|
|
|
WHAT IS PHILOSOPHY?
1. Philosophy is the study of
general and fundamental problems, such as those connected with reality,
existence, knowledge, values, reason, mind, and language. Philosophy is
distinguished from other ways of addressing such problems by its critical,
generally systematic approach and its reliance on rational argument. The word
"philosophy" comes from the Greek φιλοσοφία (philosophia), which
literally means "love of wisdom". In more casual speech the "philosophy"
of a particular person can refer to the beliefs held by that person.
|
TRIẾT HỌC LÀ GÌ?
1. Triết học là khoa học nghiên cứu
về các vấn đề nền tảng và tổng quát, như: thực tại, hiện hữu, nhận thức, các
giá trị, lý tính, tinh thần và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những lối
diễn đạt các vấn đề ấy theo cách khác bằng sự tiếp cận phê phán, nhìn chung
là có tính hệ thống, của nó và việc nó dựa trên luận cứ thuần lý. Chữ “triết
học” có gốc từ chữ φιλοσοφία (philosophia) trong tiếng Hy Lạp, nghĩa đen là
“yêu mến sự minh triết”. Theo lối nói thông thường hơn, “triết học” của cá thể
một người có thể dùng để chỉ những niềm tin của người ấy.
|
2. Areas of inquiry
The main areas of study in
philosophy today include logic, metaphysics, epistemology, ethics, and
aesthetics.
|
2. Những lĩnh vực nghiên cứu
Những lĩnh vực nghiên cứu chính
trong triết học ngày nay gồm: siêu hình học, logic học, nhận thức luận, đạo đức
học và mỹ học.
|
2.1. Metaphysics
Metaphysics is the study of the
most general features of reality, such as existence, time, the relationship
between mind and body, objects and their properties, wholes and their parts,
events, processes, and causation. Traditional branches of metaphysics include
cosmology, the study of the world in its entirety, and ontology, the study of
being.
|
2.1. Siêu hình học
Siêu hình học là khoa học nghiên cứu
về những đặc điểm phổ biến nhất của thực tại, như: hiện hữu, thời gian, mối
quan hệ giữa tinh thần và thể xác, các vật thể và các thuộc tính của chúng,
những cái toàn bộ và các bộ phận của chúng, những sự biến, những quá trình và
quan hệ nhân quả. Các bộ phận truyền thống của môn siêu hình học gồm: vũ trụ
học, khoa học nghiên cứu về thế giới trong toàn thể của nó, và bản thể học,
khoa học nghiên cứu về tồn tại.
|
Within metaphysics itself there
are a wide range of differing philosophical theories. Idealism, for example,
is the belief that reality is mentally constructed or otherwise immaterial
while realism holds that reality, or at least some part of it, exists
independently of the mind. Subjective idealism describes objects as no more
than collections or "bundles" of sense data in the perceiver. The
18th century philosopher George Berkeley contended that existence is
fundamentally tied to perception with the phrase Esse est aut percipi aut percipere or "To be is to be
perceived or to perceive".
|
Trong bản thân môn siêu hình học
có rất nhiều lý thuyết triết học khác nhau. Thuyết duy tâm, chẳng hạn, là niềm
tin cho rằng thực tại là do tinh thần kiến tạo hay nói cách khác là phi-vật
chất, trong khi đó thuyết duy thực lại cho rằng thực tại, hay ít ra là một phần
của thực tại, tồn tại độc lập với tinh thần. Thuyết duy tâm chủ quan mô tả
các đối tượng không gì khác hơn là những tập hợp hay những “bó” dữ liệu cảm
giác ở người tri giác. Triết gia thế kỷ 18 là George Berkeley thừa nhận rằng
hiện hữu về cơ bản là gắn với tri giác bằng thành ngữ Esse est aut percipi aut percipere (Tồn tại là được tri giác hay
tri giác”
|
In addition to the aforementioned
views, however, there is also an ontological dichotomy within metaphysics
between the concepts of particulars and universals as well. Particulars are
those objects that are said to exist in space and time, as opposed to
abstract objects, such as numbers. Universals are properties held by multiple
particulars, such as redness or a gender. The type of existence, if any, of
universals and abstract objects is an issue of serious debate within
metaphysical philosophy. Realism is the philosophical position that
universals do in fact exist, while nominalism is the negation, or denial of universals,
abstract objects, or both. Conceptualism holds that universals exist, but
only within the mind's perception.
