycăn phòng dưới nhà, trên cái giường nặng chịch bằng gỗ hồ đào, có tấm màn che, mái đầu tóc xám đặt trên chiếc gối màu vàng mốc meo vì lâu ngày thiếu ánh mặt trời. |
| |
V The negro met the first of the ladies at the front door and let them in, with their hushed, sibilant voices and their quick, curious glances, and then he disappeared. He walked right through the house and out the back and was not seen again. | 5. |
The two female cousins came at once. They held the funeral on the second day, with the town coming to look at Miss Emily beneath a mass of bought flowers, with the crayon face of her father musing profoundly above the bier and the ladies sibilant and macabre; and the very old men—some in their brushed Confederate uniforms—on the porch and the lawn, talking of Miss Emily as if she had been a contemporary of theirs, believing that they had danced with her and courted her perhaps, confusing time with its mathematical progression, as the old do, to whom all the past is not a diminishing road, but, instead, a huge meadow which no winter ever quite touches, divided from them now by the narrow bottleneck of the most recent decade of years. | Hai người chị họ cũng vừa tất tưởi đến viếng. Họ cho làm đám tang ngay hôm sau, và tất cả tỉnh đến viếng cô Emily nằm dưới đống hoa mới mua, chân dung thân phụ cô vẽ bằng chì than như trầm tư trên cỗ áo quan, các bà thì thầm ma quái, trên sân cỏ, trong hành lang, những cụ già - một vài cụ vận binh phục Liên Quân miền Nam chải chuốt diêm dúa tán gẫu về cô Emily, coi cô như người cùng thế hệ với mình, tin rằng mình đã có lần khiêu vũ với cô, và có lẽ đã tán tỉnh cô nữa, các cụ đã lẫn thời gian với cấp số toán học của nó, như những người già thường lẫn, đối với họ dĩ vãng không phải là con đường suy giảm dần, mà là một cánh đồng cỏ bao la mùa đông chẳng bao giờ chậm tới, ngăn cách họ bằng cái cổ chai nhỏ hẹp của mười năm vừa qua. |
Already we knew that there was one room in that region above stairs which no one had seen in forty years, and which would have to be forced. They waited until Miss Emily was decently in the ground before they opened it. | Chúng tôi vốn biết trên lầu có một căn phòng đóng kín mà đã bốn mươi năm qua không một ai biết tơí, phải phá cửa mới vào được. Người ta đợi cô Emily đã mồ yên mả đẹp mới dám phá cửa đó ra. |
|
|
The violence of breaking down the door seemed to fill this room with pervading dust. A thin, acrid pall as of the tomb seemed to lie everywhere upon this room decked and furnished as for a bridal: upon the valance curtains of faded rose color, upon the rose-shaded lights, upon the dressing table, upon the delicate array of crystal and the man's toilet things backed with tarnished silver, silver so tarnished that the monogram was obscured. Among them lay a collar and tie, as if they had just been removed, which, lifted, left upon the surface a pale crescent in the dust. Upon a chair hung the suit, carefully folded; beneath it the two mute shoes and the discarded socks. | Sức phá cửa mạnh dường như đã làm căn phòng tràn ngập bụi bặm. Tưởng như có tấm khăn phủ quan tài mỏng mùi hăng trùm khắp căn phòng được trang trí cho cô dâu chú rể: trên những tấm màn buông có riềm màu hồng bạc phếch, trên những chụp đèn màu hồng, trên cái bàn phấn, trên loạt đồ pha lê thanh nhã, trên bộ đồ trang sức của nam giới mà mặt trong bằng bạc đã xám xịt, xám đến nỗi mấy chữ viết tắt đã ám đen,. Giữa những thứ đó có một chiếc cổ cồn và chiếc cà vạt tưởng như vừa được tháo ra, và khi nhấc lên còn để lại trên mặt bàn một hình trăng lưỡi liềm mờ nhạt trên nền bụi. Trên ghế còn vắt bộ quần áo gấp nếp cẩn thận, dưới ghế là đôi giày câm nín và đôi tất chơ vơ. |
|
|
The man himself lay in the bed. For a long while we just stood there, looking down at the profound and fleshless grin. The body had apparently once lain in the attitude of an embrace, but now the long sleep that outlasts love, that conquers even the grimace of love, had cuckolded him. What was left of him, rotted beneath what was left of the nightshirt, had become inextricable from the bed in which he lay; and upon him and upon the pillow beside him lay that even coating of the patient and biding dust. Then we noticed that in the second pillow was the indentation of a head. One of us lifted something from it, and leaning forward, that faint and invisible dust dry and acrid in the nostrils, we saw a long strand of iron-gray hair. Translator: Hoàng Hữu Phê | Chính gã đàn ông đó nằm trên giường. Lúc ấy chúng tôi để ý nhận thấy trên mặt gối thứ hai còn in hằn vết lõm đầu người. Một người trong bọn tôi nhặt lên được một cái gì trên gối, và khi chúng tối cúi xuống, lớp bụi gờn gợn vô hình khô khan mùi hăng sè xông thẳng lên mũi, chúng tôi nhìn ra thì đó là một sợi tóc dài, một sợi tóc màu xám sắt.
|