| Hegemony with Chinese Characteristics Aaron L. Friedberg   | Bá quyền mang đặc trưng Trung Hoa. Aaron L. Friedberg | 
     | THE   UNITED States and the People’s Republic of China are locked in a quiet but   increasingly intense struggle for power and influence, not only in Asia, but   around the world. And in spite of what many earnest and well-intentioned   commentators seem to believe, the nascent Sino-American rivalry is not merely   the result of misperceptions or mistaken policies; it is driven instead by   forces that are deeply rooted in the shifting structure of the international   system and in the very different domestic political regimes of the two   Pacific powers.   | Hiệp   Chủng Quốc Hoa Kỳ và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bị hãm vào trong một   cuộc tranh chấp thầm lặng nhưng ngày càng gay gắt nhằm dành quyền lực và ảnh   hưởng không chỉ ở châu Á mà trên khắp thế giới. Mặc dầu những gì mà nhiều nhà   bình luận nghiêm chỉnh và thiện chí dường như tin tưởng, sự kình địch giữa   Hoa-Mỹ mới nảy sinh không phải chỉ là kết quả của những chính sách sai lầm   hay những sự hiểu lầm, trái lại nó bị thúc đẩy bởi những lực lượng đã bắt rễ   sâu trong cấu trúc đang thay đổi của hệ thống quốc tế và trong chính những   chế độ chính trị trong nước hết sức khác nhau của hai cường quốc Thái Bình   Dương.   | 
     | Throughout   history, relations between dominant and rising states have been uneasy—and   often violent. Established powers tend to regard themselves as the defenders   of an international order that they helped to create and from which they   continue to benefit; rising powers feel constrained, even cheated, by the   status quo and struggle against it to take what they think is rightfully   theirs. Indeed, this story line, with its Shakespearean overtones of youth   and age, vigor and decline, is among the oldest in recorded history. As far   back as the fifth century BC the great Greek historian Thucydides began his   study of the Peloponnesian War with the deceptively simple observation that   the war’s deepest, truest cause was “the growth of Athenian power and the   fear which this caused in Sparta.”   | Trong   suốt lịch sử, những mối quan hệ giữa các nước đã vượt trội và những nước đang   vươn lên không bao giờ là dễ dàng – và thường là bạo lực. Các cường quốc đã   định hình, có xu hướng tự coi mình là những kẻ bảo vệ một trật tự quốc tế mà   chúng đã giúp tạo ra và đang tiếp tục hưởng lợi từ nó; các cường quốc đang   vươn lên cảm thấy bị kiềm chế, thậm chí bị lừa bịp, bởi tình hình hiện tại và   đấu tranh chống lại nó để giành lấy cái mà chúng nghĩ rằng đúng ra phải là   của chúng. Thật vậy, câu chuyện này, với những ngụ ý kiểu Shakespeare về tuổi   trẻ và tuổi già, vững mạnh và suy tàn, là thứ chuyện lâu đời nhất trong lịch   sử thành văn của loài người. Ngay từ thế kỷ 5 trước CN nhà sử học vĩ đại   người Hy Lạp Thucydides bắt đầu nghiên cứu về cuộc Chiến tranh Peloponnesia   với nhận xét tưởng chừng như đơn giản rằng nguyên nhân sâu xa nhất, thật sự   nhất của chiến tranh là “sự lớn lên của    sức mạnh Athena và nỗi sợ mà nó gây nên trong Sparta.”   | 
     | The   fact that the U.S.-China relationship is competitive, then, is simply no   surprise. But these countries are not just any two great powers: Since the   end of the Cold War the United States has been the richest and most powerful   nation in the world; China is, by contrast, the state whose capabilities have   been growing most rapidly. America is still “number one,” but China is fast   gaining ground. The stakes are about as high as they can get, and the potential   for conflict particularly fraught.   | Cái   sự thật rằng mối quan hệ Mỹ-Hoa là quan hệ cạnh tranh không có gì đáng ngạc   nhiên. Nhưng hai nước này đâu phải là hai cường quốc bất kỳ: từ khi kết thúc   Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ đã là nước giàu nhất và mạnh nhất thế giới; ngược lại   Trung Hoa là nước mà các khả năng vươn lên nhanh nhất. Hoa Kỳ vẫn còn là “số   một,” nhưng Trung Hoa nhanh chóng giành được đất. Cuộc ganh đua đang ở mức   cao nhất, và đặc biệt đầy tiềm năng xảy ra xung đột. | 
     | At   least insofar as the dominant powers are concerned, rising states tend to be   troublemakers. As a nation’s capabilities grow, its leaders generally define   their interests more expansively and seek a greater degree of influence over   what is going on around them. This means that those in ascendance typically   attempt not only to secure their borders but also to reach out beyond them,   taking steps to ensure access to markets, materials and transportation   routes; to protect their citizens far from home; to defend their foreign   friends and allies; to promulgate their religious or ideological beliefs;   and, in general, to have what they consider to be their rightful say in the   affairs of their region and of the wider world.     | Ít   nhất cho đến nay dưới mắt các cường quốc vượt trội, các nước đang lên có xu   hướng là những kẻ gây rối. Khi những khả năng của một nước lớn lên, các lãnh   đạo của nó nói chung xác định lợi ích của họ rộng rãi hơn và đi tìm mức độ   ảnh hưởng lớn hơn đối với tình hình diễn ra xung quanh họ. Điều này có nghĩa   là những nước đang lên này thông thường không chỉ mưu đồ giữ nguyên đường   biên giới của chúng mà còn muốn vượt ra bên ngoài những đường biên giới ấy,   đi những bước đi cần thiết để đảm bảo đến được các thị trường, vật liệu và   các đường giao thông, để bảo vệ công dân của chúng ở xa nhà, bảo vệ các bạn   bè và đồng minh nước ngoài của chúng; để truyền bá các tôn giáo và niềm tin ý   thức hệ của chúng; và, để có những gì chúng coi là quyền hợp pháp chính đáng   của chúng trong công việc ở địa phương của chúng và của thế giới bên ngoài.   | 
     | As   they begin to assert themselves, ascendant states typically feel impelled to   challenge territorial boundaries, international institutions and hierarchies   of prestige that were put in place when they were still relatively weak. Like   Japan in the late nineteenth century, or Germany at the turn of the   twentieth, rising powers want their place in the sun. This, of course, is   what brings them into conflict with the established great powers—the   so-called status quo states—who are the architects, principal beneficiaries   and main defenders of any existing international system. | Khi   chúng bắt đầu tự xét đoán mình, các nước vượt trội thường cảm thấy buộc phải   thách thức các đường biên giới lãnh thổ các thiết chế quốc tế và hệ thống tôn   ti trật tự về uy tín đã được sắp xếp khi chúng còn tương đối yếu ớt. Giống   như Nhật Bản cuối thế kỷ mười chín, hay Đức ở bước ngoặt sang thế  kỷ hai mươi, các cường quốc mới nổi muốn có   chỗ đứng dưới mặt trời. Tất nhiên đây là điều đặt chúng đối đầu với các cường   quốc đã định hình – cái gọi là các nước status quo, đã nghiễm nhiên như thế –   vốn là những nhà kiến trúc, những kẻ thừa kế chủ yếu và những người bảo vệ   chính của bất kỳ hệ thống quốc tế hiện tồn nào.   | 
     | The   resulting clash of interests between the two sides has seldom been resolved   peacefully. Recognizing the growing threat to their position, dominant powers   (or a coalition of status quo states) have occasionally tried to attack and   destroy a competitor before it can grow strong enough to become a threat.   Others—hoping to avoid war—have taken the opposite approach: attempting to   appease potential challengers, they look for ways to satisfy their demands   and ambitions and seek to incorporate them peacefully into the existing   international order.   | Cuộc   va chạm sinh ra từ đó giữa các lợi ích của hai bên rất hiếm khi được giải   quyết một cách hòa bình. Nhận thấy mối đe dọa đang lớn lên đối với địa vị của   chúng, các cường quốc vượt trội (hay một liên minh của các nước có địa vị ấy   theo thực tế – status quo) đôi khi cố tấn công và phá hoại một đối thủ trước   khi nó có thể lớn lên, đủ mạnh để thành một nguy cơ. Những nước khác – hy   vọng tránh được chiến tranh – đã theo một lập trường ngược lại: cố gắng xoa   dịu những kẻ ngầm thách thức mình, họ tìm cách thỏa mãn những đòi hỏi và tham   vọng của chúng và tìm cách đưa chúng vào trật tự quốc tế hiện tồn một cách   hòa bình.   | 