|
Tuy nhiên, ngoài những quan niệm
được ở trên, trong siêu hình học còn có sự phân đôi bản thể học giữa khái niệm
về những cái đặc thù và khái niệm về những cái phổ quát. Những cái đặc thù là
những đối tượng được cho là tồn tại trong không gian và thời gian, đối lập với
những đối tượng trừu tượng, ví dụ như những con số. Những cái phổ quát là những
thuộc tính của nhiều cái đặc thù, ví dụ như màu đỏ hay loài. Kiểu loại tồn tại,
nếu có thể nói như vậy, của những cái phổ quát và những đối tượng trừu tượng
là một vấn đề bàn luận nghiêm túc trong triết học siêu hình học. Thuyết duy
thực là lập trường triết học cho rằng những cái phổ quát trên thực tế là tồn
tại, trong khi đó thuyết duy danh là sự phủ định hay phủ nhận những cái phổ
quát, những đối tượng trừu tượng, hay phủ nhận cả hai. Thuyết duy khái niệm
cho rằng những cái phổ quát tồn tại, nhưng chỉ trong sự tri giác của tinh thần.
|
The question of whether or not
existence is a predicate has been discussed since the Early Modern period.
Essence is the set of attributes that make an object what it fundamentally is
and without which it loses its identity. Essence is contrasted with accident:
a property that the substance has contingently, without which the substance
can still retain its identity.
|
Câu hỏi hiện hữu có phải là một
thuộc tính hay không đã được bàn luận từ giai đoạn đầu của thời hiện đại. Bản
chất là tập hợp các thuộc tính làm cho một đối tượng về cơ bản là chính nó và
nếu không có nó thì đối tượng mất đi tính đồng nhất của nó. Bản chất tương phản
với tùy thể: một thuộc tính mà bản thể ngẫu nhiên có; nếu không có tùy thể, bản
thể có thể vẫn còn trong trạng thái đồng nhất với chính nó.
|
2.2. Logic
Logic is the study of the
principles of correct reasoning. Arguments use either deductive reasoning or
inductive reasoning. Deductive reasoning is when, given certain statements
(called premises), other statements (called conclusions) are unavoidably
implied. Rules of inferences from premises include the most popular method,
modus ponens, where given “A” and “If A then B”, then “B” must be concluded.
A common convention for a deductive argument is the syllogism. An argument is
termed valid if its conclusion does indeed follow from its premises, whether
the premises are true or not, while an argument is sound if its conclusion
follows from premises that are true. Propositional logic uses premises that
are propositions, which are declarations that are either true or false, while
predicate logic uses more complex premises called formulae that contain
variables. These can be assigned values or can be quantified as to when they
apply with the universal quantifier (always apply) or the existential
quanlifier (applies at least once). Inductive reasoning makes conclusions or
generalizations based on probabilistic reasoning. For example, if “90% of
humans are right-handed” and “Joe is human” then “Joe is probably
right-handed”. Fields in logic include mathematical logic (formal symbolic
logic) and philosophical logic.
|
2.2. Logic học
Logic học là khoa học nghiên cứu
các nguyên tắc lập luận đúng. Những luận cứ sử dụng hoặc là lập luận diễn dịch
hoặc là lập luận quy nạp. Lập luận diễn dịch là khi, giả sử có những phát biểu
nào đó (được gọi là những tiền đề), những phát biểu khác (được gọi là những kết
luận) được bao hàm một cách không thể tránh khỏi. Các quy tắc suy diễn từ những
tiền đề gồm phương pháp thông dụng nhất, modus ponens [dạng thức khẳng định],
ở đó giả sử “A” và “Nếu A thì B”, thì “B” phải được kết luận. Một quy ước
chung cho luận cứ diễn dịch là phép tam đoạn luận. Một luận cứ được coi là có
giá trị hiệu lực nếu kết luận của nó quả thực rút ra từ những tiền đề của nó,
cho dù những tiền đề ấy đúng hay không đúng, trong khi đó một luận cứ [được
coi là] vững chắc nếu kết luận của nó rút ra từ những tiền đề đúng đắn. Logic
mệnh đề sử dụng những tiền đề là các mệnh đề, những mệnh đề ấy là những lời
tuyên bố hoặc đúng hoặc sai, trong khi đó logic vị từ sử dụng những tiền đề
phức tạp hơn được gọi là biểu thức chứa các biến. Các biến này có thể được
gán các giá trị hay có thể được định lượng ở chỗ khi chúng áp dụng với lượng
từ phổ quát (luôn luôn áp dụng) hay lượng
từ tồn tại (áp dụng ít nhất là một lần). Lập luận quy nạp đưa ra những kết luận
hay những sự khái quát hóa dựa trên lập luận xác suất. Ví dụ: nếu “90% con
người đều thuận tay phải” và “Joe là con người” thì “Joe có thể thuận tay phải”.
Các lĩnh vực trong logic học gồm: logic toán học (logic ký hiệu hình thức) và
logic triết học.
|
EPISTEMOLOGY
Epistemology is concerned with the
nature and scope of knowledge, such as the relationships between truth,
belief, and theories of justification.
|
NHẬN THỨC LUẬN
Nhận thức luận bàn về bản tính và
phạm vi của nhận thức, như các quan hệ giữa chân lý, lòng tin và các lý thuyết
về biện minh.
|
Skepticism is
the position which questions the possibility of completely justifying any
truth. The regress argument, a fundamental problem in epistemology, occurs
when, in order to completely prove any statement P, its justification itself
needs to be supported by another justification. This chain can do three
possible options, all of which are unsatisfactory according to the
Münchhausen Trilemma. One option is infinitism, where this chain of
justification can go on forever. Another option is foundationalism, where the
chain of justifications eventually relies on basic beliefs or axioms that are
left unproven. The last option, such as in coherentism, is making the chain
circular so that a statement is included in its own chain of justification.
|
Thuyết hoài nghi là lập trường truy vấn khả thể của việc biện minh đầy đủ bất cứ chân
lý nào. Luận cứ quy thoái, một vấn đề nền tảng trong nhận thức luận, diễn ra
khi, để chứng minh đầy đủ bất cứ phán đoán P nào, bản thân sự biện minh của
nó cần được nâng đỡ bằng một biện minh khác. Chuỗi này có thể thực hiện ba sự
lựa chọn có thể có, mà theo thế tam nan Münchhausen thì cả ba lựa chọn này đều
không thỏa mãn. Lựa chọn thứ nhất là vô tận luận: chuỗi biện minh này có thể
đi đến vô cùng tận. Lựa chọn thứ hai là duy căn luận: chuỗi biện minh rốt cuộc
phải lấy những lòng tin cơ bản hay những tiên đề không thể chứng minh làm căn
cứ. Lựa chọn cuối cùng, như ở cố kết luận, là tạo ra chuỗi vòng luẩn quẩn sao
cho một phát biểu được bao gồm trong chuỗi biện minh của chính nó.
|
Rationalism
is the emphasis on reasoning as a source of knowledge. Empiricism is the
emphasis on observational evidence via sensory experience over other evidence
as the source of knowledge. Rationalism claims that every possible object of
knowledge can be deduced from coherent premises without observation.
Empiricism claims that at least some knowledge is only a matter of
observation. For this, Empiricism often cites the concept of tabula rasa,
where individuals are not born with mental content and that knowledge builds
from experience or perception. Epistemological solipsism is the idea that the
existence of the world outside the mind is an unresolvable question.
|
Thuyết duy lý là sự nhấn mạnh đến lập luận như là một nguồn suối của nhận thức.
Thuyết duy nghiệm là sự nhấn mạnh đến bằng chứng quan sát qua kinh nghiệm của
giác quan hơn so với bằng chứng khác như là nguồn suối của nhận thức. Thuyết
duy lý yêu sách rằng mọi đối tượng khả hữu của nhận thức có thể được rút ra từ
những tiền đề mạch lạc, không cần đến sự quan sát. Thuyết duy nghiệm yêu sách
rằng ít ra một nhận thức nào đó chỉ là một vấn đề quan sát. Đối với yêu sách
này, thuyết duy nghiệm thường dẫn ra khái niệm tabula rasa: con người ta được
sinh ra thì trong đầu chưa có nội dung nào cả, và nhận thức hình thành từ
kinh nghiệm hay tri giác. Thuyết duy ngã nhận thức luận là ý niệm cho rằng sự
tồn tại của thế giới ở bên ngoài tinh thần là một vấn đề không thể giải quyết.
|
Parmenides (fl. 500 BC) argued
that it is impossible to doubt that thinking actually occurs. But thinking
must have an object, therefore something beyond thinking really exists.
Parmenides deduced that what really exists must have certain properties—for
example, that it cannot come into existence or cease to exist, that it is a
coherent whole, that it remains the same eternally (in fact, exists
altogether outside time). This is known as the third man argument. Plato
(427–347 BC) combined rationalism with a form of realism. The philosopher's
work is to consider being, and the essence (ousia) of things. But the
characteristic of essences is that they are universal. The nature of a man, a
triangle, a tree, applies to all men, all triangles, all trees. Plato argued
that these essences are mind-independent "forms", that humans (but
particularly philosophers) can come to know by reason, and by ignoring the
distractions of sense-perception.
|
Parmenides (khoảng 500 TCN) cho rằng
điều không thể nghi ngờ là tư duy đang thực sự diễn ra. Nhưng tư duy phải có
một đối tượng, do đó cái gì đó vượt khỏi tư duy đang tồn tại thực. Parmenides
suy ra rằng cái tồn tại thực phải có những thuộc tính nhất định – chẳng hạn:
nó không thể xuất hiện hay mất đi, nó là một cái toàn bộ cố kết, nó vĩnh viễn
vẫn là như vậy (quả vậy, nó hoàn toàn nằm ở bên ngoài thời gian). Điều này được
ta biết đến với tên gọi luận cứ đệ tam nhân. Platon (427-347 TCN) kết hợp
thuyết duy lý với một hình thức của thuyết duy thực. Công việc của triết gia
là phải xem xét cái tồn tại và bản chất (ousia) của các sự vật. Nhưng các bản
chất có đặc trưng: chúng là phổ quát. Bản tính của một người, một hình tam
giác, một cái cây, áp dụng cho mọi người, mọi hình tam giác, mọi cái cây.
Platon cho rằng các bản chất này là “các mô thức” độc lập với tinh thần, rằng
con người (nhất là các triết gia) có thể đi đến chỗ biết [các mô thức ấy] bằng
lý tính và bằng cách bỏ qua những phiền lụy của tri giác cảm tính.
|
Modern rationalism begins with
Descartes. Reflection on the nature of perceptual experience, as well as
scientific discoveries in physiology and optics, led Descartes (and also
Locke) to the view that we are directly aware of ideas, rather than objects.
This view gave rise to three questions:
|
Thuyết duy lý hiện đại bắt đầu với
Descartes. Khi suy ngẫm về bản tính của kinh nghiệm của tri giác, cũng như những
phát hiện của khoa học trong sinh lý học và quang học, Descartes (cũng như
Locke) đi đến chỗ quan niệm rằng ta ý thức trực tiếp về các ý niệm, chứ không
phải các đồ vật. Quan niệm này làm nảy sinh ba vấn đề:
|
(1). Is an idea a true copy of the
real thing that it represents? Sensation is not a direct interaction between
bodily objects and our sense, but is a physiological process involving
representation (for example, an image on the retina). Locke thought that a
"secondary quality" such as a sensation of green could in no way
resemble the arrangement of particles in matter that go to produce this
sensation, although he thought that "primary qualities" such as
shape, size, number, were really in objects.
|
(1). Một ý niệm có phải là bản sao
đúng thật của cái thực tồn mà nó trình bày? Cảm giác không phải là sự tương
tác trực tiếp giữa các đối tượng hữu hình và giác quan của ta, mà là một quá
trình sinh lý học có bao hàm biểu tượng (chẳng hạn, một hình ảnh trên võng mạc).
