MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Showing posts with label ECONOMICS-Kinh tế. Show all posts
Showing posts with label ECONOMICS-Kinh tế. Show all posts

Friday, September 8, 2017

VENEZUELA’S UNPRECEDENTED COLLAPSE Sự sụp đổ chưa từng có của Venezuela



VENEZUELA’S UNPRECEDENTED COLLAPSE


Sự sụp đổ chưa có tiền lệ của Venezuela

RICARDO HAUSMANN
RICARDO HAUSMANN

Ricardo Hausmann, a former minister of planning of Venezuela and former Chief Economist of the Inter-American Development Bank, is Director of the Center for International Development at Harvard University and a professor of economics at the Harvard Kennedy School.
Ricardo Hausmann, cựu Bộ trưởng Kế hoạch của Venezuela và cựu Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, là Giám đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế tại Đại học Harvard và là giáo sư kinh tế tại Trường Kennedy thuộc Đại học Harvard.
CAMBRIDGE – In a hastily organized plebiscite on July 16, held under the auspices of the opposition-controlled National Assembly to reject President Nicolás Maduro’s call for a National Constituent Assembly, more than 720,000 Venezuelans voted abroad. In the 2013 presidential election, only 62,311 did. Four days before the referendum, 2,117 aspirants took Chile’s medical licensing exam, of which almost 800 were Venezuelans. And on July 22, when the border with Colombia was reopened, 35,000 Venezuelans crossed the narrow bridge between the two countries to buy food and medicines.

CAMBRIDGE – Trong cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vội vã hôm 16 tháng 7 dưới sự bảo hộ của phe đối lập kiểm soát Quốc hội để phản đối lời kêu gọi thành lập Hội đồng Lập hiến Quốc gia của Tổng thống Nicolás Maduro, hơn 720.000 công dân Venezuela đã bỏ phiếu ở nước ngoài. Trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2013 chỉ có 62.311 người bỏ phiếu như vậy. Bốn ngày trước cuộc trưng cầu dân ý, 2.117 thí sinh đã tham gia cuộc sát hạch giấy phép hành nghề y tế của Chile, trong đó có gần 800 người Venezuela. Và ngày 22 tháng 7, khi biên giới với Colombia được mở lại, 35.000 người Venezuela đã băng qua cây cầu hẹp giữa hai nước để mua thực phẩm và thuốc men.

Venezuelans clearly want out – and it’s not hard to see why. Media worldwide have been reporting on Venezuela, documenting truly horrible situations, with images of starvation, hopelessness, and rage. The cover of The Economist’s July 29 issue summed it up: “Venezuela in chaos.”

Người dân Venezuela rõ ràng muốn rời đi – và không khó để biết được lý do tại sao. Truyền thông trên khắp thế giới đã đưa tin về Venezuela, miêu tả những tình cảnh thực sự khốn cùng, với những hình ảnh về sự đói khát, tuyệt vọng, và giận dữ. Trang bìa của tờ The Economist số ngày 29 tháng 7 đã tóm gọn tất cả trong một câu: “Venezuela trong cơn hỗn loạn”.

Thursday, June 23, 2016

How to Create Starvation in 2016 Làm sao tạo ra được nạn đói vào năm 2016?



How to Create Starvation in 2016

Làm sao tạo ra được nạn đói vào năm 2016?
Jeffrey A. Tucker
Monday, June 20, 2016

Jeffrey A. Tucker
20/6/2016

One of the great achievements of the human mind is having produced a solution to the single greatest challenge of life on earth: getting enough to eat. Shelter and clothing are no brainers by comparison. You find a cave, you snag a pelt, and you are good to go.

Một trong những thành tựu vĩ đại của trí tuệ con người là tìm ra giải pháp cho thách thức lớn nhất đối với sự sống trên trái đất: kiếm đủ thức ăn. So sánh với ăn thì mặc và ở chỉ là chuyện nhỏ. Chỉ cần tìm được một cái hang và trải tấm da là xong.

Monday, October 19, 2015

THE TRANS-PACIFIC FREE-TRADE CHARADE Chiêu Bài của TPP

THE TRANS-PACIFIC FREE-TRADE CHARADE

Chiêu Bài của TPP



By Joseph E. Stiglitz & Adam S. Hersch
Project Syndicate
2-Oct-2015

Joseph E. Stiglitz & Adam S. Hersch
Project Syndicate
2-10-2015

NEW YORK – As negotiators and ministers from the United States and 11 other Pacific Rim countries meet in Atlanta in an effort to finalize the details of the sweeping new Trans-Pacific Partnership (TPP), some sober analysis is warranted. The biggest regional trade and investment agreement in history is not what it seems.

NEW YORK – Khi các nhà đàm phán và các bộ trưởng của Hoa Kỳ và 11 quốc gia khác trong Vành Đai Thái Bình Dương họp tại Atlanta để nỗ lực đúc kết các chi tiết nhằm đổi mới Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP), có một số phân tích nghiêm chỉnh đã cảnh báo là hiệp định mậu dịch và đầu tư khu vực lớn nhất trong lịch sử không phải là những gì như nó thể hiện.

Sunday, January 19, 2014

Rice farming in Vietnam: Against the grain Trồng lúa ở Việt Nam: lúa lổ là lỗ





Rice farming in Vietnam: Against the grain
Trồng lúa ở Việt Nam: lúa lổ là lỗ

TheEconomist
Jan 18th 2014
TheEconomist
18.1.2014
Vietnam’s farmers are growing a crop that no longer pays its way

Người nông dân Việt Nam đang canh tác thứ cây trồng không còn mang lại lợi nhuận

HANOI AND CHAU DOC
THE prospect from Sam mountain, a rocky outcrop in southern Vietnam’s Mekong delta, is timeless. Paddy fields shine emerald. Irrigation canals reflect the sunlight like mirrors. Three times a year, farmers in surrounding towns put on their rubber boots and plant rice seedlings in the deep soil. A few months later they sell their sacks of grain to traders, who bring it to riverside mills for processing. In its essence, this activity is timeless, too.

HANOI AND CHAU DOC
Tiềm năng của núi Sam (một ngọn núi ở đồng bằng sông Cửu Long) quả là vô hạn định. Những cánh đồng lúa xanh rờn. Những con kênh tưới tiêu lấp loáng ánh mặt trời. Cứ mỗi năm ba lần, những người nông dân ở các thị tứ xung quanh lại mang ủng cao su cấy lúa trên những thửa ruộng thấp trũng. Vài tháng sau, họ lại bán các bao tải lúa cho tư thương, những người sẽ mang đến các nhà máy ven sông để xay xát. Về cơ bản, hoạt động này cũng diễn ra vô hạn định.

Friday, June 21, 2013

The Clash of Economic Ideas Sự xung đột của các tư tưởng kinh tế




The Clash of Economic Ideas

Sự xung đột của các tư tưởng kinh tế

FEE, JUNE 27, 2012
FEE, 27/06/2012
by LAWRENCE H. WHITE
Lawrence H. White


At England’s stately University of Cambridge in fall 1905, a clever postgraduate mathematics student named John Maynard Keynes began his first and only course in economics. He would spend eight weeks studying under the renowned Professor Alfred Marshall. During the summer Keynes had read the then-current (third) edition of Marshall’s Principles of Economics, a synthesis of classical and new doctrines that was the leading economics textbook in the English-speaking world. Marshall was soon impressed with Keynes’s talent in economics. So was Keynes himself. “I think I am rather good at it,” he confided to an intimate friend, adding, “It is so easy and fascinating to master the principle of these things.” A week later he wrote: “Marshall is continually pestering me to turn professional Economist.”

Vào mùa thu năm 1905, tại trường Đại Học Cambridge trang nghiêm của nước Anh, một sinh viên trên bậc đại học tên là John Maynard Keynes[2] bắt đầu học khoá đầu tiên và khoá duy nhất về kinh tế. Ông theo học tám tuần lễ dưới sự hướng dẫn của giáo sư nổi danh Alfred Marshall[3]. Trong mùa hè Keynes đã đọc tác phẩm (xuất bản lần thứ ba) lúc bấy giờ rất thịnh hành là Các Nguyên Tắc về Kinh Tế của Marshall, trong đó có tổng hợp các lý thuyết kinh tế cổ điển và mới, và lúc đó là cuốn sách giáo khoa kinh tế đứng hàng đầu trong thế giới nói tiếng Anh. Chẳng bao lâu, Marshall có những ấn tượng rất tốt về tài năng kinh tế của Keynes. Chính Keynes cũng có ấn tượng rất tốt về mình như vậy. Có lần ông ta nói với một bạn thân là: “Tôi nghĩ rằng tôi khá giỏi về kinh tế,” và nói thêm, “Rất thú vị và rất dễ dàng nắm vững nguyên lý của các vấn đề đó.” Một tuần lễ sau, ông ta viết: “Marshall cứ thúc giục tôi trở thành một kinh tế gia chuyên nghiệp.”

Saturday, March 9, 2013

An Outline of the U.S. Economy 3 Khái quát nền kinh tế Mỹ 3





An Outline of the U.S. Economy 3
Khái quát nền kinh tế Mỹ 3

CHAPTER 8: American Agriculture: Its Changing Significance
From the nation's earliest days, farming has held a crucial place in the American economy and culture. Farmers play an important role in any society, of course, since they feed people. But farming has been particularly valued in the United States. Early in the nation's life, farmers were seen as exemplifying economic virtues such as hard work, initiative, and self-sufficiency. Moreover, many Americans -- particularly immigrants who may have never held any land and did not have ownership over their own labor or products -- found that owning a farm was a ticket into the American economic system. Even people who moved out of farming often used land as a commodity that could easily be bought and sold, opening another avenue for profit.

Chương 8: Ngành nông nghiệp Mỹ: Tầm quan trọng đang thay đổi

Vào những ngày đầu tiên của quốc gia này, hoạt động nông nghiệp đã giữ một vị trí chủ yếu trong nền kinh tế và văn hóa Hoa Kỳ. Tất nhiên, nông dân có một vai trò quan trọng trong bất cứ xã hội nào vì họ nuôi sống mọi người. Nhưng hoạt động nông nghiệp được đánh giá đặc biệt ở nước Mỹ. Trong giai đoạn ban đầu của đất nước, người nông dân được coi là khuôn mẫu cho những đức tính cần thiết trong hoạt động kinh tế như cần cù chịu khó, sáng tạo, và làm ăn tự chủ. Hơn thế nữa, nhiều người Mỹ - đặc biệt là những người nhập cư chưa bao giờ có một mảnh đất và chưa từng có quyền sở hữu đối với sức lao động và sản phẩm của chính mình - thấy rằng sở hữu một trang trại là chiếc vé để đi vào hệ thống kinh tế Mỹ. Ngay cả những người đã rời bỏ nông nghiệp cũng thường sử dụng đất đai như một loại hàng hóa rất dễ mua và bán để mở ra con đường kiếm lời khác.

An Outline of the U.S. Economy 2 Khái quát nền kinh tế Mỹ 2






An Outline of the U.S. Economy 2
Khái quát nền kinh tế Mỹ 2

This volume was prepared for the U.S. Department of State by Christopher Conte, a former editor and reporter for the Wall Street Journal, with Albert R. Karr, a former Wall Street Journal reporter. It updates several previous editions that had been issued by the U.S. Information Agency beginning in 1981.

Ấn phẩm này được soạn cho Bộ Ngoại giao Mỹ bởi hai tác giả, Christopher Conte, cựu biên tập viên và phóng viên cho tờ Wall Street Journal, và Albert R. Karr, cựu phóng viên Wall Street Journal. Cập nhật một số phiên bản trước đó đã được Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ phát hành lần đầu  vào năm 1981.

Wednesday, February 20, 2013

The Fall and Rise of the West Sự suy trầm và trổi dậy của phương Tây






The Fall and Rise of the West

Sự suy trầm trổi dậy của phương Tây

Roger C. Altman
Foreign Affairs
04-02-2013

Roger C. Altman
Foreign Affairs
04-02-2013



Why America and Europe Will Emerge Stronger From the Financial Crisis

Tại sao Mỹ và Châu Âu sẽ nổi lên mạnh mẽ hơn từ cuộc khủng hoảng tài chính
The 2008 financial crisis and the Great Recession that followed have had devastating effects on the U.S. economy and millions of American lives. But the U.S. economy will emerge from its trauma stronger and widely restructured. Europe should eventually experience a similar strengthening, although its future is less certain and its recovery will take longer to develop. The United States is much further along because its financial crisis struck three years before Europe’s, in 2008, causing headwinds that have pressured it ever since. It will take another two to three years for these to subside, but after that, U.S. economic growth should outperform expectations. In contrast, Europe is still in the midst of its financial crisis. If historical logic prevails there, it will take four to six years for strong European growth to materialize.

2008 cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái Great sau đó đã có tác động tàn phá đối với nền kinh tế Mỹ và hàng triệu người Mỹ. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ sẽ nổi lên từ chấn thương của nó mạnh hơn và tái cơ cấu rộng rãi. Châu Âu cuối cùng sẽ trải nghiệm một tăng cường tương tự, mặc dù tương lai của nó là ít chắc chắn hơn và phục hồi của nó sẽ mất nhiều thời gian để phát triển. Hoa Kỳ là nhiều hơn nữa cùng vì cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ba năm trước khi châu Âu, trong năm 2008, gây ra những cơn gió ngược đã gây áp lực nó từ bao giờ. Nó sẽ mất 2-3 năm để cho các giảm dần, nhưng sau đó, kinh tế Mỹ tăng trưởng tốt hơn mong đợi. Ngược lại, châu Âu vẫn còn ở giữa của cuộc khủng hoảng tài chính. Nếu lịch sử lý chiếm ưu thế đó, nó sẽ mất 4-6 năm cho Châu Âu cũng tăng mạnh mẽ trở thành hiện thực.


Tuesday, February 19, 2013

Why the Founding Fathers Loved the National Debt Tại sao những người lập quốc Mỹ thích có nợ công




President George W. Washington signed this bond worth $185.98 of assumed debt in 1792. Source: Collection of the Museum of American Finance

Tổng thống George W. Washington ký trái phiếu trị giá 185.98 USD một món nợ giả định vào năm 1792. Nguồn: Bộ Sưu tập của Bảo tàng Tài chính Mỹ.

Why the Founding Fathers Loved the National Debt

Tại sao những người lập quốc Mỹ thích có nợ công

By William Hogeland
Bloomberg
Jan 25, 2013

William Hogeland
Bloomberg
25/1/2013



Although Republicans in Congress agreed this week to suspend the U.S. debt limit for three months and forestalled another budgetary showdown, most commentators think the peace won’t last.

Mặc dù các đảng viên Cộng hòa trong Quốc hội tuần này (25/1/2013) đã đồng ý hoãn giới hạn nợ của Mỹ thêm 3 tháng và chặn trước một cuộc đấu về ngân sách khác, hầu hết các nhà bình luận cho rằng hòa bình sẽ không kéo dài lâu.

There’s sure to be a fight over automatic spending cuts scheduled to kick in March 1 (part of last year’s debt-ceiling deal), followed by a looming deadline for funding the government that could lead to a shutdown. And House Speaker John Boehner has vowed to block any long-term increase in the debt ceiling without corresponding spending cuts -- in effect, holding out the possibility of default as a means of controlling the country’s debt.

Chắc chắn sẽ có một cuộc đấu về các khoản cắt giảm chi tiêu tự động vào ngày 1 tháng 3 (một phần trong thỏa thuận trần nợ công năm ngoái), sau đó là hạn chót lờ mờ hiện ra về ngừng tài trợ khiến chính phủ liên bang có thể phải đóng cửa. Và Chủ tịch Hạ viện John Boehner đã thề sẽ ngăn cản bất kì sự gia tăng dài hạn nào trong mức trần nợ công mà không có sự giảm chi tiêu tương ứng - trên thực tế, đưa ra triển vọng vỡ nợ như là một cách để kiểm soát nợ quốc gia.

As Republicans engage in this brinkmanship, they claim to be defending principles enshrined in the Constitution: low federal taxes, little spending, no public debt.

Khi các đảng viên Cộng hòa áp dụng chính sách 'bên miệng hố chiến tranh' này, họ tuyên bố nhằm bảo vệ các nguyên tắc được ghi trong Hiến pháp: thuế liên bang thấp, chi tiêu ít, không nợ công.

In fact, however, the Founding Fathers were deeply committed to -- some might say obsessed with -- supporting a national debt. And during the founding period, the threat of default came not from conservatives but from what the founders, at least, saw as a radical left.

Tuy nhiên, trên thực tế, các Tổ phụ lập quốc (Founding Fathers) đã cam kết sâu sắc - một số người có thể nói là ám ảnh - với việc ủng hộ nợ quốc gia. Và trong giai đoạn thành lập, mối nguy vỡ nợ không phải đến từ những người bảo thủ mà từ những người mà các nhà lập quốc, ít nhất, thấy là từ phía tả cấp tiến.

It’s a fact so little-understood as to remain startling that the Constitution, far from trying to limit federal borrowing and shrink government, was specifically intended to create a large and mighty government capable of taxing all Americans for the purpose of funding a large federal debt.

Thực tế ít được hiểu rõ này vẫn gây ngạc nhiên là Hiến pháp, không phải hạn chế vay mượn liên bang và thu nhỏ chính phủ, mà thực sự nhằm tạo ra một chính phủ lớn và hùng mạnh có khả năng đánh thuế tất cả những người dân Mỹ để có thể tài trợ nợ liên bang lớn.

Domestic Debt

Although many historians today focus on the Revolutionary War debt to foreign countries, the kind of debt that captivated the founders themselves, and served as one of the main prods to forming a nation, was domestic. It involved multiple tiers of bonds, issued by the wartime Congress and bought by wealthy American investors, who hoped to finance the war in return for tax-free interest payments of 6 percent. The first American financiers, in other words, were also the first American nationalists.

Nợ trong nước

Mặc dù nhiều sử gia ngày nay tập trung vào món nợ từ Chiến tranh Cách mạng đối với nước ngoài, loại thuế có sự hấp dẫn đối với các nhà lập quốc, và được dùng như là một trong những cột trụ chính để hình thành quốc gia, đó là thuế trong nước. Nó bao gồm nhiều tầng lớp trái phiếu, được phát hành bởi Quốc hội thời chiến và được các nhà đầu tư Mỹ giàu có mua, những người hi vọng tài trợ chiến tranh để đổi lấy các khoản lãi suất 6% được hưởng mà không phải chịu thuế. Nói cách khác, những nhà tư bản tài chính Mỹ đầu tiên cũng là những người theo chủ nghĩa dân tộc Mỹ.

Both the young Alexander Hamilton (savviest of the founders regarding finance) and his mentor Robert Morris (the wartime Congress’s superintendent of finance and America’s first central banker) believed that a domestic debt, supported by federal taxes collected from all the states, would unify the country. It would concentrate wealth, and yoke that wealth to a consolidated government. The goal was a nation capable of grand projects -- ultimately an economic empire to compete with England’s.

Cả Alexander Hamilton trẻ tuổi (người hiểu biết nhất về vấn đề tài chính trong số những nhà lập quốc) và cố vấn của ông là Robert Morris (người phụ trách tài chính của Quốc hội thời chiến và chủ ngân hàng trung ương đầu tiên của Mỹ) tin rằng nợ trong nước, được hậu thuẫn bởi thuế liên bang thu từ tất cả các bang, sẽ thống nhất đất nước. Nó sẽ tập trung sự giàu có, và liên kết sự giàu có này với một chính phủ hợp nhất. Mục tiêu là một quốc gia có khả năng thực hiện những dự án vĩ đại - nhằm mục tiêu tối thượng là một cường quốc kinh tế để cạnh tranh được với nền kinh tế Anh quốc.

Other famous founders worked with Morris and Hamilton in building nationhood around the public debt. James Madison, who became Hamilton’s political enemy in the 1790s, was among his closest allies for nationalism in the 1780s. Madison’s famous “Federalist No. 10” conveys a horror of default on the domestic debt as deep as anything ever expressed by Hamilton.

Các nhà lập quốc nổi tiếng khác cộng tác với Morris và Hamilton trong việc xây dựng tính quốc gia xung quanh nợ công. James Madison, người sau này trở thành đối thủ chính trị của Hamilton vào những năm 1790, là một trong những đồng minh thân cận nhất của ông về vấn đề chủ nghĩa dân tộc trong những năm 1780. Bài luận 'Lập chế độ liên bang số 10' nổi tiếng của Madison, truyền đạt viễn cảnh khủng khiếp nếu vỡ nợ nợ trong nước, cũng uyên bác như bất kì bài nào từng được Hamilton trình bày.

In letters written before the Constitutional Convention to George Washington, another supporter of sustaining federal debt via taxes, Madison made clear the nationalists’ shared desire to shore up public credit by throwing out the Articles of Confederation and forming a nation. Edmund Randolph opened the convention by charging the delegates to redress the country’s failure to fund -- not pay off, fund -- the public debt by creating a national government with the power to do so.

Trong các bức thư được viết cho George Washington trước Hội nghị Lập hiến, một người ủng hộ duy trì nợ liên bang thông qua thuế khác, Madison, làm rõ khát vọng chung của những người dân tộc chủ nghĩa nhằm vực dậy tín dụng công, bằng cách đưa ra Điều lệ Liên bang và hình thành nhà nước. Edmund Randolph khai mạc Hội nghị bằng việc giao các đại biểu việc giải quyết thất bại của đất nước trong vấn đề tài trợ (không phải là trả nợ) nợ công bằng việc tạo ra chính phủ quốc gia với quyền lực để làm được việc này.

Economic Radicals

Still, there’s a problem for today’s liberals who might hope to cite the real U.S. fiscal history in opposing a “constitutional conservative” rationale for threatening national default. The founding alliance that made federal debt a supporter of nationhood, and nationhood a supporter of federal debt, came about in direct opposition to a radically egalitarian, communitarian movement that is in many ways the intellectual antecedent of modern social-contract liberalism.


Các nhà cấp tiến kinh tế

Tuy nhiên, vẫn tồn tại vấn đề đối với những người theo chủ nghĩa Tự do ngày nay, những người hy vọng nhắc lại lịch sử tài khóa thật sự của nước Mỹ để phản đối lập luận 'bảo thủ hiến pháp' về đe dọa vỡ nợ quốc gia. Mối liên kết khi hình thành đất nước mà thuế liên bang ủng hộ tính quốc gia, và tính quốc gia ủng hộ nợ liên bang, ngược hẳn với phong trào theo chủ nghĩa cộng đồng, chủ nghĩa quân bình cấp tiến mà trong nhiều cách thức là tiền đề trí tuệ của chủ nghĩa tự do khế ước xã hội hiện đại.

The radicals of that movement -- evinced in episodes such as Shays’ Rebellion -- wanted to devalue the merchant class’s crushing loans to ordinary people; disconnect bondholders and bankers from government; prevent widespread foreclosures; more tightly regulate business; and disseminate, rather than concentrate, American wealth.

Những người cấp tiến của phong trào này - chứng tỏ trong các tập phim như Cuộc nổi loạn của Shays - muốn phá giá các món nợ kiệt quệ của tầng lớp lái buôn đối với những người bình thường; phá vỡ liên kết giữa những người nắm giữ trái phiếu và chủ ngân hàng khỏi chính phủ; ngăn chặn các vụ tịch thu nhà tràn lan; điều tiết chặt chẽ hơn nữa việc kinh doanh; và phân tán, chứ không phải là tập trung, sự giàu có của nước Mỹ.

Default on the national debt was a horrifying prospect to the founders, but not because they thought it would damage ordinary people’s economic conditions. They knew default would demolish the political alliance between wealth and government that the nation’s founding had depended on. It was those early economic radicals the nation was formed to suppress.

Sự vỡ nợ quốc gia là một triển vọng đáng sợ đối với các nhà lập quốc, nhưng không phải bởi vì họ nghĩ rằng nó sẽ phá hoại các điều kiện kinh tế của người dân bình thường, mà họ biết rằng vỡ nợ sẽ phá hủy mối liên minh chính trị giữa sự giàu có và chính phủ mà sự hình thành quốc gia đã dựa vào đó. Nhà nước được hình thành để đàn áp chính những nhà cấp tiến kinh tế ban đầu đó


To debate today’s fiscal issues usefully might entail both sides’ acknowledging the less edifying elements of our founding period -- and moving beyond fantasies about what the founders supposedly would have wanted.

Để thảo luận các vấn đề tài khóa ngày nay một cách hữu ích có lẽ cần sự thừa nhận của cả hai bên về các yếu tố ít rõ ràng hơn về thời kỳ lập quốc của chúng ta - và vượt ra ngoài những ảo tưởng về những mong muốn giả định của các nhà lập quốc.

(William Hogeland’s most recent book is “Founding Finance: How Debt, Speculation, Foreclosures, Protests, and Crackdowns Made Us a Nation.” The opinions expressed are his own.)
(Sách mới nhất của tác giả William Hogeland là "Tài chính lập quốc: Nợ, đầu cơ, tịch biên, biểu tình và đàn áp đã hình thành nước Mỹ như thế nào" - "Founding Finance: How Debt, Speculation, Foreclosures, Protests, and Crackdowns Made Us a Nation.")


Translated by




Piracy and Fraud Propelled the U.S. Industrial Revolution Ăn cắp bản quyền và gian lận thương mại thúc đẩy cách mạng công nghiệp nước Mỹ





Francis Cabot Lowell's industrial empire was built, in part, on stolen intellectual property. Source: Library of Congress Prints and Photographs Division

Đế chế công nghiệp của Francis Cabot Lowell được xây dựng, một phần, dựa trên ăn cắp tài sản trí tuệ. Nguồn: Thư viện Quốc hội (Mỹ). Phòng In ấn và Nhiếp ảnh.

Piracy and Fraud Propelled the U.S. Industrial Revolution

Ăn cắp bản quyền và gian lận thương mại thúc đẩy cách mạng công nghiệp nước Mỹ


By Peter Andreas
Bloomberg
Feb 1, 2013
Peter Andreas
Bloomberg
1/2/2013


Although typically glossed over in high-school textbooks, as a young and newly industrializing nation the U.S. aggressively engaged in the kind of intellectual-property theft it now insists other countries prohibit.

Mặc dù thường được che đậy trong các sách giáo khoa trung học, khi còn là quốc gia non trẻ và mới công nghiệp hóa, nước Mỹ đã tích cực chủ động trong việc ăn cắp tài sản trí tuệ mà ngày nay nước này vẫn kiên quyết yêu cầu các nước khác cấm (hành vi ăn cắp đó).

In other words, the U.S. government’s message to China and other nations today is “Do as I say, not as I did.”

Hay nói cách khác, thông điệp của Chính phủ Mỹ đối với Trung Quốc và các quốc gia khác ngày nay là "Làm như tao nói, đừng làm như tao đã làm".

In its adolescent years, the U.S. was a hotbed of intellectual piracy and technology smuggling, particularly in the textile industry, acquiring both machines and skilled machinists in violation of British export and emigration laws. Only after it had become a mature industrial power did the country vigorously campaign for intellectual-property protection.

Trong những năm non trẻ của mình, nước Mỹ là hang ổ ăn cắp bản quyền và buôn lậu công nghệ, đặc biệt là trong ngành dệt may, mua cả máy móc và các thợ máy lành nghề mà vi phạm luật xuất khẩu và di cư của nước Anh. Chỉ sau khi trở thành cường quốc công nghiệp trưởng thành, nước Mỹ mới có các chiến dịch mạnh mẽ yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

The U.S. emerged from the Revolutionary War acutely aware of Europe’s technological superiority. It aspired to catch up and rapidly close the technology gap. The prevailing hope was that the acquisition of new industrial technologies from abroad would help solve the country’s chronic labor shortage and enhance its self-sufficiency and competitiveness.

Nước Mỹ nổi lên từ Chiến tranh Cách mạng nhận thức sâu sắc được tính ưu việt công nghệ của châu Âu. Nó khao khát bắt kịp và nhanh chóng thu hẹp khoảng cách công nghệ. Hi vọng phổ biến là việc mua những công nghệ công nghiệp mới từ nước ngoài sẽ góp phần giải quyết việc thiếu hụt lao động kinh niên của đất nước và tăng cường tính tự chủ cũng như khả năng cạnh tranh.

As the Pennsylvania Gazette put it in 1788: “Machines appear to be objects of immense consequence to this country.” It was therefore appropriate to “borrow of Europe their inventions.” “Borrow,” of course, really meant “steal,” since there was certainly no intention of giving the inventions back.

Như báo Pennsylvania Gazette đưa tin vào năm 1788: "Các máy móc dường như có tầm quan trọng lớn đối với đất nước." Do đó, việc "mượn các phát minh của châu Âu" là thích hợp. Tất nhiên, "mượn" ở đây thật sự nghĩa là "ăn cắp", bởi vì hiển nhiên là không hề có ý định trả lại các phát minh này.

Hamilton’s Manifesto

The most candid mission statement in this regard was Alexander Hamilton’s “Report on Manufactures,” submitted to Congress in December 1791. “To procure all such machines as are known in any part of Europe can only require a proper provision and due pains,” Hamilton wrote. “The knowledge of several of the most important of them is already possessed. The preparation of them here is, in most cases, practicable on nearly equal terms.”

Bản tuyên ngôn của Hamilton

Thông báo sứ mệnh thật thà nhất liên quan đến vấn đề này là 'Báo cáo công nghiệp' (Report on Manufactures) của Alexander Hamilton, trình lên Quốc hội vào tháng 12 năm 1791. 'Để mua tất cả các máy như được biết đến ở bất kì đâu ở châu Âu chỉ có thể yêu cầu một điều khoản thích hợp và những đau đớn thích đáng,' Hamilton viết. 'Kiến thức về một vài máy móc quan trọng nhất đã được sở hữu. Trong hầu hết các trường hợp, sự chuẩn bị của những máy móc này ở đây là thực hiện được trong những điều kiện gần như tương tự.'

Notice that Hamilton wasn’t urging the development of indigenous inventions to compete with Europe but rather the direct procurement of European technologies through “proper provision and due pains” -- meaning, breaking the laws of other countries. As the report acknowledged, most manufacturing nations “prohibit, under severe penalties, the exportation of implements and machines, which they have either invented or improved.” At least part of the “Report on Manufactures” can therefore be read as a manifesto calling for state-sponsored theft and smuggling.

Chú ý rằng Hamilton không hề thúc giục sự phát triển các phát minh bản xứ để cạnh tranh, mà thay vào đó là mua trực tiếp công nghệ của châu Âu thông qua 'điều khoản thích hợp và những đau đớn thích đáng' - có nghĩa là, vi phạm luật lệ của các nước khác. Như báo cáo đã thừa nhận, hầu hết các quốc gia công nghiệp 'cấm, thông qua trừng phạt nghiêm khắc, việc xuất khẩu công cụ và máy móc được họ phát minh và cải tiến.' Ít nhất một phần của 'Báo cáo công nghiệp' do đó có thể được coi là bản tuyên ngôn kêu gọi sự ăn cắp và buôn lậu dưới sự bảo trợ của nhà nước.

The first U.S. Patent Act encouraged this policy. Although the law safeguarded domestic inventors, it didn’t extend the same courtesy to foreign ones -- they couldn’t obtain a U.S. patent on an invention they had previously patented in Europe. In practice, this meant one could steal a foreign invention, smuggle it to the U.S., and develop it for domestic commercial applications without fear of legal reprisal.

Luật Bằng sáng chế Mỹ đầu tiên khuyến khích chính sách này. Mặ dù luật bảo vệ các nhà phát minh trong nước, luật không dành phần tương tự đối với các nhà phát minh nước ngoài - họ không thể có được bằng sáng chế Mỹ đối với các phát minh họ đã được đăng ký ở châu Âu. Trên thực tế, điều này có nghĩa là một ai đó có thể ăn cắp phát minh nước ngoài, buôn lậu vào nước Mỹ, và phát triển nó cho các ứng dụng thương mại nội địa mà không phải sợ bị trả đũa pháp lý.

The most important limitation to smuggling machines was that they were useless unless one knew how to use them. After all, they didn’t come with instructions. Thus, almost as important as the machines themselves were machinists from the British Isles who knew how to operate them. British emigration laws prohibited the departure of skilled machinists, but thousands still made the clandestine crossing to the U.S.

Hạn chế quan trọng nhất đối với buôn lậu máy móc là những máy móc này sẽ vô ích nếu không có ai đó biết cách sử dụng chúng, vì không có hướng dẫn. Vì vậy, cũng không kém phần quan trọng như các máy móc, là các thợ máy từ quần đảo Vương quốc Anh biết cách vận hành những máy móc này. Luật di cư Vương quốc Anh cấm các thợ máy lành nghề bỏ nước, nhưng hàng nghìn người vẫn bí mật đến nước Mỹ.
Remarkable Espionage

The most celebrated was Samuel Slater. Slater had worked his way up from a teenage apprentice to middle management at the Jedediah Strutt mills in Milford, England. Enticed by stories of opportunity and success in America, he pretended to be a non- skilled laborer and boarded a U.S.-bound ship in 1789. Leaving tools, machines, models and drawings behind, all he brought with him was his memory.

Các vụ gián điệp nổi bật

Nổi tiếng nhất là Samuel Slater. Slater đã đi từ một anh thợ học việc lên đến chức quản lý cấp trung tại nhà máy Jedediah Strutt ở Milford, nước Anh. Hấp dẫn bởi các câu chuyện về cơ hội và thành công ở nước Mỹ, ông giả vờ là một lao động giản đơn và lên tàu đi Mỹ vào năm 1789. Để lại sau lưng dụng cụ, máy móc, mô hình và các bản vẽ, tất cả những gì ông mang theo chỉ là trí nhớ.

Meanwhile, in Rhode Island, the industrialist Moses Brown was looking for someone to figure out how to use the spinning machines he had illicitly imported. Slater took on the job and moved to Pawtucket. Brown’s smuggled machines proved inoperable, but Slater was able to cannibalize them for parts and build his own. Soon, Slater-style mills were proliferating, and New England cloth manufacturing increased 50-fold from 1805 to 1815.

Trong khi đó, ở Rhode Island, nhà tư bản công nghiệp Moses Brown đang tìm kiếm ai đó có thể biết  làm thế nào để sử dụng máy quay sợi mà ông vừa nhập lậu. Slater nhận việc và chuyển đến Pawtucket. Các máy móc được nhập lậu của Brown không vận hành được, nhưng Slater đã tháo dỡ các bộ phận và làm thành máy của riêng mình. Chẳng bao lâu sau, các nhà máy kiểu Slater sinh sôi nảy nở và sản lượng vải New England tăng gấp 50 lần từ năm 1805 đến năm 1815.

But it was Boston businessman Francis Cabot Lowell who truly transformed New England textile manufacturing into an internationally competitive factory system. And he did so, in large part, by pulling off the most remarkable case of industrial espionage in American history.

Nhưng chính doanh nhân Francis Cabot Lowell ở Boston là người đã biến đổi thật sự ngành công nghiệp dệt may của New England thành hệ thống nhà máy cạnh tranh quốc tế. Và ông làm được như vậy, phần lớn, bằng một vụ gián điệp công nghiệp nổi bất nhất trong lịch sử Mỹ.

Lowell traveled to Britain in 1810 for an extended stay, allegedly for “health reasons.” The wealthy merchant wasn’t considered a rival by local manufacturers and therefore wasn’t treated with suspicion as he toured the Glasgow factories in the spring of 1811. Soon after, he visited other factories to obtain “all possible information” on cotton manufacturing “with a view to the introduction of the improved manufacture in the United States,” as his business partner later recounted.

Lowell đến Vương quốc Anh vào năm 1810 với lí do sức khỏe. Thương lái giàu có này không bị các nhà công nghiệp địa phương coi là đối thủ và vì vậy không nghi ngờ gì khi ông đi du lịch một vòng các nhà máy ở Glasgow vào mùa xuân năm 1811. Không lâu sau đó, ông thăm các nhà máy khác để nắm bắt 'tất cả các thông tin có thể' về sản xuất bông 'với cái nhìn sẽ áp dụng máy móc cải tiến ở Mỹ,' theo như đối tác kinh doanh của ông kể lại.


Lowell’s bags were searched before he returned to the U.S., but the British customs agents came up empty-handed. Lowell, who had majored in mathematics at Harvard University and had an exceptional memory, used his mind to smuggle out British industrial secrets.

Các túi của Lowell bị kiểm tra trước khi trở về Mỹ, nhưng các viên chức hải quan Vương quốc Anh đã ra về tay không. Lowell, người theo học toán học tại trường Đại học Havard và có trí nhớ tuyệt vời, sử dụng bộ óc của mình để 'buôn lậu' các bí mật công nghiệp Vương quốc Anh.

Lowell’s Transformation

With the assistance of mechanical expert Paul Moody, Lowell reproduced and even improved on the original models. Backed by his newly formed Boston Manufacturing Co., he opened his first cotton mill in Waltham, Massachusetts, in 1813. It was the first in the country to bring together all phases of the textile- production process -- from carding and spinning to weaving and dressing -- under one roof.

Sự biến đổi của Lowell

Với sự trợ giúp của chuyên gia cơ khí Paul Moody, Lowell đã tái tạo và thậm chí cải tiến các mô hình ban đầu. Được hỗ trợ bởi Công ty công nghiệp Boston mới thành lập, ông đã mở nhà máy bông đầu tiên ở Waltham, Massachusetts vào năm 1813. Đây là nhà máy đầu tiên ở nước Mỹ mà đã mang tất cả công đoạn của quy trình sản xuất dệt - từ chải và kéo sợi đến dệt và hồ vải dưới một mái nhà.

This all-in-one model was a transformative development in textile manufacturing, ultimately replacing the smaller family- run mill operations and making the American industry competitive with Britain for the first time. This new system also required much larger-scale investment -- exemplified by the development of an entire mill town, appropriately named Lowell.

Mô hình tất cả trong một này là sự phát triển biến đổi toàn diện trong sản xuất dệt may, đã thay thế các nhà máy vận hành bởi các hộ gia đình nhỏ và làm cho ngành công nghiệp Mỹ lần đầu tiên cạnh tranh được với Vương quốc Anh. Hệ thống mới này cũng đòi hỏi sự đầu tư quy mô lớn hơn nhiều - điển hình là sự hình thành toàn bộ thị trấn nhà máy, được đặt tên là Lowell.

England loosened its restrictions in phases from 1824 to 1843. The emigration bans, which cut against growing public support for freedom of movement, were lifted in 1824. While strict controls remained on the export of spinning and weaving machinery, a licensing system was implemented for other industrial equipment.

Nước Anh nới lỏng các hạn chế theo từng giai đoạn từ năm 1824 đến năm 1843. Các lệnh cấm di cư, trái với sự ủng hộ của công chúng ngày càng tăng về tự do di trú, đã được dỡ bỏ vào năm 1824. Trong khi các kiểm soát ngặt nghèo vẫn còn được áp dụng đối với xuất khẩu máy móc kéo sợi và dệt, hệ thống cấp phép được áp dụng đối với các thiết bị công nghiệp khác.


Licensing, in turn, created opportunities for new forms of smuggling: An exporter could receive a license to ship one machine and use it as a cover to ship a different one -- gambling that port inspectors would either not check beyond the paperwork or not be able to tell the difference. Apparently, this practice was sufficiently institutionalized that illicit exporters could even take out insurance to protect against the occasional seizure.

Tuy nhiên, việc cấp phép đến lượt nó lại tạo cơ hội cho các hình thái buôn lậu khác: một nhà xuất khẩu có thể nhận được giấy phép để chở một loại máy và dùng nó để thực sự chở một máy khác - đánh cuộc vào việc các kiểm soát viên hoặc không kiểm tra gì ngoài giấy tờ hoặc không thể phân biệt được sự khác nhau này. Rõ ràng là, thông lệ này đã được thể chế hóa đầy đủ mà một nhà xuất khẩu bất hợp pháp thậm chí có thể lấy bảo hiểm để bảo vệ những vụ bắt giữ thường xuyên.




British export controls were finally repealed in 1843 with the spread of free-trade ideology. By that time, the U.S. had established itself as one of the leading industrial economies in the world -- thanks, in no small part, to the successful evasion of British emigration and export prohibitions.

Các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Vương quốc Anh cuối cùng đã được hủy bỏ vào năm 1843 với sự lan truyền học thuyết thương mại tự do. Vào thời điểm đó, nước Mỹ, đã trở thành một trong những nền kinh tế công nghiệp hàng đầu thế giới - một phần không nhỏ, nhờ vào sự né tránh thành công các lệnh cấm xuất khẩu và di trú của Vương quốc Anh.


(Peter Andreas is a professor of political science and the interim director of the Watson Institute for International Studies at Brown University. This essay is adapted from his new book, “Smuggler Nation: How Illicit Trade Made America.” The opinions expressed are his own.)
(Peter Andreas là giáo sư khoa học chính trị và giám đốc lâm thời Viện Nghiên cứu quốc tế Watson tại Trường đại học Brown. Bài luận này được chuyển thể từ quyển sách mới của ông 'Quốc gia buôn lậu: Buôn bán bất hợp pháp hình thành nước Mỹ như thế nào - "Smuggler Nation: How Illicit Trade Made America.")





Translated by Sơn Phạm