OUTLINE OF AMERICAN
HISTORY
|
LƯỢC SỬ NƯỚC MỸ -
P10
|
10 WAR, PROSPERITY AND DEPRESSION
|
CHƯƠNG 10: CHIẾN
TRANH, THỊNH VƯỢNG VÀ SUY THOÁI
|
|
Depression era soup
line, 1930s.
(The American
History Slide Collection, © (IRC))
|
Dòng người sắp hàng
nhận xúp thời kỳ Suy thoái, năm 1930.
(Bộ sưu tập hình
chiếu Lịch sử Mỹ, © (IRC))
|
WAR AND NEUTRAL
RIGHTS
"The chief business of the American people is
business."
-- President Calvin Coolidge, 1925
|
CHIẾN TRANH VÀ CÁC
QUYỀN TRUNG LẬP
“Công việc chính của người Mỹ là kinh doanh"
Tổng thống Calvin Coolidge, 1925
|
To the American public of 1914, the outbreak of war in Europe
-- with Germany and Austria-Hungary fighting Britain, France, and Russia --
came as a shock. At first the encounter seemed remote, but its economic and
political effects were swift and deep. By 1915 U.S. industry, which had been
mildly depressed, was prospering again with munitions orders from the Western
Allies. Both sides used propaganda to arouse the public passions of Americans
-- a third of whom were either foreign-born or had one or two foreign-born
parents. Moreover, Britain and Germany both acted against U.S. shipping on
the high seas, bringing sharp protests from President Woodrow Wilson.
|
Đối với công chúng Mỹ, cuộc chiến tranh bùng nổ ở châu Âu
vào năm 1914 - khi quân đội Đức - Áo - Hung tấn công Anh-Pháp-Nga - đã gây
nên một cú sốc. Lúc đầu, cuộc chiến ấy có vẻ như ở rất xa nước Mỹ, nhưng lại
gây ra những ảnh hưởng về kinh tế và chính trị rất nhanh chóng và sâu sắc.
Năm 1915, nền công nghiệp Mỹ đang bị suy thoái nhẹ nay đã được phục hồi nhờ
những đơn đặt hàng quân trang và vũ khí từ các nước đồng minh phương Tây. Cả
hai phe đã sử dụng những phương tiện tuyên truyền nhằm đánh thức những tình
cảm mạnh mẽ của người Mỹ - một phần ba trong số họ là người nước ngoài hoặc
có cha, mẹ hay cả bố và mẹ đều là người nước ngoài. Hơn nữa, cả Anh và Đức trước
kia đều đã phản đối vận tải đường biển của Mỹ ở ngoài khơi và điều đó đã
khiến Tổng thống Woodrow Wilson lên tiếng phản đối kịch liệt.
|
Britain, which controlled the seas, stopped and searched
American carriers, confiscating "contraband" bound for Germany.
Germany employed its major naval weapon, the submarine, to sink shipping
bound for Britain or France. President Wilson warned that the United States
would not forsake its traditional right as a neutral to trade with
belligerent nations. He also declared that the nation would hold Germany to
"strict accountability" for the loss of American vessels or lives.
On May 7, 1915, a German submarine sunk the British liner Lusitania, killing
1,198 people, 128 of them Americans. Wilson, reflecting American outrage,
demanded an immediate halt to attacks on liners and merchant ships.
|
Nước Anh, vốn có thế mạnh về hàng hải, đã chặn và khám xét
các tàu biển của Mỹ rồi sau đó sung công các chuyến tàu chở hàng đến nước
Đức. Ngược lại, Đức đã sử dụng thứ vũ khí hải quân quan trọng nhất của mình
là tàu ngầm để đánh chìm các tàu viễn dương đến Anh và Pháp. Tổng thống
Wilson cảnh báo rằng Hoa Kỳ, với tư cách một quốc gia trung lập, sẽ không từ
bỏ quyền lợi truyền thống của mình là được phép giao thương trên các đại
dương. Ông cũng tuyên bố rằng, nước Mỹ sẽ buộc Đức phải chịu trách nhiệm
nghiêm khắc về những thiệt hại của các con tàu viễn dương Mỹ và về sinh mạng
của người Mỹ. Vào ngày 7/5/1915, một tàu ngầm Đức đã đánh chìm con tàu
Lusitania của Hàng hải nước Anh, khiến 1198 người chết, trong đó có 128 là
người Mỹ. Trước sự căm phẫn của công chúng Mỹ, Wilson đã yêu cầu nước Đức
phải chấm dứt ngay lập tức các cuộc tấn công vào các tàu khách và tàu buôn
trên biển.
|
Anxious to avoid war with the United States, Germany
agreed to give warning to commercial vessels -- even if they flew the enemy
flag -- before firing on them. But after two more attacks -- the sinking of
the British steamer Arabic in August 1915, and the torpedoing of the French
liner Sussex in March 1916 -- Wilson issued an ultimatum threatening to break
diplomatic relations unless Germany abandoned submarine warfare. Germany
agreed and refrained from further attacks through the end of the year.
|
Để né tránh chiến tranh với Hoa Kỳ, nước Đức đã đồng ý là
sẽ cảnh báo cho các tàu buôn, kể cả tàu có treo cờ của đối phương, trước khi
bắn vào những con tàu đó. Nhưng sau khi hai cuộc tấn công nữa lại tiếp tục
xảy ra - tàu hơi nước Arabic của nước Anh đã bị đánh đắm vào tháng 8/1915 và
tàu Sussex của Pháp đã bị đánh đắm bằng ngư lôi vào tháng 3/1916 - Wilson đã
ra tối hậu thư tuyên bố Hoa Kỳ sẽ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đức nếu nước
này không từ bỏ các cuộc tấn công bằng tàu ngầm. Nước Đức đã chấp thuận yêu
cầu đó và không gây ra một cuộc tấn công nào khác cho đến tận cuối năm.
|
Wilson won reelection in 1916, partly on the slogan:
"He kept us out of war." Feeling he had a mandate to act as a
peacemaker, he delivered a speech to the Senate, January 22, 1917, urging the
warring nations to accept a "peace without victory."
|
Wilson đã tái đắc cử tổng thống năm 1916 một phần nhờ khẩu
hiệu Wilson đã giúp nước Mỹ tránh được chiến tranh. Cảm thấy mình có một
trọng trách phải hành động như một người gìn giữ hòa bình, ngày 22/1/1917,
trong bài diễn văn đọc trước Thượng viện, Wilson đã đề nghị các quốc gia đang
tham chiến hãy chấp nhận một nền hòa bình không có chiến thắng.
|
UNITED STATES ENTERS
WORLD WAR I
|
HOA KỲ THAM GIA
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT
|
|
American infantry
forces in 1918, firing a 37 mm. gun, advance against German positions in
World War I.
(The National
Archives)
|
Lực lượng bộ binh Mỹ
năm 1918, đang bắn một khẩu 37 ly vào các vị trí của Đức trong Thế chiến I.