Locke cho rằng một “tính chất hạng hai” như cảm giác về màu xanh lá cây có thể
không hề giống với sự sắp xếp của các phân tử trong vật chất vốn là cái đi đến
chỗ tạo ra cảm giác này, cho dù ông nghĩ rằng “các tính chất hạng một” như
hình dạng, kích thước, con số đều thực sự ở nơi các đồ vật.
|
(2). How can physical objects such
as chairs and tables, or even physiological processes in the brain, give rise
to mental items such as ideas? This is part of what became known as the
mind-body problem.
|
(2). Làm thế nào các vật thể vật
lý như bàn, ghế hay thậm chí các quá trình sinh lý học trong bộ não, tạo ra
các đơn vị tinh thần như các ý niệm được? Đây là một phần của cái mà ta gọi
là vấn đề tinh thần-thể xác.
|
(3). If all the contents of
awareness are ideas, how can we know that anything exists apart from ideas?
|
(3). Nếu mọi nội dung của ý thức đều
là các ý niệm, làm thế nào ta có thể biết được cái gì đó tồn tại tách biệt với
các ý niệm?
|
Descartes tried to address the
last problem by reason. He began, echoing Parmenides, with a principle that
he thought could not coherently be denied: I think, therefore I am (Cogito
erfo sum). From this principle, Descartes went on to construct a complete
system of knowledge (which involves proving the existence of God, using a
version of the ontological argument). His view that reason alone could yield
substantial truths about reality strongly influenced those philosophers
usually considered modern rationalists (such as Baruch Spinoza, Gottfried
Leibniz, and Christian Wolff), while provoking criticism from other
philosophers who have retrospectively come to be grouped together as
empiricists.
|
Descartes cố gắng bàn luận vấn đề
thứ ba bằng lý tính. Ông bắt đầu, mang hơi hướng Parmenides, với nguyên lý mà
ông nghĩ là không thể bị bác bỏ một cách mạch lạc: Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại
(Cogito ergo sum). Từ nguyên lý này, Descartes đã đi đến chỗ xây dựng một hệ
thống hoàn chỉnh về nhận thức (gồm cả việc chứng minh sự hiện hữu của Thượng
đế, bằng cách sử dụng một phiên bản của luận cứ bản thể học). Quan niệm chỉ
có lý tính mới có thể mang lại những chân lý trọng yếu về thực tại ở nơi ông
đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các triết gia thường được coi là các nhà duy lý hiện
đại (như Baruch Spinoza, Gottfried Leibniz, và Christian Wolff), trong khi đó
lại gây ra sự phê phán từ các triết gia khác, những người mà ngày nay ta tập
hợp lại gọi là các nhà duy nghiệm
|
II. ESSENTIAL TERMS
|
II. THUẬT NGỮ CƠ BẢN
|
Reality is
the state of things as they actually exist, rather than as they may appear or
might be imagined. In a wider definition, reality includes everything that is
and has been, whether or not it is observable or comprehensible. A still more
broad definition includes everything that has existed, exists, or will exist.
(Wiki)
|
Thực tại
là trạng thái của các sự vật xét như là chúng đang tồn tại thực sự, chứ không
phải như là chúng có thể xuất hiện ra hay có thể được hình dung ra. Theo
nghĩa rộng, thực tại bao gồm tất cả những gì đã và đang tồn tại, cho dù chúng
có thể được quan sát hay lĩnh hội hay không. Theo nghĩa còn rộng hơn nữa, thực
tại bao gồm tất cả những gì đã, đang và sẽ tồn tại.
|
Argument
is an attempt to persuade someone of something, by giving reasons or evidence
for accepting a particular conclusion. (Wiki)
|
Luận cứ là
sự cố gắng thuyết phục ai đó về điều gì đó, bằng cách nêu ra những lý do hay
bằng chứng để người ta chấp nhận một kết luận riêng biệt.
|
Syllogism
is a kind of logical argument in which one propositon (the conclusion) is
inferred from two or more others (the premises) of a specific form. (Wiki)
|
Tam đoạn luận là một loại luận cứ
logic trong đó một mệnh đề (kết luận) được rút ra từ hai hay nhiều mệnh đề
khác (các tiền đề) của một dạng suy luận cụ thể.
|
Universal quantification is a type of quantifier, a logical constant which is
interpreted as "given any" or "for all." It expresses
that a propositional function can be sastified by every member of a domain of
discourse. In other terms, it is the predication of a property or relation to
every member of the domain. It asserts that a predicate within the scope of a
universal quantifier is true of every value of a predicate variable. It is
usually denoted by the turned A (∀) logical operator symbol, which, when used together with
a predicate variable, is called a universal quantifier ("∀x", "∀(x)", or sometimes by
"(x)" alone). Universal quantification is distinct from existential
quantification ("there exists"), which asserts that the property or
relation holds only for at least one member of the domain. (Wiki)
|
Lượng từ hóa phổ quát là một kiểu lượng từ, một hằng số logic được diễn giải
như là “bất cứ cái nào” hay “với mọi”. Nó phát biểu rằng một hàm mệnh đề có
thể được thỏa mãn bởi mọi phần tử trong miền đề cập (domain of discourse).
Nói cách khác, nó là vị từ hóa của một thuộc tính hay quan hệ của bất cứ phần
tử nào trong miền. Nó khẳng định rằng một vị từ trong phạm vi của một lượng từ
phổ quát đúng với mọi giá trị của một biến vị từ. Nó thường được biểu thị bằng
ký hiệu tác tử logic là chữ A viết ngược (∀), ký hiệu này, khi được sử dụng
cùng với một biến vị từ, được gọi là lượng từ phổ quát (“∀x”, "∀(x)", hay đôi khi chỉ mỗi một
chữ “(x)”). Lượng từ hóa phổ quát khác với lượng từ hóa tồn tại (“tồn tại”) vốn
là cái khẳng định rằng thuộc tính hay quan hệ chỉ đúng ít nhất cho một phần tử
trong miền
|
The Münchhausen trilemma (after Baron Münchhausen, who allegedly pulled himself
and the horse on which he was sitting out of a swamp by his own hair), also
called Agrippa's trilemma (after Agrippa the Skeptic), is a philosophical
term coined to stress the purported impossibility to prove any truth even in
the fields of logic and mathematics.
|
Thế tam nan Münchhausen (gọi theo tên của Bá tước Münchhausen, theo truyền thuyết,
là người cầm tóc kéo mình và ngựa ra khỏi bãi lầy), còn được gọi là thế tam
nan Agrippa (gọi theo tên của triết gia phái hoài nghi là Agrippa), là một
thuật ngữ triết học được đề ra để nhấn mạnh cái được gọi là tính bất khả
trong việc chứng minh bất cứ chân lý nào ngay cả trong lĩnh vực lôgíc học và
toán học.
|
Belief is
the psychological state in which an individual holds a proposition or premise
to be true.
|
Lòng tin
là trạng thái tâm lý trong đó một cá nhân cho một mệnh đề hay tiền đề nào đó
là đúng.
|
The third man argument (commonly referred to as TMA), first offered by Plato in
his dialogue Parmenides, is a philosophical criticism of Plato's own theory
of Forms. This argument was furthered by Aristotle who used the example of a
man (hence the name of the argument) to explain this objection to Plato's
theory; he posits that if a man is a man because he partakes in the form of
man, then a third form would be required to explain how man and the form of
man are both man, and so on, so on, ad infinitum.
|
Luận cứ đệ tam nhân (thường gọi tắt là TMA), được đưa ra đầu tiên bởi Platon
trong đối thoại Parmenides, là một sự phê phán triết học về lý thuyết các Mô
thức của chính Platon. Luận chứng này được Aristoteles, người đã lấy một con
người làm ví dụ (do đó luận cứ mới có cái tên này) để giải thích cho lối bác
bỏ lý thuyết của Platon nói trên, cải
tiến thêm; ông nêu thành định đề rằng nếu một người là một người vì anh ta
thông dự vào mô thức con người, thì ắt ta sẽ phải cần đến mô thức thứ ba để
giải thích làm thế nào con người và mô thức con người đều là người được, và
vân vân, cứ thế đến vô tận.
|
compiled and translated from Wikipedia by ĐINH HỒNG PHÚC
|
ĐINH HỒNG PHÚC soạn dịch
|
http://en.wikipedia.org/wiki/Philosophy
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn