MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Showing posts with label tư liệu. Show all posts
Showing posts with label tư liệu. Show all posts

Wednesday, February 16, 2011

THE BALLAD OF HO CHI MINH-BÀI CA HỒ CHÍ MINH (lời Việt)




THE BALLAD OF HO CHI MINH

(English Lyric)

BẢN BALLAD HỒ CHÍ MINH

(dịch nghĩa)

BÀI CA HỒ CHÍ MINH

(lời Việt)

Far away across the ocean,

Far beyond the sea's eastern rim,

Lives a man who is father of the Indo-Chinese people,

And his name it is Ho Chi Minh.

Ở một nơi xa xa thật xa, bên kia đại dương
Miền biển Đông xa tắp nơi chân trời
Có một người toàn dân thành kính gọi Cha già
Và người đấy là Cụ Hồ Chí Minh

Miền biển Đông, xa tắp nơi chân trời

Người dân ở đó lầm than đói nghèo

Từ đau thương Người đi khắp năm châu

Lòng tin Mặt Trời chân lý sáng soi

Rọi chiếu tới dân mình

Refrain:

Ho, Ho, Ho Chi Minh.

Ho, Ho, Ho Chi Minh.

Điệp khúc

Ho, Ho, Ho Chi Minh.

Ho, Ho, Ho Chi Minh.

From VietBac to the SaiGon Delta

From the mountains and plains below

Young and old workers, peasants and the toiling tenant farmers

Fight for freedom with Uncle Ho.

Refrain:

Từ núi rừng Việt Bắc cho tới miền đồng bằng Sài Gòn
Từ những ngọn núi cao, những cánh đồng lúa chín
Già trẻ gái trai, công nhân, nông dân, tá điền
Tất cả đều đấu tranh vì tự do cùng Bác Hồ

Vượt trùng sóng Người đi khắp phương trời

Luyện tôi ý chí lòng nuôi căm thù

Hồ Chí Minh ngày đêm xót thương dân tộc nô lệ

Vì đế quốc dã man giày xéo đất nước mình,

Giày xéo Đông Dương này, tàn sát bao con người

Điệp khúc

Now Ho Chi Minh was a deep sea sailor

He served his time out on the seven seas

Work and hardship were part of his early education

Exploitation his ABC.

Refrain:

Hồ Chí Minh từng là thuỷ thủ biển
Người đã đi khắp bốn bể năm châu
Rèn luyện mình qua khó nhọc gian nan
Quyết tìm ra chân lý sáng ngời

Từng giờ cháy lửa cách mạng lan tràn

Từ rừng Việt Bắc vào đến Tháp Mười

Hồ Chí Minh niềm tin đấu tranh cho tự do điệp trùng đội ngũ lớn lên

Ngày thêm mỗi trưởng thành,

Một ý chí kết đoàn, bằng chiến công diệt thù

Điệp khúc

Now Ho Chi Minh came home from sailing

And he looked out on his native land

Saw the want and the hunger of the Indo-Chinese people

Foreign soldiers on every hand.

Refrain:

Hồ Chí Minh trở về với đất Mẹ
Trông mắt nhìn tứ phía đau thương
Người dân sống đói khổ lầm than
Dưới nanh vuốt bầy ngoại xâm tàn độc

Lòng thành kính toàn dân gọi Cha già

Vì Người đã sống để cho muôn người

Hồ Chí Minh mùa xuân chứa chan muôn niềm tin

Người từ chân lý sinh ra

Vì thế giới hoà bình

Người hiến dâng đời mình

Vì thế giới hào bình

Điệp khúc

Now Ho Chi Minh went to the mountains

And he trained a determined band

Heroes all, sworn to liberate the Indo-Chinese people

Drive invaders from the land.

Refrain:

Hồ Chí Minh đã về với núi rừng
Người tổ chức nên một đạo quân
Anh hùng hào kiệt tụ về đây
Thề quét sạch lũ giặc ngoại xâm, giải phóng cho dân mình

Fourteen men became a hundred

A hundred thousand and Ho Chi Minh

Forged and tempered the army of the Indo-Chinese people

Freedom's Army of Viet Minh.