(Cơ quan lưu trữ
quốc gia)
|
On January 31, 1917, however, the German government
resumed unrestricted submarine warfare. After five U.S. vessels were sunk,
Wilson on April 2, 1917, asked for a declaration of war. Congress quickly
approved. The government rapidly mobilized military resources, industry,
labor, and agriculture. By October 1918, on the eve of Allied victory, a U.S.
army of over 1,750,000 had been deployed in France.
|
Tuy nhiên, ngày 31/1/1917, Chính phủ Đức đã tiếp tục cuộc
chiến tranh bằng tàu ngầm không hạn chế. Sau khi năm tàu Mỹ bị bắn chìm, ngày
2/4/1917, Wilson đã yêu cầu Quốc hội cho phép nước Mỹ tuyên chiến. Quốc hội
đã nhanh chóng thông qua yêu cầu này. Ngay lập tức, Chính phủ đã tiến hành
huy động các nguồn lực quân sự, công nghiệp, lao động và nông nghiệp. Đến
tháng 10/1918, vào đêm chiến thắng của Khối Đồng minh, quân đội Mỹ gồm
1.750.000 binh sỹ đã được triển khai tại Pháp.
|
In the summer of 1918, fresh American troops under the
command of General John J. Pershing played a decisive role in stopping a
last-ditch German offensive. That fall, Americans were key participants in
the Meuse-Argonne offensive, which cracked Germany's vaunted Hindenburg Line.
|
Vào mùa hè năm 1918, dưới sự chỉ huy của Tướng John J.
Pershing, các đơn vị thiện chiến của Mỹ đã đóng vai trò quyết định trong việc
đẩy lùi cuộc tấn công cuối cùng của Đức trên đất liền. Vào mùa thu năm đó,
quân Mỹ đã góp phần quan trọng trong cuộc tấn công chiến tuyến Meuse Argonne
và bẻ gãy chiến tuyến Hindenburg nổi tiếng là kiên cố của quân Đức.
|
President Wilson contributed greatly to an early end to
the war by defining American war aims that characterized the struggle as
being waged not against the German people but against their autocratic government.
His Fourteen Points, submitted to the Senate in January 1918, called for:
abandonment of secret international agreements; freedom of the seas; free
trade between nations; reductions in national armaments; an adjustment of
colonial claims in the interests of the inhabitants affected; self-rule for
subjugated European nationalities; and, most importantly, the establishment
of an association of nations to afford "mutual guarantees of political
independence and territorial integrity to great and small states alike."
|
Tổng thống Wilson đã có đóng góp lớn lao vào việc sớm chấm
dứt chiến tranh. Ông đã xác định rõ những mục tiêu chiến tranh của Hoa Kỳ và
luôn nhấn mạnh rằng cuộc chiến này được tiến hành không phải để chống lại
nhân dân Đức, mà nhằm chống lại chính phủ chuyên chế của nước Đức. Mười bốn
điểm nổi tiếng do ông đưa ra đã được đệ trình trước Thượng viện vào tháng
1/1918, có nội dung kêu gọi: bãi bỏ những hiệp ước quốc tế bí mật, tự do khai
thác các tuyến đường biển, tự do thương mại giữa các quốc gia, giải trừ quân
bị, điều chỉnh những đòi hỏi của chế độ thực dân liên quan tới quyền lợi
người dân, đảm bảo quyền tự trị và tự do phát triển kinh tế của các dân tộc
châu Âu, và quan trọng nhất là thành lập Hội Quốc Liên trên nguyên tắc tôn
trọng lẫn nhau về độc lập chính trị và toàn vẹn lãnh thổ đối với các quốc gia
lớn cũng như các quốc gia nhỏ.
|
In October 1918, the German government, facing certain
defeat, appealed to Wilson to negotiate on the basis of the Fourteen Points.
After a month of secret negotiations that gave Germany no firm guarantees, an
armistice (technically a truce, but actually a surrender) was concluded on
November 11.
|
Tháng 10/1918, đứng trước sự thất bại chắc chắn, Chính phủ
Đức đã kêu gọi Wilson đàm phán trên cơ sở mười bốn điểm. Sau một tháng đàm
phán bí mật mà không hề đưa ra một đảm bảo chắc chắn nào đối với nước Đức,
một hiệp định đình chiến (về mặt kỹ thuật thì đó là sự ngừng bắn, còn trên
thực tế thì đó là sự đầu hàng của quân Đức) đã được ký kết ngày 11/11/1918.
|
THE LEAGUE OF
NATIONS
|
HỘI QUỐC LIÊN
|
|
The "Big
Four" at the Paris Peace Conference in 1919, following the end of World
War I. They are, seated from left, Prime Minister Vittorio Orlando of Italy,
Prime Minister David Lloyd George of Great Britain, Premier Georges
Clemenceau of France, and President Woodrow Wilson of the United States.
Despite strenuous efforts, Wilson was unable to persuade the U.S. Senate to
agree to American participation in the new League of Nations established in
the aftermath of the war.
(The National
Archives)
|
"Tứ Cường"
tại Hội nghị Hòa bình Paris vào năm 1919, sau khi kết thúc Chiến tranh Thế
giới I. Từ bên trái: Thủ tướng Chính phủ Vittorio Orlando của Ý, Thủ tướng
David Lloyd George của Anh, Thủ tướng Georges Clemenceau của Pháp, và Tổng
thống Woodrow Wilson của Hoa Kỳ. Bất chấp những nỗ lực vất vả, Wilson đã
không thể thuyết phục Thượng viện Mỹ đồng ý để Mỹ tham gia vào Hội Quốc Liên
mới thành lập sau chiến tranh.
(Cơ quan lưu trữ
quốc gia)
|
It was Wilson's hope that the final treaty, drafted by the
victors, would be even-handed, but the passion and material sacrifice of more
than four years of war caused the European Allies to make severe demands.
Persuaded that his greatest hope for peace, a League of Nations, would never
be realized unless he made concessions, Wilson compromised somewhat on the
issues of self-determination, open diplomacy, and other specifics. He
successfully resisted French demands for the entire Rhineland, and somewhat
moderated that country's insistence upon charging Germany the whole cost of
the war. The final agreement (the Treaty of Versailles), however, provided
for French occupation of the coal and iron rich Saar Basin, and a very heavy
burden of reparations upon Germany.
|
Tổng thống Wilson hy vọng rằng hiệp định cuối cùng do các
quốc gia thắng trận soạn thảo sẽ làm hài lòng các bên, nhưng những mất mát về
vật chất và tinh thần sau bốn năm chiến tranh đã khiến các đồng minh châu Âu
đưa ra những đòi hỏi khắc nghiệt. Bị thuyết phục bởi niềm tin rằng một Hội
Quốc Liên - hy vọng lớn nhất của ông về hòa bình sau chiến tranh - sẽ không
bao giờ trở thành hiện thực nếu ông không có những nhượng bộ đối với Khối
Đồng minh, nên Tổng thống Wilson đã thỏa hiệp ở các điều khoản về quyền tự
quyết, về nền ngoại giao cởi mở và về những vấn đề cụ thể khác. Tuy nhiên,
ông đã bác bỏ thành công yêu sách của Thủ tướng Pháp, Georges Clemanceau, đòi
tách toàn bộ vùng Rhineland khỏi nước Đức. Ông cũng đã bác bỏ đề nghị buộc
nước Đức phải bồi hoàn toàn bộ tổn thất chiến tranh. Tuy nhiên, Hiệp ước cuối
cùng (Hiệp ước Versailles) cũng đã cho phép Pháp chiếm đóng vùng Saar Basin
với các mỏ than và thiếc giàu có, đồng thời, cũng buộc nước Đức phải chịu một
gánh nặng to lớn trong việc bồi thường tổn thất chiến tranh.
