PGS.TS.BS Võ Văn Thành
Là bác sĩ phải biết sợ
SGTT.VN - Là bậc thầy trong ngành cột sống, PGS.TS.BS
Võ Văn Thành có công tạo dựng một đội ngũ bác sĩ chuyên ngành giỏi và
nhiều sáng tạo. Những phương pháp phẫu thuật mới của ông được đồng
nghiệp trong và ngoài nước nể phục, nhất là phương pháp phẫu thuật cột
sống theo lối nằm ngang (năm 2004) đặt ốc chân cung, được giới chuyên
gia y học đánh giá là đột phá của Việt Nam. Điềm tĩnh, khiêm cung, mỗi
việc ông làm đều ẩn chứa sự xả thân, hết lòng vì bệnh nhân.
Thời thơ ấu, những bài học sống nào từ cha mẹ hun
đúc trong ông một tinh thần hiếu học, khả năng chịu đựng thử thách và
cái nhìn nhân văn?
Thuở nhỏ, tôi là học sinh tiểu học ở Long Hoa, Tây
Ninh. Ba tôi cưa xẻ cây vất vả trăm bề mà tiền chẳng được bao nhiêu, ông
phải làm thêm đủ nghề để có tiền cho con ăn học.
Sự nghiêm khắc của ba và sự hy sinh của má khiến tôi
toàn tâm toàn ý cho việc học. Tôi nhớ những buổi sáng tinh mơ, ba tôi
thức dậy thật sớm mua cho mỗi đứa con một nắm xôi, có hôm không còn tiền
phải mua chịu. Quanh năm suốt tháng chỉ có xôi, nhờ nắm xôi nặng tình
ấy mà tôi học hành tới nơi tới chốn.
Thời đó, ngành y lấy điểm đầu vào rất cao, thường chỉ
học sinh ở thành phố mới có khả năng đậu. Năm 1967, tôi đứng thứ tư
trong số 160 người ban Pháp văn trúng tuyển vào đại học Y khoa Sài
Gòn... Sau đó, tôi lại được học bổng Colombo của Liên hiệp quốc đi Úc
học kỹ sư điện. Ba má tôi khuyên nên theo ngành y vì đó là ngành dễ làm
phước, nhất là nước mình có rất nhiều bệnh nhân nghèo ở thôn quê. Má tôi
bị suyễn nặng, bà còn sống được cũng nhờ lòng hảo tâm của các bác sĩ, y
tá, dì phước ở bệnh viện. Đó cũng là lý do tôi bỏ ngành điện, theo
ngành y. Khi tôi quyết định học y, má tự nhiên bớt bệnh, lạ thật. Trải
qua nhiều công việc làm thêm, dạy kèm để có tiền đến lớp, đến năm thứ
sáu, tôi được tuyển vào nội trú và nghiệm chế viên (kỹ thuật viên) hưởng
được hai đầu lương, nhờ thế cáng đáng được các em đi học.
Sau năm 1975, trong lúc đồng nghiệp bỏ đi nước ngoài gần hết, vì sao ông chọn ở lại?
Ra trường năm 1974, năm sau tôi bị tổng động viên, đi
lính được bốn tháng thì đến ngày thống nhất đất nước, tôi phải đi học
tập bốn tháng, coi như huề. Được GS Hoàng Tiến Bảo nhận về bệnh viện
Bình Dân là bước ngoặt lớn nhất trong nghề nghiệp của tôi. Thầy vừa
nghiêm túc, có óc khoa học, giỏi chuyên môn, có tấm lòng nhân hậu với
bệnh nhân, vừa biết chăm sóc, lo cho học trò. Những ngày con tôi bị
bệnh, thầy mua cho từng hộp sữa, dù lúc ấy kinh tế rất khó khăn.
Thầy là tấm gương cho thế hệ sau, những tư cách đó thời
nào cũng cần. Dưới sự dẫn dắt của thầy, tôi đã thay đổi nhiều về cách
suy nghĩ đối với nghề và đời. Gặp hoàn cảnh khó khăn thay vì than oán,
hãy cố hết sức mình. Sau này nghiệm lại, mỗi khó khăn gặp phải đều là
bài học hay cho đời mình.
Thời đất nước khó khăn nhất, lớp tôi có 250 người, đi
nước ngoài hết 170 người, 70 người còn lại giờ đều là những cột trụ
trong ngành. Quê hương, gia đình, tình nghĩa thầy trò là lý do tôi ở
lại. Năm 1983, thầy tôi đi đoàn tụ gia đình bên Mỹ, muốn tôi ở lại phát
triển ngành cột sống hoàn toàn mới ở Việt Nam. Tôi đã nguyện làm theo
lời thầy. Tôi hạnh phúc khi sống ở quê hương, trọn hiếu với cha mẹ, trọn
nghĩa với thầy… Trong những lúc cùng cực nhất, tôi luôn tự nhủ lòng sau
cơn mưa trời lại sáng, sông có khúc người có lúc, bên trên những tầng
mây kia bao giờ cũng có nắng.
PGS.TS.BS Võ Văn Thành sinh năm 1949 tại
Cái Răng, Cần Thơ. Học tiểu học và trung học tại Tây Ninh. Đậu vào đại
học Y khoa Sài Gòn năm 1967 và học bổng Colombo du học Úc về kỹ sư điện
năm 1968. Ông là cựu nội trú nội thần kinh và là bác sĩ thường trú nội
tổng quát trước 1975. Sau năm 1975, ông về công tác tại khoa Chấn thương
chỉnh hình bệnh viện Bình Dân (TP.HCM). Tốt nghiệp chuyên khoa 1 đặc
cách năm 1987 và chuyên khoa 2 năm 1995. Tốt nghiệp học vị tiến sĩ khoa
học y học năm 1996. Phó giáo sư hiện là chủ tịch hội Cột sống TP.HCM,
chủ tịch danh dự hội Chấn thương chỉnh hình Việt Nam.
|
Trong điều kiện học tập và nghiên cứu vô cùng khó
khăn, làm thế nào để ông theo đuổi đến cùng sự học, trở thành bậc thầy
trong ngành cột sống?
Hồi đó sách vở không có, tài liệu thiếu thốn, để theo
đuổi đến cùng sự học, trước tiên là lòng lân mẫn, thương lo cho bệnh
nhân, quyết tâm vượt khó, trau dồi sinh ngữ hàng ngày để hội nhập với
thế giới. Sự ham hiểu biết thôi thúc tôi mãnh liệt, không tiền mua sách
thì mượn chép tay, không tiền mua cơm thì kiếm nhà người quen hoặc bạn
bè.
Sau này, bệnh viện không đủ dụng cụ thì đi mượn, đi xin
ở bệnh viện khác hoặc đồng nghiệp trong và ngoài nước. Khi có dịp đi
nước ngoài tu nghiệp hay hội nghị thì toàn tâm, toàn ý lo học tập nghiên
cứu, cập nhật kiến thức và rèn luyện kỹ năng… để nhắm tới sự thực hành
trong nước trị bệnh tốt hơn.
Thông qua hoạt động của hội Cột sống do tôi làm chủ
tịch, chúng tôi đã tổ chức được hơn 20 hội nghị quốc tế về cột sống tại
TP.HCM, Việt Nam. Trong các hội nghị này, nhiều bác sĩ đầu ngành của thế
giới đã hy sinh thì giờ quý báu của họ đến Việt Nam để truyền bá kiến
thức và giúp đỡ dụng cụ phẫu thuật kỹ thuật cao. Để có sự cộng tác của
những êkíp mổ quý giá như thế, phải có sự đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu. Đó là vì các đồng nghiệp quốc tế đánh giá mình tốt, hết lòng
phục vụ bệnh nhân, không vị lợi thì mới duy trì được mối quan hệ này.
Nhờ thế bác sĩ trẻ trong nước có cơ hội học tập các bậc thầy tại chỗ và
còn có cơ may được nhận du học nước ngoài.
Cách để tôi chống quá tải là đi khắp các tỉnh huấn
luyện đội ngũ bác sĩ trẻ, để bệnh nhân khỏi phải đi xa, đỡ tốn kém cho
người nghèo. Mà lạ lắm, dường như khi dự định làm điều gì tốt, hữu ích
cho bệnh nhân, tôi thường gặp quý nhân phù hộ. Xã hội nói chung cả trong
lẫn ngoài nước mình vẫn có nhiều người hảo tâm lắm. Thứ trưởng Nguyễn
Duy Cương, thứ trưởng bộ Y tế, VS.TS Dương Quang Trung cũng là người
tiếp sức, cho mình nhiều cảm hứng làm việc.
Điều gì khiến một bác sĩ phẫu thuật cột sống như ông sợ nhất?
Một ca mổ thất bại là một nỗi đau lớn cho cả hai: bệnh
nhân và bác sĩ. Mổ cột sống sợ nhất là biến chứng. Tôi luôn dạy học trò
phải là bác sĩ có tay nghề vững mới được mổ, nếu tay nghề lơ mơ, dễ gây
biến chứng dẫn đến thương tật, tử vong. Những ca mổ thành công thì dễ
quên lắm, nhưng những ca thất bại thì nhớ suốt đời. Thành công là sự
tổng kết của các thất bại, vì thế nếu thất bại hãy học hỏi, nghiên cứu,
để lo cho bệnh nhân tốt hơn. Người bác sĩ phải biết sợ, phải biết coi
bệnh nhân là thầy mình với những bài học khác nhau qua cơ địa thể tạng
khác nhau, cho mình những bài học quý.
Có lẽ không ở đâu, mối quan hệ giữa thầy thuốc với
bệnh nhân lại mang tính mua bán đổi chác như ở Việt Nam. Phải chăng vì
quá bức xúc với điều này, ông đã hết lòng theo đuổi dự án thành lập hội
Tư vấn bệnh nhân?
Thời xưa, quà tặng gởi cho bác sĩ là để bày tỏ lòng
biết ơn, không phải trả tiền công; nếu bệnh nhân nghèo thì cho con gà,
chục cam, chục xoài cũng quý. Bác sĩ và bệnh nhân tôn trọng lẫn nhau,
tình cảm sâu lắng lắm. Bây giờ, tính dịch vụ làm cho mối quan hệ này
khác nhiều, tình nghĩa giữa hai bên đang dần mất đi. Quan hệ phong bì
phản ánh một xã hội không tốt đẹp.
Tôi đã từng nhận mổ lại cho nhiều ca mổ cột sống hư,
sai của các bác sĩ khác. Điều tôi muốn làm là giúp cho bệnh nhân trong
các cụm bệnh tật khác nhau hiểu tường tận về bệnh của mình để phòng
tránh, điều trị cho tốt. Hội Tư vấn bệnh nhân do chính bệnh nhân thành
lập, nhằm nâng cao kiến thức, tư vấn cho bệnh nhân, giúp học hỏi, hiểu
biết, phòng tránh bệnh tật và bảo vệ an toàn bệnh nhân khỏi sự hành nghề
yếu kém hay sai sót của ngành y. Đây là một ý thức mang tính kết hợp và
tôn trọng giữa thầy thuốc và bệnh nhân, cùng chăm lo bệnh tật, tránh
những sai lầm đáng tiếc làm mất đi sự thiện cảm lẫn nhau.
Giữ được chữ “đẹp” trong bệnh viện công dường như là “nhiệm vụ bất khả thi”?
Quả thật rất khó vì áp lực quá tải, hạ tầng cơ sở không
đáp ứng đủ cho số lượng bệnh nhân ngày càng đông đảo, điều kiện về
trang thiết bị y tế nghèo nàn, nhân lực thiếu thốn… Dù vậy, đối với bệnh
nhân, phải toàn tâm toàn ý, nặng mổ trước, nhẹ mổ sau, ai cũng được tôn
trọng, vui với cách cư xử của mình, đó là điều quan trọng. Để cải thiện
điều kiện sống, đa số bác sĩ có thể nhận mổ theo yêu cầu nhưng phải giữ
quyền lợi cá nhân ở mức cân bằng cho phép. Riêng tôi ít khi nhận mổ
theo yêu cầu để dành thời gian cho nghiên cứu và chăm sóc bệnh nhân.
Tôi lo cho thế hệ bác sĩ tiếp nối tận tình, tạo điều
kiện cho họ làm việc, đi lên, có điều kiện học tập ở nước ngoài, có thể
sống thoải mái với nghề nghiệp của mình. Niềm vui của tôi là thấy học
trò vừa có tài vừa có tấm lòng lo cho bệnh nhân. Còn học trò nào có tài
mà thiếu đức, tôi buồn dữ lắm. Ở Singapore, họ chọn sinh viên vô ngành y
không chỉ bằng học lực, tiêu chuẩn đầu tiên khi phỏng vấn là xem có hội
đủ đức tính cần có của ngành y không.
Ông nghĩ gì về vai trò của người trí thức, nhất là bác sĩ, trong lúc nhiều giá trị sống đang bị thách thức như bây giờ?
Trí thức là người có học, tỉnh táo, hiểu biết. Sẽ rất
vui nếu các trí thức có vị trí, được tôn trọng, có môi trường làm việc
tốt, như thế họ sẽ có điều kiện đóng góp vào việc phổ biến kiến thức vì
sự tiến bộ của xã hội. Tuy nhiên, lý tưởng này không dễ đạt được.
Xã hội hiện nay đang bị thách thức dữ dội về những giá
trị sống. Tiền bạc thì ai cũng cần nhưng đối với người thầy thuốc, nếu
muốn toàn tâm toàn ý lo cho bệnh nhân, lo cho sự tiến bộ của ngành nghề
thì phải “tri túc”; vả lại, chúng tôi cũng không có nhiều thì giờ để
quan tâm đến những rối ren ngoài đời. Trước mắt, tôi chỉ thấy bệnh nhân
và những tật bệnh của cột sống. Bệnh nhân chen chúc, chờ đợi, rên xiết
và hy vọng, mọi niềm tin đều đặt vào người thầy thuốc. Vì thế, mỗi khi
giải quyết được một bệnh khó, tôi cảm thấy an lạc trong lòng.
Thời xưa, quà tặng gởi cho bác sĩ là để bày
tỏ lòng biết ơn, không phải trả tiền công; nếu bệnh nhân nghèo thì cho
con gà, chục cam, chục xoài cũng quý... Bây giờ, tính dịch vụ làm cho
mối quan hệ này khác nhiều, tình nghĩa giữa hai bên dần mất đi. Quan hệ
phong bì phản ánh một xã hội không tốt đẹp.
|
Cuộc gặp gỡ với ni sư Trí Hải dường như đã thay đổi
cách nhìn của ông về đau ốm, về sinh tử, về sự gắn liền giữa điều trị
sức khoẻ thể xác và tinh thần…?
Thực sự ngay từ nhỏ tôi đã dành những phút rảnh rỗi để
nghiền ngẫm những quyển sách như Nẻo về của ý (Nhất Hạnh), Bắt trẻ đồng
xanh (D. Salinger), Câu chuyện dòng sông (Hermann Hesse), Gandhi tự
truyện… qua những bản dịch độc đáo của Phùng Khánh. Mãi khi ni sư Trí
Hải đến trị bệnh, tôi mới có dịp diện kiến dịch giả Phùng Khánh, một
ngòi bút tài hoa. Ni sư Trí Hải bị gãy xương sống đau nhiều, nhưng phong
thái thanh thản, ung dung trước nghiệp quả. Ni sư còn làm hẳn một tập
thơ Ngoạ bệnh ca, Báo ân ca trong thời gian trị bệnh. Qua trò chuyện
dường như giữa tôi và ni sư có sự đồng cảm về các chủ đề sinh tử, tinh
thần và thể xác… Ni sư với thiên tư thông tuệ, tài hoa, phẩm cách thanh
cao đã khích lệ tôi rất nhiều trên con đường phụng sự. Xin thắp một nén
nhang tưởng niệm khi nhắc tới người đã đi xa...
Ông coi trọng phẩm chất nào nhất của con người?
Đối với một bác sĩ, lòng nhân ái được coi như phẩm chất đứng đầu.
Ông có buồn nhiều không khi thực tế cuộc sống còn
quá nhiều bất công, người nghèo còn bị đẩy sang bên lề xã hội và bị phân
biệt đối xử khi bệnh tật?
Không buồn sao được, mình thì lực bất tòng tâm. Bảo
hiểm y tế bây giờ đã khá hơn trước, nhưng người dân phải chi trả đến 86%
chi phí y tế. Ngành y tế không phân biệt bệnh nhân giàu và bệnh nhân
nghèo, tuy nhiên, y tế kỹ thuật cao đòi hỏi tốn tiền vì liên quan đến
nhiều lĩnh vực: thuốc men, trang thiết bị y tế, cơ sở vật chất… Một con
ốc trong phẫu thuật cột sống giá đến 200 – 300 USD, mà phải cần rất
nhiều ốc trong một ca mổ, phải làm thế nào? Chúng tôi đã phối hợp với sở
Công nghiệp TP.HCM nghiên cứu sản xuất dụng cụ ốc, thanh nối, nẹp Việt
Nam chất lượng cao dùng trong ngành chấn thương chỉnh hình và cột sống
để giúp những bệnh nhân nghèo dễ chi trả, vì giá thấp mà hiệu quả tương
đương dụng cụ nước ngoài.
Tâm nguyện lớn nhất của ông là gì?
Hàng năm, số lượng bệnh nhân ra nước ngoài điều trị
hiện tiêu tốn hàng tỉ đôla. Nếu chúng ta giữ chân được họ thì mỗi năm
nước ta có thể xây thêm khoảng mười bệnh viện lớn như bệnh viện Chợ Rẫy,
Bạch Mai. Chúng ta cần có thêm nhiều bệnh viện công tầm cỡ khu vực. Các
bác sĩ trẻ của chúng ta hoàn toàn đủ trình độ để nắm bắt kỹ thuật mới.
Riêng ngành cột sống, chúng ta thiếu một bệnh viện công
hiện đại chuyên về cột sống. Một khi kỹ thuật cao được triển khai, chắc
chắn sẽ thu hút nhiều bệnh nhân ở các nước lân cận như Lào, Campuchia
hoặc xa hơn. Từ doanh thu có được, chúng ta có thể điều tiết lại cho
bệnh nhân nghèo.
Ông nghĩ gì về người bạn đời và những đứa con của mình?
Người bác sĩ phải biết sợ, phải biết coi
bệnh nhân là thầy mình với những bài học khác nhau qua cơ địa thể tạng
khác nhau, cho mình những bài học quý.
|
Nếu không có người vợ hiền, giỏi, hiểu biết để chia sẻ
công việc và cuộc sống, thì tôi khó có thể làm được những gì giúp cho xã
hội. Từ kiến thức, y đức, mối nhân nghĩa sống trên đời đều có sự đóng
góp, đồng cảm, tri kỷ, tri âm sâu sắc nhất của nhà tôi. Đặc biệt khi tôi
khăn gói đi giúp đội ngũ trẻ ở các tỉnh thành khác trong nước, nhà tôi
vui lắm.
Nhiều người gặp các con tôi đều nói các cháu hiền, như
thế là vui rồi. Con trai lớn của tôi cũng theo nghiệp cha, còn cô gái út
là thạc sĩ âm nhạc chuyên ngành piano, hiện công tác tại Nhạc viện
TP.HCM, cũng có tinh thần xã hội. Theo đuổi ngành nghệ thuật mang tính
hàn lâm không dễ dàng trong cuộc sống hiện nay, nhưng cháu rất yêu nghề…
Gia đình tôi hạnh phúc vì cùng có một lý tưởng sống.
thực hiện: Kim Yến
chân dung hội hoạ: Hoàng Tường
chân dung hội hoạ: Hoàng Tường