Refrain:

Mười bốn người thành một trăm người
Một trăm ngàn người cùng Hồ Chí Minh
Tôi luyện nên quân đội nhân dân
Quân đội giải phóng Việt Minh

Every soldier is a farmer

Comes the evening and he grabs his hoe

Comes the morning he swings his rifle on his shoulder

This the army of Uncle Ho.

Refrain:

Mỗi người lính cũng là người nông dân
Đêm đến vác cuốc ra ruộng đồng
Tinh mơ tới lại đeo súng ra trận
Được mang tên Bộ đội Cụ Hồ

From the mountains and the jungles

From the ricelands and the Plain of Reeds

March the men and the women of the Indo-Chinese Army

Planting freedom with vict'ry seeds.

Refrain:

Từ núi rừng hoang dã
Từ những cánh đồng lúa chín, những cánh đồng lau sậy um tùm
Quân đội nhân dân hiện diện nơi nơi
Gieo mầm tự do bằng những chiến thắng tưng bừng


From VietBac to the SaiGon Delta

Marched the armies of Viet Minh

And the wind stirs the banners of the Indo-Chinese people

Peace and freedom and Ho Chi Minh.

Refrain:

Từ núi rừng Việt Bắc cho tới miền đồng bằng Sài Gòn
Quân Viêt Minh diễu hành khắp nơi
Và những ngọn gió gọi tên Người
Hoà Bình! Tự Do! Hồ Chí Minh!!

DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - PRESIDENT HOCHIMINH'S TESTAMENT



DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - PRESIDENT HOCHIMINH'S TESTAMENT

DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

PRESIDENT HOCHIMINH'S TESTAMENT

Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.

Đó là một điều chắc chắn.

Even though our people's struggle against US aggression for national salvation may have to go through more hardships and sacrifices, we are bound to win total victory.

This is a certainty.

Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ, và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta.

Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

I intend, when that day comes, to tour both South and North to congratulate our heroic fellow-countrymen, cadres and combatants, and visit old people and our beloved youth and children.
Then, on behalf of our people, I will go to the fraternal countries of the socialist camp and friendly countries in the whole world and thank them for their wholehearted support and assistance to our people's patriotic struggle against US aggression.

Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đời nhà Đường, có câu rằng “nhân sinh thất thập cổ lai hy” nghĩa là “người thọ 70, xưa nay hiếm”.

Tu Fu, the famous poet of the Tang period in China, wrote "In all time, few are those who reach the age of seventy."

Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là hạng người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoại 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.

This year, being seventy-nine, I can already count myself among those "few"; still, my mind has remained perfectly lucid, though my health has somewhat declined in comparison with the last few years. When one has seen more than seventy Springs, health deteriorates with one's growing age. This is no wonder.

Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?

Vì vậy tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.

But who can say how much longer I shall be able to serve the revolution, the Homeland and the people?

I therefore leave these few lines in anticipation of the day when I shall go and join Karl Marx, Lenin and other revolutionary elders; this way, our people throughout the country, our in the Party, and our friends in the world will not be taken by surprise.

TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

FIRST ABOUT THE PARTY: Thanks to its close unity and total dedication to the working class, the people and the Homeland, our Party has been able, since its founding, to unite, organize, and lead our people from success to success in a resolute struggle.

ĐOÀN KẾT là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

UNITY is an extremely precious tradition of our Party and people. All comrades, from the Central Committee down to the cell, must preserve the unity and oneness of mind in the Party like the apple of their eye.

Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.

Within the Party, to establish broad democracy and to practise self-criticism and criticism regularly and seriously is the best way to consolidate and develop solidarity and unity. Comradely affection should prevail.

Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Ours is a Party in power: Each Party member, each cadre must be deeply imbue with revolutionary morality, and show industry, thrift, integrity, uprightness, total dedication to the public interest and complete selflessness. Our Party should preserve absolute purity and prove worthy of its role as the leader and very loyal servant of the people.

ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hằng hái xung phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.

THE WORKING YOUTH UNION members and our young people in general are good; they are always ready to come forward, fearless of difficulties, and eager for progress. The Party must foster their revolutionary virtues and train them to be our successors, both "red" and "expert", in the building of socialism.

The training and education of future revolutionary generations is of great importance and necessity.

NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh.

OUR LABOURING PEOPLE in the plains as in the mountains, have for generation after generation endured hardships, feudal and colonial oppression and exploitation; they have, in addition, experienced many years of war.

Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.

Yet, our people have shown great heroism, courage, enthusiasm, and industriousness. They have always followed the Party since it came into being, with unqualified loyalty.

Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

The Party must work out effective plans for economic and cultural development so as constantly to improve the life of our people.

CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

THE WAR OF RESISTANCE AGAINST US AGGRESSION may drag on. Our people may have to face new sacrifices in life and property. Whatever happens, we must keep firm our resolve to fight the, US aggressors till total victory.

Còn non, còn nước, còn người, Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!

Our mountains will always be, our rivers will always be, our people will always be!

The American invaders defeated, we will rebuild our land ten times more beautiful.

Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc.

No matter what difficulties and hardships lie ahead, our people are sure of total victory. The US imperialists will certainly have to quit. Our Homeland will certainly be reunified. Our fellow-countrymen in the South and in the North will certainly be reunited under the same roof. We, a small nation, will have earned the signal honor of defeating, through heroic struggle, two big imperialists - the French land the American - and of making a worthy contribution to the world's national liberation movement.

VỀ PHONG TRÀO CỘNG SẢN THẾ GIỚI - là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!

ABOUT THE WORLD COMMUNIST MOVEMENT: Being a man who has devoted his whole life to the revolution, the more proud I am of the growth of the international communist and workers' movement, the more pained I am by the current discord among the fraternal parties!

Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.

Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.

I hope that our party will do its best to contribute affectively to the restoration of unity among the fraternal parties on the basis of Marxism-Leninism and proletarian internationalism, in a way which conforms to both reason and sentiment.


I am firmly confident that the fraternal parties and countries will have to unite again.

*

* *

VỀ VIỆC RIÊNG - Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.

Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.

*

* *

ABOUT PERSONAL MATTERS: All my life, I have served the Homeland, the revolution and the people with all my heart and strength. If I should now depart from this world, I would have nothing to regret, except not being able to serve longer and more.

When I am gone, a grand funeral should be avoided in order not to waste the people's time and money.

*

* *

Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.

*

* *

Finally, to the whole people, the whole Party, the whole army, to my nephews and nieces, the youth and children I leave my boundless love.

Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.

I also convey my cordial greetings to our comrades and friends, and to the youth and children throughout the world.

Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

My ultimate wish is that our entire Party and people, closely joining their efforts, will build a peaceful, reunified, independent, democratic and prosperous Vietnam, and make a worthy contribution to the world revolution.

Hà nội, ngày 10 tháng 5 nǎm 1969

Hồ Chí Minh

Hanoi, May 10, 1969

Ho Chi Minh





MẤY Ý NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA - SOME CONSIDERATIONS ON THE COLONIAL QUESTION




MẤY Ý NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ THUỘC ĐỊA

SOME CONSIDERATIONS ON THE COLONIAL QUESTION

Từ khi Đảng Cộng sản Pháp đã thừa nhận 21 điều kiện của Mátxcơva và gia nhập Quốc tế thứ ba, Đảng đã tự đặt cho mình một nhiệm vụ đặc biệt khó khăn trong số các nhiệm vụ khác: chính sách thuộc địa. Đảng không thể thoả mãn với những bản tuyên ngôn chỉ thuần là bằng tình cảm và không có kết quả gì như thời Quốc tế thứ nhất và Quốc tế thứ hai nữa, mà cần phải có một kế hoạch hoạt động chính xác, một chính sách có hiệu quả và thiết thực.

Since the French Party has accepted Moscow’s ‘twenty-one conditions’ and joined the Third International, among the problems which it has set itself is a particularly ticklish one - colonial policy. Unlike the First and Second Internationals, it cannot be satisfied with purely sentimental expressions of position leading to nothing at all, but must have a well defined working programme, an effective and practical policy.