|
In the end, there was little left of Wilson's proposals
for a generous and lasting peace but the League of Nations itself, which he
had made an integral part of the treaty. Displaying poor judgment, however,
the president had failed to involve leading Republicans in the treaty
negotiations. Returning with a partisan document, he then refused to make
concessions necessary to satisfy Republican concerns about protecting
American sovereignty.
|
Cuối cùng, các đề nghị của Wilson về một nền hòa bình rộng
rãi và lâu dài hầu như đều thất bại ngoài việc thành lập Hội Quốc Liên - một
nội dung mà Wilson đã đưa vào trong hiệp định đình chiến. Tuy nhiên, do tỏ ra
không có đủ sức thuyết phục, ông đã không đưa được những người lãnh đạo Đảng
Cộng hòa vào trong các cuộc đàm phán hòa bình. Sau đó, cùng với với một văn
kiện mang tính đảng phái, ông đã không chịu đưa ra những nhượng bộ cần thiết
để làm an lòng những mối quan ngại của Đảng Cộng hòa về vấn đề bảo vệ chủ
quyền cho nước Mỹ.
|
With the treaty stalled in a Senate committee, Wilson
began a national tour to appeal for support. On September 25, 1919,
physically ravaged by the rigors of peacemaking and the pressures of the
wartime presidency, he suffered a crippling stroke. Critically ill for weeks,
he never fully recovered. In two separate votes -- November 1919 and March
1920 -- the Senate once again rejected the Versailles Treaty and with it the
League of Nations.
|
Trong khi Hiệp định đang bị một ủy ban của Thượng viện
đình lại, Wilson đã thực hiện một chuyến đi vòng quanh nước Mỹ để kêu gọi sự
ủng hộ của dân chúng. Ngày 25/9/1919, vốn bị suy kiệt về thể lực do những lăn
lộn vất vả cho sự nghiệp kiến tạo hòa bình và do những sức ép của nhiệm kỳ
tổng thống trong thời buổi chiến tranh, ông đã bị đột quỵ. Sau nhiều tuần ốm
nặng, ông đã không bao giờ hoàn toàn bình phục được nữa. Trong hai lần bỏ
phiếu khác nhau - tháng 11/1919 và tháng 3/1920, một lần nữa, Thượng viện đã
bác bỏ Hiệp ước Versailles trong đó có đề nghị thành lập Hội Quốc Liên.
|
The League of Nations would never be capable of
maintaining world order. Wilson's defeat showed that the American people were
not yet ready to play a commanding role in world affairs. His utopian vision
had briefly inspired the nation, but its collision with reality quickly led
to widespread disillusion with world affairs. America reverted to its
instinctive isolationism.
|
Hội Quốc Liên không bao giờ có khả năng duy trì trật tự
thế giới. Thất bại của Wilson chỉ ra rằng dân chúng Mỹ chưa sẵn sàng đóng vai
trò người lãnh đạo các công việc quốc tế. Tầm nhìn không tưởng của Tổng thống
Wilson đã cổ vũ cho nước Mỹ trong một thời gian ngắn, nhưng sự thất bại của
tầm nhìn ấy với cùng với hoàn cảnh thực tại đã nhanh chóng khiến dân Mỹ không
còn ảo tưởng đối với các sự kiện quốc tế. Từ đó, nước Mỹ đã bắt đầu quay lại
với chủ nghĩa biệt lập bản năng của mình.
|
POSTWAR UNREST
|
TÌNH TRẠNG BẤT ỔN
SAU CHIẾN TRANH
|
|
Henry Ford and his
son stand with one of his early automobiles, and the 10-millionth Ford
Model-T. The Model-T was the first car whose price and availability made car
ownership possible for large numbers of people.
(AP/WWP)
|
Henry Ford và con
trai đứng bên một trong những chiếc xe ô tô đầu tiên của ông, và là chiếc
Ford Model-T thứ mười triệu. Model-T là chiếc xe đầu tiên mà giá cả và tính
sẵn có đã giúp nhiều người hơn có thể sở hữu xe hơi.
(AP / WWP)
|
The transition from war to peace was tumultuous. A postwar
economic boom coexisted with rapid increases in consumer prices. Labor unions
that had refrained from striking during the war engaged in several major job
actions. During the summer of 1919, race riots occurred, reflecting
apprehension over the emergence of a "New Negro" who had seen
military service or gone north to work in war industry.
|
Quá trình chuyển tiếp từ chiến tranh sang hòa bình thực sự
là hỗn độn. Sự bùng nổ kinh tế sau chiến tranh diễn ra cùng với giá tiêu dùng
leo thang. Các công đoàn lao động vốn không hề có cuộc đình công nào trong
chiến tranh nay bắt đầu có những đòi hỏi quan trọng về việc làm. Mùa hè năm 1919,
một số cuộc nổi loạn sắc tộc đã xuất hiện, phản ánh nỗi lo sợ đối với sự nổi
lên của phong trào người da đen mới - tức là những người đã tham gia quân ngũ
hoặc đã di cư lên phía Bắc để làm việc trong các ngành công nghiệp chiến
tranh.
|
Reaction to these events merged with a widespread national
fear of a new international revolutionary movement. In 1917, the Bolsheviks
had seized power in Russia; after the war, they attempted revolutions in
Germany and Hungary. By 1919, it seemed they had come to America. Excited by
the Bolshevik example, large numbers of militants split from the Socialist
Party to found what would become the Communist Party of the United States. In
April 1919, the postal service intercepted nearly 40 bombs addressed to
prominent citizens. Attorney General A. Mitchell Palmer's residence in
Washington was bombed. Palmer, in turn, authorized federal roundups of
radicals and deported many who were not citizens. Major strikes were often
blamed on radicals and depicted as the opening shots of a revolution.
|
Những sự kiện này xảy ra đồng thời với mối lo ngại trên
khắp nước Mỹ về một phong trào cách mạng quốc tế mới xảy ra. Năm 1917, người
Bôn-sê-vích đã thâu tóm quyền lực ở nước Nga. Sau chiến tranh, họ đã thực
hiện thành công các cuộc cách mạng ở Đức và Hungari. Đến năm 1919, dường như
họ đã đến nước Mỹ. Noi theo những tấm gương Bôn-sê-vích, nhiều quân nhân Mỹ
của Đảng Xã hội đã đứng ra thành lập Đảng Cộng sản ở nước Mỹ. Tháng 4/1919,
cơ quan bưu điện đã ngăn chặn được hơn 40 trái bom gửi tới địa chỉ của các
quan chức cao cấp. Nơi ở của Tổng Chưởng lý A. Mitchell Palmer tại Washington
cũng bị đánh bom. Để trả đũa, Palmer đã cho phép các toán quân liên bang được
phép thu thập hồ sơ về các phần tử cấp tiến nổi tiếng và trục xuất những phần
tử không phải là công dân Mỹ. Những cuộc vây ráp này đã làm tổn thương nhiều
nhân vật cấp tiến và được mô tả như những phát súng mở màn cho một cuộc thanh
trừng.