     | But   however sincere, these efforts have almost always ended in failure. Sometimes   the reason clearly lies in the demands of the rising state. As was true of   Adolf Hitler’s Germany, an aggressor may have ambitions that are so extensive   as to be impossible for the status quo powers to satisfy without effectively   consigning themselves to servitude or committing national suicide. Even when   the demands being made of them are less onerous, the dominant states are   often either reluctant to make concessions, thereby fueling the frustrations   and resentments of the rising power, or too eager to do so, feeding its   ambitions and triggering a spiral of escalating demands. Successful policies   of appeasement are conceivable in theory but in practice have proven   devilishly difficult to implement. This is why periods of transition, when a   new, ascending power begins to overtake the previously dominant state, have so   often been marked by war.     | Nhưng   dù có chân thành đến mấy, những cố gắng của họ hầu như luôn luôn kết thúc   trong thất bại. Đôi khi lý do rõ ràng nằm trong những đòi hỏi của nước đang   lên. Điều này cũng đúng với nước Đức của Adolf Hitler, một kẻ xâm lược có thể   có những tham vọng quá lớn đến mức các nước status quo không thể đáp ứng mà   không thực tế tự dấn mình vào tình trạng nô lệ hay tự sát dân tộc. Ngay cả   khi những đòi hỏi của chúng không quá nặng nề, các nước vượt trội cũng thường   rất khó chấp nhận nhượng bộ, do đó đổ thêm dầu vào đám lửa oán giận và thất   vọng của nước đang lên, hoặc quá hăm hở nhượng bộ, thì lại nuôi dưỡng những   tham vọng của nó và khiến cho các đòi hỏi leo thang theo đường xoắn ốc. Các   chính sách nhượng bộ để xoa dịu mà thắng lợi có thể hiểu được về mặt lý thuyết,   nhưng việc thực hiện chúng trong thực tế tỏ ra vô cùng khó khăn. Đó là lý do   tại sao những thời kỳ chuyển tiếp, khi một cường quốc đang lên bắt đầu vượt   các nước trước kia là vượt trội, đã luôn luôn được đánh dấu bằng chiến tranh.   | 
     | WHILE   THEY are careful not to say so directly, China’s current rulers seem intent   on establishing their country as the preponderant power in East Asia, and   perhaps in Asia writ large. The goal is to make China the strongest and most   influential nation in its neighborhood: a country capable of deterring   attacks and threats; resolving disputes over territory and resources   according to its preferences; coercing or persuading others to accede to its   wishes on issues ranging from trade and investment to alliance and   third-party basing arrangements to the treatment of ethnic Chinese   populations; and, at least in some cases, affecting the character and   composition of their governments. Beijing may not seek conquest or direct   physical control over its surroundings, but, despite repeated claims to the   contrary, it does seek a form of regional hegemony.   | Trong   khi họ cẩn thận không nói trực tiếp, các nhà cầm quyền hiện nay của Trung Hoa   dường như đang cố xác định đất nước họ như cường quốc nỗi trội ở Đông Á và có   lẽ cả châu Á nói chung. Mục đích là làm cho Trung Hoa thành nước mạnh nhất và   có ảnh hưởng nhất trong vùng lân cận của mình, một nước có khả năng ngăn chặn   các cuộc tấn công và các mối đe dọa; giải quyết các tranh chấp lãnh thổ theo   các sở thích của nó; ép buộc hoặc thuyết phục các nước khác tán thành những ý   muốn của nó trên những vấn đề từ thương mại và đầu tư đến liên minh và bên   thứ ba dựa trên những sự dàn xếp đối xử với những cư dân người Hoa; và, ít   nhất trong một số trường hợp, ảnh hưởng đến tính cách và thành phần các chính   phủ của họ. Bắc Kinh có thể không tìm cách chinh phục hay trực tiếp kiểm soát   về mặt vật chất đối với những nước xung quanh nó, nhưng, nó chắc chắn đi tìm   một hình thức bá quyền khu vực, mặc dầu luôn mồm khẳng định ngược lại.   | 
     | Such   ambitions hardly make China unique. Throughout history, there has been a   strong correlation between the rapid growth of a state’s wealth and potential   power, the geographic scope of its interests, the intensity and variety of   the perceived threats to those interests, and the desire to expand military   capabilities and exert greater influence in order to defend them. Growth   tends to encourage expansion, which leads to insecurity, which feeds the   desire for more power. This pattern is well established in the modern age.   Looking back over the nineteenth and twentieth centuries, Samuel Huntington finds   that every other major power, Britain and France, Germany and Japan, the   United States and the Soviet Union, has engaged in outward expansion,   assertion, and imperialism coincidental with or immediately following the   years in which it went through rapid industrialization and economic growth.   | Trung   Hoa không phải là nước duy nhất có những tham vọng như thế. Trong suốt lịch   sử, đã có một tương quan chặt chẽ giữa việc lớn lên mau chóng của cải vật   chất và sức mạnh tiềm tàng của một nước, phạm vi địa lý của những lợi ích của   nó, tính dữ dội và đa dạng của những mối đe dọa đã biết đối với những lợi ích   đó, với mong muốn mở rộng các khả năng quân sự và dùng ảnh hưởng lớn hơn để   bào vệ chúng. Sự lớn mạnh có xu hướng khuyến khích bành trướng, điều này dẫn   đến mất an ninh, nuôi dưỡng ước muốn có nhiều quyền lực hơn nữa. Mẫu hình này   được thiết lập rất rõ trong thời trung cổ. Samuel Huntington khi nhìn lại các   thế kỷ mười chín và hai mươi đã thấy rằng mọi cường quốc lớn khác, Anh và   Pháp, Đức và Nhật, Mỹ và Liên xô, đã gắn liền với sự bành trướng, yêu sách ra   bên ngoài, và chủ nghĩa đế quốc trùng khớp với hoặc tiếp ngay theo sau những   năm công nghiệp hóa  và tăng trưởng   kinh tế nhanh chóng.   | 
     | As   for China, Huntington concludes, “no reason exists to think that the   acquisition of economic and military power will not have comparable effects”   on its policies.   | Về   phần Trung Hoa, Huntington kết luận “không có lý do gì để nghĩ rằng việc có   được sức mạnh quân sự và kinh tế không có những tác động” lên các chính sách   của nó.   | 
     | Of   course the past behavior of other states is suggestive, but it is hardly a   definitive guide to the future. Just because other powers have acted in   certain ways does not necessarily mean that China will do the same. Perhaps,   in a world of global markets and nuclear weapons, the fears and ambitions   that motivated previous rising powers are no longer as potent. Perhaps   China’s leaders have learned from history that overly assertive rising powers   typically stir resentment and opposition.   | Tất   nhiên hành vi trong quá khứ của các nước khác có tính gợi mở, nhưng nó hầu   như không phải là một dẫn hướng dứt khoát đến tương lai. Đơn giản là vì các   cường quốc khác đã hành động theo những cách nhất định không nhất thiết có   nghĩa là Trung Hoa cũng sẽ làm như vậy. Có lẽ, trong một thế giới thị trường   toàn cầu và vũ khí hạt nhân, những nỗi lo sợ và những tham vọng thúc đẩy các   cường quốc nổi lên trước đây không còn mạnh mẽ như thế nữa. Có lẽ các lãnh   đạo Trung Hoa đã học được từ lịch sử rằng những cường quốc mới nổi thường   khuấy lên những bất đồng và chống đối.   | 
     | But   China is not just any rising power, and its history provides an additional   reason for believing that it will seek some form of regional preponderance.   It is a nation with a long and proud past as the leading center of East Asian   civilization and a more recent and less glorious experience of domination and   humiliation at the hands of foreign invaders. As a number of historians have   recently pointed out, China is not so much “rising” as it is returning to the   position of regional preeminence that it once held and which its leaders and   many of its people still regard as natural and appropriate. The desire to   reestablish a Sino-centric system would be consistent with what journalist   Martin Jacques describes as an overwhelming assumption on the part of the   Chinese that their natural position lies at the epicentre of East Asia, that   their civilization has no equals in the region, and that their rightful   position, as bestowed by history, will at some point be restored in the   future.   | Nhưng   Trung Hoa không phải là một cường quốc mới nổi bất kỳ nào, và lịch sử của nó   cung cấp thêm một lý do để tin rằng nó sẽ tìm một hình thức ưu thắng trong   khu vực. Nó là một dân tộc có một quá khứ lâu dài và tự hào là một trung tâm   chủ đạo của nền văn minh Đông Á, và gần đây hơn nó có một kinh nghiệm ít vẻ   vang hơn, về sự đô hộ và nhục nhã trong tay những kẻ xâm lược nước ngoài. Như   một số nhà sử học gần đây đã chỉ ra, Trung Hoa không chỉ “nổi lên” mà nó còn   trở về cái địa vị vượt trội trong khu vực mà có thời nó đã giữ, mà các lãnh   đạo và nhiều người trong số nhân dân của nó vẫn nghĩ như thế là tự nhiên và   thích hợp. Cái mong muốn thiết lập lại hệ thống lấy Hán làm trung tâm có thể   nhất quán với điều mà nhà báo Martin Jacque mô tả như một giả định phổ biến   về phần người Trung Hoa, rằng địa vị tự nhiên của họ nằm ở trung tâm Đông Á,   rằng nền văn minh của họ không có ai trong khu vực sánh nổi, và rằng cái địa   vị xứng đáng của họ mà lịch sử ban cho, sẽ được khôi phục tại một thời điểm   nào đó trong tương lai.   | 
