|
|
|
|
Award Ceremony
Speech
|
Diễn văn trao giải
Nobel Hòa bình 1991
|
Presentation Speech by Francis Sejersted, Chairman of the
Norwegian Nobel Committee
|
Phát Biểu của Francis Sejersted, Chủ tịch Ủy Ban Nobel Na
Uy
|
|
|
We are assembled here today to honour Aung San Suu Kyi for
her outstanding work for democracy and human rights, and to present to her
the Nobel Peace Prize for 1991. The occasion gives rise to many and partly
conflicting emotions. The Peace Prize Laureate is unable to be here herself.
The great work we are acknowledging has yet to be concluded. She is still
fighting the good fight. Her courage and commitment find her a prisoner of
conscience in her own country, Burma. Her absence fills us with fear and anxiety,
which can nevertheless only be a faint shadow of the fear and anxiety felt by
her family. We welcome this opportunity of expressing our deepest sympathy
with them, with her husband, Michael Aris, and with her sons, Alexander and
Kim. We feel with you, and we are very grateful to you for coming to Oslo to
receive the Nobel Prize on behalf of your wife and mother.
|
Hôm nay chúng ta tụ họp nơi đây để tôn vinh Aung San Suu
Kyi vì sự cống hiến vĩ đại của bà cho dân chủ và quyền con người, và để trao
tặng bà Giải Nobel Hòa Bình năm 1991. Sự kiện đặc biệt này gợi ra những tình
cảm ít nhiều mâu thuẫn nhau. Chủ nhân Giải Nobel không thể có mặt cùng chúng
ta ngày hôm nay. Sự cống hiến vĩ đại mà chúng ta cùng đang tôn vinh còn chưa
đến hồi kết. Bà vẫn đang tiếp tục cuộc tranh đấu của mình. Sự dũng cảm và tận
tụy của bà đã biến bà thành tù nhân lương tâm ngay trên đất nước mình, Burma.
Sự vắng mặt của bà ngày hôm nay đem đến cho chúng ta mối quan ngại và lo
lắng, cho dù những tình cảm này chỉ là cái bóng mờ so với sự âu lo mà gia
đình bà đang trải qua. Chúng ta chào đón cơ hội này để bày tỏ đến họ sự đồng
cảm sâu đậm nhất của mình tới họ, tới chồng bà, Micheal Aris, và tới các con
trai bà, Alexander và Kim. Chúng tôi chia sẻ với các bạn, và chúng tôi rất
hàm ơn các bạn đã tới Oslo để nhận Giải Nobel thay cho vợ và mẹ của các bạn.
|
Our fear and anxiety are mixed with a sense of confidence
and hope. In the good fight for peace and reconciliation, we are dependent on
persons who set examples, persons who can symbolise what we are seeking and
mobilise the best in us. Aung San Suu Kyi is just such a person. She unites
deep commitment and tenacity with a vision in which the end and the means
form a single unit. Its most important elements are: democracy, respect for
human rights, reconciliation between groups, non-violence, and personal and
collective discipline.
|
Sự lo lắng và quan ngại của chúng ta được trộn lẫn với cảm
giác tin tưởng và hi vọng. Trong cuộc tranh đấu tốt đẹp cho hòa bình và hòa
hợp, chúng ta phụ thuộc vào những cá nhân mẫu mực, những người có thể trở
thành biểu tượng của các giá trị mà chúng ta kiếm tìm, và có thể huy động
những gì tốt nhất ẩn chứa trong từng cá nhân chúng ta. Aung San Suu Kyi chính
là một người như thế. Bà hợp nhất sự tận tụy và bền bỉ với một viễn kiến mà
theo đó, mục đích và các phương tiện kết hợp lại thành một. Những thành tố cơ
bản của nó là: dân chủ, sự tôn trọng các quyền con người, hòa hợp giữa các
nhóm, bất bạo động, kỷ luật cá nhân và tập thể.
|
She has herself clearly indicated the sources of her
inspiration: principally Mahatma Gandhi and her father, Aung San, the leader
in Burma's struggle for liberation. The philosopher of non-violence and the
General differ in many respects, but also show fundamental similarities. In
both, one can see genuine independence, true modesty, and "a profound
simplicity", to use Aung San Suu Kyi's own words about her father. To
Aung San, leadership was a duty, and could only be carried out on the basis
of humility in face of the task before him and the confidence and respect of
the people to be led.
|
Bà đã tự mình chỉ rõ các mạch nguồn cảm hứng của bà: chính
yếu là Thánh Gandhi và phụ thân của bà, Aung San, lãnh tụ cuộc đấu tranh giải
phóng Burma. Triết gia về bất bạo động và vị Tướng Quân khác nhau ở nhiều
điểm, nhưng cũng có nhiều tương đồng cơ bản. Trong cả hai, chúng ta có thể
tìm thấy độc lập chân chính, sự khiêm nhường thành thực và “một sự giản dị
hết mực”, như lời của Aung San Suu Kyi khi nói về phụ thân mình. Với Aung
San, lãnh đạo là một trách nhiệm, và chỉ có thể được thực thi trên nền tảng
là sự khiêm nhường trước việc mình làm và sự tin tưởng và kính trọng của
những người được dẫn dắt.
|
While no doubt deriving a great deal of inspiration from
Gandhi and her father, Aung San Suu Kyi has also added her own independent
reflections to what has become her political platform. The keynote is the
same profound simplicity as she sees in her father. The central position
given to human rights in her thinking appears to reflect a real sense of the
need to protect human dignity. Man is not only entitled to live in a free
society; he also has a right to respect. On this platform, she has built a
policy marked by an extraordinary combination of sober realism and visionary
idealism. And in her case this is more than just a theory: she has gone a
long way towards showing how such a doctrine can be translated into practical
politics.
|
Trong khi không có gì phải nghi ngờ rằng Aung San Suu Kyi
đã lấy cảm hứng lớn từ Gandhi và phụ thân mình, bà cũng đưa thêm những suy tư
độc lập của mình vào cái đã trở thành cương lĩnh chính trị của bà. Sự tinh
túy vẫn là tính giản dị hết mực như bà tìm thấy từ phụ thân mình. Việc quyền
con người chiếm vị trí trung tâm trong tư tưởng của bà đã phản ánh cảm nhận
chân thành của Suu Kyi về nhu cầu phải bảo vệ nhân phẩm của con người. Con
người không chỉ có quyền sống trong một xã hội tự do, mà con người còn có
quyền được tôn trọng. Trên cương lĩnh này, bà đã xây dựng một chính sách được
đặc trưng bởi sự hòa quyện tuyệt vời giữa chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo và chủ
nghĩa lý tưởng nhìn xa trông rộng. Và trong trường hợp của bà, nó không chỉ
là một lý thuyết: bà đã đi một con đường dài để chỉ ra cách làm thế nào áp
dụng một học thuyết như thế trong thực tiễn chính trị.
|
For a doctrine of peace and reconciliation to be translated
into practice, one absolute condition is fearlessness. Aung San Suu Kyi knows
this. One of her essays opens with the statement that it is not power that
corrupts, but fear.1 The comment was aimed at the totalitarian regime in her
own country. They have allowed themselves to be corrupted because they fear
the people they are supposed to lead. This has led them into a vicious
circle. In her thinking, however, the demand for fearlessness is first and
foremost a general demand, a demand on all of us. She has herself shown
fearlessness in practice. She opposed herself alone to the rifle barrels. Can
anything withstand such courage? What was in that Major's mind when at the
last moment he gave the order not to fire? Perhaps he was impressed by her
bravery, perhaps he realised that nothing can be achieved by brute force.2
|
Để một học thuyết về hòa bình và hòa hợp được đưa vào thực
tiễn, một điều kiện tiên quyết là sự can đảm. Aung San Suu Kyi biết rõ điều
này. Một trong các bài phát biểu của bà bắt đầu bằng lời khẳng định rằng
không phải quyền lực làm cho tha hóa, mà chính là nỗi khiếp sợ. [1] Nhận định
này hướng tới chế độ toàn trị trên đất nước bà. Họ đã tự cho phép mình bị tha
hóa vì họ sợ hãi những người dân mà họ đáng nhẽ ra phải dẫn dắt. Điều này dẫn
họ vào vòng luẩn quẩn. Dầu vậy, theo bà, đòi hỏi can đảm, đầu tiên và trước
hết là một nhu cầu chung, cho tất cả chúng ta. Bà đã tự chứng minh sự can đảm
của mình trong hành động. Bà đã một mình đứng trước họng súng. Liệu có gì
chống nổi lòng can đảm nhường ấy? Điều gì đã diễn ra trong đầu người Thiếu Tá
khi vào giây chót y đã ra lệnh không bắn? Có thể là y đã bị ấn tượng bởi sự
quả cảm của bà, có thể là y đã nhận thấy rằng bạo lực vô nhân sẽ không đem
lại bất kỳ điều gì. [2]
|
Violence is its own worst enemy, and fearlessness is the
sharpest weapon against it. It is not least Aung San Suu Kyi's impressive
courage which makes her such a potent symbol, like Gandhi and her father Aung
San. Aung San was shot in the midst of his struggle. But if those who
arranged the assassination thought it would remove him from Burmese politics,
they were wrong. He became the unifying symbol of a free Burma and an
inspiration to those who are now fighting for a free society. In addition to
his example and inspiration, his position among his people, over forty years
after his death, gave Aung San Suu Kyi the political point of departure she
needed. She has indeed taken up her inheritance, and is now in her own right
the symbol of the revolt against violence and the struggle for a free
society, not only in Burma, but also in the rest of Asia and in many other
parts of the world.
|
Bạo lực chính là kẻ thù tồi tệ nhất của chính nó, và sự
can đảm là vũ khí sắc bén nhất chống lại bạo lực. Aung San Suu Kyi trở thành
một biểu tượng nổi bật không đơn thuần chỉ vì sự can đảm đầy ấn tượng của bà,
cũng giống như Gandhi và phụ thân của bà, Aung San. Aung San bị bắn ngay giữa
cuộc kháng chiến. Nhưng nếu những kẻ dàn xếp vụ ám sát đó nghĩ rằng (cái chết
đã) loại ông ra khỏi nền chính trị Burma, họ đã sai lầm. Ông trở thành biểu
tượng đoàn kết của một Burma tự do, và là nguồn cảm hứng cho những người hiện
nay đang tranh đấu cho một xã hội tự do. Ngoài những bài học và nguồn cảm
hứng mà ông đem lại, vị trí của ông trong lòng người, hơn bốn mươi năm sau
khi ông tạ thế, đã đem lại cho Aung San Suu Kyi xuất phát điểm chính trị mà
bà cần có. Bà đã đón nhận lấy tài sản thừa kế ấy, và nay chính bản thân bà
trở thành biểu tượng của công cuộc tranh đấu chống lại bạo lực và cho một xã
hội tự do, không chỉ ở Burma, mà còn ở những phần còn lại của Á Châu và nhiều
nơi khác trên thế giới.
|
We ordinary people, I believe, feel that with her courage
and her high ideals, Aung San Suu Kyi brings out something of the best in us.
We feel we need precisely her sort of person in order to retain our faith in
the future. That is what gives her such power as a symbol, and that is why
any illtreatment of her feels like a violation of what we have most at heart.
The little woman under house arrest stands for a positive hope. Knowing she
is there gives us confidence and faith in the power of good.
|
Tôi tin những người bình thường chúng ta đều cảm nhận được
rằng với sự can đảm và những ý tưởng cao thượng của bà, Aung San Suu Kyi khơi
dậy những gì tốt đẹp nhất trong từng con người chúng ta. Chúng ta cảm nhận
rằng chúng ta cần chính xác những người như bà để gìn giữ niềm tin của mình
vào tương lai. Đó chính là cái đã đem lại cho bà quyền lực với tư cách là một
biểu tượng, và cũng là lý do tại sao sự đối xử bạo ngược với bà cũng giống
như một sự xúc phạm những gì thiêng liêng nhất trong trái tim chúng ta. Người
phụ nữ bé nhỏ bị quản chế đại diện cho một hi vọng lạc quan. Biết rằng bà vẫn
còn đó đem đến cho chúng ta sự tin tưởng và niềm xác tín vào sức mạnh của lẽ
phải.
|
Aung San Suu Kyi was born in 1945. Her father was killed
when she was two. She has no personal memories of him. Her mother was a
diplomat, and Aung San Suu Kyi was to spend many of her early years and much
of her later life abroad. In 1967, she took a degree in Politics, Philosophy
and Economics at St. Hugh's College, Oxford. From 1969 on, she worked for two
years for the United Nations in New York. In 1972 she married Michael Aris, a
British specialist on Tibet. For a time the family lived in Bhutan, but in
the mid-seventies they moved back to Oxford. In addition to being a housewife
with two small children, Aung San Suu Kyi kept up her academic work,
gradually concentrating on modern Burmese history and literature. She was a
visiting scholar at Kyoto University in Japan and at the Indian Institute of
Advanced Studies in New Delhi. On her return to Burma in 1988, she broke off
her studies at the London School of Oriental and African Studies. There is
little in these outward events to suggest the role she was to embark on in
1988. But she was well prepared.
|
Aung San Suu Kyi sinh năm 1945. Phụ thân của bà bị giết
khi bà mới hai tuổi. Bà không có ký ức riêng gì về cha mình. Thân mẫu của bà
là một nhà ngoại giao, Aung San Suu Kyi đã sống nhiều năm tuổi trẻ và phần
lớn phần đời về sau của mình ở nước ngoài. Vào năm 1967, bà lấy bằng về Chính
Trị, Triết Học và Kinh Tế tại trường Cao Đẳng St. Hugh’s thuộc Đại Học
Oxford. Từ năm 1969 về sau, bà làm việc hai năm cho Liên Hiệp Quốc tại New
York. Năm 1972, bà thành hôn với Micheal Aris, một chuyên gia về Tây Tạng
người Anh. Đã có thời gian gia đình họ sống ở Bhutan, nhưng vào giữa những
năm bảy mươi, họ chuyển lại về Oxford. Ngoài việc là một người nội trợ với
hai con nhỏ, Aung San Suu Kyi tiếp tục nghiên cứu và dần tập trung vào lịch
sử và văn chương Burma hiện đại. Bà là học giả trong một thời gian ngắn tại
Đại Học Kyoto, Nhật Bản và tại Học Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Ấn Độ tại New
Delhi. Khi bà quay trở lại Burma năm 1988, bà bỏ dở công việc nghiên cứu của
mình tại Trường Nghiên cứu phương Đông và châu Phi London. Không có nhiều sự
kiện bên ngoài gợi ý về vai trò mà bà (sẽ) dấn thân vào kể từ năm 1988. Tuy nhiên,
bà đã sẵn sàng.
|
There is a great deal of evidence that the fate of her own
people had constantly weighed on her mind. Her husband has told us how she
often reminded him that one day she would have to return to Burma, and that
she would count on his support.3 Her studies, too, as we have seen, became
increasingly concentrated on Burma's modern history. The study of her father
and the part he played in Burmese history no doubt increased her political
commitment and sense that his mantle had fallen on her.4
|
Có rất nhiều bằng chứng rằng số phận những đồng bào mình
đã thường xuyên đè nặng trên tâm trí người phụ nữ này. Người bạn đời của bà
cho chúng tôi biết rằng bà thường nhắc nhở ông về một ngày bà sẽ phải quay
trở về Burma, và bà sẽ cần đến sự giúp đỡ của ông. [3] Những nghiên cứu của
bà, như chúng ta thấy, đã ngày càng tập trung vào lịch sử Burma hiện đại.
Nghiên cứu về phụ thân mình và vai trò của ông trong lịch sử Burma hiển nhiên
đã tăng cường sự tận tâm chính trị của bà và cảm giác rằng sứ mệnh của ông đã
chuyển sang vai bà. [4]
|
In moving to Japan, she was virtually following in her
father's footsteps. During the Second World War, it was from a base in Japan
that Aung San built up Burma's independent national army. When Japan invaded
Burma, Aung San and his men went too. Before long, they switched from fighting
the British colonial power to resisting the occupying Japanese and supporting
the retaking of Burma by the Allies. After the war, he led the negotiations
with the British which were to lead to final independence. Aung San Suu Kyi
appears to have felt an urgent need to study the process which led to Burma's
independent statehood, and to understand the ideals governing the politics.
In a beautiful essay comparing the Indian and Burmese experience of
colonisation, she also brings out the special features of Burma's cultural
heritage.5 History is important. You choose who you are by choosing which
tradition you belong to. Aung San Suu Kyi seeks to call attention to what she
sees as the best aspects of the national and cultural heritage and to
identify herself with them. Such profound knowledge and such a deep sense of
identity are an irresistible force in the political struggle.
|
Khi chuyển sang Nhật Bản, bà đã thực sự theo bước chân của
phụ thân mình. Trong Thế Chiến Hai, Aung San đã xây dựng lực lượng quân đội
độc lập của Burma từ một căn cứ của Nhật Bản. Khi Nhật xâm lược Burma, Aung
San và binh sỹ của ông cũng theo về nước. Không lâu sau, họ chuyển mục tiêu
từ đấu tranh chống sự đô hộ của người Anh sang kháng chiến chống quân chiếm
đóng Nhật và ủng hộ quân Đồng Minh tái chiếm Burma. Sau cuộc chiến, ông dẫn
đầu các cuộc thương thảo với người Anh để dẫn đến nền độc lập cuối cùng. Aung
San Suu Kyi có vẻ như đã cảm nhận được sự cấp thiết phải nghiên cứu quá trình
dẫn tới nền độc lập của nhà nước Burma, và để hiểu những tư tưởng chi phối
nền chính trị. Trong một bài viết sắc sảo so sánh sự thực dân hóa ở Ấn và
Burma, bà đã chỉ ra những nét đặc thù trong di sản văn hóa Burma. [5] Lịch sử
là quan trọng. Chúng ta lựa chọn chúng ta là ai thông qua việc lựa chọn
truyền thống nào chúng ta sẽ thuộc về. Aung San Suu Kyi tìm kiếm những nét mà
bà nhìn nhận là các mặt tinh hoa nhất của di sản dân tộc và văn hóa và gắn bó
mình với chúng. Kiến thức uyên bác này cùng với sự ý thức sâu sắc về bản sắc
của mình là những sức mạnh không thể khuất phục trong đấu tranh chính trị.
|
The occasion of Aung San Suu Kyi's return to Burma in 1988
was, characteristically enough, not the political situation but her old mother's
illness. The political turbulence had just begun, however. There had been
demonstrations and confrontations with the police with some two hundred
killed. The unrest continued while she was nursing her dying mother. That was
the situation in which she resolved to take an active part in what she
herself called "the second struggle for national independence".
|
Sự kiện Aung San Suu Kyi quay trở lại Burma năm 1988, về
danh nghĩa, không liên quan đến tình hình chính trị mà do thân mẫu của bà lâm
trọng bệnh. Dầu vậy, sự bất ổn chính trị cũng vừa bắt đầu. Đã có những cuộc
biểu tình và đụng độ với cảnh sát và khoảng vài trăm người bị thiệt mạng.
Tình trạng bất ổn tiếp tục trong khi bà chăm sóc thân mẫu đang trong tình
trạng hấp hối. Đó là tình huống mà bà đã quyết tâm tham gia tích cực vào cái
mà bà gọi là “cuộc đấu tranh lần thứ hai cho độc lập dân tộc”.
|
The military regime had seized power in Burma in 1962. The
disturbances which broke out in 1988 were a reaction to growing repression.
In the summer of that year, at a time when the situation was very uncertain,
Aung San Suu Kyi intervened with a open letter to the government, proposing
the appointment of a consultative committee of respected independent persons
to lead the country into multi-party elections. In the letter, she emphasised
the need for discipline and for refraining from the use of force on either
side, and demanded the release of political prisoners.6
|
Chính thể quân sự lên nắm quyền ở Burma từ năm 1962. Tình
trạng hỗn loạn nổ ra năm 1988 là một phản ứng đối với sự đàn áp ngày càng
tăng. Trong mùa hè năm đó, vào thời điểm mà tình hình hết sức bấp bênh, Aung
San Suu Kyi can thiệp bằng một lá thư gửi tới chính phủ, đề nghị thành lập
một ủy ban tư vấn gồm các nhân vật độc lập có uy tín nhằm dẫn dắt đất nước đi
tới các cuộc tuyển cử đa đảng. Trong thư, bà nhấn mạnh tầm quan trọng phải có
kỷ luật và tránh sử dụng các biện pháp bạo lực từ cả hai phía, và đề nghị thả
các tù nhân chính trị. [6]
|
A couple of days later, she addressed several hundred
thousand people in front of the large Shwedagon Pagoda in Rangoon, presenting
a political program based on human rights, democracy and non-violence. On the
18th of September, after hesitating for a few weeks, the armed forces reacted
by tightening the restrictions. The so-called "State Law and Order
Restoration Council" (SLORC) was established, and martial law was
introduced under which meetings were banned and persons could be sentenced
without trial.
|
Vài ngày sau đó, bà có buổi nói chuyện với vài trăm ngàn
người trước cửa ngôi Chùa Shwedagon lớn tại Rangoon, nêu ra cương lĩnh chính
trị dựa trên các quyền con người, dân chủ và bất bạo động. Vào ngày 18 tháng
Chín, sau một vài tuần lưỡng lự, các lực lượng quân sự phản ứng lại bằng cách
thắt chặt các hạn chế. Cái gọi là “Hội Đồng Tái Lập Trật Tự và Luật Pháp Nhà
Nước” (SLORC) ra đời, và thiết quân luật được áp dụng mà theo đó các cuộc hội
họp bị cấm và cá nhân có thể bị kết án không qua xét xử.
|
Political parties were not prohibited (perhaps with
meetings banned it was thought unnecessary). A week after the establishment
of SLORC, Aung San Suu Kyi and a few other members of the opposition founded
the National League for Democracy, the NLD. She went on to engage in vigorous
political activity, defying the ban on meetings and military provocations,
and holding heavily attended political meetings all over the country. One
remarkable feature of her political campaign was the appeal she had for the
country's various ethnic groups, traditionally at odds with each other.
|
Các chính đảng không bị cấm (có lẽ vì với việc cấm các
cuộc hội họp, họ cho rằng không cần phải làm thêm điều này). Một tuần sau sự
ra đời của SLORC, Aung San Suu Kyi và một số ít các thành viên của lực lượng
đối lập thành lập Liên Minh Dân Tộc vì Dân Chủ”, viết tắt là NLD. Bà dấn
bước, tham sự vào hoạt động chính trị mạnh mẽ, thách thức sự cấm đoán hội họp
và các khiêu khích quân sự và tổ chức các cuộc mít tinh đông đảo trên toàn
quốc. Một nét nổi bật trong chương trình chính trị là sự lôi cuốn của bà đối
với nhiều nhóm sắc tộc khác nhau trên cả nước mà trước nay vẫn thường xung
đột.
|
It must have been her personal prestige which caused the
regime to hesitate so long, but in July 1989 she was placed under house
arrest. In May 1990, elections were held, in which the NLD won an overwhelming
victory and over 80 per cent of the seats in the national assembly. There is
general agreement that this was principally a triumph for Aung San Suu Kyi.
|
Chắc chắn vì uy tín cá nhân của bà mà chế độ phải ngần
ngại lâu đến như vậy, nhưng vào tháng 7 năm 1989, bà bị quản thúc tại gia.
Tháng 5 năm 1990, các cuộc bầu cử được tổ chức, theo đó NLD đã thắng lớn với
hơn 80 phần trăm số ghế trong quốc hội. Mọi người đều đồng tình rằng về cơ
bản, đó là một chiến thắng của Aung San Suu Kyi.
|
Why did the SLORC allow free elections? Probably because
they expected a very different result, a result which would somehow have
provided the legitimacy they needed to retain power. The dilemma of such
regimes was demonstrated - trapped in their own lies. At any rate, they
refused to accept the election result. The election was in effect annulled.
The SLORC continued, but with reduced legitimacy. Lack of legitimacy is often
made up for by increased brutality. Amnesty International has reported
continuing serious violations of human rights.7 Today, the Burmese regime
appears to have developed into one of the most repressive in the world.
|
Tại sao SLORC lại chấp nhận tuyển cử tự do? Có thể vì họ
dự đoán một kết quả rất khác, một kết quả mà bằng cách nào đó cung cấp cho họ
tính hợp hiến họ cần để duy trì quyền lực. Thế tiến thoái lưỡng nan của một
chế độ như vậy đã lộ rõ – bị sa vào bẫy của chính những dối lừa mà họ tạo ra.
Trong bất cứ trường hợp nào, họ từ chối công nhận kết quả bầu cử. Cuộc bầu cử
đã bị thủ tiêu trên thực tế. SLORC tiếp tục cầm quyền, nhưng tính hợp hiến đã
giảm đi. Mất tính hợp hiến thường được khỏa lấp bởi việc gia tăng đàn áp. Tổ
chức Ân Xá Quốc Tế đã báo cáo các vi phạm nghiêm trọng và liên tục về các
quyền con người. [7] Ngày nay, chính quyền Burma có vẻ như đã phát triển
thành một trong những chính thể đàn áp mạnh nhất trên toàn cầu.
|
In recent decades, the Norwegian Nobel Committee has
awarded a number of Prizes for Peace in recognition of work for human
rights.8 It has done so in the conviction that a fundamental prerequisite for
peace is the recognition of the right of all people to life and to respect.
Another motivation lies in the knowledge that in its most basic form, the
concept of human rights is not just a Western idea, but common to all major
cultures. Permit me in this connection to quote a paragraph of Aung San Suu
Kyi's essay In Quest of Democracy:
|
Trong những thập kỷ gần đây, Ủy Ban Nobel Na Uy đã trao
tặng một số Giải Hòa Bình vinh danh những đóng góp vì quyền con người. [8]
Việc này được thực hiện dựa trên niềm tin rằng điều kiện tiên quyết cơ bản
nhất cho hòa bình là sự nhìn nhận quyền của mọi người được sống và được tôn
trọng. Một động cơ khác nằm ở nhận thức rằng, ở dạng cơ bản nhất, quan niệm
về các quyền con người không chỉ là ý tưởng Tây Phương, mà chung cho tất cả
các nền văn hóa chính. Cho phép tôi được trích đọc một đoạn trong bài viết
"Trong Cuộc Kiếm Tìm Dân Chủ" của Aung San Suu Kyi:
|
Where there is no justice there can be no secure peace.
...That just
laws which uphold human rights are the necessary foundations of peace and
security would be denied only by closed minds which interpret peace as the
silence of all opposition and security as the assurance of their own power.
The Burmese associate peace and security with coolness and shade:
|
Ở đâu không có công lý, ở đó không có hòa bình bền vững.
…Luật pháp công bằng nâng đỡ các quyền con người là những
nền tảng cần thiết của hòa bình và an ninh, điều này chỉ bị phủ nhận bởi
những bộ óc đóng kín, những kẻ cho rằng hòa bình là sự câm lặng của các lực
lượng đối lập và an ninh là phương tiện bảo đảm quyền lực của họ. Người Burma
liên tưởng hòa bình và an ninh với sự dịu mát và bóng râm:
|
The shade of a tree is cool indeed
The shade of parents is cooler
The shade of teachers is cooler still
The shade of the ruler is yet more cool
But coolest of all is the shade of the Buddha's teachings.
|
Bóng râm của cây cỏ luôn dịu mát
Bóng râm của mẹ cha còn dịu mát hơn
Bóng râm của thầy còn dịu mát hơn nữa
Vẫn chưa bằng bóng râm của người cai trị
Nhưng mát dịu hơn cả là bóng râm của lời Phật dạy.
|
Thus to provide the people with the protective coolness of
peace and security, rulers must observe the teachings of the Buddha. Central
to these teachings are the concepts of truth, righteousness and loving
kindness. It is government based on these very qualities that the people of
Burma are seeking in their struggle for democracy.9
|
Vì vậy, để đem lại cho người dân sự dịu mát cần thiết của
hòa bình và an ninh, các nhà cai trị phải thấm nhuần lời dạy của Đức Phật.
Tâm điểm của những lời dạy này là quan niệm về sự thật, về lẽ phải và sự nhân
ái. Một chính phủ dựa trên những phẩm chất như thế là một chính phủ mà người
dân Burma tìm kiếm trong cuộc tranh đấu vì dân chủ. [9]
|
This is not the first time that political persecution at home
has prevented a Peace Prize Laureate from receiving the prize in person. It
happened to Carl von Ossietzky in 1936, ill in one of Hitler's concentration
camps.10 It happened to Andrei Sakharov and to Lech Walesa. Ossietzky died
before the regime fell, but Sakharov and Walesa saw their struggles
succeed.11 It is our hope that Aung San Suu Kyi will see her struggle crowned
with success.
|
Đây không phải lần đầu tiên sự ngược đãi chính trị tại quê
hương đã ngăn cản Chủ Nhân Giải Hòa Bình đích thân tới nhận giải. Nó đã từng
xảy ra với Carl von Ossietzky vào năm 1936, đau yếu trong một trại tập trung
của Hitler. [10] Nó cũng từng xảy ra với Andrei Sakharov và với Lech Walesa.
Ossietzky qua đời trước khi chế độ sụp đổ, nhưng Andrei Sakharov và Lech
Walesa đã nhìn thấy những công cuộc đấu tranh của họ viên mãn. [11] Chúng ta
hi vọng rằng Aung San Suu Kyi sẽ nhìn thấy cuộc tranh đấu của bà lên ngôi
trong thành công.
|
However, we must also face up to the likelihood that this
will not be the last occasion on which a Peace Prize Laureate is unable to
attend. Let that remind us that in a world such as ours, peace and
reconciliation cannot be achieved once and for all. We will never be able to
lower our standards. On the contrary, a better world demands even greater
vigilance of us, still greater fearlessness, and the ability to develop in
ourselves the "profound simplicity" of which this year's Laureate
has spoken. This applies to all of us as individuals, but must apply
especially to those in positions of power and authority. Show humility and
show fearlessness - like Aung San Suu Kyi. The result may be a better world
to live in.
|
Tuy nhiên, chúng ta cũng đối mặt với một khả năng rằng đây
không phải là lần cuối cùng Chủ Nhân Giải Hòa Bình không thể tới tham dự. Hãy
để điều đó nhắc nhở chúng ta rằng trong một thế giới như thế giới của chúng
ta đang có đây, hòa bình và hòa hợp không thể đạt được một lần và cho mãi
mãi. Chúng ta không bao giờ được phép hạ thấp các tiêu chuẩn của chúng ta.
Ngược lại, một thế giới tốt đẹp hơn đòi hỏi ở chúng ta sự tỉnh táo hơn nữa,
can đảm hơn nữa, và khả năng hình thành trong mỗi chúng ta sự “giản dị hết
mực” như những gì Chủ Nhân Nobel của năm nay đã nói. Điều này áp dụng với mỗi
chúng ta với tư cách là những cá nhân, và đặc biệt cần cho những người ở vị
trí quyền lực và lãnh đạo. Hãy tỏ ra can đảm và khiêm nhường – như Aung San
Suu Kyi. Kết quả có thể là một thế giới tốt đẹp hơn.
|
|
|
|
Translated by Lâm Yến
|
1. "Freedom
from Fear" in Freedom, pp. 180-185. The reference is to the oft-quoted
dictum of Lord Acton, "Power tends to corrupt and absolute power
corrupts absolutely".
2. In 1988, despite
opposition by the government, Aung San Suu Kyi made a speechmaking tour
throughout the country. She was walking with her associates along a street in
a town, when soldiers lined up in front of the group, threatening to shoot if
they did not halt. Suu Kyi asked her supporters to step aside, and she walked
on. At the last moment the major in command ordered the soldiers not to fire.
She explained later, "It seemed so much simpler to provide them with a
single target than to bring everyone else in."
3. Freedom,
Introduction, p. xvii.
4. "My
Father", in Freedom, pp. 3-38. First published by Queensland Press in
1984 in the Leaders of Asia series under the title of Aung San. Reprinted in
1991 by Kiscadale, Edinburgh, as Aung San of Burma: A Biographical Portrait
by His Daughter.
5.
"Intellectual Life in Burma and India under Colonialism", in
Freedom, pp. 82-139.
6. "The
Formation of a People's Consultative Committee", 15 August 1988,
translated by Suu Kyi, in Freedom, pp. 192-197. Her first political
initiative.
7. Amnesty
International received the Nobel Peace Prize in 1977. See Irwin Abrams, ed.,
Nobel Lectures, Peace. 1971-1980 (Singapore: World Scientific, 1997):
161-177. Amnesty International campaigned for Suu Kyi's release from
detention as a "prisoner of conscience".
8. The 1935 award to
the concentration camp prisoner Carl von Ossietzky may be considered the
earliest human rights prize. Later such recipients were Albert Lutuli (1960),
Martin Luther King, Jr. (1964), René Cassin (1968), Séan MacBride (1974),
Amnesty International (1977), Adolfo Pérez Esquivel (1980), Lech Walesa
(1983), Desmond Tutu (1984), Elie Wiesel (1986), and the 14th Dalai Lama
(1989). After 1991 such grantees were Rigoberta Menchú Tum (1992), and the
1996 laureates from East Timor, José Ramos-Horta and Bishop Belo. See Abrams,
The Nobel Peace Prize and the Laureates (Boston: G.K. Hall), 3rd printing,
1990): 175-6 and entries on these laureates. Also the lectures of the most
recent human rights laureates in Abrams, ed., Nobel Lectures, Peace.
1971-1980, cited in the previous endnote, and the companion volume for
1981-1990.
9. Quest for
Democracy", in Freedom, pp. 167-179, esp. pp. 177-178.
10. The
international campaign for the prize for Carl von Ossietzky had already
brought about his removal from the camp to a hospital in Berlin before the
Norwegian Nobel Committee announced in 1936 that he would be awarded the
postponed prize of 1935. The Nazi government refused permission for him to go
to Oslo for the award ceremony. See Irwin Abrams, The Nobel Peace Prizes, pp.
125-129; Abrams, "Carl von Ossietzky Retrospective", The Nobel
Prize Annual 1989 (Boston: G.K. Hall, 1990): 12-23.
|
[1]“Freedom from
Fear” trong Freedom, pp. 180-185. Trích dẫn lời châm ngôn thường được dẫn của
Huân Tước Acton, “Quyền lực luôn có khuynh hướng tha hóa và quyền lực tuyệt
đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối”.
[2]Năm 1988, mặc cho
sự phản đối của nhà nước, Aung San Suu Kyi thực hiện chuyến diễn thuyết khắp
đất nước. Khi bà đang dạo bước cùng các đồng sự trên một con phố, binh lính
đã dàn hàng trước nhóm của bà và đe dọa sẽ nổ súng nếu họ không dừng bước.
Suu Kyi yêu cầu các đồng sự của mình lùi ra và bà bước lên. Vào giây phút
cuối cùng, người thiếu tá chỉ huy đã hạ lệnh cho binh sĩ không khai hỏa. Bà
sau đó đã giải thích, “Có vẻ như sẽ đơn giản hơn nhiều khi đem đến cho họ một
mục tiêu hơn là đem tất cả những người khác vào”
[3]Freedom, Lời giới
thiệu, trang. xvii.
[4]“My Father”, in
Freedom, pp. 3-38. Lần đầu tiên xuất bản do Queensland Press năm 1984 trong
loạt bài về các Lãnh Đạo của Á Châu dưới tên Aung San. Tái bản năm 1991 do
Kiscadale, Edinburgh, với tên Aung San of Burma: A Biographical Portrait by
His Daughter.[Aung San của Miến Ðiện: Chân dung Tiểu sử qua Con gái ông].
[5]“Intellectual
Life in Burma and India under Colonialism” [Ðời sống trí thức ở Miến Ðiện và
Ấn Ðộ trong thời Thuộc điạ], trong Freedom, pp. 82-139.
[6]“The Formation of
a People’s Consultative Committee” [Sự hình thành một Ủy ban Cố vấn của Nhân
dân], 15 Tháng Tám 1988, dịch bởi by Suu Kyi, trong Freedom, trang. 192-197.
Đề xướng chính trị đầu tiên của bà.
[7]Tổ chức Ân Xá
Quốc Tế nhận Giải Nobel Hòa Bình năm 1977. Xem Irwin Abrams, ed., Nobel
Lectures, Peace. 1971-1980 [Các diễn văn Nobel Hòa bình] (Singapore: World
Scientific, 1997): 161-177. Ân Xá Quốc Tế tổ mở chiến dịch tranh đấu gây áp
lực bãi bỏ quản chế với Suu Kyi, một “tù nhân lương tâm”.
[8]Giải thưởng năm
1935 cho tù nhân trại tập trung Carl von Ossietzky có thể được coi là giải
thưởng nhân quyền sớm nhất. Những người nhận giải sau này gồm Albert Lutuli
(1960), Martin Luther King, Jr. (1964), René Cassin (1968), Séan MacBride
(1974), Tổ chức Ân Xá Quốc Tế (1977), Adolfo Pérez Esquivel (1980), Lech
Walesa (1983), Desmond Tutu (1984), Elie Wiesel (1986) và Dalai Lama thứ 14
(1989). Sau năm 1991, gồm Rigoberta Menchú Tum (1982), và chủ nhân của năm
1996 từ Đông Timor, José Ramos-Horta và giám mục Belo. Xem Abrams, The Nobel
Peace Prize and the Laureates (Boston: G.K. Hall), 3rd printing, 1990): 175-6
và phần giới thiệu về những người nhận giải này. Và những bài giảng của các
chủ nhân giải Nobel nhân quyền gần đây nhất trong Abrams, ed., Nobel
Lectures, Peace. 1971-1980, trích dẫn trong phần chú trên, và tập dành cho
năm 1981-1990.
[9]Quest for
Democracy”, trong Freedom, trang. 167-179, đặc biệt trang 177-178.
[10]Chiến dịch quốc
tế vận động trao giải cho Carl von Ossietzky đã khiến ông được đưa ra khỏi
trại tập trung và chuyển đến một bệnh viện tại Berlin trước khi Ủy Ban Nobel
Na Uy tuyên bố vào năm 1936 rằng ông được nhận giải thưởng hoãn từ năm 1935.
Chính quyền Phát xít từ chối không cho ông tới Oslo tham dự lễ nhân giải. Xem
Irwin Abrams, The Nobel Peace Prizes, pp. 125-129; Abrams, “Carl von
Ossietzky Retrospective”, The Nobel Prize Annual 1989 (Boston: G.K. Hall,
1990): 12-23.
[11]Từ Nobel
Lectures, Peace 1991-1995, Editor Irwin Abrams, World Scientific Publishing
Co., Singapore, 1999.
|
http://www.nobelprize.org/nobel_prizes/peace/laureates/1991/presentation-speech.html
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Sunday, June 17, 2012
Award Ceremony Speech Diễn văn trao giải Nobel Hòa bình 1991
In Praise of Reading and Fiction CA NGỢI ĐỌC SÁCH VÀ HƯ CẤU (DIỄN TỪ NOBEL VĂN HỌC 2010)
|
|
|
|
In Praise of Reading
and Fiction
|
CA NGỢI ĐỌC SÁCH VÀ HƯ CẤU (DIỄN TỪ NOBEL VĂN HỌC 2010)
|
MARIO VARGAS LLOSA
|
MARIO VARGAS LLOSA
|
Literature Nobel Lecture
|
Diễn từ nhận giải Nobel Văn học 2010
|
I learned to read at the age of five, in Brother Justiniano’s
class at the De la Salle Academy in Cochabamba, Bolivia. It is the most
important thing that has ever happened to me. Almost seventy years later I
remember clearly how the magic of translating the words in books into images
enriched my life, breaking the barriers of time and space and allowing me to
travel with Captain Nemo twenty thousand leagues under the sea, fight with
d’Artagnan, Athos, Portos, and Aramis against the intrigues threatening the
Queen in the days of the secretive Richelieu, or stumble through the sewers
of Paris, transformed into Jean Valjean carrying Marius’s inert body on my
back.
|
Tôi học đọc lúc năm tuổi, trong lớp của sư huynh
Justiniano ở trường trung học de La Salle tại Cochabamba, nước Bolivia. Đó là
điều quan trọng nhất từ trước tới nay xảy ra cho tôi. Gần bảy mươi năm sau
tôi còn nhớ rành mạch cái ma thuật của việc chuyển dịch những từ trong sách
thành hình ảnh đã làm phong phú đời sống tôi, phá những rào cản về thời gian
và không gian và cho phép tôi phiêu lưu cùng thuyền trưởng Nemo hai vạn dặm
dưới biển sâu, chiến đấu với mấy chàng ngự lâm pháo thủ d’Artagnan, Athos,
Porthos, và Aramis chống lại những âm mưu đe doạ Nữ hoàng trong thời của vị
hồng y giáo chủ hoạt động bí mật Richelieu, hay vấp ngã qua những đường cống
ngầm ở Paris, biến thành Jean Valjean cõng thân thể bất động của Marius trên
lưng tôi.
|
Reading changed dreams into life and life into dreams and
placed the universe of literature within reach of the boy I once was. My
mother told me the first things I wrote were continuations of the stories I
read because it made me sad when they concluded or because I wanted to change
their endings. And perhaps this is what I have spent my life doing without
realizing it: prolonging in time, as I grew, matured, and aged, the stories
that filled my childhood with exaltation and adventures.
|
Việc đọc sách biến giấc mơ thành đời sống và đời sống
thành giấc mơ và đặt vũ trụ của văn học trong tầm tay với của cậu bé tôi từng
là. Mẹ tôi kể cho tôi nghe rằng những cái đầu tiên tôi viết là những sự tiếp
tục của những chuyện tôi đọc bởi nó làm tôi buồn khi chúng kết thúc hoặc bởi
tôi muốn thay đổi các hồi chung cuộc. Và có lẽ đây là điều tôi đã trải đời ra
làm mà không hay: kéo dài trong thời gian, khi tôi trưởng thành, già giặn, và
tuổi tác, những câu chuyện đã đong đầy thời thơ ấu của tôi bằng những say mê
và phiêu lưu.
|
I wish my mother were here, a woman who was moved to tears
reading the poems of Amado Nervo and Pablo Neruda, and Grandfather Pedro too,
with his large nose and gleaming bald head, who celebrated my verses, and
Uncle Lucho, who urged me so energetically to throw myself body and soul into
writing even though literature, in that time and place, compensated its
devotees so badly. Throughout my life I have had people like that at my side,
people who loved and encouraged me and infected me with their faith when I
had doubts. Thanks to them, and certainly to my obstinacy and some luck, I have
been able to devote most of my time to the passion, the vice, the marvel of
writing, creating a parallel life where we can take refuge against adversity,
one that makes the extraordinary natural and the natural extraordinary, that
dissipates chaos, beautifies ugliness, eternalizes the moment, and turns
death into a passing spectacle.
|
Tôi ước gì mẹ tôi có mặt ở đây, bà luôn luôn xúc động đến
rơi nước mắt khi đọc những bài thơ của Amado Nervo và Pablo Neruda; và cả ông
tôi là Pedro nữa, với chiếc mũi bự và đầu sói bóng loáng, người đã chúc mừng
những vần thơ của tôi, và cậu Lucho, người giục tôi mãnh liệt lao cả thân và
hồn vào việc viết mặc dù văn chương, vào thời đó và nơi đó, tưởng thưởng cho
những tín đồ của nó quá ư tồi tệ. Suốt đời tôi đã có những người như thế cạnh
bên, những người yêu thương và khích lệ tôi và làm tôi lây nhiễm niềm tin của
họ khi tôi còn hồ nghi. Nhờ họ và chắc chắn cũng nhờ sự bướng bỉnh và phần
nào vận may của tôi, tôi đã có thể hiến phần lớn đời mình cho thú đam mê này,
tật xấu này, và sự kì diệu này: viết, sáng tạo một đời sống song song nơi ta
có thể an trú chống nghịch cảnh, và nó làm cái làm phi thường hoá tự nhiên,
cái tự nhiên hoá phi thường, tiêu tán hỗn mang, làm đẹp cái xấu, làm khoảnh
khắc thành vĩnh hằng, và biến cái chết thành một cảnh tượng thoáng qua.
|
Writing stories was not easy. When they were turned into
words, projects withered on the paper and ideas and images failed. How to reanimate
them? Fortunately, the masters were there, teachers to learn from and
examples to follow. Flaubert taught me that talent is unyielding discipline
and long patience. Faulkner, that form – writing and structure – elevates or
impoverishes subjects. Martorell, Cervantes, Dickens, Balzac, Tolstoy,
Conrad, Thomas Mann, that scope and ambition are as important in a novel as
stylistic dexterity and narrative strategy. Sartre, that words are acts, that
a novel, a play, or an essay, engaged with the present moment and better
options, can change the course of history. Camus and Orwell, that a
literature stripped of morality is inhuman, and Malraux that heroism and the
epic are as possible in the present as is the time of the Argonauts, the Odyssey,
and the Iliad.
|
Viết truyện không dễ. Khi chúng biến thành lời, những dự
án héo khô trên giấy và những ý tưởng và hình ảnh thất bại. Làm sao cho chúng
hồi sinh? May thay có những vị tôn sư ở đó, những bậc thầy để học hỏi và
những thí dụ để noi theo. Flaubert dạy tôi rằng tài năng là một công phu bất
khuất và một sự kiên trì dài lâu. Faulkner dạy rằng, dạng thức — văn viết và
cấu trúc — là thứ nâng lên hoặc làm nghèo các đề tài. Martorell, Cervantes,
Dickens, Balzac, Tolstoy, Conrad, Thomas Mann dạy rằng phạm vi và cao vọng
cũng quan trọng trong một tiểu thuyết như kĩ xảo văn phong và chiến lược tự
sự. Sartre dạy rằng từ ngữ là hành vi, rằng một tiểu thuyết, một kịch bản hoặc
một luận văn dấn thân vào khoảnh khắc hiện tại và những lựa chọn tốt hơn, có
thể thay đổi dòng lịch sử. Camus và Orwell dạy rằng văn học tước bỏ đạo đức
là phi nhân; và Malraux dạy rằng chủ nghĩa anh hùng và sử thi là khả dĩ trong
thời nay như trong thời Hi Lạp cổ đại của các thuỷ thủ trên chiếc thuyền
Argo, thời của Odyssey, và Iliad.
|
If in this address I were to summon all the writers to whom
I owe a few things or a great deal, their shadows would plunge us into
darkness. They are innumerable. In addition to revealing the secrets of the
storytelling craft, they obliged me to explore the bottomless depths of
humanity, admire its heroic deeds, and feel horror at its savagery. They were
my most obliging friends, the ones who vitalized my calling and in whose
books I discovered that there is hope even in the worst of circumstances, that
living is worth the effort if only because without life we could not read or
imagine stories.
|
Nếu trong bài nói chuyện này tôi viện dẫn mọi nhà văn mà
tôi mắc nợ ít điều, thì bóng của họ sẽ tràn lấp chúng ta vào tối đen. Họ là
vô số kể. Ngoài việc khơi mở những bí quyết của nghề kể chuyện, họ làm tôi có
nghĩa vụ thăm dò những tầng sâu không đáy của tính người, thán phục những
hành động anh hùng của nó, và cảm thấy kinh hoàng trước sự man rợ của nó. Họ
là những người bạn tôi mang ơn nhất, những kẻ làm sống động tiếng kêu gọi cho
tôi, và trong những sách của họ tôi khám phá ra rằng, có hi vọng ngay cả
trong những hoàn cảnh tồi tệ nhất, rằng sự sống là đáng cho chúng ta cố mà
sống, dẫu chỉ vì không có đời sống chúng ta không thể nào đọc hoặc tưởng
tượng ra những câu chuyện.
|
At times I wondered whether writing was not a solipsistic
luxury in countries like mine, where there were scant readers, so many people
who were poor and illiterate, so much injustice, and where culture was a
privilege of the few. These doubts, however, never stifled my calling, and I
always kept writing even during those periods when earning a living absorbed
most of my time. I believe I did the right thing, since if, for literature to
flourish, it was first necessary for a society to achieve high culture,
freedom, prosperity, and justice, it never would have existed. But thanks to
literature, to the consciousness it shapes, the desires and longings it
inspires, and our disenchantment with reality when we return from the journey
to a beautiful fantasy, civilization is now less cruel than when storytellers
began to humanize life with their fables. We would be worse than we are
without the good books we have read, more conformist, not as restless, more
submissive, and the critical spirit, the engine of progress, would not even
exist. Like writing, reading is a protest against the insufficiencies of
life. When we look in fiction for what is missing in life, we are saying,
with no need to say it or even to know it, that life as it is does not
satisfy our thirst for the absolute – the foundation of the human condition –
and should be better. We invent fictions in order to live somehow the many
lives we would like to lead when we barely have one at our disposal.
|
Đôi khi tôi tự hỏi phải chăng viết văn là một sự xa xỉ tự
kỉ trong những xứ sở như của tôi, nơi không có bao nhiêu người đọc và quá
nhiều người là người nghèo và mù chữ, có quá nhiều bất công, và ở đó văn hoá
là một đặc quyền cho số ít. Tuy nhiên những hoài nghi này chẳng bao giờ làm
tắt tiếng kêu gọi cho tôi, và tôi luôn luôn vẫn viết ngay cả trong những giai
đoạn mà việc kiếm sống thu hút phần lớn thời gian của tôi. Tôi tin rằng tôi
đã làm đúng, bởi vì nếu, để văn học nảy nở mà trước tiên cần một xã hội lên
tới trình độ cao, tới tự do, tới thịnh vượng và công lí thì văn học đã chẳng
hề tồn tại. Nhưng nhờ có văn học, nhờ những ý thức mà nó hình thành, những
ham muốn và những mong mỏi mà nó gợi hứng và sự tỉnh mộng với thực tại khi
chúng ta quay về từ cuộc du hành đến cõi hoang tưởng tuyệt vời, văn minh hiện
nay đỡ tàn ác hơn là khi những người kể chuyện khởi sự làm cuộc sống mang
tính người với những câu chuyện ngụ ngôn của họ. Chúng ta hẳn đã tồi tệ hơn
hiện giờ nếu không có những cuốn sách hay mà chúng ta đã đọc; chúng ta hẳn đã
tuân theo lề thói hơn, kém bồn chồn, kém bất khuất; và tinh thần phê phán vốn
là đầu máy của tiến bộ thậm chí còn chẳng tồn tại nữa. Giống như việc viết,
đọc là phản kháng lại những thiếu hụt của cuộc sống. Khi chúng ta nhìn vào hư
cấu để tìm những gì là vắng bóng trong cuộc sống, chúng ta đang nói, mà chẳng
cần lên tiếng hoặc thậm chí biết mơ rằng đời sống như đang có không thoả mãn
sự khao khát của chúng ta về cái tuyệt đối — nền tảng của thân phận con người
— và cuộc đời phải nên tốt đẹp hơn. Chúng ta sáng chế ra những hư cấu để sau
đó có thể sống nhiều cuộc đời mà chúng ta muốn sống trong khi chúng ta chỉ có
một cuộc đời trong tầm tay.
|
Without fictions we would be less aware of the importance
of freedom for life to be livable, the hell it turns into when it is trampled
underfoot by a tyrant, an ideology, or a religion. Let those who doubt that literature
not only submerges us in the dream of beauty and happiness but alerts us to
every kind of oppression, ask themselves why all regimes determined to
control the behavior of citizens from cradle to grave fear it so much they
establish systems of censorship to repress it and keep so wary an eye on
independent writers. They do this because they know the risk of allowing the
imagination to wander free in books, know how seditious fictions become when
the reader compares the freedom that makes them possible and is exercised in
them with the obscurantism and fear lying in wait in the real world. Whether
they want it or not, know it or not, when they invent stories the writers of
tales propagate dissatisfaction, demonstrating that the world is badly made and
the life of fantasy richer than the life of our daily routine. This fact, if
it takes root in their sensibility and consciousness, makes citizens more
difficult to manipulate, less willing to accept the lies of the interrogators
and jailers who would like to make them believe that behind bars they lead
more secure and better lives.
|
Không có những hư cấu chúng ta sẽ ít nhận thức về tầm quan
trọng của tự do làm cho đời đáng sống, và về địa ngục mà đời sống trở thành
khi tự do này bị giày đạp dưới chân bởi một bạo chúa, một hình thái ý thức,
hoặc một tông giáo. Để những ai ngờ vực việc văn học không chỉ nhấn chìm
chúng ta trong giấc mơ về cái đẹp và hạnh phúc mà còn cảnh giác chúng ta với
mọi loại áp bức, hãy để họ tự hỏi vì sao mọi chế độ quyết tâm kiểm soát hành
vi của các công dân từ trong nôi đến nấm mồ lại sợ hãi văn học nhiều tới nỗi
chúng phải thiết lập những hệ thống kiểm duyệt để kiềm chế nó và giữ con mắt
canh chừng đến điều với những nhà văn độc lập. Những chế độ này làm thế bởi
vì chúng biết cả cơ nguy của việc để cho trí tưởng tượng lang thang tự do
trong sách, biết những hư cấu trở nên phiến loạn xiết bao khi người đọc so
sánh cái tự do khiến cho các hư cấu này có thể phiêu bồng và được thi triển
trong đó với đường lối ngu dân và sự sợ hãi nằm chờ trong thế giới hiện thực
dù cho họ muốn hay không, biết hay không. Khi sáng chế ra những câu chuyện,
các nhà văn của truyện kể cũng phát tán sự bất mãn, chứng minh rằng thế giới
được tạo ra một cách tồi tệ, rằng đời sống của tưởng tượng thì giàu có hơn lề
thói thường ngày của chúng ta. Thực kiện này, nếu nó bám rễ trong cảm xúc và
ý thức của họ, sẽ làm cho các công dân khó mà bị thao túng hơn, ít vui lòng
chấp nhận những dối trá của bọn thẩm vấn và cai ngục, là những bọn muốn làm
cho họ tin rằng đằng sau những chấn song của ngục tù, họ sẽ sống đời tốt đẹp
và an toàn hơn.
|
Good literature erects bridges between different peoples,
and by having us enjoy, suffer, or feel surprise, unites us beneath the
languages, beliefs, habits, customs, and prejudices that separate us. When
the great white whale buries Captain Ahab in the sea, the hearts of readers
take fright in exactly the same way in Tokyo, Lima, or Timbuctu. When Emma
Bovary swallows arsenic, Anna Karenina throws herself in front of the train,
and Julien Sorel climbs to the scaffold, and when, in “El sur,” the urban
doctor Juan Dahlmann walks out of that tavern on the pampa to face a thug’s
knife, or we realize that all the residents of Comala, Pedro Páramo’s
village, are dead, the shudder is the same in the reader who worships Buddha,
Confucius, Christ, Allah, or is an agnostic, wears a jacket and tie, a
jalaba, a kimono, or bombachas. Literature creates a fraternity within human
diversity and eclipses the frontiers erected among men and women by
ignorance, ideologies, religions, languages, and stupidity.
|
Văn học tốt đẹp hơn dựng nên những cây cầu giữa các dân
tộc khác nhau, và bằng cách làm chúng ta hưởng thụ, đau khổ hoặc ngạc nhiên,
kết hợp chúng ta vượt qua những ngôn ngữ, tín ngưỡng, tập quán, và thành kiến
chia rẽ chúng ta. Khi con cá voi trắng chôn thuyền trưởng Ahab trong lòng
biển cả, trái tim người đọc cũng thắt lại giống nhau ở Tokyo, Lima, hoặc Timbuctu.
Khi Emma Bovary uống thạch tín, Khi Anna Karenina gieo mình xuống đằng trước
xe lửa. Và Julien Sorel leo lên đoạn đầu đài, và khi, trong tác phẩm El sur
[Phương Nam, của Borges], viên bác sĩ thanh lịch Juan Dahlmann bước khỏi quán
rượu trên dải đồng cỏ để giáp mặt với lưỡi dao của tên vô lại, hoặc khi chúng
ta nhận thức rằng mọi người dân cư ngụ ở Comala, trong cái làng của truyện
Pedro Páramo đều chết cả, sự rùng mình là giống hệt nhau nơi người đọc thờ
phụng đức phật, Khổng Tử, Kitô, Allah, hoặc là một người theo thuyết bất khả
tri, dù y mặc bộ áo khoác thắt dây cổ, áo jabala, áo kimono hoặc bombachas.
Văn học sáng tạo một tình anh chị em bên trong sự đa phức của loài người và
làm khuất đi những đường biên dựng lên giữa đàn ông và đàn bà bằng vô minh,
những hình thái ý thức, các tông giáo, các ngôn ngữ, các sự ngu xuẩn.
|
Since every period has its horrors, ours is the age of
fanatics, of suicide terrorists, an ancient species convinced that by killing
they earn heaven, that the blood of innocents washes away collective
affronts, corrects injustices, and imposes truth on false beliefs. Every day,
all over the world, countless victims are sacrificed by those who feel they
possess absolute truths. With the collapse of totalitarian empires, we
believed that living together, peace, pluralism, and human rights would gain
the ascendancy and the world would leave behind holocausts, genocides,
invasions, and wars of extermination. None of that has occurred. New forms of
barbarism flourish, incited by fanaticism, and with the proliferation of
weapons of mass destruction, we cannot overlook the fact that any small
faction of crazed redeemers may one day provoke a nuclear cataclysm. We have
to thwart them, confront them, and defeat them. There aren’t many, although
the tumult of their crimes resounds all over the planet and the nightmares
they provoke overwhelm us with dread. We should not allow ourselves to be
intimidated by those who want to snatch away the freedom we have been
acquiring over the long course of civilization. Let us defend the liberal
democracy that, with all its limitations, continues to signify political
pluralism, coexistence, tolerance, human rights, respect for criticism,
legality, free elections, alternation in power, everything that has been
taking us out of a savage life and bringing us closer – though we will never
attain it – to the beautiful, perfect life literature devises, the one we can
deserve only by inventing, writing, and reading it. By confronting homicidal
fanatics we defend our right to dream and to make our dreams reality.
|
Bởi mỗi giai đoạn đều có nỗi kinh hoàng của nó, nỗi kinh
hoàng của thời chúng ta là những kẻ cuồng tín, của những tên khủng bố tự sát,
là một chủng loại cổ xưa tin chắc rằng giết người là được lên thiên đàng,
rằng máu của những kẻ vô tội rửa sạch những sỉ nhục tập thể, đính chính lại
những bất công, và áp đặt chân lí lên những niềm tin sai trái. Mọi ngày, trên
khắp thế giới, vô số nạn nhân bị hi sinh bởi những kẻ cảm thấy họ sở hữu những
chân lí tuyệt đối. Với sự sụp đổ của những đế quốc toàn trị, chúng ta đã tin
rằng việc sống chung, hoà bình, đa nguyên, và nhân quyền sẽ chiếm thượng
phong và thế giới sẽ bỏ lại sau những lò thiêu, diệt chủng, xâm lăng, và
chiến tranh trừ khử. Không điều nào trong đó đã xảy ra. Những dạng thức mới
của man rợ nở rộ, kích động bằng cuồng tín, và với sự thịnh phát của các vũ
khí huỷ hoại đại thể, chúng ta không thể làm ngơ trước sự kiện là bất cứ phe
nhóm nhỏ bé gồm những tay cứu thế khùng điên nào cũng có thể một ngày kia
kích động một chấn động hạt nhân. Chúng ta phải ngăn trở chúng, đối đầu với
chúng, và đánh bại chúng. Chúng không có bao lăm, mặc dù sự náo loạn do những
tội ác của chúng rền vang khắp hành tinh và những ác mộng chúng dấy lên làm
chúng ta tràn ngập bàng hoàng. Chúng ta không được cho phép mình bị trấn áp
bởi những kẻ muốn tước đoạt sự tự do mà chúng ta đã thủ đắc qua dòng dài và
anh dũng của tiến trình văn minh. Chúng ta hãy bảo vệ nền dân chủ tự do vốn,
với tất cả hạn chế của nó, tiếp tục làm sáng nghĩa cho đa nguyên chính trị,
chung sống, khoan dung, nhân quyền, tôn trọng sự phê phán, pháp lí, bầu cử tự
do, hoán chuyển quyền lực, mọi thứ đã từng đưa chúng ta ra khỏi đời sống man
dã và mang chúng ta lại gần hơn — dù chẳng bao giờ đạt tới — với cuộc sống
đẹp tươi, hoàn hảo mà văn học đặt ra, thứ chúng ta chỉ xứng đáng bằng cách
phát minh, viết và đọc. Bằng cách đối đầu với những kẻ cuồng tín sát nhân
chúng ta bảo vệ quyền chúng ta ước mơ và làm những giấc mơ của chúng ta thành
hiện thực.
|
In my youth, like many writers of my generation, I was a
Marxist and believed socialism would be the remedy for the exploitation and
social injustices that were becoming more severe in my country, in Latin
America, and in the rest of the Third World. My disillusion with statism and
collectivism and my transition to the democrat and liberal that I am – that I
try to be – was long and difficult and carried out slowly as a consequence of
episodes like the conversion of the Cuban Revolution, about which I initially
had been enthusiastic, to the authoritarian, vertical model of the Soviet
Union; the testimony of dissidents who managed to slip past the barbed wire
fences of the Gulag; the invasion of Czechoslovakia by the nations of the
Warsaw Pact; and because of thinkers like Raymond Aron, Jean Francois Rével,
Isaiah Berlin, and Karl Popper, to whom I owe my reevaluation of democratic
culture and open societies. Those masters were an example of lucidity and
gallant courage when the intelligentsia of the West, as a result of frivolity
or opportunism, appeared to have succumbed to the spell of Soviet socialism
or, even worse, to the bloody witches’ Sabbath of the Chinese Cultural
Revolution.
|
Trong thời thanh niên tôi, giống nhiều nhà văn cùng thế
hệ, là một người theo chủ nghĩa Marx và tin rằng chủ nghĩa xã hội sẽ là liều
thuốc cho sự bóc lột và những bất công xã hội đang trầm trọng hơn trong xứ sở
của tôi, ở châu Mĩ Latinh, và ở phần còn lại của Thế giới thứ Ba. Việc tỉnh
mộng của tôi đối với chủ nghĩa nhà nước và chủ nghĩa tập thể và sự chuyển
biến thành người dân chủ và tự do như tôi ngày nay — mà tôi gắng sức làm — đã
là dài lâu và khó khăn và diễn ra chậm chạp như là một hậu quả của những hồi
đoạn, như là sự hoán cải của Cách mạng Cuba, mà thoạt đầu tôi hăng say, vào
cái khuôn thẳng đứng, chuyên quyền của Liên xô; chứng từ của những người li
khai đã tìm cách truyền lọt qua những hàng rào kẽm gai của quần đảo ngục tù
Gulag; sự xâm lăng Tiệp khắc của những nước thuộc Hiệp ước Vácsava; và nhờ
những nhà tư tưởng như Raymond Aron, Jean-Franscois Revel, Isaiah Berlin, và
Karl Popper, nhờ họ tôi mới đánh giá lại được văn hoá dân chủ và những xã hội
cởi mở. Những vị thầy đó là một gương mẫu về sáng suốt và can trường trong
khi giới trí thức của Phương Tây, do phù phiếm hoặc chủ nghĩa cơ hội, dường
như đã gục quỵ trước lá bùa của chủ nghĩa xã hội Xô viết, và tệ hơn nữa,
trước lễ sabát của những phù thủy đẫm máu của cuộc Cách mạng Văn hoá Trung
quốc.
|
As a boy I dreamed of coming some day to Paris because,
dazzled by French literature, I believed that living there and breathing the
air breathed by Balzac, Stendhal, Baudelaire, and Proust would help transform
me into a real writer, and if I did not leave Peru I would be only a pseudo
Sundays-and-holidays writer. And the truth is I owe to France and French
culture unforgettable lessons, for example that literature is as much a
calling as it is a discipline, a job, an obstinacy. I lived there when Sartre
and Camus were alive and writing, in the years of Ionesco, Beckett, Bataille,
and Cioran, the discovery of the theater of Brecht and the films of Ingmar
Bergman, the Theatre National Populaire of Jean Vilar and the Odéon of
Jean-Louis Barrault, of the Nouvelle Vague and the Nouveau Roman and the
speeches, beautiful literary pieces, of André Malraux, and what may have been
the most theatrical spectacle in Europe during that time, the press
conferences and Olympic thunderings of General de Gaulle. But perhaps I am
most grateful to France for the discovery of Latin America. There I learned
that Peru was part of a vast community united by history, geography, social
and political problems, a certain mode of being, and the delicious language
it spoke and wrote. And in those same years, it was producing a new, forceful
literature. There I read Borges, Octavio Paz, Cortázar, García Márquez,
Fuentes, Cabrera Infante, Rulfo, Onetti, Carpentier, Edwards, Donoso, and
many others whose writings were revolutionizing narrative in the Spanish
language, and thanks to whom Europe and a good part of the world discovered
that Latin America was not the continent only of coups, operetta despots,
bearded guerrillas, and the maracas of the mambo and the cha-cha-cha but of
ideas, artistic forms, and literary fantasies that transcended the
picturesque and spoke a universal language.
|
Khi là đứa bé con tôi đã mơ mộng một ngày kia tới được
Paris bởi, choáng ngợp vì văn học Pháp, tôi đã tin rằng sống ở đó và hít thở
làn không khí mà Balzac, Stendhal, Baudelaire, và Proust đã hít thở, sẽ giúp
việc chuyển biến tôi thành một nhà văn thực sự, và nếu tôi không lìa xa Peru
thì tôi chỉ là một nhà văn giả hiệu trong những ngày chủ nhật và ngày lễ. Và
sự thật là tôi mắc nợ nước Pháp và văn hoá Pháp những bài học không thể nào
quên, chẳng hạn như văn học vừa là một kêu gọi vừa là một giới luật, một việc
làm nhà nghề, một sự ngoan cường. Tôi đã sống ở đó, khi Sartre và Camus còn
sống và viết, trong những năm của Beckett, Bataille, Ionesco, và Cioran, sự
khám phá kịch nghệ của Brecht và những phim của Ingmar Bergman, Théâtre
national populaire (sân khấu quốc gia bình dân) của Jean Vilar, và nhà hát
Odéon của Jean-Louis Barrault, la Nouvelle Vague (Đợt sóng mới) và le Nouveau
Roman (Tiểu thuyết mới) và những diễn văn, những áng văn can trường của André
Malraux, và cái có thể đã là cảnh tượng đóng tuồng nhất châu Âu suốt thời đó,
tức là những cuộc họp báo và những lời tuyên bố sấm sét từ đỉnh Olympia của
tướng de Gaulle. Nhưng có lẽ điều tôi chịu ơn nước Pháp nhất là đã làm tôi
khám phá ra châu Mĩ Latinh. Chính ở đó mà tôi học được rằng Peru là thành
phần của một cộng đồng rộng lớn kết hợp bằng lịch sử, địa lí, vấn nạn xã hội
và chính trị, bởi một cách thế sống nhất định và cái ngôn ngữ ngọt dịu nó nói
năng và viết lách. Và cộng đồng này sản sinh ra trong cùng những năm đó, một
nền văn học đổi mới và phấn khởi. Chính ở đó mà tôi đã đọc Borges, Octavio
Paz, Cortázar, García Márquez, Fuentes, Cabrera Infante, Rulfo, Onetti,
Carpentier, Edwards, Donoso, và nhiều người khác nữa, mà những văn bản khi đó
làm cách mạng trong văn viết tự sự bằng tiếng Tâybannha và nhờ những áng văn
đó mà châu Âu và một phần lớn của thế giới khám phá ra rằng châu Mĩ Latinh,
không phải chỉ là lục địa của những cuộc đảo chính, những thủ lãnh quân phiệt
phường tuồng, những du kích quân râu rậm và những trái bầu khô rung theo điệu
mambo hoặc cha-cha-cha, nhưng trên hết là lục địa của những tư tưởng, những
dạng thức nghệ thuật và những huyễn tưởng văn học vượt ngoài tính tranh vẽ
nên thơ để nói lên một ngôn ngữ đại đồng.
|
From that time to this, not without stumbling and
blunders, Latin America has made progress although, as César Vallejo said in
a poem, Hay, hermanos, muchísimo que hacer [There is still, brothers, so much
to do]. We are afflicted with fewer dictatorships than before, only Cuba and
her named successor, Venezuela, and some pseudo populist, clownish
democracies like those in Bolivia and Nicaragua. But in the rest of the
continent democracy is functioning, supported by a broad popular consensus,
and for the first time in our history, as in Brazil, Chile, Uruguay, Peru,
Colombia, the Dominican Republic, Mexico, and almost all of Central America,
we have a left and a right that respect legality, the freedom to criticize,
elections, and succession in power. That is the right road, and if it stays
on it, combats insidious corruption, and continues to integrate with the
world, Latin America will finally stop being the continent of the future and
become the continent of the present.
|
Từ thời kì đó đến mãi ngày nay, chẳng phải không có loạng
choạng và lỡ bước, châu Mĩ Latinh đã tiến bộ nhưng, như César Vallejo đã nói
trong câu thơ này: Hay, hemanos, muchisimo que hacer [Hỡi, anh em ơi, còn
nhiều cái phải làm.] Chúng tôi ít còn phải chịu nạn độc tài như trước đây,
ngoại trừ ở Cuba và Venezuela, là nước sẵn sàng kế vị, cũng như trong những
nền dân chủ giả hiệu dân tuý và trò hề, giống như ở Bolivia và Nicaragua.
Nhưng trong phần còn lại của lục địa này, dù nhiều dù ít, chế độ dân chủ đang
hiện hành, dựa trên một sự đồng thuận rộng rãi của nhân dân, và lần đầu tiên
trong lịch sử của chúng tôi, chúng tôi có một phái tả và một phái hữu cùng,
giống như ở Brazil, Chile, Uruguay, Peru, Colombia, cộng hòa Dominican,
Mexico và trong hầu hết Trung mĩ, đều tôn trọng pháp lí, quyền tự do phê
phán, những cuộc bầu cử, và sự chuyển hoán quyền lực. Đó là con đường tốt
đẹp, và nếu nó kiên trì theo đuổi, nếu nó chiến đấu với sự tham nhũng phản
trắc và theo đuổi sự hội nhập với thế giới, châu Mĩ Latinh sẽ chấm dứt việc
làm châu lục của tương lai để trở thành cái của hiện tại.
|
I never felt like a foreigner in Europe or, in fact,
anywhere. In all the places I have lived, in Paris, London, Barcelona,
Madrid, Berlin, Washington, New York, Brazil, or the Dominican Republic, I
felt at home. I have always found a lair where I could live in peace, work,
learn things, nurture dreams, and find friends, good books to read, and
subjects to write about. It does not seem to me that my unintentionally
becoming a citizen of the world has weakened what are called “my roots,” my
connections to my own country – which would not be particularly important –
because if that were so, my Peruvian experiences would not continue to
nourish me as a writer and would not always appear in my stories, even when
they seem to occur very far from Peru. I believe instead that living for so
long outside the country where I was born has strengthened those connections,
adding a more lucid perspective to them, and a nostalgia that can
differentiate the adjectival from the substantive and keep memories
reverberating. Love of the country where one was born cannot be obligatory,
but like any other love must be a spontaneous act of the heart, like the one
that unites lovers, parents and children, and friends.
|
Tôi không bao giờ cảm thấy là một người xa lạ ở châu Âu,
và nói cho ngay, cũng chẳng thấy như thế ở một nơi nào khác. Trong những miền
đất tôi đã sống, ở Paris, London, Barcelona và Madrid, Berlin, Washington và
New York, ở Brazil, hoặc ở cộng hòa Dominican, tôi cảm thấy như ở nhà mình.
Tôi đã luôn luôn tìm ra được một mái ấm nơi tôi có thể sống an bình và làm
việc, học hỏi các điều, nuôi dưỡng những ảo tưởng, gặp gỡ bạn bè thân quen,
có sách hay để đọc, và tìm ra những chủ đề để viết. Dường như đối với tôi là việc
trở thành một công dân của thế giới, dù không có chủ ý, chẳng hề làm yếu đi
cái mà người ta gọi là “cội nguồn” là những nối kết của tôi với quê hương
mình — chẳng phải là quan trọng gì cho lắm — bởi nếu không có như vậy, thì
những kinh nghiệm ở Peru của tôi đã không tiếp tục nuôi dưỡng văn viết của
tôi và đã không luôn luôn xuất hiện trong những truyện của tôi, ngay cả khi
những thứ này dường như xảy ra rất xa vời với Peru. Tôi tin rằng sống bấy
nhiêu thời gian ngoài xứ sở mà tôi sinh ra đúng hơn lại củng cố những mối
liên hệ này, bằng cách nối thêm cho chúng một tầm nhìn xa sáng suốt hơn, và
nỗi đau hoài hương, vốn biết cách làm phân biệt giữa cái thuộc tính và cái
bản chất, và duy trì những kỉ niệm trong tất cả vầng hào quang của chúng.
Tình yêu quê hương không phải là một nghĩa vụ, mà giống như tất cả tình yêu
khác, phải là một vận động tự phát của con tim, giống như thứ kết hợp những
người yêu nhau, cha mẹ với con cái, và bạn bè.
|
I carry Peru deep inside me because that is where I was
born, grew up, was formed, and lived those experiences of childhood and youth
that shaped my personality and forged my calling, and there I loved, hated,
enjoyed, suffered, and dreamed. What happens there affects me more, moves and
exasperates me more than what occurs elsewhere. I have not wished it or
imposed it on myself; it simply is so. Some compatriots accused me of being a
traitor, and I was on the verge of losing my citizenship when, during the
last dictatorship, I asked the democratic governments of the world to
penalize the regime with diplomatic and economic sanctions, as I have always
done with all dictatorships of any kind, whether of Pinochet, Fidel Castro,
the Taliban in Afghanistan, the Imams in Iran, apartheid in South Africa, the
uniformed satraps of Burma (now called Myanmar). And I would do it again
tomorrow if – may destiny not wish it and Peruvians not permit it – Peru were
once again the victim of a coup that would annihilate our fragile democracy.
It was not the precipitate, emotional action of a resentful man, as some
scribblers wrote, accustomed to judging others from the point of view of
their own pettiness. It was an act in line with my conviction that a
dictatorship represents absolute evil for a country, a source of brutality
and corruption and profound wounds that take a long time to close, poison the
nation’s future, and create pernicious habits and practices that endure for
generations and delay democratic reconstruction. This is why dictatorships
must be fought without hesitation, with all the means at our disposal,
including economic sanctions. It is regrettable that democratic governments,
instead of setting an example by making common cause with those, like the
Damas de Blanco in Cuba, the Venezuelan opposition, or Aung San Suu Kyi and
Liu Xiaobo, who courageously confront the dictatorships they endure, often
show themselves complaisant not with them but with their tormenters. Those
valiant people, struggling for their freedom, are also struggling for ours.
|
Peru, tôi mang nó trong lòng mình bởi vì tôi được sinh ra
ở đó, lớn lên ở đó và hình thành ở đó, và là nơi tôi đã sống những trải
nghiệm thời thơ ấu và tuổi thanh xuân đã khuôn hình nhân cách của tôi hun đúc
chí hướng của tôi, và bởi chính nơi đó tôi đã yêu, ghét, hưởng thụ, đau khổ,
và mộng mơ. Những gì xảy ra ở đó tác động đến tôi hơn, làm tôi xúc động và
làm tôi bực bội hơn là những gì xảy ra ở nơi khác. Tôi không tìm kiếm điều đó
mà cũng chẳng áp đặt điều đó lên chính mình, nó chỉ đơn giản là như thế. Một
số người đồng hương đã cáo buộc tôi là phản bội và tôi suýt nữa mất quyền
công dân khi, trong chế độ độc tài mới rồi, tôi đã yêu cầu các chính phủ dân
chủ của thế giới xử phạt chế độ ấy bằng những chế tài ngoại giao và kinh tế,
như tôi đã luôn luôn làm với tất cả các chế độ độc tài, dù mang tính chất
nào, chế độ của Pinochet và của Fidel Castro, chế độ của Taliban ở
Afghanistan, chế độ của các giáo trưởng ở Iran, chế độ phân cách chủng tộc ở
Nam phi, chế độ của các quan trấn thủ quân đội ở Miến điện (ngày nay gọi là
Myanmar). Và tôi sẽ làm lại như thế vào ngày mai nếu — cầu cho số mệnh không
muốn điều đó và nhân dân Peru không cho phép nó — Peru lại một lần nữa trở
thành nạn nhân của một cuộc đảo chánh làm tiêu huỷ nền dân chủ mong manh của
chúng tôi. Đó không phải là hành động xúc cảm, kết tụ của một con người phẫn
hận, như vài người cạo giấy đã viết vì vốn có thói quen phán đoán người khác
bằng sự ti tiểu của chính họ. Đó là một hành vi xứng hợp với sự đinh ninh của
tôi rằng một chế độ độc tài đại diện cho cái ác tuyệt đối đối với một xứ sở,
một cội nguồn của sự tàn bạo và tham nhũng, và của những vết thương sâu xa
phải mất dài thời gian mới kín miệng, làm ung độc tương lai của xứ sở và tạo
ra những thói quen và những lối hành xử không lành mạnh triền miên nhiều thế
hệ và làm chậm trễ sự tái thiết dân chủ. Đó là lí do những chế độ độc tài
phải bị đánh dẹp không dè dặt, bằng tất cả những phương tiện ở tầm tay chúng
ta, gồm cả những chế tài về kinh tế. Thật đáng trách là những chính phủ dân
chủ, thay vì làm gương mẫu bằng cách đoàn kết với những người, như những bà
mang tang phục trắng ở Cuba, những người kháng chiến ở Venezuelan, hoặc Aung
San Suu Kyi và Lưu Hiểuba, là những kẻ can đảm đối đầu với những chế độ độc
tài mà họ phải gánh chịu, thì những chính phủ này thường khi lại tỏ ra hoan
hỉ, không phải với những nạn nhân mà là với những đao phủ của họ. Những con
người can đảm này, khi chiến đấu cho quyền tự do của họ, cũng tranh đấu cho
quyền tự do của chúng ta.
|
A compatriot of mine, José María Arguedas, called Peru the
country of “every blood.” I do not believe any formula defines it better:
that is what we are and that is what all Peruvians carry inside us, whether
we like it or not: an aggregate of traditions, races, beliefs, and cultures
proceeding from the four cardinal points. I am proud to feel myself the heir
to the pre-Hispanic cultures that created the textiles and feather mantles of
Nazca and Paracas and the Mochican or Incan ceramics exhibited in the best museums
in the world, the builders of Machu Picchu, Gran Chimú, Chan Chan, Kuelap,
Sipán, the burial grounds of La Bruja and El Sol and La Luna, and to the
Spaniards who, with their saddle bags, swords, and horses, brought to Peru
Greece, Rome, the Judeo-Christian tradition, the Renaissance, Cervantes,
Quevedo, and Góngora, and the harsh language of Castile sweetened by the
Andes. And with Spain came Africa, with its strength, its music, and its
effervescent imagination, to enrich Peruvian heterogeneity. If we investigate
only a little we discover that Peru, like the Aleph of Borges, is a small
format of the entire world. What an extraordinary privilege for a country not
to have an identity because it has all of them!
|
Một trong những người đồng hương của tôi, là José Maria
Arguedas, đã định phẩm cho Peru là xứ sở của “mọi dòng máu”. Tôi không tin
rằng có một công thức nào hay hơn để định nghĩa đất nước này. Đó là cái chúng
tôi là và có trong huyết quản của mình, tất cả những người dân Peru, dù chúng
tôi có muốn hay không: một tổng thể các truyền thống, các chủng tộc, các tín
ngưỡng, và các văn hoá đến từ bốn phương trời. Tôi hãnh diện cảm thấy mình là
người thừa kế của những nền văn hoá tiền-Colombus [trước năm Colombus tới
châu Mĩ, 1492] đã chế tạo những hàng dệt và những tấm áo khoác làm bằng lông
chim của người Nazca và Paracas, và những đồ gốm của Mochica và Inca được
trưng bày trong những viện bảo tàng hạng nhất của thế giới, những người xây
dựng những công trình ở Machu Picchu, Gran Chimú, Chan Chan, Kuelap, Sipán,
những nấm mộ của Pháp sư và Mặt trời và Mặt trăng; cũng hãnh diện về những
người Tâybannha mang trong hành lí của họ, cùng với gươm và ngựa, đem tới
Peru, các nền văn minh cổ đại Hilạp và Lamã, truyền thống Do thái-Kitô, Phục
hưng, Cervantes, Quevedo, Góngora, và ngôn ngữ thô nhám của vùng Castile được
rặng núi Andes làm dịu ngọt. Và cùng với Tâybannha là châu Phi, với sức mạnh
của nó, âm nhạc của nó, và trí tưởng tượng sục sôi của nó, để làm giàu cho
tính dị biệt Peru. Nếu chúng ta chỉ cần đào sâu một chút chúng ta khám phá ra
rằng Peru, giống như khối cầu tinh thể của chữ cái Aleph của Borges, là một
khuôn khổ tí hon của toàn thế giới. Thật là một đặc quyền phi thường cho một
xứ sở không có bản sắc bởi vì nó có tất cả các bản sắc.
|
The conquest of America was cruel and violent, like all
conquests, of course, and we should criticize it but not forget as we do that
those who committed pillage and crimes were, for the most part, our
great-grandfathers and great-great-grandfathers, the Spaniards who came to
America and adopted American ways, not those who remained in their own
country. Such criticism, to be just, should be self-criticism. Because when
we gained our independence from Spain two hundred years ago, those who
assumed power in the former colonies, instead of liberating the Indians and
creating justice for old wrongs, continued to exploit them with as much greed
and ferocity as the conquerors and, in some countries, decimating and
exterminating them. Let us say this with absolute clarity: for two centuries
the emancipation of the indigenous population has been our exclusive
responsibility, and we have not fulfilled it. This continues to be an
unresolved issue in all of Latin America. There is not a single exception to
this ignominy and shame.
|
Sự chinh phục châu Mĩ là tàn ác và bạo động, giống như mọi
cuộc chinh phục, dĩ nhiên, và chúng ta phải phê phán nó nhưng khi chúng ta
làm điều đó không được quên rằng những kẻ đã phạm vào những sự cướp bóc và
tội ác này, phần lớn, là những ông cố ông sơ của chúng ta, những người
Tâybannha tới châu Mĩ và lai tạo ở đó, chứ không phải là những kẻ ở lại trong
xứ sở của họ. Sự phê phán này, để công bình, phải là một sự tự phán. Bởi vì
khi chúng ta trở nên độc lập với Tâybannha hai trăm năm trước đây, những kẻ nắm
quyền ở những cựu thuộc địa, thay vì giải phóng những người Da đỏ và trả lại
công lí cho họ bù đắp cho những sai trái tổn hại trước kia, thì lại tiếp tục
bóc lột họ với sự tham lam và tàn ác như những kẻ chinh phục cũ và, trong vài
xứ sở, còn tàn sát và tiêu diệt họ. Chúng ta hãy nói lên điều này với sự minh
bạch tuyệt đối: từ hai thế kỉ nay, sự giải phóng những thổ dân là trách nhiệm
chuyên biệt của chúng ta và chúng ta đã khiếm khuyết không hoàn thành nghĩa
vụ. Vấn đề này vẫn còn treo đó chưa được giải quyết trong tất cả châu Mĩ
Latinh. Không hề có một ngoại lệ đơn độc nào đối với sự ô nhục và xấu hổ này.
|
|
|
I love Spain as much as Peru, and my debt to her is as
great as my gratitude. If not for Spain, I never would have reached this
podium or become a known writer and perhaps, like so many unfortunate
colleagues, I would wander in the limbo of writers without luck, publishers,
prizes, or readers, whose talent – sad comfort – posterity may one day
discover. All my books were published in Spain, where I received exaggerated
recognition, and friends like Carlos Barral, Carmen Balcells, and so many
others were zealous about my stories having readers. And Spain granted me a
second nationality when I could have lost mine. I have never felt the
slightest incompatibility between being Peruvian and having a Spanish
passport, because I have always felt that Spain and Peru are two sides of the
same coin, not only in my small person but in essential realities like
history, language, and culture.
|
Tôi yêu Tâybannha cũng ngang bằng với Peru, và món nợ của
tôi đối với Tâybannha cũng lớn như lòng biết ơn của tôi. Nếu không nhờ có
Tâybannha, tôi hẳn không bao giờ có thể đạt tới diễn đàn này ngày hôm nay
hoặc trở thành một nhà văn được người ta biết đến và có lẽ, giống như nhiều
đồng nghiệp bất hạnh khác, tôi hẳn vẫn lang thang trong cõi lâm bô tối tăm
của những nhà văn không gặp vận may, không nhà xuất bản, không phần thưởng,
không người đọc, mà tài năng của họ — niềm an ủi buồn bã — đời sau một ngày
nào đó có thể tìm ra. Tất cả sách của tôi đều đã được xuất bản ở Tâybannha,
nơi tôi nhận được sự nhìn nhận cường điệu, và các bạn bè như Carlos Barral, Carmen
Balcells, và bao nhiêu người khác nhiệt liệt ủng hộ truyện của tôi có được
độc giả. Và Tâybannha đã ban cho tôi một quốc tịch thứ hai, khi tôi sắp mất
quốc tịch bởi vì tôi luôn luôn cảm nhận rằng Tâybannhan và Peru là hai mặt
của cùng một đồng tiền, không phải chỉ trong cá nhân bé bỏng của tôi mà trong
những thực tại thiết yếu như là lịch sử, ngôn ngữ, và văn hoá.
|
Of all the years I have lived on Spanish soil, I remember
as most brilliant the five I spent in a dearly loved Barcelona in the early
1970s. Franco’s dictatorship was still in power and shooting, but by then it
was a fossil in rags, and especially in the field of culture, incapable of
maintaining its earlier controls. Cracks and chinks were opening that the
censors could not patch over, and through them Spanish society absorbed new
ideas, books, currents of thought, and artistic values and forms prohibited
until then as subversive. No city took as much or better advantage of this
start of an opening than Barcelona or experienced a comparable excitement in
all fields of ideas and creativity. It became the cultural capital of Spain,
the place you had to be to breathe anticipation of the freedom to come. And,
in a sense, it was also the cultural capital of Latin America because of the
number of painters, writers, publishers, and artists from Latin American
countries who either settled in or traveled back and forth to Barcelona: it
was where you had to be if you wanted to be a poet, novelist, painter, or
composer in our time. For me, those were unforgettable years of comradeship,
friendship, plots, and fertile intellectual work. Just as Paris had been,
Barcelona was a Tower of Babel, a cosmopolitan, universal city where it was
stimulating to live and work and where, for the first time since the days of
the Civil War, Spanish and Latin American writers mixed and fraternized,
recognizing one another as possessors of the same tradition and allied in a
common enterprise and certainty: the end of the dictatorship was imminent and
in democratic Spain, culture would be the principal protagonist.
|
Trong tất cả những năm tôi đã sống trên mảnh đất
Taybannha, tôi nhớ sáng chói nhất là năm năm tôi sống ở thành phố Barcelona
thân thương đầu thập niên 1970. Chế độ độc tài của Franco vẫn còn đang nắm
quyền và nổ súng, nhưng tới lúc đó nó đã là một vật hoá thạch te tua, và đặc
biệt trong lĩnh vực văn hoá, không còn khả năng duy trì những kiểm soát trước
đó. Những vết rạn và kẽ hở đã nứt nẻ mà những phán quan kiểm duyệt không thể
nào vá víu và qua những khe hở đó xã hội Tâybannha hấp thu những ý tưởng,
sách báo, trào lưu tư tưởng, và những giá trị và dạng thức nghệ thuật tới lúc
đó còn bị ngăn cấm vì có tính tạo phản. Không có thành phố nào lợi dụng được
ngang bằng hoặc tốt hơn sự khởi đầu của việc khai mở này như là Barcelona
hoặc trải nghiệm một sự phấn khởi sánh bằng như thế trong mọi lĩnh vực tư
tưởng và sáng tạo. Nó trở thành thủ đô văn hóa của Tâybannha, nơi bạn phải
sống ở đó để hít thở dự cảm về cái tự do sắp tới. Và, trong một nghĩa, nó
cũng là thủ đô văn hoá của châu Mĩ Latinh nhờ số hoạ sĩ, nhà văn, nhà xuất
bản, và nghệ sĩ từ những xứ sở của châu Mĩ Latinh hoặc là định cư ở đó hoặc
đi và về Barcelona: đó là nơi bạn phải có mặt nếu bạn muốn là một nhà thơ,
nhà tiểu thuyết, hoạ sĩ, hoặc nhà soạn nhạc đương thời của chúng ta. Đối với
tôi, đó là những năm không thể nào quên được của tình đồng chí, tình bạn, mưu
đồ, và công việc trí tuệ phì nhiêu. Hệt như Paris trước đây đã từng là,
Barcelona đã là một ngọn tháp Babel, một thành phố quốc tế, đại đồng nơi sống
và làm việc đầy kích thích và là nơi, lần đầu tiên kể từ thời Nội chiến
[1936-1938], những nhà văn Tâybannha và châu Mĩ latinh hoà trộn và kết tình
anh em, thừa nhận nhau như những kẻ sở hữu cùng chung một truyền thống và
đồng minh trong một công cuộc chung; và cùng một xác tín: sự kết thúc của chế
độ độc tài là cận kề và trong một đất nước Tâybannha dân chủ, văn hoá sẽ là
kẻ đóng vai chủ chốt.
|
Although it did not occur exactly that way, the Spanish
transition from dictatorship to democracy has been one of the best stories of
modern times, an example of how, when good sense and reason prevail and
political adversaries set aside sectarianism for the common good, events can
occur as marvelous as the ones in novels of magic realism. The Spanish
transition from authoritarianism to freedom, from underdevelopment to
prosperity, from third-world economic contrasts and inequalities to a country
of middle classes, her integration into Europe and her adoption in a few
years of a democratic culture, has astonished the entire world and
precipitated Spain’s modernization. It has been moving and instructive for me
to experience this near at hand, at times from the inside. I fervently hope
that nationalism, the incurable plague of the modern world and of Spain as
well, does not ruin this happy tale.
|
Mặc dù sự việc không sảy ra đúng như vậy, sự chuyển tiếp
của Tâybannha từ chế độ độc tài sang chế độ dân chủ là một trong những câu
chuyện tuyệt vời nhất của thời hiện đại, một gương mẫu về sự bằng cách nào,
khi lương tri và lí trí ưu thắng và các đối thủ chính trị gạt sang một bên
chủ nghĩa bè phái vì ích lợi chung, các biến cố có thể xảy ra kì diệu như các
biến cố trong những cuốn tiểu thuyết của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Sự
chuyển tiếp của Tâybannha từ sự chuyên quyền sang tự do, từ sự kém phát triển
sang thịnh vượng, từ những đối nghịch và bất công kinh tế của thế giới thứ ba
sang một xứ sở của những giai cấp trung lưu, sự hội nhập của nước này vào
châu Âu và trong một vài năm sự chấp nhận của nước này vào một nền văn hoá
dân chủ, đã làm kinh ngạc toàn thế giới và thúc đẩy sự canh tân của Tâybannha.
Thật là xúc động và giáo huấn cho tôi khi trải nghiệm điều này ở kề cận, có
những lúc từ bên trong. Tôi nồng nàn hi vọng rằng chủ nghĩa quốc gia, nạn
dịch bất trị của thế giới hiện đại và của luôn cả Tâybannha, không tàn hại
câu chuyện hạnh phúc này.
|
I despise every form of nationalism, a provincial ideology
– or rather, religion – that is short-sighted, exclusive, that cuts off the
intellectual horizon and hides in its bosom ethnic and racist prejudices, for
it transforms into a supreme value, a moral and ontological privilege, the
fortuitous circumstance of one’s birthplace. Along with religion, nationalism
has been the cause of the worst slaughters in history, like those in the two
world wars and the current bloodletting in the Middle East. Nothing has
contributed as much as nationalism to Latin America’s having been Balkanized
and stained with blood in senseless battles and disputes, squandering
astronomical resources to purchase weapons instead of building schools,
libraries, and hospitals.
|
Tôi ghét mọi hình thức của chủ nghĩa quốc gia, là một hình
thái í thức tỉnh lẻ — hoặc đúng hơn, là tín ngưỡng tỉnh lẻ — nó cận thị,
chuyên biệt, nó cắt lìa chân trời trí tuệ và giấu trong lòng nó những thành
kiến về sắc tộc và chủng tộc, vì nó biến cải cái hoàn cảnh ngẫu nhiên của nơi
người ta sinh ra đời thành giá trị tối cao, thành một đặc quyền về đạo đức và
bản thể. Cùng với tín ngưỡng, chủ nghĩa quốc gia đã là nguyên nhân của những
vụ tàn sát tệ hại nhất trong lịch sử, giống như nguyên nhân của hai cuộc thế
chiến và trong cuộc đổ máu hiện thời ở Trung đông. Không gì bằng chủ nghĩa
quốc gia đã đóng góp nhiều như thế vào việc qua phân châu Mĩ Latinh và làm
nơi này lấm máu trong những chiến đấu và tranh chấp vô nghĩa lí, hoang phí
những tài nguyên như trời bể để mua sắm vũ khí thay vì xây dựng trường học,
thư viện, và nhà thương.
|
We should not confuse a blinkered nationalism and its
rejection of the “other,” always the seed of violence, with patriotism, a
salutary, generous feeling of love for the land where we were born, where our
ancestors lived, where our first dreams were forged, a familiar landscape of
geographies, loved ones, and events that are transformed into signposts of memory
and defenses against solitude. Homeland is not flags, anthems, or apodictic
speeches about emblematic heroes, but a handful of places and people that
populate our memories and tinge them with melancholy, the warm sensation that
no matter where we are, there is a home for us to return to.
|
Chúng ta không nên lầm lẫn chủ nghĩa quốc gia bị che kín
hai bên mắt cùng với sự loại trừ “người khác” của nó, luôn luôn là mầm mống
của bạo động, với lòng yêu nước, một tình tự lành mạnh và bao dung, tình
thương yêu đối với quê hương là mảnh đất nơi chúng ta chào đời, nơi tổ tiên
ta đã sống, nơi những giấc mơ đầu đời của ta thành hình, một cảnh sắc thân
quen về địa lí, những người thân thương, và những biến cố hoá thành những dấu
mốc của trí nhớ và những phòng ngự chống nỗi cô đơn. Quê hương không phải là
những lá cờ, những bài quốc ca, hoặc những diễn văn giáo huấn về những anh
hùng trên huy hiệu, mà chỉ là dăm ba nơi chốn và con người cư ngụ trong những
kỉ niệm của chúng ta và làm chúng đượm buồn, cảm giác ấm áp là dù là chúng ta
ở bất cứ nơi đâu, cũng có một mái nhà để chúng ta quay về.
|
Peru is for me Arequipa, where I was born but never lived,
a city my mother, grandparents, and aunts and uncles taught me to know
through their memories and yearnings, because my entire family tribe, as
Arequepeños tend to do, always carried the White City with them in their
wandering existence. It is Piura in the desert, mesquite trees and the
long-suffering burros that Piurans of my youth called “somebody else’s feet”
– an elegant, sad name – where I discovered that storks did not bring babies
into the world but couples made them by doing outrageous things that were a
mortal sin. It is San Miguel Academy and the Varieties Theater where for the
first time I saw a short work I had written produced on stage. It is the corner
of Diego Ferré and Colón, in Lima’s Miraflores – we called it the Happy
Neighborhood – where I exchanged short pants for long trousers, smoked my
first cigarette, learned to dance, fall in love, and open my heart to girls.
It is the dusty, pulsing editorial offices of the paper La Crónica where, at
sixteen, I stood virgil over my first arms as a journalist, a trade that,
along with literature, has occupied almost my entire life and, like books,
has made me live more, know the world better, and be with men and women from
everywhere and every class, excellent, good, bad, and execrable people. It is
the Leoncio Prado Military Academy, where I learned that Peru was not the
small middle-class redoubt where I had lived until then, confined and
protected, but a large, ancient, rancorous, unequal country, shaken by all
kinds of social storms. It is the clandestine cells of Cahuide where, with a
handful of San Marcos students, we prepared the world revolution. And Peru is
my friends in the Freedom Movement with whom for three years, in the midst of
bombs, blackouts, and terrorist assassinations, we worked in defense of
democracy and the culture of freedom.
|
Peru đối với tôi là Arequipa, nơi tôi được sinh ra nhưng
chẳng hề sống ở đó, một thành phố mà mẹ tôi, ông bà ngoại, và các dì và các
cậu dạy cho tôi biết qua những kỉ niệm và mong mỏi của họ, bởi vì toàn thể
gia tộc tôi, được biết như là dân Arequipa {Arequepenos} có khuynh hường là
luôn luôn mang theo Thành phố Trắng này trong cuộc sống lang thang của họ. Đó
là Piura trong sa mạc, những cây xấu hổ và những con lừa thồ hàng chịu cực
khổ mà người dân ở Piura thời niên thiếu của tôi gọi là “những chân của kẻ
khác” — một tên gọi buồn bã, thanh nhã — nơi tôi khám phá ra rằng loài cò
không mang những em bé sơ sinh vào thế gian này mà là những lứa đôi tạo ra
chúng bằng cách làm những điều lố lăng vốn là một tội trọng. Peru là trường
trung học San Miguel và Rạp hát Tạp kĩ nơi lần đầu tiên tôi thấy một vở kịch
ngắn mà mình đã viết được diễn trên sân khấu. Đó là góc Diego Ferré và Colón,
trong khu Miraflore của thủ đô Lima — chúng tôi gọi đó là Khu phố Hạnh phúc —
nơi tôi đổi quần cộc để mặc quần dài, hút điếu thuốc lá đầu tiên, học khiêu
vũ, vương vào tình ái, và mở lòng ra với các cô gái. Đó là cái văn phòng biên
tập hối hả, đầy bụi của tờ báo La Crónica nơi, ở tuổi mười sáu tôi thử tay
nghề đầu tiên làm phóng viên, một nghề mà, cùng với văn học, đã chiếm gần
trọn đời tôi, và giống như việc viết sách, khiến tôi sống nhiều hơn, biết thế
giới rành hơn, và chung đụng với những người đàn ông và đàn bà từ khắp mọi
nơi và thuộc mọi giai cấp, những người tuyệt vời, tốt có, xấu có, và cả đê
tiện. Đó là Học viện quân sự Leoncio Prado, nơi tôi học để biết được rằng
Peru không phải là cái xó xỉnh nhỏ bé thuộc giai cấp trung lưu mà tôi đã sống
cho đến lúc đó, khép kín và được bảo bọc, nhưng là một xứ sở lớn lao, cổ
kính, hung bạo và bất bình đẳng, bị lay động bằng mọi loại dông bão xã hội.
Đó là những tiểu tổ lậu ở Cahuide nơi, với vài người bạn cùng là sinh viên ở
đại học San Marcos, chúng tôi chuẩn bị cuộc cách mạng thế giới. Và Peru, là
bạn bè sau cùng của tôi trong Phong trào Tự do cùng với họ trong ba năm, giữa
các trái bom, những vụ cắt điện, và những toan tính ám sát khủng bố, chúng
tôi làm việc để bảo vệ dân chủ và vì văn hoá tự do.
|
Peru is Patricia, my cousin with the upturned nose and
indomitable character, whom I was lucky enough to marry forty-five years ago
and who still endures the manias, neuroses, and temper tantrums that help me
to write. Without her my life would have dissolved a long time ago into a
turbulent whirlwind, and Alvaro, Gonzalo, Morgana and the six grandchildren
who extend and gladden our existence would not have been born. She does
everything and does everything well. She solves problems, manages the
economy, imposes order on chaos, keeps journalists and intrusive people at
bay, defends my time, decides appointments and trips, packs and unpacks
suitcases, and is so generous that even when she thinks she is rebuking me,
she pays me the highest compliment: “Mario, the only thing you’re good for is
writing.”
|
Peru là Patricia, cô em họ của tôi với chiếc mũi hỉnh và
tính khí bất khuất, người tôi khá may mắn được kết hôn bốn mươi lăm năm về
trước và là người hiện vẫn còn phải chịu những thói hư tật xấu, những chứng
thần kinh, và những phát tác đã giúp tôi viết lách. Không có nàng thì đời tôi
hẳn đã tiêu tán từ lâu lắm rồi thành một cơn lốc quay cuồng, và hẳn đã không
có sự chào đời của Alvaro, Gonzalo, Morgana và sáu đứa cháu đã kéo dài và làm
vui cuộc sống của chúng tôi. Nàng làm mọi chuyện và làm mọi chuyện thật hay.
Nàng giải quyết các vấn đề, lo liệu việc tài chính, áp đặt trật tự lên hỗn
mang, ngăn chặn các nhà báo và các kẻ tò mò, che chở thời gian của tôi, quyết
định những sự hẹn gặp và những chuyến đi, đóng gói và thảo dỡ hành lí, và bao
dung đến nỗi rằng ngay cả khi nàng nghĩ đang rầy la tôi, nàng lại ngợi khen
tôi hơn hết: “Mario, điều duy nhất anh giỏi là chỉ biết viết thôi.”
|
Let us return to literature. The paradise of childhood is
not a literary myth for me but a reality I lived and enjoyed in the large
family house with three courtyards in Cochabamba, where with my cousins and
school friends we could reproduce the stories of Tarzan and Salgari, and in
the prefecture of Piura, where bats nested in the lofts, silent shadows that
filled the starry nights of that hot land with mystery. During those years,
writing was playing a game my family celebrated, something charming that
earned applause for me, the grandson, the nephew, the son without a papa
because my father had died and gone to heaven. He was a tall, good-looking
man in a navy uniform whose photo adorned my night table, which I prayed to
and then kissed before going to sleep. One Piuran morning – I do not think I
have recovered from it yet – my mother revealed that the gentleman was, in
fact, alive. And on that very day we were going to live with him in Lima. I
was eleven years old, and from that moment everything changed. I lost my
innocence and discovered loneliness, authority, adult life, and fear. My
salvation was reading, reading good books, taking refuge in those worlds
where life was glorious, intense, one adventure after another, where I could
feel free and be happy again. And it was writing, in secret, like someone
giving himself up to an unspeakable vice, a forbidden passion. Literature
stopped being a game. It became a way of resisting adversity, protesting,
rebelling, escaping the intolerable, my reason for living. From then until
now, in every circumstance when I have felt disheartened or beaten down, on
the edge of despair, giving myself body and soul to my work as a storyteller
has been the light at the end of the tunnel, the plank that carries the
shipwrecked man to shore.
|
Chúng ta quay về với văn học thôi. Thiên đàng của tuổi thơ
đối với tôi không phải là một chuyện thần thoại văn chương mà là một thực tế
tôi đã sống và vui hưởng trong căn nhà lớn của gia tộc với ba cái sân ở
Cochabamba nơi cùng với các anh chị em họ và bạn cùng học ở trường chúng tôi
có thể tái tạo những câu chuyện về Tarzan và Salgari, và ở trong huyện Piura,
nơi lũ dơi làm tổ dưới mái nhà, những bóng đen thầm lặng làm tràn ngập những
đêm trời sao của miền đất nóng nực đó chứa chan huyền bí. Trong suốt những
năm đó, việc viết là chơi một trò chơi mà đại gia đình tôi hoan nghênh, một
điều gì dễ thương khiến người ta cổ vũ, đứa cháu ngoại, đứa cháu của các dì
các cậu, đứa con trai không có ba vì cha tôi đã mất và đã lên thiên đàng. Ông
là một người đàn ông bảnh bao, cao lớn, trong bộ đồng phục hải quân mà tấm
ảnh chụp trang hoàng trước bàn ngủ của tôi, mà mỗi đêm tôi cầu nguyện và hôn
trước khi đi ngủ. Một buổi sáng kia ở Piura — tôi không nghĩ là bây giờ tôi
đã hồi phục từ đó — mẹ tôi bộc lộ rằng người đó, thực sự, còn đang sống. Và
kể từ ngay ngày hôm đó chúng tôi sẽ đến sống cùng với ông ở thủ đô Lima. Lúc
đó tôi mười một tuổi, và kể từ khoảnh khắc đó mọi sự đã biến đổi. Tôi đánh
mất sự ngây thơ và tìm thấy nỗi cô đơn, quyền uy, đời sống trưởng thành, và
niềm kinh sợ. Sự cứu rỗi của tôi là việc đọc, đọc những sách hay, an trú
trong những thế giới mà đời sống là vinh quang, nồng nhiệt, hết phiêu lưu này
tới phiêu lưu khác, nơi tôi có thể lại cảm thấy tự do và hạnh phúc. Và đó là
việc viết, âm thầm, giống như một ai đó phó mình cho một tật xấu không thể
tiết lộ, một ham mê bị cấm đoán. Văn học thôi không còn là một trò chơi. Nó
đã trở thành một lối đề kháng nghịch cảnh, phán đối, nổi loạn, đào thoát cái
không thể chịu nổi, thành lí do sống của tôi. Từ lúc đó cho đến bây giờ,
trong mọi hoàn cảnh khi tôi cảm thấy ngã lòng hoặc bị vùi giập, bên bờ tuyệt
vọng, lao cả thân thể và linh hồn vào công việc như một người kể chuyện đã là
ánh sáng cuối đường hầm, là tấm ván đưa kẻ đắm tàu là tôi tới bến bờ.
|
Although it is very difficult and forces me to sweat blood
and, like every writer, to feel at times the threat of paralysis, a dry
season of the imagination, nothing has made me enjoy life as much as spending
months and years constructing a story, from its uncertain beginnings, the
image memory stores of a lived experience that becomes a restlessness, an
enthusiasm, a daydream that then germinates into a project and the decision
to attempt to convert the agitated cloud of phantoms into a story. “Writing
is a way of living,” said Flaubert. Yes, absolutely, a way of living with
illusion and joy and a fire throwing out sparks in your head, struggling with
intractable words until you master them, exploring the broad world like a
hunter tracking down desirable prey to feed an embryonic fiction and appease
the voracious appetite of every story that, as it grows, would like to devour
every other story. Beginning to feel the vertigo a gestating novel leads us
to, when it takes shape and seems to begin to live on its own, with
characters that move, act, think, feel, and demand respect and consideration,
on whom it is no longer possible to arbitrarily impose behavior or to deprive
them of their free will without killing them, without having the story lose
its power to persuade – this is an experience that continues to bewitch me as
it did the first time, as complete and dizzying as making love to the woman
you love for days, weeks, months, without stopping.
|
Mặc dù nó rất lao khổ và buộc tôi phải rịn máu và, giống
như mọi nhà văn, thỉnh thoảng cảm thấy sự đe doạ bị tê liệt, một mùa khô kiệt
của trí tưởng tượng, không điều gì từng làm cho tôi vui hưởng cuộc sống như
là trải nhiều tháng năm để xây dựng một câu chuyện từ sự khởi đầu bất trắc,
cái hình tượng mà trí nhớ đã lưu trữ về một kinh nghiệm sống đã trở nên một
háo hức, một thần hứng, một mộng mơ rồi ra mọc mầm thành một dự án và quyết
tâm thử chuyển áng mây xôn xao của các bóng ma thành một câu chuyện. Flaubert
nói: “Viết là một lối sống.” Phải, tuyệt đối đúng, một lối sống với ảo tưởng
và niềm vui và một ngọn lửa phóng ra những tia sáng trong đầu bạn, vật lộn
với những từ ngữ hóc búa đến khi bạn làm chủ được chúng, thăm dò thế giới bao
la như một người thợ săn dõi theo con mồi mong ước để nuôi dưỡng một tiểu
thuyết còn trong bào thai và làm khuây khoả nỗi thèm khát vô độ của mỗi câu
chuyện, khi nó tăng trưởng, muốn ngấu nghiến mọi chuyện khác. Bắt đầu cảm
thấy sự choáng ngợp của cuốn tiểu thuyết đang nẩy nở dẫn dắt chúng ta tới,
khi nó tượng hình và dường như có đời sống riêng của chính nó, với những nhân
vật cử động, hành sự, suy nghĩ, cảm xúc, và đòi hỏi kính trọng cùng cẩn thận,
không thể độc đoán áp đặt lên hành vi của họ, hoặc tước đoạt ý chí tự do của
họ mà không giết chết họ, mà không làm cho truyện mất đi sức thuyết phục —
đây là một kinh nghiệm vẫn tiếp tục làm tôi mê luyến như lần đầu tiên, trọn
vẹn và ngất ngây như làm tình với người đàn bà bạn thương yêu bao ngày, bao
tuần, bao tháng, không ngừng.
|
When speaking of fiction, I have talked a great deal about
the novel and very little about the theater, another of its preeminent forms.
A great injustice, of course. Theater was my first love, ever since, as an
adolescent, I saw Arthur Miller’s Death of a Salesman at the Segura Theater
in Lima, a performance that left me transfixed with emotion and precipitated
my writing a drama with Incas. If there had been a theatrical movement in the
Lima of the 1950s, I would have been a playwright rather than a novelist.
There was not, and that must have turned me more and more toward narrative.
But my love for the theater never ended; it dozed, curled up in the shadow of
novels, like a temptation and a nostalgia, above all whenever I saw an
enthralling play. In the late 1970s, the persistent memory of a
hundred-year-old great-aunt, Mamaé, who in the final years of her life cut
off her surrounding reality to take refuge in memories and fiction, suggested
a story. And I felt, prophetically, that it was a story for the theater, that
only on stage would it take on the animation and splendor of successful
fictions. I wrote it with the tremulous excitement of a beginner and so
enjoyed seeing it on stage with Norma Aleandro in the heroine’s role that
since then, between novels and essays, I have relapsed several times. And I
must add, I never imagined that at the age of seventy I would mount (I should
say, stumble onto) a stage to act. That reckless adventure made me experience
for the first time in my own flesh and bone the miracle it is for someone who
has spent his life writing fictions to embody for a few hours a character of
fantasy, to live the fiction in front of an audience. I can never adequately
thank my dear friends, the director Joan Ollé and the actress Aitana Sánchez
Gijón, for having encouraged me to share with them that fantastic experience
(in spite of the panic that accompanied it).
|
Khi bàn về hư cấu, tôi đã nói nhiều về tiểu thuyết và rất
ít về kịch nghệ, một trong những dạng thức kiệt xuất của hư cấu. Dĩ nhiên đó
là một bất công lớn. Kịch nghệ là tình yêu đầu đời của tôi mãi mãi từ thưở
đó, từ khi còn là thiếu niên, tôi xem vở Cái chết của người chào hàng (Death
of a Salesman) của Arthur Miller ở Nhà hát Segura ở Lima, một buổi trình diễn
khiến tôi sững sờ vì xúc động và thôi thúc tôi viết một vở kịch về người Da
đỏ Incas. Nếu đã có một phong trào kịch nghệ ở Lima thời thập niên 1950, hẳn
tôi đã làm một người viết kịch hơn là một người viết tiểu thuyết. Nó không có
và điều đó hẳn đã phải xoay chuyển tôi ngày một hướng về thể loại tự sự.
Nhưng tình yêu của tôi đối với kịch nghệ chẳng hề chấm dứt. Nó lim dim ngủ,
cuộn tròn trong bóng những cuốn tiểu thuyết, giống như một cám dỗ về một nỗi
đau hoài hương, trên hết mỗi khi tôi thấy một vở kịch lôi cuốn. Vào cuối thập
niên 1970, nỗi nhớ dai dẳng về một bà cô trăm tuổi, Mamáe, trong những năm
cuối đời lìa bỏ thực tại vây quanh để an trú trong kỉ niệm và hư cấu, đã gợi
ra một câu chuyện. Và tôi cảm thấy, một cách tiên tri, rằng đó là một câu
chuyện cho kịch nghệ, rằng chỉ trên sân khấu nó mới có được sức sinh động và
vẻ huy hoàng của những hư cấu thành công. Tôi viết nó ra với sự hăng say hồ
hởi của một kẻ bắt đầu và quá sung sướng thấy nó trên sân khấu với Norma
Aleandro trong vai nữ chính đến nỗi kể từ đó, giữa hai tiểu thuyết và hai
luận văn, tôi đã mấy lần sa vào việc viết kịch. Và tôi phải xin thêm, tôi
chưa hề tưởng tượng ra rằng ở vào tuổi bảy mươi rôi lại có thể leo lên (đáng
ra tôi phải nói, rơi vào) sàn diễn để đóng vai. Chuyến phiêu lưu bạt mạng đó,
đã làm tôi lần đầu kinh qua bằng thịt da xương xảu cái phép lạ dành cho những
ai đã bỏ cả đời viết hư cấu được thể nghiệm trong vài giờ một nhân vật của
huyễn tưởng, để sống cái hư cấu trước mặt một lớp thính giả. Tôi không bao
giờ có thể cám ơn đẩy đủ những người bạn thân của tôi, đạo diễn Joan Ollé và
nữ diễn viên Aitana Sánchez Gijón, đã thúc đẩy tôi tham gia với họ trong kinh
nghiệm huyễn hoặc này (mặc dù tất cả nỗi kinh hoàng làm theo với nó).
|
Literature is a false representation of life that
nevertheless helps us to understand life better, to orient ourselves in the
labyrinth where we are born, pass by, and die. It compensates for the
reverses and frustrations real life inflicts on us, and because of it we can
decipher, at least partially, the hieroglyphic that existence tends to be for
the great majority of human beings, principally those of us who generate more
doubts than certainties and confess our perplexity before subjects like
transcendence, individual and collective destiny, the soul, the sense or
senselessness of history, the to and fro of rational knowledge.
|
Văn học là một sự thay mặt giả dối cho đời sống, tuy thế
nó làm ta hiểu đời sống rành hơn, để hướng chúng ta trong cái mê cung mà
chúng ta đã sinh vào, băng qua, và chết đi. Nó bù đắp cho những sự đảo lộn và
thất vọng mà đời sống có thực giáng xuống chúng ta, và nhờ nó chúng ta có thể
giải mã, ít nhất phần nào, cái văn tự linh thiêng mà cuộc sinh tồn có khuynh
hướng hiện ra cho đại đa số con người, chính yếu là những kẻ trong chúng ta
sản sinh ra nhiều hoài nghi hơn là đinh ninh và bộc bạch sự bối rối hoang
mang của chúng ta trước những chủ đề như là sự siêu thoát, định mệnh cá nhân
và tập thể, linh hồn, ý nghĩa hoặc sự vô nghĩa lí của lịch sử, cái chao đảo
của tri thức thuần lí.
|
I have always been fascinated to imagine the uncertain
circumstance in which our ancestors – still barely different from animals,
the language that allowed them to communicate with one another just recently
born – in caves, around fires, on nights seething with the menace of
lightning bolts, thunder claps, and growling beasts, began to invent and tell
stories. That was the crucial moment in our destiny, because in those circles
of primitive beings held by the voice and fantasy of the storyteller,
civilization began, the long passage that gradually would humanize us and
lead us to invent the autonomous individual, then disengage him from the
tribe, devise science, the arts, law, freedom, and to scrutinize the
innermost recesses of nature, the human body, space, and travel to the stars.
Those tales, fables, myths, legends that resounded for the first time like
new music before listeners intimidated by the mysteries and perils of a world
where everything was unknown and dangerous, must have been a cool bath, a
quiet pool for those spirits always on the alert, for whom existing meant
barely eating, taking shelter from the elements, killing, and fornicating.
From the time they began to dream collectively, to share their dreams,
instigated by storytellers, they ceased to be tied to the treadmill of
survival, a vortex of brutalizing tasks, and their life became dream, pleasure,
fantasy, and a revolutionary plan: to break out of confinement and change and
improve, a struggle to appease the desires and ambitions that stirred
imagined lives in them, and the curiosity to clear away the mysteries that
filled their surroundings.
|
Tôi đã luôn bị mê say tưởng tượng ra hoàn cảnh bất định
trong đó tổ tiên chúng ta — hãy còn chẳng khác là bao nhiêu với loài thú, cái
ngôn ngữ cho phép họ truyền thông với nhau vừa mới được nảy sinh — trong
những hang động, quanh đám lửa, vào những đêm sục sôi vì đe doạ của chớp
giật, sấm dồn, và tiếng tru của ác thú, bắt đầu bịa ra và kể chuyện. Đó là
khoảnh khắc then chốt trong định mệnh của chúng ta, bởi vì trong những vòng
con người sơ khai ấy được giữ bằng tiếng nói và hoang tưởng của người kể
chuyện, văn minh đã bắt đầu, chuyến đi dài dần dà làm chúng ta thành người và
dắt dẫn chúng ta đến sự phát minh ra cá nhân tự chủ, rồi tách lìa y ra khỏi
bộ lạc, sáng kiến ra khoa học, các nghệ thuật, luật pháp, tự do, và thám sát
những ngõ ngách thâm sâu nhất của cõi tự nhiên, thân thể con người, không
gian, và du hành tới các vì sao. Những truyện kể, ngụ ngôn, huyền thoại,
truyền kì ấy đã vang vọng thưở ban đầu giống như thứ âm nhạc mới mẻ trước
người nghe xao xuyến vì những huyền bí và rủi ro của một thế giới nơi vạn vật
chưa được biết và hiểm nghèo, hẳn phải là một cơn tắm mát, một hồ nước tĩnh
lặng cho những tinh thần luôn luôn cảnh giác, đối với họ sinh tồn chỉ có
nghĩa vỏn vẹn là ăn, trú ẩn khỏi đất nước gió lửa, giết chóc, và giao cấu. Từ
lúc họ bắt đầu mơ mộng tập thể, san sẻ những giấc mơ, gây ra do người kể
chuyện, họ thôi không còn bị cột chặt vào guồng quay của việc sống còn, cơn
lốc xoáy của những lao lực làm u mê, và đời sống của họ trở thành mộng mơ,
lạc thú, huyễn tưởng, và một kế hoạch cách mạng, phá vỡ sự tù túng và biến
đổi và cải thiện, một cuộc tranh đấu để khuây khoả những mong muốn và cao
vọng khuấy lên những cõi đời tưởng tượng trong họ, và sự tò mò muốn làm quang
đãng những huyền bí chứa đầy cảnh quan của họ.
|
This never-interrupted process was enriched when writing
was born and stories, in addition to being heard, could be read, achieving
the permanence literature confers on them. That is why this must be repeated
incessantly until new generations are convinced of it: fiction is more than
an entertainment, more than an intellectual exercise that sharpens one’s
sensibility and awakens a critical spirit. It is an absolute necessity so
that civilization continues to exist, renewing and preserving in us the best
of what is human. So that we do not retreat into the savagery of isolation
and life is not reduced to the pragmatism of specialists who see things
profoundly but ignore what surrounds, precedes, and continues those things.
So that we do not move from having the machines we invent serve us to being
their servants and slaves. And because a world without literature would be a
world without desires or ideals or irreverence, a world of automatons
deprived of what makes the human being really human: the capacity to move out
of oneself and into another, into others, modeled with the clay of our
dreams.
|
Tiến trình không hề ngắt ngang này được làm giàu khi chữ
viết nảy sinh và những câu chuyện, ngoài việc được nghe, còn có thể được đọc,
đạt tới sự trường tồn mà nền văn học ban cho chúng. Đó là lí do điều này phải
được nhắc lại không ngừng nghỉ cho đến khi những thế hệ mới đinh ninh trong
dạ: hư cấu còn hơn là giải trí, còn hơn là một sự thao diễn trí tuệ mài nhọn
cảm quan của chúng ta và đánh thức một tinh thần phê phán. Nó là một sự cần
thiết tuyệt đối để cho văn minh tiếp tục tồn tại, đổi mới và bảo tồn trong
chúng ta phần tinh tuý nhất của những gì mang tính người. Để cho chúng ta
không rút lui vào sự man rợ của cô độc và đời sống không bị giảm thiểu vào
cái chủ nghĩa thực dụng của những nhà chuyên môn vốn nhìn sự vật một cách sâu
sắc nhưng không biết những gì bao quanh, đi trước, và tiếp tục các sự việc
ấy. Để cho chúng ta không di chuyển từ chỗ có những máy móc chúng ta phát
minh để phục vụ chúng ta đến chỗ làm đầy tớ và nô lệ cho chúng. Và bởi vì một
thế giới không có văn học sẽ là một thế giới không có những mong muốn hoặc
những lí tưởng hoặc sự bất kính một thế giới của những bộ máy tự động khiếm
khuyết những gì làm cho con người thực sự mang tính người: khả năng di động
khỏi tự thân và nhập vào kẻ khác, vào những kẻ khác vốn được khuôn mẫu bằng
thứ đất sét của những mộng mơ của chúng ta.
|
From the cave to the skyscraper, from the club to weapons
of mass destruction, from the tautological life of the tribe to the era of
globalization, the fictions of literature have multiplied human experiences,
preventing us from succumbing to lethargy, self-absorption, resignation.
Nothing has sown so much disquiet, so disturbed our imagination and our
desires as the life of lies we add, thanks to literature, to the one we have,
so we can be protagonists in the great adventures, the great passions real
life will never give us. The lies of literature become truths through us, the
readers transformed, infected with longings and, through the fault of
fiction, permanently questioning a mediocre reality. Sorcery, when literature
offers us the hope of having what we do not have, being what we are not,
acceding to that impossible existence where like pagan gods we feel mortal
and eternal at the same time, that introduces into our spirits non-conformity
and rebellion, which are behind all the heroic deeds that have contributed to
the reduction of violence in human relationships. Reducing violence, not
ending it. Because ours will always be, fortunately, an unfinished story.
That is why we have to continue dreaming, reading, and writing, the most
effective way we have found to alleviate our mortal condition, to defeat the
corrosion of time, and to transform the impossible into possibility.
|
Từ hang động đến toà nhà chọc trời, từ cây chày gỗ đến
những vũ khí huỷ hoại đại thể, từ cuộc sống trùng lặp của bộ lạc tới kỉ
nguyên toàn cầu hóa, những hư cấu của văn học đã nhân gấp bội những kinh
nghiệm của con người, ngăn ngừa chúng ta khỏi suy sụp vào sự ù lì, sự tự chỉ
biết có mình, sự an phận. Không gì đã gieo trồng nhiều bất an như thế, đã
xoáy động trí tưởng tượng và những dục vọng của chúng ta đến thế như là đời
sống của những dối trá mà chúng ta thêm, nhờ văn học, vào đới sống mà chúng
ta có, để chúng ta có thể thủ những vai trong những cuộc phiêu lưu lớn, những
đam mê lớn mà đời sống thực không bao giờ cho chúng ta. Những dối trá của văn
học trở thành những sự thật qua chúng ta, người đọc được chuyển hoá, bị lây
nhiễm với những khát khao, và qua lỗi của hư cấu, thường xuyên chất vấn một
thực tại tầm thường. Thuật phù thuỷ, khi văn học cung ứng cho chúng ta niềm
hi vọng có được những gì chúng ta không có, là được những gì chúng ta không
là, đạt tới được cuộc sinh tồn bất khả nơi giống như những thần linh bên
lương chúng ta cảm thấy đồng thời vừa phù du vừa bất tử, nó đưa vào tâm linh
chúng ta sự không thuận tùng và sự nổi dậy, vốn nằm sau tất cả những việc làm
anh hùng đã đóng góp vào việc làm giảm thiểu sự bạo động trong những mối quan
hệ của con người, giảm thiểu bạo động, chứ không phải chấm dứt nó. Bởi vì câu
chuyện của chúng ta, may thay, sẽ luôn luôn là một câu chuyện không kết liễu.
Đó là lí do chúng ta phải tiếp tục mộng mơ, đọc và viết, là cách hiệu quả
nhất chúng ta đã tìm ra để làm nhẹ cái thân phận tử vong của chúng ta, để
đánh bại sự ruỗng mòn của thời gian, và để chuyển hoá cái không thể thành có
thể.
|
Stockholm, December 7, 2010
|
Stockholm, 7/12/2010
|
Translation by Edith Grossman
|
Translated by Nguyễn
Tiến Văn
|
http://www.nobelprize.org/nobel_prizes/literature/laureates/2010/vargas_llosa-lecture_en.html
|
Subscribe to:
Posts (Atom)