|
Palmer's dire warnings fueled a "Red Scare" that
subsided by mid-1920. Even a murderous bombing in Wall Street in September
failed to reawaken it. From 1919 on, however, a current of militant hostility
toward revolutionary communism would simmer not far beneath the surface of
American life.
|
Những lời cảnh báo ghê gớm của Palmer đã châm ngòi cho mối
kinh sợ bọn Đỏ, nhưng nỗi lo sợ này cũng đã lắng xuống vào giữa những năm
1920. Ngay cả cuộc đánh bom Phố Wall vào tháng 9 cũng không làm mối lo ngại
đó trở lại. Tuy nhiên, từ năm 1919 trở đi, một làn sóng đối đầu về quân sự
đối với chủ nghĩa cộng sản cách mạng đã ngấm ngầm chảy trong cuộc sống của
người dân nước Mỹ.
|
THE BOOMING 1920S
|
NỀN KINH TẾ THỊNH
VƯỢNG TRONG THẬP NIÊN 20
|
|
For the educated and
well-to-do, the 1920s was the era of the "Lost Generation,"
symbolized by writers like Ernest Hemingway, who left the United States for
voluntary exile in Paris. It was also the "flapper era" of
frivolity and excess in which young people could reject the constraints and
traditions of their elders. Here, flappers posing for the camera at a
1920s-era party.
(Hulton
Archive/Getty Images)
|
Đối với người có học
vấn và giàu có thì những năm 1920 là thời kỳ của "Thế hệ bỏ đi,"
được biểu trưng với các nhà văn như Ernest Hemingway, người đã rời Mỹ để lưu
vong tự nguyện ở Paris. Nó cũng là "thời kỳ mới lớn" của sự phù
phiếm và dư dật, mà những người trẻ tuổi có thể loại bỏ những hạn chế và
truyền thống của người lớn tuổi. Trong ảnh, các flappers tạo dáng trước máy
ảnh tại một bữa tiệc thời 1920.
(Hulton Archive /
Getty Images)
|
Wilson, distracted by the war, then laid low by his
stroke, had mishandled almost every postwar issue. The booming economy began
to collapse in mid-1920. The Republican candidates for president and vice
president, Warren G. Harding and Calvin Coolidge, easily defeated their
Democratic opponents, James M. Cox and Franklin D. Roosevelt.
|
Tổng thống Wilson, quá bận tâm về những lo toan chiến
tranh và sau đó lại bị đột quỵ, đã xử lý các vấn đề sau chiến tranh rất tồi.
Nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ đã bắt đầu suy sụp vào giữa những năm 1920.
Các đảng viên Đảng Cộng hòa tranh cử chức Tổng thống và Phó Tổng thống là
Warren G. Harding và Calvin Coolidge đã dễ dàng đánh bại các ứng viên của
Đảng Dân chủ đối lập là James M. Cox và Franklin D. Roosevelt.
|
Following ratification of the 19th Amendment to the
Constitution, women voted in a presidential election for the first time.
|
Sau sự phê chuẩn Tu chính án 19 trong Hiến pháp Mỹ, lần
đầu tiên, phụ nữ Mỹ đã được quyền tham gia bầu cử tổng thống.
|
The first two years of Harding's administration saw a
continuance of the economic recession that had begun under Wilson. By 1923,
however, prosperity was back. For the next six years the country enjoyed the
strongest economy in its history, at least in urban areas. Governmental
economic policy during the 1920s was eminently conservative. It was based
upon the belief that if government fostered private business, benefits would
radiate out to most of the rest of the population.
|
Hai năm đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống của Hardings là
thời gian đất nước vẫn trong tình trạng suy thoái kinh tế vốn đã bắt đầu dưới
thời Wilson. Tuy nhiên, năm 1923, sự thịnh vượng đã quay trở lại. Trong sáu
năm sau đó, nước Mỹ đã có một nền kinh tế thịnh vượng nhất trong lịch sử, ít
nhất là đối với các khu đô thị. Các chính sách kinh tế của chính phủ trong
những năm 1920 vẫn mang tư tưởng bảo thủ rõ rệt. Những chính sách này dựa
trên quan điểm cho rằng nếu chính phủ khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân
phát triển thì hầu hết các tầng lớp dân cư khác đều sẽ được hưởng những lợi
ích từ sự phát triển đó.
|
Accordingly, the Republicans tried to create the most
favorable conditions for U.S. industry. The Fordney-McCumber Tariff of 1922
and the Hawley-Smoot Tariff of 1930 brought American trade barriers to new
heights, guaranteeing U.S. manufacturers in one field after another a
monopoly of the domestic market, but blocking a healthy trade with Europe that
would have reinvigorated the international economy. Occurring at the
beginning of the Great Depression, Hawley-Smoot triggered retaliation from
other manufacturing nations and contributed greatly to a collapsing cycle of
world trade that intensified world economic misery.
|
Đảng Cộng hòa đã cố gắng tạo ra những điều kiện thuận lợi
nhất cho ngành công nghiệp Hoa Kỳ. Đạo luật Thuế quan Fordney-McCumber năm
1922 và Đạo luật Hawley-Smoot năm 1930 đã đẩy các hàng rào quan thuế lên tới
mức cao hơn nhằm đảm bảo cho các nhà sản xuất Mỹ một vị thế độc quyền hết
trong lĩnh vực này tới lĩnh vực khác trên thị trường nội địa. Nhưng những đạo
luật này cũng đã cản trở thương mại lành mạnh với châu Âu - một hoạt động
thương mại lẽ ra đã có thể thúc đẩy kinh tế thế giới. Đạo luật Smoot - Hawley
ra đời vào giai đoạn đầu của cuộc Đại suy thoái đã châm ngòi cho hàng loạt
hành động trả đũa của các quốc gia công nghiệp khác, khiến thương mại quốc tế
suy giảm nghiêm trọng và đẩy kinh tế thế giới vào một giai đoạn suy thoái sâu
sắc hơn.
|
The federal government also started a program of tax cuts,
reflecting Treasury Secretary Andrew Mellon's belief that high taxes on
individual incomes and corporations discouraged investment in new industrial
enterprises. Congress, in laws passed between 1921 and 1929, responded
favorably to his proposals.
|
Chính phủ Liên bang cũng đã bắt đầu một chương trình cắt
giảm thuế, điều này phản ánh chủ trương của Bộ trưởng Tài chính Andrew Mellon
cho rằng mức thuế thu nhập và thuế doanh nghiệp cao sẽ ngăn cản đầu tư vào
các doanh nghiệp công nghiệp mới. Quốc hội đã ủng hộ những đề xuất của ông
bằng hàng loạt các điều luật được thông qua trong khoảng thời gian từ 1921
đến 1929.
|
"The chief business of the American people is
business," declared Calvin Coolidge, the Vermont-born vice president who
succeeded to the presidency in 1923 after Harding's death, and was elected in
his own right in 1924. Coolidge hewed to the conservative economic policies
of the Republican Party, but he was a much abler administrator than the
hapless Harding, whose administration was mired in charges of corruption in
the months before his death.
|
“Công việc chính của người Mỹ là kinh doanh" - ông
Calvin Coolidge đã tuyên bố như vậy. Ông là vị Phó Tổng thống, sinh ra ở
Vermont, đã kế nhiệm năm 1923 sau khi Tổng thống Harding qua đời. Sau đó, ông
đã chính thức được bầu làm tổng thống trong cuộc bầu cử năm 1924. Coolidge đã
công kích các chính sách kinh tế bảo thủ của Đảng Cộng hòa, nhưng ông là một
nhà quản lý có năng lực hơn so với Harding yếu kém, vì chính phủ của ông này
đã bị buộc tội tham nhũng trong những tháng trước khi ông qua đời.
|
Throughout the 1920s, private business received
substantial encouragement, including construction loans, profitable
mail-carrying contracts, and other indirect subsidies. The Transportation Act
of 1920, for example, had already restored to private management the nation's
railways, which had been under government control during the war. The
Merchant Marine, which had been owned and largely operated by the government,
was sold to private operators.
|
Trong suốt những năm 1920, các doanh nghiệp tư nhân đã
nhận được sự khuyến khích lớn từ phía chính phủ, bao gồm các khoản vay xây
dựng, các hợp đồng vận chuyển thư tín có lợi và những khoản trợ cấp gián tiếp
khác. Chẳng hạn, Đạo luật Vận tải năm 1920 đã trao quyền quản lý hệ thống
đường sắt quốc gia cho tư nhân vốn thuộc về chính phủ trong thời gian chiến
tranh. Đội tàu buôn từng thuộc quyền sở hữu của chính phủ nay cũng được bán
cho các nhà quản lý tư nhân.
|
Republican policies in agriculture, however, faced
mounting criticism, for farmers shared least in the prosperity of the 1920s.
The period since 1900 had been one of rising farm prices. The unprecedented
wartime demand for U.S. farm products had provided a strong stimulus to
expansion. But by the close of 1920, with the abrupt end of wartime demand,
the commercial agriculture of staple crops such as wheat and corn fell into
sharp decline. Many factors accounted for the depression in American
agriculture, but foremost was the loss of foreign markets. This was partly in
reaction to American tariff policy, but also because excess farm production
was a worldwide phenomenon. When the Great Depression struck in the 1930s, it
devastated an already fragile farm economy.
|
Tuy nhiên, các chính sách của Đảng Cộng hòa trong nông
nghiệp ngày càng bị phê phán vì nông dân ít được hưởng lợi từ sự hưng thịnh
kinh tế trong thập niên 20. Giai đoạn từ 1900 đến 1920 là một trong những
thời kỳ mà giá nông phẩm gia tăng, một phần là do nhu cầu lớn chưa từng có về
sản phẩm nông nghiệp trong thời gian chiến tranh đã kích thích sản xuất.
Nhưng đến cuối năm 1920, chiến tranh đã kết thúc kéo theo sự suy giảm trong
tiêu thụ nông sản khiến thương mại nông nghiệp với các sản phẩm chính là lúa
mì và ngô đã bị sa sút nghiêm trọng. Nhiều nguyên nhân đã được nêu ra để giải
thích cho tình trạng suy thoái của nông nghiệp Mỹ, nhưng nhân tố quan trọng
nhất vẫn là do các thị trường nước ngoài của Mỹ không còn nữa. Hiện tượng này
xảy ra một phần là do các phản ứng đối với chính sách quan thuế của nước Mỹ,
nhưng đồng thời cũng là do sản lượng nông nghiệp đã tăng trưởng quá mạnh -
một hiện tượng phổ biến trên thế giới vào thời điểm bấy giờ. Khi cuộc Đại suy
thoái diễn ra trong những năm 1930, nó đã phá hủy nền kinh tế trang trại Mỹ
trước đó vốn đã rất mong manh.
|
The distress of agriculture aside, the Twenties brought
the best life ever to most Americans. It was the decade in which the ordinary
family purchased its first automobile, obtained refrigerators and vacuum
cleaners, listened to the radio for entertainment, and went regularly to
motion pictures. Prosperity was real and broadly distributed. The Republicans
profited politically, as a result, by claiming credit for it.
|
Nếu không tính đến những khó khăn trong nông nghiệp, có
thể nói rằng thập niên 20 đã mang lại cuộc sống tốt đẹp nhất cho đại đa số
người Mỹ. Đây là thập kỷ mà những gia đình Mỹ bình thường có thể mua chiếc xe
ôtô đầu tiên của họ, mua tủ lạnh, máy hút bụi, giải trí bằng radio và thường
xuyên tới rạp chiếu bóng. Thịnh vượng là có thật và đã mang lại lợi ích cho
đa số người dân Mỹ. Kết quả là Đảng Cộng hòa đã chiếm được lòng tin của dân
chúng và do đó, có được những ủng hộ quan trọng về chính trị.
|
TENSIONS OVER
IMMIGRATION
|
NHỮNG CĂNG THẲNG
TRONG VẤN ĐỀ NHẬP CƯ
|
During the 1920s, the United States sharply restricted
foreign immigration for the first time in its history. Large inflows of
foreigners long had created a certain amount of social tension, but most had
been of Northern European stock and, if not quickly assimilated, at least
possessed a certain commonality with most Americans. By the end of the 19th
century, however, the flow was predominantly from southern and Eastern
Europe. According to the census of 1900, the population of the United States
was just over 76 million. Over the next 15 years, more than 15 million
immigrants entered the country.
|
Trong những năm 1920, lần đầu tiên trong lịch sử, nước Mỹ
bắt đầu cấm người nhập cư từ nước ngoài. Từ lâu nay, dòng người nhập cư lớn
từ nước ngoài đã gây ra những căng thẳng xã hội sâu sắc, nhưng những người
này chủ yếu là từ Bắc Âu - những người nếu không nhanh chóng đồng hóa thì
cũng có những nét tương đồng với hầu hết dân Mỹ. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ
XIX, đại đa số dân nhập cư đến Hoa Kỳ là người Nam Âu và Đông Âu. Theo thống
kê năm 1900, dân số Mỹ chỉ khoảng 76 triệu người. 15 năm sau, hơn 15 triệu
người nhập cư đã đến sinh sống trên đất Mỹ.
|
Around two-thirds of the inflow consisted of
"newer" nationalities and ethnic groups -- Russian Jews, Poles,
Slavic peoples, Greeks, southern Italians. They were non-Protestant,
non-"Nordic," and, many Americans feared, nonassimilable. They did
hard, often dangerous, low-pay work -- but were accused of driving down the
wages of native-born Americans. Settling in squalid urban ethnic enclaves,
the new immigrants were seen as maintaining Old World customs, getting along
with very little English, and supporting unsavory political machines that
catered to their needs. Nativists wanted to send them back to Europe; social
workers wanted to Americanize them. Both agreed that they were a threat to
American identity.
|
Khoảng 2/3 trong số những người này là thuộc các dân tộc
cấp tiến và các nhóm dân tộc thiểu số khác - người Do Thái gốc Nga, người Ba
Lan, người Slavic, người Hy Lạp, người Nam Italia. Họ là những người không
theo đạo Tin Lành, cũng không theo đạo Thiên Chúa Bắc Âu, và nhiều người Mỹ e
ngại rằng những người nhập cư mới này không chịu đồng hóa. Họ thường làm
những công việc nặng nhọc, nguy hiểm và được trả công thấp - nhưng họ cũng là
nguyên nhân khiến tiền lương của những người Mỹ định cư bị giảm đi. Họ thường
sống tập trung trong những khu vực riêng tồi tàn của từng dân tộc và vẫn giữ
những phong tục địa phương của Cựu Thế giới, biết rất ít tiếng Anh và ủng hộ
các bộ máy chính trị xấu xa phục vụ cho những nhu cầu của họ. Những người
theo chủ nghĩa dân Mỹ chính gốc muốn gửi trả những người dân mới nhập cư này
về châu Âu còn các nhà xã hội thì muốn Mỹ hóa họ. Cả hai giới này đều cho
rằng họ là mối đe dọa đối với bản sắc văn hóa Mỹ.