Trong vấn đề này, Đảng gặp nhiều khó khăn hơn mọi vấn đề khác, và đây là những khó khăn chủ yếu:

On this point, more than on others, the Party faces many difficulties, the greatest of which are the following:

1. Diện tích các thuộc địa rất rộng. - Không kể những “khu vực ủy trị” mới, lấy được từ sau chiến tranh, nước Pháp có:

1. The great size of the colonies

Not counting the new ‘trusteeships’ acquired after the war, France possesses:

Ở châu Á, 450.000 km2; ở châu Phi, 3.541.000 km2; ở châu Mỹ, l08.000 km2 ; ở châu Đại Dương, 21.600 km2. Tổng cộng: 4.120.000 km2 (gần gấp tám lần diện tích nước Pháp) với một dân số là 47.000.000 người. Số dân đó nói hơn 20 thứ tiếng khác nhau. Tình trạng có nhiều tiếng nói khác nhau như vậy làm khó khăn cho công tác tuyên truyền, bởi vì trừ mấy thuộc địa cũ ra, thì một tuyên truyền viên người Pháp chỉ có thể nói chuyện với quần chúng bản xứ qua người phiên dịch mà thôi. Mà phiên dịch thì khó nói lên được hết ý, vả lại trong những xứ bị cai trị một cách độc đoán ấy, thật khó mà tìm ra được một người phiên dịch những lời lẽ cách mạng.

In Asia, 450,000 square kilometres, in Africa 3,541,000 square kilometres, in America, 108,000 square kilometres and in Oceania 21,600 square kilometres, or a total area of 4,120,000 square kilometres (eight times its own territory), with a population of 48,000,000 souls. These people speak over twenty different languages. This diversity of tongues does not make propaganda easy, for, except in a few old colonies, a French propagandist can make himself understood only through an interpreter. However, translations are of limited value, and in these countries of administrative despotism, it is rather difficult to find an interpreter to translate revolutionary speeches.

Lại còn những trở ngại khác nữa. Tuy người dân bản xứ ở tất cả các thuộc địa đều là những người bị áp bức và bóc lột như nhau, nhưng trình độ văn hoá, kinh tế và chính trị giữa xứ này với xứ khác lại rất khác nhau. Giữa An Nam với Cônggô, Máctiních hay Tân Đảo, hoàn toàn không giống nhau chút nào, trừ sự cùng khổ.

There are other drawbacks: though the natives of all the colonies are equally oppressed and exploited, their intellectual, economic and political development differs greatly from one region to another. Between Annam and the Congo, Martinique and New Caledonia, there is absolutely nothing in common, except poverty.

2. Tình trạng thờ ơ của giai cấp vô sản chính quốc đối với các thuộc địa. - Trong những luận cương về vấn đề thuộc địa, Lênin đã tuyên bố rõ rệt rằng “nhiệm vụ của công nhân ở các nước đi chiếm thuộc địa là phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng của các nước phụ thuộc”. Muốn thế, công nhân ở chính quốc cần phải biết rõ thuộc địa là cái gì, phải biết những việc gì đã xảy ra ở thuộc địa, biết rõ nỗi đau khổ - hàng nghìn lần đau khổ hơn công nhân ở chính quốc - những người anh em của họ, những người vô sản thuộc địa phải chịu đựng.

2. The indifference of the proletariat of the mother country towards the colonies

In his theses on the colonial question, Lenin clearly stated that ‘the workers of colonizing countries are bound to give the most active assistance to the liberation movements in subject countries’. To this end, the workers of the mother country must know what a colony really is, they must be acquainted with what is going on there, and with the suffering - a thousand times more acute than theirs - endured by their brothers, the proletarians in the colonies. In a word, they must take an interest in this question.

Tóm lại là công nhân ở chính quốc phải quan tâm đến vấn đề thuộc địa.

Tiếc thay, một số đông chiến sĩ vẫn còn tưởng rằng, một thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da, thế thôi. Và họ hoàn toàn không để ý gì đến.

Unfortunately, there are many militants who still think that a colony is nothing but a country with plenty of sand underfoot and of sun overhead; a few green coconut palms and coloured folk, that is all. And they take not the slightest interest in the matter.

3. Tình trạng dốt nát của người dân bản xứ. - Trong tất cả các nước thuộc địa, ở cái xứ Đông Dương già cỗi kia cũng như ở xứ Đahômây trẻ trung này, người ta không hiểu đấu tranh giai cấp là gì, lực lượng giai cấp vô sản là gì cả, vì một lẽ đơn giản là ở đó không có nền kinh doanh lớn về thương nghiệp hay công nghiệp, cũng không có tổ chức công nhân. Trước con mắt người dân bản xứ, chủ nghĩa bônsêvích – danh từ này vì thường được giai cấp tư sản dùng đến luôn, nên đặc sắc hơn và mạnh nghĩa hơn - có nghĩa là: hoặc sự phá hoại tất cả, hoặc sự giải phóng khỏi ách nước ngoài. Nghĩa thứ nhất gán cho danh từ ấy làm cho quần chúng vô học và nhút nhát xa lánh chúng ta; nghĩa thứ hai thì dẫn họ đến chủ nghĩa quốc gia. Cả hai điều đó đều nguy hiểm cả. Chỉ có một số ít người trong nhân dân hiểu được thế nào là chủ nghĩa cộng sản. Nhưng số người thượng lưu ấy, - thuộc giai cấp tư sản bản xứ và là cột trụ của giai cấp tư sản thực dân, - cũng không thích thú gì việc chủ nghĩa cộng sản được người ta hiểu và được truyền bá rộng rãi cả. Trái lại, giống như con chó trong truyện ngụ ngôn, họ lại thích đeo cái vòng cổ để kiếm miếng xương của chủ. Nói chung, quần chúng căn bản là có tinh thần nổi dậy, nhưng còn rất dốt nát. Họ muốn giải phóng, nhưng họ chưa biết làm cách nào để đạt được mục đích ấy.

3. The ignorance of the natives

In colonized countries - in old Indo-China as well as in new Dahomey - the class struggle, and proletarian strength, are unknown factors for the simple reason that there are neither big commercial and industrial enterprises, nor workers’ organizations. In the eyes of the natives, Bolshevism - a word which is the more vivid and expressive because frequently used by the bourgeoisie - means either the destruction of everything or emancipation from the foreign yoke. The first sense given to the word drives the ignorant and timorous masses away from us; the second leads them to nationalism. Both senses are equally dangerous. Only a tiny section of the intelligentsia knows what is meant by communism. But these gentry, belonging to the native bourgeoisie and supporting the bourgeois colonialists, have no interest in the communist doctrine being understood and propagated. On the contrary, like the dog in the fable, they prefer to bear the mark of the collar and to have their piece of bone. Generally speaking, the masses are thoroughly rebellious, but completely ignorant. They want to free themselves, but do not know how to go about doing so.

4. Những thành kiến. - Vì giai cấp vô sản ở cả hai đằng đều không hiểu biết lẫn nhau, nên đã nảy ra những thành kiến. Đối với công nhân Pháp, thì người bản xứ là một hạng người thấp kém, không đáng kể, không có khả năng để hiểu biết được và lại càng không có khả năng hoạt động. Đối với người bản xứ, những người Pháp - mặc dầu họ là hạng người nào cũng đều là những kẻ bóc lột độc ác. Chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản không bỏ lỡ dịp lợi dụng sự nghi kỵ lẫn nhau đó và sự phân biệt đẳng hạng giả tạo về nòi giống đó để ngăn cản việc tuyên truyền và để chia rẽ những lực lượng đáng phải đoàn kết lại.

4. Prejudices

The mutual ignorance of the two proletariats gives rise to prejudices. The French workers look upon the native as an inferior and negligible human being, incapable of understanding and still less of taking action. The natives regard all the French as wicked exploiters. Imperialism and capitalism do not fail to take advantage of this mutual suspicion and this artificial racial hierarchy to frustrate propaganda and divide forces which ought to unite.

5. Đàn áp dã man. - Nếu bọn thực dân Pháp rất vụng về trong việc phát triển nền kinh tế ở thuộc địa, thì họ lại là những tay lão luyện trong nghề đàn áp dã man và trong việc chế tạo ra cái lòng trung thành bắt buộc. Những người như ông Găngđi và ông Đờ Valơra có lẽ đã lên thiên đàng từ lâu rồi nếu các ông ấy sinh ở một trong những thuộc địa của Pháp. Bị tất cả mọi thứ thủ đoạn thâm hiểm của các toà án quân sự và toà án đặc biệt vây xung quanh, một người chiến sĩ ở bản xứ khó lòng tiến hành việc giáo dục đồng bào bị áp bức và dốt nát của mình mà không sa vào nanh vuốt của các nhà đi khai hoá cho họ.

Trước những khó khăn ấy, Đảng phải làm gì?

Tăng cường công tác tuyên truyền của Đảng để khắc phục.

5. Fierceness of repression

If the French colonialists are unskillful in developing colonial resources, they are masters in the art of savage repression and the manufacture of loyalty made to measure. The Gandhis and the de Valeras would have long since entered heaven had they been born in one of the French colonies. Surrounded by all the refinements of courts martial and special courts, a native militant cannot educate his oppressed and ignorant brothers without the risk of falling into the clutches of his civilizers.

Faced with these difficulties, what must the Party do?

Intensify propaganda to overcome them.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995

Source: Selected Works of Ho Chi Minh Vol. 1

Publisher: Foreign Languages Publishing House






Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa-Declaration of Independence, Democratic Republic of Vietnam




Tuyên Ngôn Độc Lập

Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa

Chủ tich Hồ Chí Minh công bố tại Hà Nội ngày 2/9/1945

Declaration of Independence,

Democratic Republic of Vietnam

President Ho Chi Minh delivering his address in Hanoi on 2 September 1945.

Hỡi đồng bào cả nước,

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Dear fellow-countrymen!

"All men are created equal. They are endowed by their Creator with certain inalienable rights, among these are Life, Liberty, and the pursuit of Happiness"

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

This immortal statement was made in the Declaration of Independence of the United States of America in 1776. In a broader sense, this means: All the peoples on the earth are equal from birth, all the peoples have a right to live, to be happy and free.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:

“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

The Declaration of the French Revolution made in 1791 on the Rights of Man and the Citizen also states: "All men are born free and with equal rights, and must always remain free and have equal rights." Those are undeniable truths.

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Nevertheless, for more than eighty years, the French imperialists, abusing the standard of Liberty, Equality, and Fraternity, have violated our Fatherland and oppressed our fellow-citizens. They have acted contrary to the ideals of humanity and justice. In the field of politics, they have deprived our people of every democratic liberty.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

They have enforced inhuman laws; they have set up three distinct political regimes in the North, the Center and the South of Vietnam in order to wreck our national unity and prevent our people from being united.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

They have built more prisons than schools. They have mercilessly slain our patriots - they have drowned our uprisings in rivers of blood. They have fettered public opinion; they have practised obscurantism against our people. To weaken our race they have forced us to use opium and alcohol.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

In the fields of economics, they have fleeced us to the backbone, impoverished our people, and devastated our land.

They have robbed us of our rice fields, our mines, our forests, and our raw materials. They have monopolised the issuing of bank-notes and the export trade.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

They have invented numerous unjustifiable taxes and reduced our people, especially our peasantry, to a state of extreme poverty.

They have hampered the prospering of our national bourgeoisie; they have mercilessly exploited our workers.

Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

In the autumn of 1940, when the Japanese Fascists violated Indochina's territory to establish new bases in their fight against the Allies, the French imperialists went down on their bended knees and handed over our country to them. Thus, from that date, our people were subjected to the double yoke of the French and the Japanese. Their sufferings and miseries increased. The result was that from the end of last year to the beginning of this year, from Quang Tri province to the North of Vietnam, more than two rnillion of our fellow-citizens died from starvation.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

On March 9, the French troops were disarmed by the lapanese. The French colonialists either fled or surrendered, showing that not only were they incapable of "protecting" us, but that, in the span of five years, they had twice sold our country to the Japanese.

Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.

On several occasions before March 9, the Vietminh League urged the French to ally themselves with it against the Japanese. Instead of agreeing to this proposal, the French colonialists so intensified their terrorist activities against the Vietminh members that before fleeing they massacred a great number of our political prisoners detained at Yen Bay and Cao Bang.

Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

Not withstanding all this, our fellow-citizens have always manifested toward the French a tolerant and humane attitude. Even after the Japanese putsch of March 1945, the Vietminh League helped many Frenchmen to cross the frontier, rescued some of them from Japanese jails, and protected French lives and property.

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

The truth is that from the autumn of 1940, our country had in fact ceased to be a French colony and had become a Japanese possession. After the Japanese had surrendered to the Allies, our whole people rose to regain our national sovereignty and to found the Democratic Republic of Vietnam.

The truth is that we have wrested our independence from the Japanese and not from the French.

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập lên chế độ Dân chủ Cộng hoà.

The French have fled, the Japanese have capitulated, Emperor Bao Dai has abdicated. Our people have broken the chains which for nearly a century have fettered them and have won independence for the Fatherland. Our people at the same time have overthrown the monarchic regime that has reigned supreme for dozens of centuries. In its place has been established the present Democratic Republic.

Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

For these reasons, we, members of the Provisional Government, representing the whole Vietnamese people, declare that from now on we break off all relations of a colonial character with France; we repeal all the international obligation that France has so far subscribed to on behalf of Vietnam and we abolish all the special rights the French have unlawfully acquired in our Fatherland.

Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.

Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

The whole Vietnamese people, animated by a common purpose, are determined to fight to the bitter end against any attempt by the French colonialists to re-conquer their country.

We are convinced that the Allied nations which at Tehran and San Francisco have acknowledged the principles of self-determination and equality of nations, will not refuse to acknowledge the independence of Vietnam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

A people who have courageously opposed French domination for more than eighty years, a people who have fought side by side with the Allies against the Fascists during these last years, such a people must be free and independent.

Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

For these reasons, we, members of the Provisional Government of the Democratic Republic of Vietnam, solemnly declare to the world that Vietnam has the right to be a free and independent country and in fact it is so already. The entire Vietnamese people are determined to mobilise all their physical and mental strength, to sacrifice their lives and property in order to safeguard their independence and liberty.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2000, tập 4

Ho Chi Minh, Selected Works (Hanoi, 1960-1962), Vol. 3.

Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin-The Path Which Led Me To Leninism



Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin

The Path Which Led Me To Leninism

Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tôi làm thuê ở Pa-ri, khi làm cho một cửa hàng phóng đại ảnh, khi thì vẽ "đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa" (do một xưởng của người Pháp làm ra!). Hồi đó, tôi thường rải truyền đơn tố cáo tội ác bọn thực dân Pháp ở Việt Nam.

After World War I, I made my living in Paris, now as a retoucher at a photographer’s, now as painter of “Chinese antiquities” (made in France!). I would distribute leaflets denouncing the crimes committed by the French colonialists in Viet Nam.

Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin viết.

At that time, I supported the October Revolution only instinctively, not yet grasping all its historic importance. I loved and admired Lenin because he was a great patriot who liberated his compatriots; until then, I had read none of his books.

Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ông bà" ấy - hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế - đã tỏ ra đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu.

The reason for my joining the French Socialist Party was that these “ladies and gentlemen” - as I called my comrades at that moment - has shown their sympathy towards me, towards the struggle of the oppressed peoples. But I understood neither what was a party, a trade-union, nor what was socialism nor communism.

Hồi ấy, trong các chi bộ của Đảng Xã hội, người ta bàn cãi sôi nổi về vấn đề có nên ở lại trong Quốc tế thứ hai, hay là nên tổ chức một Quốc tế thứ hai rưỡi, hoặc tham gia Quốc tế thứ ba của Lênin? Tôi dự rất đều các cuộc họp một tuần hai hoặc ba lần. Tôi chăm chú nghe những người phát biểu ý kiến. Lúc đầu, tôi không hiểu được hết. Tại sao người ta bàn cãi hăng như vậy? Với Quốc tế thứ hai, hoặc thứ hai rưỡi, hay là thứ ba, thì người ta cũng đều làm được cách mạng cả, sao lại phải cãi nhau? Và còn Quốc tế thứ nhất nữa, người ta đã làm gì với nó rồi?

Heated discussions were then taking place in the branches of the Socialist Party, about the question whether the Socialist Party should remain in the Second International, should a Second and a half International be founded or should the Socialist Party join Lenin’s Third International? I attended the meetings regularly, twice or thrice a week and attentively listened to the discussion. First, I could not understand thoroughly. Why were the discussions so heated? Either with the Second, Second and a half or Third International, the revolution could be waged. What was the use of arguing then? As for the First International, what had become of it?

Điều mà tôi muốn biết hơn cả - và cũng chính là điều mà người ta không thảo luận trong cuộc họp là: Vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa?

What I wanted most to know - and this precisely was not debated in the meetings - was: which International sides with the peoples of colonial countries?

Trong một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên, câu hỏi quan trọng nhất đối với tôi. Có mấy đồng chí đã trả lời: Đó là quốc tế thứ ba, chứ không phải Quốc tế thứ hai. Và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo Nhân đạo.

I raised this question - the most important in my opinion - in a meeting. Some comrades answered: It is the Third, not the Second International. And a comrade gave me Lenin’s “Thesis on the national and colonial questions” published by l'Humanite to read.

Trong luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!"

There were political terms difficult to understand in this thesis. But by dint of reading it again and again, finally I could grasp the main part of it. What emotion, enthusiasm, clear-sightedness and confidence it instilled into me! I was overjoyed to tears. Though sitting alone in my room, I shouted out aloud as if addressing large crowds: “Dear martyrs compatriots! This is what we need, this is the path to our liberation!”

Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc thế thứ ba.

Trước kia, trong các cuộc họp chi bộ, tôi chỉ ngồi nghe người ta nói; tôi cảm thấy người nào cũng có lý cả, tôi không phân biệt được ai đúng ai sai. Nhưng từ đó tôi cũng xông vào những cuộc tranh luận. Tôi tham gia thảo luận sôi nổi. Mặc dù chưa biết đủ tiếng Pháp để nói hết ý nghĩ của mình, tôi vẫn đập mạnh những lời lẽ chống lại Lênin, chống lại Quốc tế thứ ba. Lý lẽ duy nhất của tôi là: Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu đồng chí không bênh vực cho các dân tộc thuộc địa thì đồng chí làm cái cách mạng gì?

After then, I had entire confidence in Lenin, in the Third International.

Formerly, during the meetings of the Party branch, I only listened to the discussion; I had a vague belief that all were logical, and could not differentiate as to who were right and who were wrong. But from then on, I also plunged into the debates and discussed with fervour. Though I was still lacking French words to express all my thoughts, I smashed the allegations attacking Lenin and the Third International with no less vigour. My only argument was: “If you do not condemn colonialism, if you do not side with the colonial people, what kind of revolution are you waging?”

Không chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ mà thôi, tôi còn đến những chi bộ khác để bênh vực lập trường "của tôi". Ở đây, tôi cần nhắc thêm rằng các đồng chí Mác-xen Ca-sanh, Vay-ăng Cu-tuya-ri-ê, Mông-mút-xô và nhiều đồng chí khác đã giúp tôi hiểu thêm. Cuối cùng ở Đại hội thành phố Tua, tôi cùng các đồng chí ấy biểu quyết tán thành tham gia Quốc tế thứ ba.

Not only did I take part in the meetings of my own Party branch, but I also went to other Party branches to lay down “my position”. Now I must tell again that Comrades Marcel Cachin, Vaillant Couturier, Monmousseau and many others helped me to broaden my knowledge. Finally, at the Tours Congress, I voted with them for our joining the Third International.

Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý Luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

At first, patriotism, not yet communism, led me to have confidence in Lenin, in the Third International. Step by step, along the struggle, by studying Marxism-Leninism parallel with participation in practical activities, I gradually came upon the fact that only socialism and communism can liberate the oppressed nations and the working people throughout the world from slavery.

Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyên đời xưa về cái "cẩm nang" đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay các giải pháp. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi với thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

HỒ CHÍ MINH

There is a legend, in our country as well as in China, on the miraculous “Book of the Wise”. When facing great difficulties, one opens it and finds a way out. Leninism is not only a miraculous “book of the wise”, a compass for us Vietnamese revolutionaries and people: it is also the radiant sun illuminating our path to final victory, to socialism and communism.

HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh toàn tập
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000

Selected Works of Ho Chi Minh Vol. 4

Publisher: Foreign Languages Publishing House