     | Conservative   scholar Yan Xuetong puts the matter succinctly: the Chinese people are proud   of their country’s glorious past and believe its fall from preeminence to be   “a historical mistake which they should correct.” If anything, the “century   of humiliation” during which China was weak and vulnerable adds urgency to   its pursuit of power. For a nation with China’s history, regaining a position   of unchallengeable strength is not seen as simply a matter of pride but   rather as an essential precondition for continued growth, security and, quite   possibly, survival.   | Học   giả bảo thủ Yan Xuetong (Diêm Học Thông) đặt vấn đề một   cách ngắn gọn: Nhân dân Trung Hoa tự hào về quá khứ vinh quang của đất nước   mình và tin rằng việc nó rơi khỏi địa vị ưu thắng là “một sai lầm lịch sử mà   nó nên sửa chữa.” Đúng ra là ngược lại, cái “thế kỷ nhục nhã” trong đó Trung   Hoa yếu ớt và dễ bị tổn thương càng làm cho việc theo đuổi quyền lực của nó   thêm khẩn thiết. Đối với một dân tộc với một lịch sử như của Trung Hoa, việc   giành lại một địa vị sức mạnh vô địch không được xem một cách đơn giản là vấn   đề tự hào mà đúng hơn như một điều kiện tiên quyết thiết yếu để tiếp tục lớn   lên, an ninh và, hoàn toàn hợp lý, sống còn.   | 
     | DEEP-SEATED   patterns of power politics are thus driving the United States and China   toward mistrust and competition, if not necessarily toward open conflict. But   this is not all there is to the story. In contrast to what some realists   claim, ideology matters at least as much as power in determining the course   of relations among nations. The fact that America is a liberal democracy   while China remains under authoritarian rule is a significant additional   impetus for rivalry, an obstacle to stable, cooperative relations, and a   source of mutual hostility and mistrust in its own right.   | Những   mẫu hình ngấm ngầm của chính sách vũ lực như thế đang đẩy Hoa kỳ và Trung Hoa   đến chỗ nghi ngờ và tranh đua, nếu không phải là nhất định tiến đến xung đột   công khai. Nhưng câu chuyện này không phải chỉ có thế. Ngược với điều khẳng   định của một số người có óc thực tế, các vấn đề tư tưởng hệ ít nhất cũng quan   trọng như vấn đề quyền lực trong việc quyết định tiến trình của các quan hệ   giữa các dân tộc. Cái sự kiện Hoa Kỳ là một nền dân chủ tự do trong khi Trung   Hoa vẫn còn dưới nền thống trị toàn trị là một sức đẩy thêm rất mạnh cho đối   kháng, một chướng ngại cho ổn định và các quan hệ hợp tác, và tự nó là một   nguồn gốc của thù địch và nghi ngờ lẫn nhau.   | 
     | Relations   between democracies and nondemocracies are always conducted in what political   theorist Michael Doyle describes as an “atmosphere of suspicion,” in part   because of “the perception by liberal states that nonliberal states are in a   permanent state of aggression against their own people.” Democracies, in   short, regard nondemocracies as less than legitimate because they do not   enjoy the freely given consent of their own people. In their heart of hearts,   most self-governing citizens simply do not believe that all states are   created equal or that they are entitled to the same degree of respect regardless   of how they are ruled.   | Các   quan hệ giữa các xã hội dân chủ và không dân chủ luôn được thực hiện trong   cái mà nhà lý thuyết chính trị Michael Doyle mô tả là một “không khí hiềm   nghi” phần nào vì “nhận thức của các nước tự do rằng các nước không tự do luôn   ở trong một tình trạng xâm lược gây hấn chống lại chính nhân dân của chúng.”   Các nền dân chủ, nói ngắn gọn, xem các nước không dân chủ là ít hợp pháp hơn   bởi vì chúng không được hưởng sự đồng thuận được để tự do của chính nhân dân   của chúng. Trong thâm tâm, phần lớn các công dân tự trị đơn giản không tin   rằng tất cả các nước được tạo ra bình đẳng, hay tin rằng họ có quyền được tôn   trọng đến cùng mức độ như nhau, bất kể họ bị cai trị như thế nào.   | 
     | Seen   in this light, disputes between the United States and China over such issues   as censorship and religious freedom are not just superficial irritants that   can be dissolved or wished away. They are instead symptomatic of much deeper   difficulties. To most Americans, China’s human-rights violations are not only   intrinsically wrong, they are also powerful indicators of the morally   distasteful nature of the Beijing regime. While the United States may be able   to do business with such a government on at least some issues, the   possibility of a warm, trusting and stable relationship is remote to say the   least.   | Nhìn   dưới ánh sáng này, những tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa trên những vấn đề   như kiểm duyệt và tự do tôn giáo không chỉ gây khó chịu ngoài mặt có thể hóa   giải hay rũ bỏ. Ngược lại chúng là triệu chứng của những khó khăn sâu hơn   nhiều. Đối với phần đông người Mỹ, sự vi phạm nhân quyền của Trung Hoa không   chỉ sai trái về thực chất, chúng còn là những dấu hiệu của bản chất khó chịu   về đạo đức của chế độ Bắc Kinh. Trong khi Hoa Kỳ có thể quan hệ giao dịch với   một chính phủ như vậy ít ra trên một số vấn đề, thì cái khả thể của một quan   hệ ổn định nồng ấm tin cậy là xa vời, ấy là nói nhẹ nhất.   | 
     | Democracies   also tend to regard nondemocracies as inherently untrustworthy and   dangerously prone to external aggression. Because of the secrecy in which   their operations are cloaked, the intentions, and often the full extent of   the military capabilities of nondemocratic states, are difficult to discern.   In recent years, U.S. officials have pressed their Chinese counterparts to be   more “transparent” about defense programs, but there is little expectation   that these pleas will be answered in any meaningful way. And even if Beijing   were to suddenly unleash a flood of facts and figures, American analysts   would regard them with profound skepticism, scrutinizing the data for signs   of deception and disinformation. And they would be right to do so; the   centralized, tightly controlled Chinese government is far better situated to   carry off such schemes than its open, divided and leaky American counterpart.   | Các   xã hội dân chủ cũng có xu hướng coi các xã hội không dân chủ là vốn dĩ không   đáng tin và ngờ một cách nguy hiểm về xâm lược bên ngoài. Vì những hành động   của chúng được che giấu trong màn bí mật, nên những mưu toan, và qui mô đầy   đủ của những khả năng quân sự của những nước không dân chủ rất khó nhận biết.   Trong những năm gần đây, các quan chức Hoa Kỳ đã thúc ép đối tác Trung Hoa   của họ phải minh bạch hơn về các chương trình quốc phòng, nhưng ít có hy vọng   những yêu cầu này sẽ được đáp ứng theo bất kỳ cách nào có ý nghĩa. Và thậm   chí nếu Bắc Kinh bỗng nhiên xả ra một trận lụt những sự kiện và những con số,   thì các nhà phân tích Hoa Kỳ sẽ nhìn chúng với thái độ nghi ngờ sâu sắc, xăm   soi các dữ liệu để tìm ra những dấu hiệu lừa dối và đánh lạc hướng. Và họ làm   thế là đúng; chính phủ Trung Hoa tập quyền và kiểm soát ngặt nghèo được đặt   vào hoàn cảnh tốt hơn nhiều để làm những âm mưu như thế, so với đối tác Hoa   Kỳ của nó, vốn phân quyền, công khai và hay để lộ bí mật.   | 
     | Their   capacity for secrecy also makes it easier for nondemocracies to use force   without warning. Since 1949, China’s rulers have shown a particular penchant   for deception and surprise attacks. (Think of Beijing’s entry into the Korean   War in December 1950, or its attack on India in October 1962.) This tendency   may have deep roots in Chinese strategic culture extending back to Sun Tzu,   but it is also entirely consistent with the character of its current domestic   regime. Indeed, for most American analysts, the authoritarian nature of   China’s government is a far greater concern than its culture. If China were a   democracy, the deep social and cultural foundations of its strategic and   political behavior might be little changed, but American military planners   would be much less worried that it might someday attempt a lightning strike   on U.S. forces and bases in the western Pacific.   | Khả   năng giữ bí mật của các xã hội không dân chủ cũng khiến nó dễ dàng hơn trong   việc sử dụng vũ lực mà không báo trước. Kể từ 1949, các nhà cầm quyền Trung   Hoa đã bộc lộ một thiên hướng đặc biệt về tấn công bất ngờ và đánh lừa. (Hãy   nghĩ đến việc Bắc Kinh lao vào Chiến tranh Triều Tiên tháng Chạp năm 1950,   hay cuộc tấn công Ấn Độ của nó tháng Mười 1962.) Cái khuynh hướng này có thể   đã bắt rễ sâu trong văn hóa chiến lược Trung Hoa từ thời Tôn Tử, nhưng nó   cũng hoàn toàn nhất quán với tính cách của chính sách đối nội đương thời của   nó. Thật ra, đối với hầu hết các nhà phân tích Hoa Kỳ, bản chất độc đoán của   chính phủ Trung Hoa là mối lo ngại lớn hơn nhiều so với văn hóa của nó. Nếu   Trung Hoa là một xã hội dân chủ, những nền tảng văn hóa xã hội sâu xa của chiến   lược và hành vi chính trị của nó có thể ít thay đổi, nhưng các nhà vạch kế   hoạch của Hoa Kỳ có thể đỡ lo lắng hơn nhiều rằng một ngày nào đó nó có thể   thử một đòn tấn công sấm sét lên các lực lượng và các căn cứ Hoa Kỳ ở tây   Thái Bình Dương.   | 
     | Such   fears of aggression are heightened by an awareness that anxiety over a lack   of legitimacy at home can cause nondemocratic governments to try to deflect   popular frustration and discontent toward external enemies. Some Western   observers worry, for example, that if China’s economy falters its rulers will   try to blame foreigners and even manufacture crises with Taiwan, Japan or the   United States in order to rally their people and redirect the population’s   anger. Whatever Beijing’s intent, such confrontations could easily spiral out   of control. Democratic leaders are hardly immune to the temptation of foreign   adventures. However, because the stakes for them are so much lower (being   voted out of office rather than being overthrown and imprisoned, or worse),   they are less likely to take extreme risks to retain their hold on power.   | Những   nỗi lo xâm lược như thế đang dâng cao bởi một nhận biết rằng lo lắng về thiếu   tính hợp pháp bên trong có thể khiến các nước không dân chủ cố gắng lái chệch   nỗi thất vọng và bất bình của dân chúng sang các kẻ thù bên ngoài. Chẳng hạn   một số nhà quan sát phương Tây lo ngại rằng nếu nền kinh tế Trung Hoa vấp   ngã, các nhà cầm quyền của nó có thể đổ lỗi cho nước ngoài và thậm chí ngụy   tạo ra những cuộc khủng hoảng với Đài Loan, Nhật Bản hoặc Hoa Kỳ để tập hợp   nhân dân của họ và làm chuyển hướng cơn giận dữ của dân chúng. Dù Bắc Kinh   định làm gì, thì những cuộc đối đầu như thế có thể dễ dàng văng ra khỏi tầm   kiểm soát. Các lãnh đạo dân chủ khó lòng tránh khỏi sự cám dỗ [lao vào] những   cuộc phiêu lưu nước ngoài. Tuy nhiên, vì sự đặt cược cho họ thấp hơn nhiều   (bị bỏ phiếu bất tín nhiệm chứ không phải bị lật đổ hay thậm chí ngồi tù,   hoặc xấu hơn), ít có khả năng họ lao vào những mạo hiểm cùng cực để cố níu   giữ lấy quyền lực của mình.   | 
     | But   the mistrust between Washington and Beijing is not a one-way street—and with   good reason. China’s current rulers do not see themselves as they once did,   as the leaders of a global revolutionary movement, yet they do believe that   they are engaged in an ideological struggle, albeit one in which, until very   recently, they have been almost entirely on the defensive. While they regard   Washington’s professions of concern for human rights and individual liberties   as cynical and opportunistic, China’s leaders do not doubt that the United   States is motivated by genuine ideological fervor. As seen from Beijing,   Washington is a dangerous, crusading, liberal, quasi-imperialist power that   will not rest until it imposes its views and its way of life on the entire   planet. Anyone who does not grasp this need only read the speeches of U.S.   officials, with their promises to enlarge the sphere of democracy and rid the   world of tyranny.     | Sự   nghi ngờ giữa Washington và Bắc Kinh không phải một chiều – và với những lý   do chính đáng. Các nhà cầm quyền hiện nay của Trung Hoa không như trước đây   tự coi mình là những lãnh đạo của phong trào cách mạng thế giới, tuy nhiên họ   vẫn tin rằng họ bị lôi kéo vào một cuộc đấu tranh ý thức hệ, mặc dù trong   cuộc đấu tranh đó, cho đến thời gian gần đây họ đã hầu như chỉ hoàn toàn ở   thế phòng thủ. Trong khi họ coi mối quan tâm của Washington về nhân quyền các   quyền tự do cá nhân là vô liêm xỉ và cơ hội, các nhà lãnh đạo Trung Hoa không   nghi ngờ gì rằng Hoa Kỳ được thúc đẩy bởi nhiệt tình tư tưởng chân chính.   Được nhìn từ Bắc Kinh, Washington là một cường quốc nguy hiểm, viễn chinh, tự   do và nửa đế quốc chủ nghĩa, nó không yên chừng nào nó chưa áp đặt được các quan   điểm của nó và lối sống của nó lên toàn hành tinh. Ai chưa nắm được cái nhu   cầu này của nó chỉ cần đọc những diễn văn của các quan chức Mỹ với những lời   hứa hẹn mở rộng tầm ảnh hưởng của dân chủ và loại trừ chuyên chế bạo quyền ra   khỏi thế giới.   | 
     | In   fact, because ideology inclines the United States to be more suspicious and   hostile toward China than it would be for strategic reasons alone, it also   tends to reinforce Washington’s willingness to help other democracies that   feel threatened by Chinese power, even if this is not what a pure realpolitik   calculation of its interests might seem to demand. Thus the   persistence—indeed the deepening—of American support for Taiwan during the   1990s cannot be explained without reference to the fact that the island was   evolving from an authoritarian bastion of anti-Communism to a liberal   democracy. Severing the last U.S. ties to Taipei would remove a major source   of friction with China and a potential cause of war. Such a move might even   be conceivable if Taiwan still appeared to many Americans as it did in the   1970s, as an oppressive, corrupt dictatorship. But the fact that Taiwan is   now seen as a genuine (if flawed) democracy will make it extremely difficult   for Washington to ever willingly cut it adrift.   | Thật   ra, vì khuynh hướng tư tưởng mà Hoa Kỳ nghi ngờ và thù địch Trung Hoa nhiều   hơn là vì riêng các lý do chiến lược, nó cũng có xu hướng làm mạnh hơn ở   Washington ý muốn sẵn sàng giúp các nền dân chủ khác khi họ cảm thấy bị đe   dọa bời sức mạnh Trung Hoa, ngay cả khi điều này không phải là những gì mà   những tính toán chính trị thực dụng thuần túy về những lợi ích của nó dường   như đòi hỏi. Như vậy sự giúp đỡ kiên trì – thật ra là đang sâu thêm – cho Đài   Loan trong những năm 1990 không thể giải thích được nếu không tham chiếu sự   kiện là hòn đảo này đã phát triển lên từ một thành trì chuyên chế  của phe chống cộng thành một nền dân chủ tự   do. Bỏ đi những liên hệ cuối cùng của Hoa Kỳ với Đài Loan sẽ gỡ bỏ nguồn gây   xích mích chủ yếu với Trung Hoa và một nguyên nhân tiềm tàng của chiến tranh.   Một động thái như thế thậm chí vẫn có thể hiểu được nếu Đài Loan vẫn còn hiện   ra trong mắt nhiều người Mỹ như nó đã hiện ra trong những năm 1970, như một   nền độc tài tham nhũng và xâm lược. Nhưng sự kiện là Đài Loan ngày nay được   coi như nền dân chủ chân chính (nếu không hoàn thiện) sẽ khiến Washington vô   cùng khó khăn ngay cả trong việc sẵn sàng cắt đứt với nó.   | 
     | Having   watched America topple the Soviet Union through a combination of   confrontation and subversion, since the end of the Cold War China’s   strategists have feared that Washington intends to do the same to them. This   belief colors Beijing’s perceptions of virtually every aspect of U.S. policy   toward it, from enthusiasm for economic engagement to efforts to encourage the   development of China’s legal system. It also shapes the leadership’s   assessments of America’s activities across Asia, which Beijing believes are   aimed at encircling it with pro-U.S. democracies, and informs China’s own   policies to counter that influence.   | Sau   khi theo dõi Mỹ đánh đổ Liên Xô thông qua sự kết hợp giữa đối đầu và lật đổ,   từ cuối Chiến tranh Lạnh các nhà chiến lược Trung Hoa đã sợ rằng Washington   có ý định làm như thế với họ. Niềm tin này làm méo mó nhận thức của Bắc Kinh   về hầu như mọi khía cạnh của chính sách Hoa Kỳ đối với nó, từ nhiệt tình giao   hảo về kinh tế đến những cố gắng nhằm cổ võ sự phát triển hệ thống pháp luật   của Trung Hoa. Nó cũng định hướng sự đánh giá của ban lãnh đạo về những hoạt   động của Mỹ trên khắp châu Á, mà Bắc Kinh tin là nhằm bao vây nó bằng những   nước dân chủ ủng hộ Mỹ, và điều đó thâm nhập vào các chính sách của chính   Trung Hoa chống lại ảnh hưởng ấy.   | 
     | As   China emerges onto the world stage it is becoming a source of inspiration and   material support for embattled authoritarians in the Middle East, Africa and   Latin America as well as Asia—antidemocratic holdouts who looked to be headed   for the garbage heap of history after the collapse of the Soviet Union.   Americans may have long believed that growth requires freedom of choice in   the economic realm (which is presumed to lead ineluctably to the expansion of   political liberties), but, at least for now, the mainland has successfully   blended authoritarian rule with market-driven economics. If it comes to be   seen as offering an alternative model for development, China’s continued   growth under authoritarian rule could complicate and slow America’s   long-standing efforts to promote the spread of liberal political institutions   around the world.   | Vì   Trung Hoa nổi lên trên vũ đài thế giới, nó đang trở thành nguồn cảm hứng và   trợ giúp vật chất cho các nền độc tài đang lâm trận ở Trung Đông, châu Phi và   châu Mỹ Latin cũng như châu Á – các đấu thủ chống dân chủ được coi là hướng   đến đống rác lịch sử sau khi Liên Xô sụp đổ. Người Mỹ có thể từ lâu đã tin   rằng tăng trưởng đòi hỏi tự do lựa chọn trong địa hạt kinh tế (điều được giả   định là nhất định dẫn đến mở rộng các quyền tự do chính trị), nhưng, ít nhất   vào lúc này, lục địa này đã pha trộn thành công nền cai trị độc tài với kinh   tế thị trường. Nếu nó đi đến chỗ được coi như đưa ra một mô hình phát triển   thay thế, sự tiếp tục lớn lên của Trung Hoa dưới nền cai trị chuyên chế có   thể làm phức tạp và làm chậm lại những cố gắng lâu dài của Hoa Kỳ khuyến   khích mở rộng các thiết chế chính trị tự do trên khắp thế giới.   | 
     | Fear   that the United States has regime change on the brain is also playing an   increasing role in the crafting of China’s policies toward countries in other   parts of the world. If the United States can pressure and perhaps depose the   current leaders of Venezuela, Zimbabwe and Iran, it may be emboldened in its   efforts to do something similar to China. By helping those regimes survive,   Beijing wins friends and allies for future struggles, weakens the perception   that democracy is on the march and deflects some of America’s prodigious   energies away from itself. Washington’s efforts to isolate, coerce and   possibly undermine dictatorial “rogue” states (such as Iran and North Korea)   have already been complicated, if not defeated, by Beijing’s willingness to   engage with them. At the same time, of course, China’s actions also heighten   concern in Washington about its motivations and intentions, thereby adding   more fuel to the competitive fire. | Nỗi   sợ rằng Hoa Kỳ mưu mô thay đổi chế độ cũng đang đóng một vai trò ngày càng   quan trọng trong việc vạch chính sách của Trung Hoa đối với các nước ở những   nơi khác trên thế giới. Nếu Hoa Kỳ có thể ép buộc và có lẽ hạ bệ các lãnh đạo   hiện nay ở Venezuela, Zimbabwe và Iran, nó có thể được khuyến khich trong   những cố gắng làm cái gì đó tương tự với Trung Hoa. Bằng cách giúp cho những   chế độ này sống còn, Bắc Kinh có được những bạn bè và đồng minh cho những   cuộc đấu tương lai, làm yếu đi cái nhận thức rằng dân chủ đang trên đường   tiến lên và làm chệch một số năng lực phi thường của Hoa Kỳ khỏi bản thân nó.   Những cố gắng của Washington làm cô lập, ép buộc và có thể làm xói mòn những   nhà nước chuyên chế “tàn độc” (như Iran và Bắc Triều Tiên) đã bị làm cho phức   tạp nếu không nói là thất bại, bởi sự sốt sắng của Bắc Kinh gắn kết với   chúng. Đồng thời, tất nhiên, những hành động của Trung Hoa cũng làm tăng cao   mối lo ngại ở Washington về những động cơ và những dự định của nó, bằng cách   đó đổ thêm dầu vào ngọn lửa đua tranh.   | 
     | IT   MAY well be that any rising power in Beijing’s geopolitical position would   seek substantial influence in its own immediate neighborhood. It may also be   true that, in light of its history, and regardless of how it is ruled, China   will be especially concerned with asserting itself and being acknowledged by   its neighbors as the first among equals. But it is the character of the   nation’s domestic political system that will ultimately be decisive in   determining precisely how it defines its external objectives and how it goes   about pursuing them.   | Cũng   rất có thể là bất kỳ một sức mạnh đang lớn lên nào trong lập trường địa chính   trị của Bắc Kinh sẽ tìm ảnh hưởng quan trọng trong vùng láng giềng liền kề   với nó. Cũng có thể là thật, dưới ánh sáng của lịch sử của nó, và bất chấp nó   được cai trị như thế nào, Trung Hoa sẽ đặc biệt quan tâm đến việc tự khẳng   định mình và được các láng giềng thừa nhận là đứng đầu giữa những kẻ ngang   hàng. Nhưng chính đặc điểm của chính trị trong nước cuối cùng sẽ là quyết   định trong việc xác định chính xác nó hạn định những mục tiêu bên ngoài của   nó như thế nào, và nó làm thế nào để theo đuổi chúng.   | 
     | As   Ross Terrill of Harvard’s Fairbank Center points out, when we speak of   “China’s” intentions or strategy, we are really talking about the aims and   plans of today’s top leaders or, as he describes them, “the nine male   engineers who make up the Standing Committee of the Politburo of the Chinese   Communist Party.” Everything we know of these men suggests that they are   motivated above all else by their belief in the necessity of preserving CCP   rule. This is, in one sense, a matter of unadulterated self-interest. Today’s   leaders and their families enjoy privileges and opportunities that are denied   others in Chinese society and which flow directly from their proximity to the   sources of political power. The end of the Communist Party’s decades-long   reign would have immediate, painful and perhaps even fatal consequences for   those at the top of the system. Rising stars who hope one day to occupy these   positions and even junior officials with more modest ambitions will   presumably make similar calculations. This convergence of personal interests   and a sense of shared destiny give the party-state a cohesion that it would   otherwise lack. Party members know that if they do not hang together they may   very well hang separately—and this knowledge informs their thinking on every   issue they face.   | Như   Ross Terrill của Trung tâm Fairbank Đại học Harvard đã chỉ ra, khi chúng ta   nói về các ý định hay chiến lược của Trung Hoa, chúng ta thật sự đang nói về   các mục tiêu và kế hoạch của các lãnh đạo chóp bu hiện nay của nó, như ông mô   tả họ, “chín nhà thiết kế làm thành Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng   sản Trung quốc.” Mọi điều chúng ta biết về những người này gợi lên rằng họ   được thúc đẩy trên hết bởi niềm tin của họ về sự cần thiết của việc duy trì   sự cầm quyền của CCP. Theo một nghĩa nào đó, điều này hoàn toàn là một vấn đề   tự lợi. Những lãnh đạo hiện nay và gia đình họ được hưởng những đặc quyền và   các cơ hội mà những người khác trong xã hội Trung Hoa bị từ chối, và các   nguồn của quyền lực chính trị được lấy trực tiếp từ giới thân cận của họ. Sự   kết thúc nhiều thập kỷ ngự trị của CCP sẽ có những hậu quả ngay lập tức, đau   đớn và có lẽ bi thảm đối với những người đang ở trên đỉnh cao của hệ thống. Những   ngôi sao đang lên hy vọng một ngày nào đó sẽ chiếm những vị trí này và ngay   cả những quan chức nhỏ với những tham vọng khiêm tốn có lẽ cũng sẽ làm những   phép toán tương tự. Sự hội tụ quyền lợi cá nhân này và một cảm giác chung số   phận đem đến cho nhà nước-đảng này một sự dính kết không thể thiếu. Các đảng   viên biết rằng nếu họ không đoàn kết với nhau họ rất có thể gặp nguy hiểm   riêng rẽ – và điều hiểu biết này thấm nhuần suy nghĩ của họ trên mọi vấn đề   họ đối mặt.   | 
     | But   the motivation to continue CCP rule is not rooted solely in self-interest.   The leadership is deeply sincere in its belief in the party’s past   achievements and future indispensability. It was the CCP, after all, that   rescued China from foreign invaders, delivered it from a century of oppression   and humiliation, and lifted it back into the ranks of the world’s great   powers. In the eyes of its leaders, and some portion of the Chinese people,   these accomplishments in themselves give the CCP unique moral authority and   legitimize its rule.   | Nhưng   động cơ để CCP tiếp tục cầm quyền không chỉ có gốc rễ trong tự lợi. Giới lãnh   đạo chân thành sâu xa trong niềm tin của họ vào những thành tựu quá khứ và sự   cần thiết không thể thiếu được của đảng trong tương lai. Dù sao, chính đảng   cộng sản Trung Quốc đã cứu Trung Hoa khỏi xâm lược nước ngoài, đã đưa nó ra   từ một thế kỷ bị áp bức và nhục nhã, và nâng nó lên hàng những cường quốc lớn   nhất thế giới. Trong con mắt của những lãnh đạo của nó, và một bộ phận nhân   dân Trung Hoa, những thành tựu này tự bản thân chúng đã cho CCP thẩm quyền   đạo đức vô song và hợp pháp hóa sự cầm quyền của nó.    | 
     | Looking   forward, party officials believe that they are all that stands between   continued stability, prosperity, progress and an unstoppable ascent to   greatness on the one hand and a return to chaos and weakness on the other. An   analysis of the leaked secret personnel files of the current “fourth   generation” of Chinese leaders (with Mao Tse-tung, Deng Xiaoping and Jiang   Zemin leading the first three) by Sinologists Andrew Nathan and Bruce Gilley   concludes that, on this question, there is no evidence of dissension or   doubt. President Hu Jintao, his colleagues and their likely successors are   aware of the numerous internal and external challenges they face, but they   are confident that they, and they alone, can find the solutions that will be   needed to keep their country moving forward and enable it to achieve its   destiny. Indeed, they believe that it is precisely the magnitude and   complexity of the problems confronting China that makes their continued rule   essential.   | Nhìn   về phía trước, các quan chức đảng tin rằng tất cả họ đang đứng giữa một bên   là tiếp tục ổn định, thịnh vượng, tiến bộ và vươn lên tầm vĩ đại không thể   chặn lại, và một bên là quay trở lại hỗn loạn và yếu ớt. Như một phân tích   của hồ sơ cá nhân bí mật bị rò rỉ của “thế hệ thứ tư” các lãnh đạo Trung Hoa   hiện nay (với Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, và Giang Trạch Dân là ba thế hệ   lãnh đạo đầu) của các nhà Hán học Andrew Nathan và Bruce Gilley kết luận   rằng, về vấn đề này, không có dấu hiệu bất đồng hay nghi ngờ. Chủ tịch Hồ Cẩm   Đào, các đồng nghiệp của ông và những người có khả năng kế tục ông nhận rõ   nhiều thách thức bên trong và bên ngoài họ đang phải đối mặt, nhưng họ tin   rằng họ và chỉ có họ mới có thể tìm ra giải pháp cần thiết để giữ cho đất   nước của họ tiến lên và làm cho nó có thể giành được số phận của nó. Quả   thật, họ tin rằng chính tầm cỡ và sự phức tạp của những vấn đề đang đối diện   với Trung Hoa làm cho việc tiếp tục cầm quyền của họ là tuyệt đối cần thiết.   | 
     | The   party’s desire to retain power shapes every aspect of national policy. When   it comes to external affairs, it means that Beijing’s ultimate aim is to   “make the world safe for authoritarianism,” or at least for continued   one-party rule in China. Over the last several decades this focus on regime   security has led, first of all, to an emphasis on preserving the   international conditions necessary for continued economic growth. The party’s   ability to orchestrate rapid improvements in incomes and personal welfare is   its most tangible accomplishment of the past thirty years and the source of   its strongest claim to the gratitude and loyalty of the Chinese people.   Economic growth, my Princeton colleague Thomas Christensen argues, “provides   satisfaction and distraction to the population, and, therefore garners   domestic support for the Party (or at least reduces active opposition to the   Party).” Growth also generates revenues that the regime can use to “buy off   opposition and to channel funds to poorer regions and ethnic minority areas   to try to prevent violent uprisings.”   | Ước   muốn của đảng tiếp tục cầm quyền định hướng cho mọi khía cạnh của chính sách   quốc gia. Khi động đến vấn đề đối ngoại, nó muốn nói rằng mục đích cuối cùng   của Bắc Kinh là “làm cho thế giới an toàn cho chủ nghĩa độc đoán” hay ít nhất   để tiếp tục sự cai trị một đảng ở Trung Hoa. Trong nhiều thập kỷ gần đây, sự   tập trung vào an toàn của chế độ đã dẫn đến, trước hết, đến việc duy trì   những điều kiện quốc tế cần thiết để tiếp tục tăng trưởng kinh tế. Khả năng   của đảng tạo ra sự cải thiện nhanh chóng về thu nhập và phúc lợi cá nhân là   thành tựu thật nhất trong ba mươi năm qua và là nguồn gốc của những đòi hỏi   mạnh nhất của nó về lòng biết ơn và trung thành của nhân dân Trung Hoa. Đồng   nghiệp Thomas Christensen của tôi ở Princeton lập luận rằng, tăng trưởng kinh   tế “tạo ra sự thỏa mãn và xao lãng của dân chúng, và, do đó thu được sự ủng   hộ trong nước đối với Đảng (hay ít nhất cũng làm giảm sự tích cực chống đối)”   Tăng trưởng còn tạo ra thu nhập mà chính phủ có thể dùng để “mua chuộc đối lập   và tài trợ cho những địa phương nghèo hơn và các vùng dân tộc thiểu số để cố   gắng ngăn ngừa những cuộc nổi dậy bạo lực.”   | 
     | As   China has grown richer and stronger, the regime’s pursuit of security has   also led it to seek an increasing measure of control over the world outside   its borders. This outward push has both offensive and defensive motivations.   As the steward of national greatness, the party has the responsibility of   returning China to its rightful place at the center of Asia. The visible   deference of others will provide evidence of the regime’s success in this   regard and will help to reinforce its legitimacy at home. Especially if   economic growth should falter, “standing up” to traditional enemies and   resolving the Taiwan issue and other disputes on Beijing’s terms are likely   to become increasingly important parts of the CCP’s strategy for retaining   its hold on power. China’s leaders believe that the stronger their country   appears abroad, the stronger their regime will be at home.     | Vì   Trung hoa đã trở nên giầu hơn và mạnh hơn, sự theo đuổi an ninh của nó cũng   đã dẫn nó đi tìm biện pháp tăng cường kiểm soát đối với thế giới nằm bên   ngoài những đường biên giới của nó. Sức đẩy ra ngoài này có cả động cơ tấn   công và phòng thủ. Là người quản trị sự vĩ đại của dân tộc, đảng có trách   nhiệm đưa Trung Hoa trở về vị trí đúng của nó ở trung tâm của châu Á. Sự   chiều ý rõ ràng của những nước khác sẽ cung cấp bằng chứng về sự thành công   của chế độ trong khía cạnh này và sẽ giúp củng cố tính hợp pháp của nó ở trong   nước. Đặc biệt nếu tăng trưởng kinh tế có thể    vấp ngã, thì sự “đứng lên” trước kẻ thù truyền thống và giải quyết vấn   đề Đài Loan và các cuộc tranh chấp khác theo quan điểm của Bắc Kinh dễ trở   thành những phần quan trọng trong chiến lược của CCP để duy trì sự nắm quyền   của nó. Các lãnh đạo Trung Hoa tin rằng đất nước họ càng tỏ ra mạnh ở bên   ngoài, thì chế độ của họ sẽ càng mạnh ở trong nước.   | 
     | Conversely,   the appearance of weakness or the widespread perception that the nation has   been defeated or humiliated could be extremely dangerous to the party’s   prospects for continued rule. Underlying concerns about its legitimacy make   the regime more sensitive to slights and setbacks, and even more determined   to deter challenges and to avoid defeat, than it might otherwise be. The best   insurance against such risks is for China to accumulate an overwhelming   preponderance of power in its neighborhood.   | Ngược   lại, vẻ ngoài yếu ớt và nhận thức phổ biến rằng nước này đã bị thất bại hay   bị khinh miệt có thể là cực kỳ nguy hiểm đối với tiền đồ tiếp tục cầm quyền   của đảng. Những lo lắng ngấm ngầm về tính hợp pháp của nó khiến chế độ nhạy   cảm hơn với sự khinh miệt và thất bại, và thậm chí kiên quyết hơn trong việc   ngăn chặn những thách đố và tránh thất bại. Sự bảo đảm tốt nhất chống lại   những nguy cơ như thế đối với Trung Hoa là tích lũy một ưu thế sức mạnh áp   đảo trong khu vực láng giềng của nó.   | 
     | Moreover,   the CCP’s hypersensitivity to what it sees as “separatism” is a direct result   of its belief that it must retain tight central control in all places and at   all times. Pleas for greater autonomy from Tibet or Xinjiang are thus seen as   deadly threats to national unity and hence to continued Communist Party rule.   The regime believes that if it loosens its grip, even a little, the entire   country will spring apart. China’s leaders see the need to develop sufficient   strength to deter its neighbors from providing aid and comfort to separatist   groups and will build the capabilities to intervene directly to stop them,   should that become necessary.   | Hơn   nữa, sự nhạy cảm quá đáng của CCP đối với những gì nó coi là “chủ nghĩa ly   khai” là một kết quả trực tiếp của niềm tin của nó rằng nó phải duy trì kiểm   soát tập trung ở mọi nơi mọi lúc. Yêu cầu tự trị nhiều hơn ở Tây Tạng và Tân   cương như vậy được xem như mối đe dọa khủng khiếp đối với thống nhất quốc gia   và như vậy đối với sự tiếp tục cầm quyền của đảng. Chế độ tin rằng nếu nó   buông lơi dù chỉ một chút sự nắm chặt của nó thì cả nước sẽ vỡ tung ra. Các   lãnh đạo Trung Hoa thấy cần thiết phát triển đủ sức mạnh để ngăn chặn các   nước láng giềng của nó khỏi cung cấp viện trợ và nhu yếu cho các nhóm ly khai   và sẽ tạo ra những khả năng để can thiệp trực tiếp nhằm ngăn chặn chúng, nếu   điều đó trở nên cần thiết.   | 
     | Even   as it grows stronger and, in certain respects, more self-confident, the CCP   continues to dread ideological contamination. Pliant, like-minded states   along its borders are far more likely to help Beijing deal with this danger   than flourishing liberal democracies with strong ties to the West. The desire   to forestall “peaceful evolution” at home gives the regime another compelling   reason to want to shape the political development of its neighbors.   | Ngay   cả khi nó đã mạnh hơn và trong một số khia cạnh nào đó, tự tin hơn, CCP tiếp   tục lo sợ sự ô nhiễm tư tưởng. Các nước dễ bảo và có cùng khuynh hướng dọc   theo biên giới của nó có thể giúp Bắc kinh đối phó với nguy cơ này hơn là   những nền dân chủ tự do có quan hệ chặt chẽ với phương Tây. Ý muốn ra tay   trước để ngăn chặn “diễn biến hòa bình” cho chế độ một lý do thuyết phục hơn   để muốn định hướng sự phát triển chính trị của các láng giềng của nó.   | 
     | To   sum up: China’s current rulers do not seek preponderance solely because they   are the leaders of a rising great power or simply because they are Chinese.   Their desire for dominance and control is in large measure a by-product of   the type of political system over which they preside. A strong   liberal-democratic China would certainly seek a leading role in its region   and perhaps an effective veto over developments that it saw as inimical to   its interests. But it would also be less fearful of internal instability,   less threatened by the presence of democratic neighbors, and less prone to   seek validation at home through the domination and subordination of others.   | Tóm   lại: những người cầm quyền hiện nay ở Trung Hoa tìm kiếm ưu thế, không chỉ vì   họ là lãnh đạo của một cường quốc đang lên hay đơn giản họ là người Trung   Hoa. Mong muốn của họ thống trị và kiểm soát ở một mức độ lớn là một sản phẩm   phụ của loại hệ thống chính trị mà họ là chủ. Một Trung Hoa dân chủ tự do   mạnh chắc chắn sẽ tìm kiếm một vai trò lãnh đạo trong khu vực của nó và có lẽ   một quyền phủ quyết hiệu quả đối với những sự phát triển mà nó thấy là thù   địch với những lợi ích của nó. Nhưng nó cũng sẽ ít sợ hãi về sự mất ổn định   bên trong, it bị đe dọa bởi sự hiện diện của các nước láng giềng dân chủ, và   cũng ít ngả về tìm kiếm tính hợp pháp trong nước thông qua sự chi phối và lệ   thuộc của những nước khác.   | 
     | THOUGH   NOT everyone is convinced, it is likely that a more democratic China would   ultimately create a more peaceful, less war-prone environment in Asia. In the   view of some realists, domestic reforms will only make Beijing richer,   stronger and hence a more potent competitor without deflecting it from its   desire to dominate East Asia and settle scores with some of its neighbors. It   is undoubtedly true that even if, in the long run, China becomes a stable,   peaceful democracy, its passage will prove rocky. The opening of the nation’s   political system to dissent and debate is likely to introduce an element of   instability into its foreign policy as new voices are heard and aspiring leaders   vie for popular support. As one observer, economist David Hale, ruefully   points out: “An authoritarian China has been highly predictable. A more open   and democratic China could produce new uncertainties about both domestic   policy and international relations.”   | Mặc   dầu không phải tất cả mọi người đều tin như thế, nhưng một nước Trung Hoa dân   chủ hơn cuối cùng sẽ tạo ra một môi trường hòa bình hơn, ít ngả về chiến   tranh hơn ở châu Á. Theo quan điểm của nhiều người có đầu óc thực tế, những   cải cách trong nước sẽ chỉ làm cho Bắc Kinh thêm giầu hơn, mạnh hơn và vì vậy   là một đối thủ cạnh tranh có uy lực hơn mà không làm nó chệch khỏi ý muốn chi   phối Đông Á và giải quyết những tranh cãi với một số láng giềng của nó. Có   một sự thật chắc chắn rằng ngay cả nếu trong dài hạn, Trung Hoa trở thành một   nền dân chủ hòa bình và ổn định đi nữa thì cuộc chuyển đổi của nó cũng sẽ đầy   chông gai. Việc mở cửa hệ thống chính trị của đất nước cho những bất đồng và   tranh luận dễ đưa một yếu tố bất ổn vào chính sách đối ngoại của nó khi các   tiếng nói khác được nghe và các lãnh đạo đầy tham vọng tranh giành nhau sự   ủng hộ của dân chúng. Như một nhà quan sát, nhà kinh tế học David Hale buồn   bã chỉ ra: “Một nước Trung Hoa độc tài có thể dễ dàng đoán trước. Một nước   Trung Hoa mở cửa và dân chủ hơn có thể sinh ra những bất trắc mới trong cả   chính sách đối nội và các quan hệ quốc tế.”   | 
     | Nationalism,   perhaps in its most virulent and aggressive form, is one factor likely to   play a prominent role in shaping the foreign policy of a liberalizing Middle   Kingdom. Thanks to the spread of the Internet and the relaxation of   restraints on at least some forms of “patriotic” political expression, the   current regime already finds itself subject to criticism whenever it takes   what some “netizens” regard as an overly accommodating stance toward Japan,   Taiwan or the United States. Beijing has sought at times to stir up patriotic   sentiment, but, fearful that anger at foreigners could all too easily be   turned against the party, the regime has also gone to great lengths to keep   popular passions in check. A democratically elected government might be far   less inhibited. U.S.-based political scientist Fei-Ling Wang argues that a   post-Communist regime would actually be more forceful in asserting its   sovereignty over Taiwan, Tibet and the South China Sea. As he explains:   | Chủ   nghĩa dân tộc, có lẽ dưới dạng độc hại và hung hăng nhất của nó, là một nhân   tố có thể đóng vai trò nổi bật trong việc định hướng chính sách ngoại giao   của một Trung Quốc (Middle Kingdom – vương quốc ở giữa) tự do hóa. Nhờ có sự   lan tràn của mạng lưới Internet và nới lỏng kiềm chế trên ít nhất một số dạng   biểu hiện chính trị của  “lòng yêu   nước”, chế độ hiện nay đã thấy mình là đối tượng phê phán bất cứ khi nào nó   giữ lập trường mà một số “cư dân mạng” cho là dễ dãi quá đáng đối với Nhật   Bản, Đài Loan và Hoa Kỳ. Bắc Kinh lâu lâu lại tìm cách khuấy động tình cảm   yêu nước, nhưng, sợ rằng cơn giận dữ đối với các nước ngoài cũng có thể dễ   dàng quay trở lại chống lại đảng, chế độ cũng đã hết sức giữ gìn những cơn   cuồng nhiệt của quần chúng trong vòng kiểm soát. Một chính phủ được bầu ra   một cách dân chủ có thể ít rụt rè hơn nhiều. Nhà khoa học chính trị Fei Ling   Wang cho rằng một chế độ hậu cộng sản thực tế sẽ mạnh hơn trong việc đòi chủ   quyền đối với Đài Loan, Tây Tạng và Biển Nam Trung Hoa. Như ông giải thích:   | 
     | A   “democratic” regime in Beijing, free from the debilitating concerns for its   own survival but likely driven by popular emotions, could make the rising   Chinese power a much more assertive, impatient, belligerent, even aggressive   force, at least during the unstable period of fast ascendance to the ranks of   a world-class power.   | Một   chế độ ”dân chủ” ở Bắc Kinh, thoát khỏi những nỗi lo lắng làm suy nhược về sự   sống còn của chính nó nhưng chắc chắn sẽ bị lôi kéo bởi những tình cảm của   dân chúng, có thể làm cho cường quốc Trung Hoa đang lên thành một sức mạnh   quả quyết, nôn nóng, tham chiến và hung hăng hơn, ít nhất trong thời kỳ bất   ổn leo nhanh lên vị trí của một cường quốc đẳng cấp thế giới.   | 
     | The   last proviso is key. Even those who are most confident of the long-term   pacifying effects of democratization recognize the possibility of a turbulent   transition. In his book China’s Democratic Future, Bruce Gilley acknowledges   that democratic revolutions in other countries have often led to bursts of   external aggression and he notes that, since the start of the twentieth   century, pro-democracy movements in China have also been highly   nationalistic. Despite these precedents, Gilley predicts that, after an interval   of perhaps a decade, a transformed nation will settle into more stable and   cooperative relationships with the United States as well as with its   democratic neighbors.   | Điều   cuối cùng là chủ chốt. Ngay cả những người tin tưởng nhất vào những tác động   làm hòa dịu của quá trình dân chủ hóa cũng thừa nhận khả năng của một cuộc   chuyển đổi hỗn loạn. Trong tác phẩm Tương lai Dân chủ của Trung Hoa, Bruce   Gilley thừa nhận rằng các cuộc cách mạng dân chủ trong các nước khác đã luôn   luôn dẫn đến bùng nổ các cuộc xâm lược nước ngoài, và ông nhận xét rằng từ   đầu thế kỷ hai mươi, phong trào ủng hộ dân chủ ở Trung Hoa cũng có tính dân   tộc chủ nghĩa cao độ. Bất chấp những tiền lệ này, Gilley tiên đoán rằng sau   một quãng cách có lẽ một thập kỷ, một nước được chuyển đổi sẽ yên hàn đi vào   những mối quan hệ hợp tác và ổn định hơn với Hoa Kỳ cũng như với các nước dân   chủ láng giềng của nó.   | 
     | Such   an outcome is by no means certain, of course, and would be contingent upon   events and interactions that are difficult to anticipate and even harder to   control. If initial frictions between a fledgling democracy and its better   established counterparts are mishandled, resulting in actual armed conflict,   history could spin off in very different and far less promising directions   than if they are successfully resolved. Assuming the transition can be   navigated without disaster, however, there are good reasons to believe that   relations will improve with the passage of time. One Chinese advocate of   political reform, Liu Junning, summarizes the prospects well. Whereas a   “nationalistic and authoritarian China will be an emerging threat,” a   liberal, democratic China will ultimately prove “a constructive partner.” | Tất   nhiên một kết quả như thế không hề là chắc chắn, và phụ thuộc vào những sự   kiện và những tương tác khó biết trước và thậm chí khó kiểm soát. Nếu những   va chạm ban đầu giữa một nền dân chủ non trẻ và những đối tác được thiết lập   tốt hơn của nó bị xử lý tồi dẫn đến một cuộc xung đột vũ trang thật sự, lịch   sử có thể xoay sang những hướng rất khác và ít hứa hẹn hơn nhiều [so với] nếu   chúng được giải quyết thỏa đáng. Tuy nhiên, giả sử cuộc chuyển đổi có thể   được dẫn hướng không gây ra thảm họa, có đầy đủ lý do để tin rằng các quan hệ   sẽ được cải thiện với thời gian. Một người Trung Hoa ủng hộ cải cách chính   trị, Liu Junning, đã tổng kết tóm tắt rõ ràng các viễn cảnh. Trong khi một   nước Trung Hoa “dân tộc chủ nghĩa và độc tài” sẽ là một mối đe dọa đang hiện   hình,” thì một nước Trung Hoa dân chủ, tự do cuối cùng sẽ chứng tỏ là một   “đối tác xây dựng.”   | 
     | This   expectation is rooted in more than mere wishful thinking. As the values and   institutions of liberal democracy become more firmly entrenched, there will   begin to be open and politically meaningful debate and real competition over   national goals and the allocation of national resources. Aspiring leaders and   opinion makers preoccupied with prestige, honor, power and score settling   will have to compete with others who emphasize the virtues of international   stability, cooperation, reconciliation and the promotion of social welfare.   The demands of the military and its industrial allies will be   counterbalanced, at least to some degree, by groups who favor spending more   on education, health care and the elderly. The assertive, hypernationalist   version of China’s history and its grievances will be challenged by accounts   that acknowledge the culpability of the Communist regime in repressing   minorities and refusing to seek compromise on questions of sovereignty. A   leadership obsessed with its own survival and with countering perceived   threats from foreign powers will be replaced by a government secure in its   legitimacy and with no cause to fear that the world’s democracies are seeking   to encircle and overthrow it.   | Điều   hy vọng này không phải chỉ bắt nguồn từ lối suy nghĩ mơ tưởng. Khi các giá   trị và các thiết chế của dân chủ tự do trở nên được bảo vệ vững chắc hơn, sẽ   bắt đầu có cuộc tranh biện công khai và mang ý nghĩa chính trị và cuộc tranh   đua thật sự các mục tiêu quốc gia và sự phân phối các nguồn tài nguyên quốc   gia. Các nhà lãnh đạo có tham vọng và những người tạo dư luận bận tâm với uy   tín, danh dự, quyền lực và thanh toán nợ nần sẽ phải cạnh tranh với những   người khác, nhấn mạnh đến tính ưu việt của sự ổn định quốc tế, hợp tác, hòa   giải và thúc đẩy tăng tiến phúc lợi xã hội. Những yêu cầu của quân đội và   những liên minh công nghiệp của nó sẽ được đối trọng, ít nhất đến một mức độ   nào đó, bởi các nhóm muốn chi tiêu nhiều hơn vào giáo dục y tế và chăm sóc   người già. Phiên bản dân tộc chủ nghĩa thái quá và quyết đoán của lịch sử   Trung Hoa và những nỗi bất bình của nó sẽ bị thách thức bởi những quan điểm   thừa nhận sự có tội của chế độ cũ trong việc đàn áp các dân tộc thiểu số và   từ chối tìm kiếm sự dàn xếp trên các vấn đề chủ quyền. Một giàn lãnh đạo bị   ám ảnh với sự sống còn của chính nó và với những mối đe dọa từ các cường quốc   bên ngoài sẽ được thay thế bởi một chính phủ vững vàng trong tính hợp pháp   của nó và không có lý do gì để sợ hãi rằng các nền dân chủ trên thế giới đang   tìm cách bao vây và lật đổ nó.   | 
     | A   democratic China would find it easier to get along with Japan, India and   South Korea, among others. The trust and mutual respect that eventually grows   up between democracies, and the diminished fear that one will use force   against another, should increase the odds of attaining negotiated settlements   of outstanding disputes over borders, offshore islands and resources. A   democratic government in Beijing would also stand a better chance of   achieving a mutually acceptable resolution to its sixty-year standoff with   Taiwan. In contrast to today’s CCP rulers, a popularly elected mainland   regime would have less to gain from keeping this conflict alive, it would be   more likely to show respect for the preferences of another democratic   government, and it would be more attractive to the Taiwanese people as a   partner in some kind of federated arrangement that would satisfy the desires   and ease the fears of both sides.   | Một   nước Trung Hoa dân chủ có thể sẽ thấy dễ dàng sống hòa thuận với Nhật Bản, Ấn   Độ, và Nam Triều tiên, cùng nhiều nước khác. Sự tin cậy và tôn trọng lẫn nhau   cuối cùng lớn lên giữa các nước dân chủ và xua tan nỗi sợ rằng người ta sẽ   dùng sức mạnh chống lại nhau, sẽ làm tăng lợi thế của việc đạt được những dàn   xếp thông qua thương lượng đối với những tranh chấp về biên giới, biển đảo và   các nguồn tài nguyên. Một chính phủ dân chủ ở Bắc Kinh cũng sẽ đồng ý với một   cơ hội tốt hơn để đạt được một giải pháp hai bên cùng chấp nhận cho sự xa   cách sáu mươi năm với Đài Loan. Trái với những nhà cầm quyền CCP hiện nay,   một chế độ ở lục địa được dân bầu sẽ có ít cái để được nhờ duy trì những cuộc   xung đột, nó sẽ có nhiều khả năng bày tỏ sự tôn trọng đối với một chính phủ   dân chủ khác được ưa thích hơn, và nó cũng sẽ hấp dẫn hơn đối với nhân dân   Đài Loan như một đối tác trong  một số   kiểu bố trí liên bang có thể sẽ thỏa mãn những mong muốn và xoa dịu những nỗi   sợ hãi của cả hai bên.   | 
     | For   as long as China continues to be governed as it is today, its growing   strength will pose a deepening challenge to American interests. If they want   to deter aggression, discourage coercion and preserve a plural, open order,   Washington and its friends and allies are going to have to work harder, and   to cooperate more closely, in order to maintain a favorable balance of regional   power. In the long run, the United States can learn to live with a democratic   China as the dominant power in East Asia, much as Great Britain came to   accept America as the preponderant power in the Western Hemisphere. Until   that day, Washington and Beijing are going to remain locked in an   increasingly intense struggle for mastery in Asia.   | Chừng   nào mà Trung Hoa còn được cai quản như hiện nay, thì sự lớn lên của sức mạnh   của nó còn đặt một thách thức sâu xa lên các quyền lợi của Hoa Kỳ. Nếu họ   muốn ngăn chặn xâm lược, ngăn cản áp bức và duy trì một trật tự mở, đa phương   thì Washington và các nước bạn và đồng minh của nó sẽ phải hành động tích cực   hơn, và hợp tác chặt chẽ hơn, để duy trì sự cân bằng thuận lợi của sức mạnh   trong khu vực. Trong dài hạn, Hoa Kỳ có thể học cách sống với một nước Trung   Hoa dân chủ như một cường quốc vượt trội ở Đông Á, như nước Anh đã đi đến   chấp nhận Hoa Kỳ như một cường quốc vượt trội ở Tây Bán cầu. Từ nay đến ngày   đó, Washington và Bắc Kinh sẽ vẫn còn bị hãm trong một cuộc đấu tranh ngày   càng mãnh liệt để giành  ngôi bá chủ ở   châu Á.    | 
     |   
 | Nguồn:   National Interest, 21/6/2011, Hiếu   Tân dịch   |