|
Halted by World War I, mass immigration resumed in 1919,
but quickly ran into determined opposition from groups as varied as the
American Federation of Labor and the reorganized Ku Klux Klan. Millions of
old-stock Americans who belonged to neither organization accepted commonly
held assumptions about the inferiority of non-Nordics and backed
restrictions. Of course, there were also practical arguments in favor of a
maturing nation putting some limits on new arrivals.
|
Tạm chững lại do Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, làn sóng
nhập cư đã trở lại vào năm 1919, nhưng nhanh chóng vấp phải sự phản đối mạnh
mẽ của các nhóm dân cư trong xã hội Mỹ như Liên đoàn Lao động Mỹ và tổ chức
Klux Klan. Hàng triệu người dân Mỹ không thuộc cả hai tổ chức này đã đồng
tình với quan điểm của nhiều người cho rằng những người di cư đến từ các dân
tộc không thuộc Bắc Âu là những người thấp kém hơn họ, và do đó ủng hộ quan
điểm hạn chế nhập cư. Tất nhiên cũng có những quan điểm ủng hộ người nhập cư
để dân tộc Mỹ trưởng thành hơn, nhưng với điều kiện phải hạn chế số lượng
nhập cư.
|
In 1921, Congress passed a sharply restrictive emergency
immigration act. It was supplanted in 1924 by the Johnson-Reed National
Origins Act, which established an immigration quota for each nationality.
Those quotas were pointedly based on the census of 1890, a year in which the
newer immigration had not yet left its mark. Bitterly resented by southern
and Eastern European ethnic groups, the new law reduced immigration to a
trickle. After 1929, the economic impact of the Great Depression would reduce
the trickle to a reverse flow - until refugees from European fascism began to
press for admission to the country.
|
Năm 1921, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Nhập cư Khẩn cấp
Hạn chế. Nó đã được thay thế bởi Đạo luật Johnson-Reed National Origins Act
năm 1924. Đạo luật này quy định một hạn ngạch nhập cư cho mỗi một quốc tịch.
Các hạn ngạch này được xây dựng dựa trên số liệu điều tra dân số năm 1890 -
năm mà trào lưu nhập cư mới chưa để lại dấu ấn của nó. Đạo luật này đã vấp
phải sự phản đối của những người nhập cư từ Nam và Đông Âu, và làm giảm số
lượng người nhập cư đi đáng kể. Sau năm 1929, những ảnh hưởng kinh tế của
cuộc Đại suy thoái cũng là nguyên nhân làm cho lượng người nhập cư ít ỏi đó
lại di cư ra khỏi nước Mỹ - cho đến khi các người dân tị nạn từ các nước châu
Âu phát xít bắt đầu gây áp lực để được cho phép nhập cảnh vào Hoa Kỳ.
|
CLASH OF CULTURES
Some Americans expressed their discontent with the
character of modern life in the 1920s by focusing on family and religion, as
an increasingly urban, secular society came into conflict with older rural
traditions. Fundamentalist preachers such as Billy Sunday provided an outlet
for many who yearned for a return to a simpler past.
|
SỰ XUNG ĐỘT CỦA CÁC
NỀN VĂN HÓA
Một số người Mỹ thể hiện sự bất mãn của mình đối với đặc
điểm của cuộc sống hiện đại của thập niên 20 bằng cách chú trọng đời sống gia
đình và đời sống tôn giáo khi xã hội ngày càng mang sắc thái thành thị và coi
trọng vật chất, khiến gây ra những xung đột với các phong tục truyền thống ở
nông thôn. Các nhà truyền giáo theo chủ nghĩa chính thống như Billy Sunday đã
mở đường cho nhiều người đã từng mong muốn được quay về với một quá khứ đơn
giản hơn.
|
Perhaps the most dramatic demonstration of this yearning
was the religious fundamentalist crusade that pitted Biblical texts against
the Darwinian theory of biological evolution. In the 1920s, bills to prohibit
the teaching of evolution began appearing in Midwestern and Southern state
legislatures. Leading this crusade was the aging William Jennings Bryan, long
a spokesman for the values of the countryside as well as a progressive
politician. Bryan skillfully reconciled his anti-evolutionary activism with
his earlier economic radicalism, declaring that evolution "by denying
the need or possibility of spiritual regeneration, discourages all
reforms."
|
Có lẽ biểu hiện mạnh mẽ nhất của khát khao này là cuộc đấu
tranh dữ dội của phái chính thống nhằm tìm những luận điểm từ thánh kinh để
chống lại lý thuyết khoa học về tiến hóa sinh học của Darwin. Vào thập niên
20, những dự luật cấm giảng dạy thuyết tiến hóa trong nhà trường đã bắt đầu
xuất hiện trong luật của các bang miền Nam và miền Trung Tây. Người cầm đầu
cuộc tranh đấu dữ dội này là William Jennings Bryan - phát ngôn viên bảo vệ
các giá trị văn hóa nông thôn và là một nhà chính trị cấp tiến. Ông đã khéo
léo dung hòa quan điểm chống thuyết tiến hóa của mình với thuyết cấp tiến về
kinh tế do ông đưa ra trước đó, cho rằng sự phát triển "bằng cách từ
chối nhu cầu hay khả năng tái sinh về tôn giáo, đã ngăn cách tất cả các cuộc
cải cách".
|
The issue came to a head in 1925, when a young high school
teacher, John Scopes, was prosecuted for violating a Tennessee law that forbade
the teaching of evolution in the public schools. The case became a national
spectacle, drawing intense news coverage. The American Civil Liberties Union
retained the renowned attorney Clarence Darrow to defend Scopes. Bryan
wrangled an appointment as special prosecutor, then foolishly allowed Darrow
to call him as a hostile witness. Bryan's confused defense of Biblical
passages as literal rather than metaphorical truth drew widespread criticism.
Scopes, nearly forgotten in the fuss, was convicted, but his fine was
reversed on a technicality. Bryan died shortly after the trial ended. The
state wisely declined to retry Scopes. Urban sophisticates ridiculed
fundamentalism, but it continued to be a powerful force in rural, small-town
America.
|
Căng thẳng đã lên đến đỉnh điểm vào năm 1925 khi John
Scopes, một giáo viên trẻ dạy ở trường trung học, đã bị kết án là vi phạm
luật pháp bang Tennessee vì luật pháp bang này cấm dạy về thuyết tiến hóa tại
các trường công lập. Vụ án này đã trở thành một sự kiện được quan tâm trên
khắp nước Mỹ và được nói đến trong tất cả các bản tin. Liên hiệp Tự do công
dân Mỹ đã yêu cầu luật sư Clarence Darrow bào chữa cho Scopes. Bryan đã tranh
cãi với vị luật sư đặc biệt này và sau đó đã tỏ ra khá điên rồ khi cho phép
Darrow gọi ông là người làm chứng thù địch. Những lý lẽ lộn xộn của Bryans
nhằm bảo vệ các điều răn dạy của Kinh thánh như là sự thật theo nghĩa đen
trần tục hơn là theo nghĩa ẩn dụ đã gây một làn sóng phản đối rộng rãi.
Scopes, gần như đã bị bỏ quên trong vụ tranh cãi, nay bị kết án phạm tội
nhưng được bảo lưu vì tính chất phạm tội không quá nghiêm trọng. Bryan đã
chết vài ngày sau khi vụ án kết thúc. Tòa án bang đã khôn khéo từ chối xét xử
lại vụ án. Các cư dân thành thị đã nhạo báng các tín đồ cực đoan nhưng chủ
nghĩa cực đoan vẫn tiếp tục có sức mạnh chi phối ở khu vực nông thôn và ở các
thị trấn nhỏ trên nước Mỹ.
|
Another example of a powerful clash of cultures -- one
with far greater national consequences -- was Prohibition. In 1919, after
almost a century of agitation, the 18th Amendment to the Constitution was
enacted, prohibiting the manufacture, sale, or transportation of alcoholic
beverages. Intended to eliminate the saloon and the drunkard from American
society, Prohibition created thousands of illegal drinking places called
"speakeasies," made intoxication fashionable, and created a new
form of criminal activity -- the transportation of illegal liquor, or
"bootlegging." Widely observed in rural America, openly evaded in
urban America, Prohibition was an emotional issue in the prosperous Twenties.
When the Depression hit, it seemed increasingly irrelevant. The 18th
Amendment would be repealed in 1933.
|
Một ví dụ khác về xung đột văn hóa - với những hậu quả
nghiêm trọng hơn trên khắp quốc gia - đó là Đạo luật Cấm rượu. Năm 1919, sau
gần một thế kỷ tuyên truyền cổ động, Điều bổ sung sửa đổi thứ 19 trong Hiến
pháp đã được ban hành, có nội dung cấm sản xuất, bán hoặc vận chuyển các loại
đồ uống chứa cồn. Có mục tiêu là loại bỏ hình ảnh về các quán rượu và những
người nghiện rượu ra khỏi xã hội Mỹ, Luật Cấm rượu này lại làm nảy sinh hàng
ngàn quán rượu bất hợp pháp khác, được gọi là Speakeasy, kèm theo đó là một
hình thức tội phạm với lợi nhuận cao - vận chuyển rượu bất hợp pháp - nấp
dưới tên lóng là Boot - legging. Luật cấm này là một vấn đề nhạy cảm trong
thập niên 20, được tuân thủ ở các vùng nông thôn và bị vi phạm rộng rãi tại
các khu vực thành thị Mỹ. Khi cuộc Đại suy thoái nổ ra, đạo luật này càng
ngày càng trở nên không còn phù hợp. Điều bổ sung sửa đổi thứ 18 đã được khôi
phục vào năm 1933.
|
Fundamentalism and Prohibition were aspects of a larger
reaction to a modernist social and intellectual revolution most visible in
changing manners and morals that caused the decade to be called the Jazz Age,
the Roaring Twenties, or the era of "flaming youth." World War I
had overturned the Victorian social and moral order. Mass prosperity enabled
an open and hedonistic life style for the young middle classes.
|
Trào lưu chính thống và Đạo luật Cấm rượu là một phần dễ
thấy nhất trong những phản ứng rộng rãi đối với xã hội hiện đại và cuộc cách
mạng tri thức, với những lối cư xử và quy chuẩn đạo đức thay đổi, khiến cho
thập niên 20 được mệnh danh là thời đại nhạc Jazz, thập niên 20 ồn ào, hay kỷ
nguyên của thanh niên sôi nổi. Chiến tranh Thế giới Thứ nhất đã đảo lộn trật
tự đạo đức và trật tự xã hội thời Victoria. Sự thịnh vượng về kinh tế đã tạo
nên một phong cách sống cởi mở và hưởng lạc trong tầng lớp thanh niên trung
lưu.
|
The leading intellectuals were supportive. H.L. Mencken,
the decade's most important social critic, was unsparing in denouncing sham
and venality in American life. He usually found these qualities in rural
areas and among businessmen. His counterparts of the progressive movement had
believed in "the people" and sought to extend democracy. Mencken,
an elitist and admirer of Nietzsche, bluntly called democratic man a boob and
characterized the American middle class as the "booboisie."
|
Các nhà học giả hàng đầu đã bày tỏ quan điểm ủng hộ sự
thay đổi này. H.L. Mencken, một nhà phê bình xã hội nổi tiếng nhất của thập
niên 20, đã lên án không thương xót tính giả tạo và nịnh đầm đã tồn tại trong
đời sống của người Mỹ. Ông đã thường xuyên quan sát thấy những biểu hiện này
ở các vùng nông thôn và trong giới doanh nhân. Những người ủng hộ ông trong
các phong trào tiến bộ đã bày tỏ lòng tin của họ vào nhân dân và lớn tiếng
kêu gọi một xã hội dân chủ. Mencken, tín đồ của Nietzsche, đã gọi nhân vật
ủng hộ dân chủ này là kẻ khờ khạo và coi tầng lớp trung lưu Mỹ là tầng lớp
khờ khạo.
|
Novelist F. Scott Fitzgerald captured the energy, turmoil,
and disillusion of the decade in such works as The Beautiful and the Damned
(1922) and The Great Gatsby (1925). Sinclair Lewis, the first American to win
a Nobel Prize for literature, satirized mainstream America in Main Street
(1920) and Babbitt (1922). Ernest Hemingway vividly portrayed the malaise
wrought by the war in The Sun Also Rises (1926) and A Farewell to Arms
(1929). Fitzgerald, Hemingway, and many other writers dramatized their
alienation from America by spending much of the decade in Paris.
|
Nhà văn F. Scott Fitzgerald đã mô tả sức sống, sự hỗn loạn
và ảo tưởng của dân chúng Mỹ trong thập niên này qua các cuốn sách của ông
như Người đẹp và những tâm hồn bị đày đọa (1922), Gatsby vĩ đại (1925).
Sinclair Lewis, người Mỹ đầu tiên đoạt giải Nobel văn học đã chế nhạo những
người bao thu chật hẹp ích kỷ, chỉ chạy theo lợi nhuận trong tiểu thuyết trên
đường phố (In Street 1920) và Babbitt (1922). Ernest Hemingway đã phác họa
tình trạng bất ổn do cuộc chiến gây ra qua cuốn tiểu thuyết Mặt trời cũng mọc
(1926) và cuốn Từ biệt vũ khí (1929). Fitzgerald, Hemingway, và nhiều nhà văn
nổi tiếng khác đã thể hiện sự xa lánh nước Mỹ của mình bằng cách chuyển đến
sống ở Paris trong hầu hết thập niên đó.
|
African-American culture flowered. Between 1910 and 1930,
huge numbers of African Americans moved from the South to the North in search
of jobs and personal freedom. Most settled in urban areas, especially New
York City's Harlem, Detroit, and Chicago. In 1910 W.E.B. Du Bois and other
intellectuals had founded the National Association for the Advancement of
Colored People (NAACP), which helped African Americans gain a national voice
that would grow in importance with the passing years.
|
Văn hóa Mỹ gốc Phi cũng nở rộ. Vào khoảng thời gian từ năm
1910 đến năm 1930, hàng loạt người Mỹ da đen đã di cư từ miền Nam lên miền
Bắc để tìm kiếm việc làm và tự do cá nhân. Phần lớn trong số họ định cư ở các
khu vực đô thị như Harlem của thành phố New York, Detroit, và Chicago. Vào
năm 1910, W.E.B Dubois và những trí thức khác đã thành lập Hiệp hội quốc gia
vì sự tiến bộ của người da đen (NAACP), nhằm giúp đỡ người Mỹ gốc Phi giành
được tiếng nói trên toàn đất Mỹ, một tiếng nói ngày càng có tầm quan trọng trong
những năm sau đó.
|
An African-American literary and artistic movement, called
the "Harlem Renaissance," emerged. Like the "Lost
Generation," its writers, such as the poets Langston Hughes and Countee
Cullen, rejected middle-class values and conventional literary forms, even as
they addressed the realities of African-American experience. African-American
musicians -- Duke Ellington, King Oliver, Louis Armstrong -- first made jazz
a staple of American culture in the 1920's.
|
Đồng thời, một phong trào văn học và nghệ thuật của người
Mỹ gốc Phi lấy tên là Phong trào phục hưng ở khu Harlem đã xuất hiện. Giống
như phong trào Thế hệ đã mất, những nhà văn như Langston Hughes và Countee
Cullen đã chối bỏ các giá trị của giai cấp trung lưu và những hình thức văn chương
truyền thống khi họ mô tả cuộc sống hiện thực của người Mỹ trong các tác phẩm
của mình. Các nhạc sỹ người Mỹ gốc Phi như Duke Ellington, King Oliver, Louis
Armstrong lần đầu tiên đã khiến nhạc Jazz trở thành một yếu tố chính trong
đời sống văn hóa Mỹ trong những năm 1920.
|
THE GREAT DEPRESSION
|
CUỘC ĐẠI SUY THOÁI
|
|
In the depths of the
Great Depression, March 1933, anxious depositors line up outside of a New
York bank. The new president, Franklin D. Roosevelt, had just temporarily
closed the nation's banks to end the drain on the banks' reserves. Only those
banks that were still solvent were permitted to reopen after a four-day
"bank holiday."
(New York Daily
News)
|
Trong chiều sâu của
cuộc Đại suy thoái, Tháng 3 năm 1933, dòng người gửi tiền lo lắng bên ngoài
một ngân hàng New York. Tổng thống mới, Franklin D. Roosevelt, vừa tạm thời
đóng cửa các ngân hàng của quốc gia để chấm dứt kiệt quệ dự trữ của các ngân
hàng. Chỉ có những ngân hàng vẫn còn thanh khoản mới được phép mở cửa trở lại
sau "kỳ đóng cửa ngân hàng." bốn ngày
(New York Daily
News)
|
In October 1929 the booming stock market crashed, wiping
out many investors. The collapse did not in itself cause the Great
Depression, although it reflected excessively easy credit policies that had
allowed the market to get out of hand. It also aggravated fragile economies
in Europe that had relied heavily on American loans. Over the next three
years, an initial American recession became part of a worldwide depression.
Business houses closed their doors, factories shut down, banks failed with
the loss of depositors' savings. Farm income fell some 50 percent. By November
1932, approximately one of every five American workers was unemployed.
|
Tháng 10/1929, thị trường chứng khoán đang phát triển mạnh
đã bị sụp đổ khiến nhiều nhà đầu tư phá sản. Nhưng việc thị trường chứng
khoán sụp đổ không trực tiếp gây ra cuộc Đại suy thoái, mặc dù nó đã phản ánh
chuyện các chính sách tín dụng quá dễ dãi đã khiến thị trường vượt ra ngoài
tầm kiểm soát. Nó cũng làm trầm trọng hơn nền kinh tế vốn đã mong manh ở châu
Âu - là thị trường có liên quan chặt chẽ đến các khoản cho vay của nước Mỹ.
Trong ba năm sau đó, cuộc suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ đã trở thành
một phần của cuộc suy thoái kinh tế trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp đóng
cửa, các nhà máy ngừng sản xuất, các nhà băng phá sản vì mất các khoản tiền
gửi tiết kiệm. Thu nhập nông nghiệp giảm khoảng 50%. Đến tháng 11/1932, cứ
năm người Mỹ thì có khoảng một người thất nghiệp.
|
The presidential campaign of 1932 was chiefly a debate
over the causes and possible remedies of the Great Depression. President
Herbert Hoover, unlucky in entering the White House only eight months before
the stock market crash, had tried harder than any other president before him
to deal with economic hard times. He had attempted to organize business, had
sped up public works schedules, established the Reconstruction Finance
Corporation to support businesses and financial institutions, and had secured
from a reluctant Congress an agency to underwrite home mortgages.
Nonetheless, his efforts had little impact, and he was a picture of defeat.
|
Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1932 chủ yếu là cuộc
tranh luận về các nguyên nhân và những giải pháp có thể cho cuộc Đại suy
thoái. Tổng thống Herbert Hoover đã không may mắn khi bước vào Nhà Trắng chỉ
tám tháng trước khi thị trường chứng khoán tan vỡ, đã buộc phải nỗ lực và làm
việc căng thẳng hơn bất kỳ tổng thống Mỹ nào trước đó để đối phó với giai
đoạn kinh tế vô cùng khó khăn này. Ông đã cố gắng tổ chức kinh doanh, đẩy
nhanh tiến độ xây dựng những công trình công cộng, thành lập Công ty Tái
thiết Tài chính nhằm hỗ trợ các thể chế kinh doanh và tài chính, và đã thuyết
phục Quốc hội còn đang miễn cưỡng, cho phép thành lập một cơ quan bảo lãnh
thế chấp nhà cửa. Tuy nhiên, các nỗ lực của ông không có mấy hiệu quả và ông
đã là một hình ảnh của sự thất bại.
|
His Democratic opponent, Franklin D. Roosevelt, already
popular as the governor of New York during the developing crisis, radiated
infectious optimism. Prepared to use the federal government's authority for
even bolder experimental remedies, he scored a smashing victory -- receiving
22,800,000 popular votes to Hoover's 15,700,000. The United States was about
to enter a new era of economic and political change.
|
Đối thủ thuộc Đảng Dân chủ của ông là Franklin
D.Roosevelt, vốn đã nổi tiếng từ khi làm thống đốc bang New York trong thời
kỳ khủng hoảng đang lên cao. Từ ông luôn tỏa ra một tinh thần lạc quan có
tính lan tỏa mạnh. Sẵn sàng sử dụng quyền lực nhà nước để đưa ra các giải
pháp còn mạnh tay hơn, Roosevelt đã giành được 22.800.000 phiếu bầu phổ thông
so với 15.700.000 phiếu bầu cho Tổng thống đương nhiệm Hoover. Nước Mỹ đang
chuẩn bị bước vào một kỷ nguyên mới với sự thay đổi lớn về kinh tế và chính
trị.
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn