MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Monday, June 18, 2012

Good Morning, Vietnam! Chào Việt Nam!




Good Morning, Vietnam!

Chào Việt Nam!

By Joel Kotkin and Jane Le Skaife Thursday, November 10, 2011

By Joel Kotkin and Jane Le Skaife Thursday, 10/11/2011

The American
The American


Vietnam may prove itself a valuable ally and trade partner to the United States.

Việt Nam có thể tự trở thành một đồng minh và đối tác thương mại có giá trị đối với Hoa Kỳ.

While many experts are pronouncing the demise of the American era and the rise of China, other East Asian nations complicate the picture. As America continues to participate and extend its influence in the dynamic Asian market, there may be no more suitable ally than its old antagonist, Vietnam.

Trong khi nhiều chuyên gia đang tuyên bố sự chấm dứt của thời đại Mỹ và sự đi lên của Trung Quốc, những quốc gia Đông Á lại làm khung cảnh thêm phức tạp. Trong khi Mỹ tiếp tục tham gia và tăng cường ảnh hưởng của mình trên thị trường châu Á đầy năng động, có thể không ai trở thành một đồng minh phù hợp hơn là kẻ cựu thù của mình, Việt Nam.

In some senses, Vietnam has emerged as the un-China, a large, fast-growing country that provides an alternative for American companies seeking to tap the dynamism of East Asia but without enhancing the power of a potentially devastating global competitor. With 86 million people, Vietnam may not offer as large a market, but it has strong historical, cultural, and strategic reasons to lean towards America.

Trong vài khía cạnh, Việt Nam đã nổi lên như một nước không theo Trung Quốc, một quốc gia lớn, tăng trưởng nhanh, tạo ra một lựa chọn khác cho các công ty Mỹ đang tìm cách khai thác sức năng động của Đông Á mà không làm tăng thêm sức mạnh của một đối thủ toàn cầu có tiềm năng khốc liệt. Với 86 triệu dân, Việt Nam không tạo ra một thị trường lớn, nhưng nó có những lý do mạnh mẽ về văn hoá, lịch sử và chiến lược để nghiêng về phía Mỹ.

Why an un-China?

Tại sao là một nước không theo Trung Quốc?

Vietnam has deep historical reasons for wanting to link closely with the United States and its other allies, such as Singapore, Thailand, South Korea, and Japan. Some of this has to do with the country’s unique history. While France, Japan, and the United States were at times deeply and bloodily entangled with the country, by far the biggest threat to Vietnam has always been its looming neighbor to the north.

Việt nam có một nguyên nhân lịch sử sâu xa để muốn liên hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ và những đồng minh khác của nó như Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Một số khía cạnh này liên quan đến lịch sử đặc biệt của nước này. Trong khi Pháp, Nhật và Hoa Kỳ trước đây từng có liên hệ sâu đậm và đẫm máu với nước này, nhưng cho đến nay mối đe doạ lớn nhất đối với Việt Nam vẫn luôn là kẻ láng giềng khổng lồ từ phương bắc.

Vietnam seems to be making a choice to diversify itself away from China and avoid the semi-colonial status that many of China’s neighbors seem to have tacitly accepted.

Việt Nam dường như thực hiện một sự lựa chọn đa dạng hóa bản thân ra khỏi Trung Quốc và tránh tình trạng bán thuộc địa mà nhiều nước láng giềng của Trung Quốc dường như đã mặc nhiên chấp nhận.

France, Japan, and the United States intervened in Vietnam for comparatively short periods of time. In contrast, China has had an unrelenting interest in Vietnam and its 2,140-mile coastline ever since its nearly thousand-year rule over the country from 111 BC to 938 AD. The two countries have been embroiled in numerous territorial disputes over the years, with the most recent one involving the South China Sea, which has important shipping routes and is believed to contain rich oil and gas deposits.

Pháp, Nhật, và Mỹ từng can thiệp vào Việt Nam trong những khoảng thời gian tương đối ngắn. Ngược lại, Trung Quốc có một quyền lợi vô tận tại Việt Nam với bờ biển dài 2.140 dặm của nó kể từ quá trình đô hộ dài cả nghìn năm trên đất nước này, từ 111 trước Công Nguyên cho đến 938 sau Công Nguyên. Hai nước này đã dính líu vào vô số những xung đột lãnh thổ trong nhiều năm, gần đây nhất là tranh chấp liên quan đến biển Nam Hải, vốn có những tuyến hàng hải quan trọng và được cho là chứa những quặng dầu khí dồi dào.


Many Vietnamese see some of their former colonialist or “imperialist” powers as necessary allies in protecting themselves from escalating territorial threats from China. Opening Cam Ranh Bay naval base to foreign warships, notably to those from the United States, is an illustrative example of Vietnam’s defensive strategy during the unfolding geopolitical competition.


Nhiều người Việt xem một số trong những cường quốc cựu thực dân hoặc “đế quốc” của họ là những đồng minh cần thiết để bảo vệ họ khỏi những đe doạ lãnh thổ đang leo thang từ Trung Quốc. Việc mở cửa căn cứ hải quân Vịnh Cam Ranh cho các tàu chiến nước ngoài, đặc biệt là từ Hoa Kỳ, là một ví dụ minh hoạ cho chiến lược phòng thủ của Việt Nam trong quá trình tranh đua địa chính trị đang diễn ra.


Amid the maritime tension between China and Vietnam regarding the oil-rich Spratly and Paracel islands in the South China Sea, the United States in 2010 successfully negotiated with Vietnam to reopen Cam Ranh Bay to foreign warships besides Russia. The bay will take approximately three years to rebuild and the primary foreign visitor is expected to be the United States.  “The regular presence of U.S. warships at Cam Ranh Bay might make China think twice about using coercive military diplomacy against Vietnam,” noted Ian Storey, a fellow at the Institute of Southeast Asian Studies in Singapore.


Trong mối căng thẳng vùng biển giữa Trung Quốc và Việt Nam liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dồi dào dầu mỏ ở vùng biển Nam Hải, năm 2010 Hoa Kỳ đã thành công trong việc thương lượng với Việt Nam để mở cửa lại Vịnh Cam Ranh cho những tàu chiến nước ngoài bên cạnh Nga. Vịnh này cần khoảng ba năm để tái xây dựng và những tàu khách nước ngoài chủ yếu sẽ là Hoà Kỳ. “Việc tàu chiến Hoa Kỳ thường xuyên hiện diện tại Vịnh Cam Ranh sẽ làm cho Trung Quốc phải suy nghĩ kỹ về việc sử dụng chính sách ngoại giao ép buộc quân sự chống lại Việt Nam,” Ian Storey, một thành viên tại Học viện Nghiên cứu Đông nam Á ở Singapore nói.


The rise of the diaspora
       
Perhaps the greatest thing tying America to Vietnam is people. When the Communist government overran the former South Vietnam in 1975, several million Vietnamese fled the country. The Vietnamese eventually settled in 101 different countries and territories throughout the world, with the majority of them heading to the United States, France, Canada, and Australia. There are currently about 4 million Vietnamese living outside of Vietnam. Some settled in the former colonial ruler, France, and others in Australia, Canada, and Singapore. But the bulk—roughly 40 percent—moved to the United States, which is now by far the largest settlement of overseas Vietnamese. About 2 million Vietnamese are estimated to live in the United States (see map of “Overseas Vietnamese”).

Sự vươn lên của những người lưu vong

Có lẽ yếu tố lớn nhất gắn liền Hoa Kỳ và Việt Nam là con người. Khi chính quyền cộng sản đánh chiếm Nam Việt Nam cũ vào năm 1975, vài triệu người Việt đã chạy ra khỏi nước. Người Việt dần dần định cư tại 101 quốc gia và lãnh thổ trên khắp thế giới, đa số họ đã đến Hoa Kỳ, PHáp, Canada và Úc. Hiện đang có khoảng 4 triệu người Việt sống ở nước ngoài. Một số định cư tại quốc gia thực dân cũ là Pháp và những người khác đã đến Úc, Canada và Singapore. Nhưng phần đông - khoảng gần 40% - đã đến Hoa Kỳ, hiện đến nay có số lượng người Việt ở nước ngoài đông nhất. Dự đoán có khoảng 2 triệu người Việt đang sống tại Hoa Kỳ (xem bản đồ ở dưới).

Overseas Vietnamese Population

Hostile to the Communist regime, the overseas Vietnamese population turned away from their homeland , focusing instead on building new lives in their host countries. They flourished particularly in the United States, clustering in places such as Orange County and San Jose, California, as well as Houston and New Orleans. In 2009, they were enjoying levels of prosperity comparable to the national average, with a median family income of $59,129 and 64.6 percent owning homes. Vietnamese are also three times more likely to be in such fields as information technology, science, and engineering than other immigrants, and have one of the highest rates of naturalization—72.8 percent.

Người Việt ở nước ngoài

Thù địch với chính quyền Cộng sản, cộng đồng người Việt ở nước ngoài từng bị đuổi khỏi quê nhà, thay vì thế đã chú tâm vào việc xây dựng cuộc sống mới tại những quốc gia cưu mang mình. Họ đã thăng tiến đặc biệt tại Hoa Kỳ, đổ dồn vào những địa phương như Quận Cam và San Jose, California cũng như vùng Houston và New Orleans. Đến năm 2009, họ đã có được cuộc sống thịnh vượng tương đương với mức sống trung bình trên toàn nước Mỹ, với mức thu nhập trung tuyến là 59.129 Mỹ kim và 64,6% sở hữu nhà riêng. Người Việt làm việc ở cách lĩnh vực công nghệ thông tin, khoa học và kỹ sư đông gấp ba lần những sắc dân nhập cư khác và có tỉ lệ gia nhập quốc tịch Mỹ cao nhất - 72,8%.


Everyone not on the government payroll seems to be hustling something, or looking to.

Tất cả mọi người không thuộc biên chế chính phủ dường như đang hối hả hoặc tìm kiếm một cái gì đó.
Contact between this dynamic diaspora and the homeland was constrained by the two governments for decades. After the Vietnam War, the United States had placed a strict embargo against Vietnam and prohibited any political or economic relations between the two countries. The Vietnamese refugees who sought to reconnect with their relatives in Vietnam had to rely on neutral third-party countries to act as an intermediary in sending various goods and money back to needy family members.

Mối tiếp xúc giữa tập thể lưu vong đầy năng động này và quê hương từng bị ngăn chặn bởi hai chính phủ trong nhiều thập niên. Sau cuộc chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã đưa ra một chế độ cấm vận nghiêm ngặt chống lại Việt Nam và ngăn cấm mọi quan hệ chính trị hoặc kinh tế giữa hai nước. Những người tị nạn Việt Nam tìm cách liên lạc lại với thân nhân tại Việt Nam đã phải dựa vào một nước thứ ba đóng vai trò trung gian để gửi hàng và tiền về cho thân nhân đang thiếu thốn bên nhà.

For their part, the Communist regime conducted stringent inspections of packages and letters sent to Vietnam. The Vietnamese government also imposed heavy taxation on financial remittances, which discouraged money transfers through official channels.

Về phía mình, chính quyền Cộng sản đã thi hành một chế độ kiểm soát gắt gao những kiện hàng và thư từ gửi về Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cũng đã đánh thuế rất cao vào việc gửi tiền về nước, làm cản trở quá trình chuyển tiền bằng con đường chính thức.

Desperate to help close relatives left behind in their impoverished homeland, many Vietnamese Americans were forced to invent creative alternatives to formal remittances. According to Yen Do, the creator of Nguoi Viet, the most prominent Vietnamese newspaper in the United States, overseas Vietnamese would hide American dollars inside pill bottles sent through either French or Canadian shipping companies.

Tuyệt vọng trong việc giúp đỡ thân nhân còn ở lại quê hương đói khổ, nhiều người Mỹ gốc Việt bắt buộc phải sáng tạo ra những phương pháp khác hơn là cách gửi tiền chính thức. The Đỗ Yến, người sáng lập Người Việt, tờ báo tiếng Việt nổi tiếng nhất ở Hoa Kỳ, những người Việt ở nước ngoài đã giấu tiền đô bên trong những lọ dược phẩm gửi từ những công ty chuyển vận của Pháp hoặc Canada.

With tens of millions of Vietnamese starving in Vietnam despite the clandestine remittances, the Vietnamese government eventually realized that they had to either change their economic strategy or suffer the debilitating consequences of a continually declining economy.

Với cả chục triệu người Việt vẫn bị đói ở Việt Nam bất chấp nguồn ngoại hối bí mật này, chính phủ Việt Nam cuối cùng đã nhận ra rằng họ phải thay đổi chiến lược kinh tế hoặc sẽ phải chịu đựng những hậu quả nặng nề của việc suy giảm kinh tế triền miên.



There are currently about 4 million Vietnamese living outside of Vietnam. About 2 million Vietnamese are estimated to live in the United States.

Hiện tại có khoảng 4 triệu người Việt Nam sống bên ngoài Việt Nam. Theo ước tính khoảng 2 triệu người Việt Nam sống tại Hoa Kỳ.
Remittances have played a critical role in reviving the economy. Last year alone the diaspora sent an estimated $7.2 billion into the country, according to the World Bank. This comprised about 7 percent of Vietnam’s overall GDP in 2010. A 2010 study conducted by Wade Donald Pfau and Giang Thanh Long revealed that 57.7 percent of all international remittances being sent to Vietnam in 1997-1998 came from the United States.

Tiền gửi về từ nước ngoài đã đóng một vai trò quan yếu trong việc phục hồi lại nền kinh tế. Chỉ trong năm ngoái ước đoán người Việt ở nước ngoài đã gửi khoảng 7,2 tỉ Mỹ kim về nước, theo thông tin của Ngân hàng Thế giới. Số tiền này chiếm khoảng 7% tổng số GDP của Việt Nam trong năm 2010. Một nghiên cứu năm 2010 do Wade Donald Pfau và Giang Thành Long thực hiện cho thấy 57,7% tổng số tiền trên thế giới gửi về Việt Nam từ năm 1997-1998 đã đến từ Hoa Kỳ.


The growing symbiosis of Vietnam with its diaspora, particularly in the United States, will shape the rapid development of the country. Nowhere will this impact be felt more than in major cities such as Hanoi, Danang, and especially Ho Chi Minh City (the former Saigon). “We are seeing more of the expatriates here, and they are bringing management skill and capital through their family networks,” notes economist Le Dang. “They are a key part of the changes here.”

Mối quan hệ cộng sinh ngày càng lớn giữa Việt Nam và cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt là từ Hoa Kỳ sẽ hình thành quá trình phát triển nhanh chóng của đất nước. Không nơi đâu mà ảnh hưởng này đang tác động mạnh bằng những thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng và đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn cũ). “Chúng ta đang thấy ngày càng nhiều những người Việt từ nước ngoài trở về, và họ cũng mang theo kỹ năng quản lý và vốn đầu tư qua mạng lưới gia đình,” nhà kinh tế Lê Đăng Doanh nói. “Họ đang là bộ phận chủ chốt của những thay đổi tại đây.”


The rise of a new dragon

Aware of the enormous progress being made in China with its liberalization, in 1986 the Vietnamese government made the crucial decision to begin the Renovation Process—also known as Doi Moi—and reform the closed communist economy. It was the first official step that Vietnam had made towards opening its economic doors to the rest of the world.
Một con rồng mới đang lên

Nhận thức được tiến triển mãnh liệt tại Trung Quốc qua quá trình giải phóng kinh tế, năm 1986 chính quyền Việt Nam đã đưa ra một quyết định đầy quan trọng nhằm khởi đầu quá trình Đổi Mới - thay đổi hệ thống kinh tế cộng sản cô lập. Đây là bước thay đổi chính thức đầu tiên mà Việt Nam thực hiện trong việc mở những cánh cửa kinh tế cho toàn thế giới.



About 58 percent of international remittances being sent to Vietnam in 1997-1998 came from the United States.

Khoảng 58% lượng kiều hối quốc tế được gửi đến Việt Nam năm 1997-1998 đến từ Hoa Kỳ.
With the collapse of the Berlin Wall in 1989 and the subsequent fall of other communist powers in the world, the United States eventually responded to the improved political relations with Vietnam by lifting the 20-year-old embargo against its former foe in 1995. This put Vietnam on the fast track toward economic liberalization and ultimately helped it transition from a developing country to a middle-income country with a GDP per capita of more than $1,000. The International Monetary Fund estimated Vietnam’s GDP per capita as $1,155 for the 2010 fiscal year.


Với việc Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 và những sụp đổ tiếp theo của những cường quốc cộng sản khác trên thế giới, Hoa Kỳ cuối cùng đã đáp trả lại những quan hệ chính trị đã tốt đẹp hơn với Việt Nam bằng cách gỡ bỏ lệnh cấm vận dài 20 năm chống lại kẻ cựu thù của mình vào năm 1995. Việc này đã giúp Việt Nam nhanh chóng bước vào thời kỳ mở cửa kinh tế và cuối cùng đã giúp biến quốc gia này từ một nước đang phát triển trở thành một nước có thu nhập trung bình thấp với tỉ lệ GDP bình quân mỗi đầu người trên 1.000 Mỹ kim. Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự đoán GDP bình quân mỗi đầu người của Việt Nam trong năm tài khoá 2010 là 1.155 Mỹ kim.

Yet, in sharp contrast to China—where the largest sources of capital came from Chinese diaspora havens such Hong Kong, Taiwan, and Singapore—most of the money that revived the economy came from outside Southeast Asia. In particular, the biggest investor turned out to be the old arch-enemy, the United States, followed by another former “imperialist” power, Japan. China, now the world’s fourth-largest foreign investor, lagged behind much smaller regional economies, including South Korea, Thailand, and Malaysia, as well as the Netherlands (see map of “FDI by Registered Capital”).

Nhưng rất tương phản với Trung Quốc - nơi nguồn vốn lớn nhất đến từ những cái nôi của người Hoa lưu vong như Hồng Kông, Đài Loan và Singapore - đa số nguồn tiền giúp phục hồi nền kinh tế Việt Nam đến từ bên ngoài Đông nam Á. Đặc biệt, nhà đầu tư lớn nhất hoá ra lại là kẻ cựu thù Hoa Kỳ, tiếp theo là cựu “đế quốc” Nhật Bản. Trung Quốc, hiện là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ tư trên thế giới, lại đứng sau những nền kinh tế khu vực nhỏ như Hàn Quốc, Thái Lan và Malaysia cũng như Hà Lan (xem bản đồ ở dưới.)

FDI in Vietnam by Country

This is all the more remarkable given China’s huge expansion of investment with other developing countries. Over the past decade, China has expanded its capital flows both into other parts of Southeast Asia, including Laos and other Mekong Delta nations, as well as resource rich regions of the Middle East, Latin America, and Australia. Yet Vietnam, with its rich agriculture, fisheries, and developing energy industry, has stayed largely outside the emerging Sinosphere.

FDI ở Việt Nam tính theo quốc gia

Đây là hiện tượng vô cùng nổi bật trước việc Trung Quốc đang mở rộng việc đầu tư vào các nước đang phát triển. Trong thập niên vừa qua, Trung Quốc đã tăng cường luồng vốn của mình vào những vùng trong khu vực Đông nam Á bao gồm Lào và những quốc gia thuộc Đồng bằng sông Mekong cũng như những khu vực giàu có tài nguyên tại Trung Đông, Mỹ La Tinh và Úc. Tuy nhiên Việt Nam, với ngành nông nghiệp, ngư nghiệp dồi dào và một ngành công nghiệp năng lượng đang phát triển, lại hầu như vẫn đứng ngoài vòng ảnh hưởng Trung Quốc.



Bản đồ các quốc gia có đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam (theo mức triệu Mỹ kim)

Trade winds

The tilt in investment is also borne out by trade patterns. Vietnam has seen, like most countries, a flood of Chinese goods, but it has also developed a strong appetite for exports from other countries, notably Japan, South Korea, and the United States (see map of “Exports to Vietnam”).

Những luồng gió mậu dịch

Khuynh hướng đầu tư cũng bắt nguồn từ đường lối thương mại. Việt Nam, cũng như đa số các nước khác, đã chứng kiến làn sóng hàng hoá Trung Quốc, nhưng nó cũng có nhu cầu lớn về nhập khẩu từ các quốc gia khác, nổi bật là Nhật, Hàn Quốc và Hoa Kỳ. (Xem bản đồ ở dưới).



Bản đồ các quốc gia nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam (theo mức triệu Mỹ kim)

Exports to Vietnam by Country

But perhaps the best measure of Vietnam’s emergence as an un-China can be seen in its own burgeoning exports, which increased from about $5 billion to over $70 billion over the past three decades. The United States has emerged as by far Vietnam’s largest market, with more than $10 billion in annual trade. Japan ranked a strong second, with China lagging behind.

Xuất khẩu vào Việt Nam tính theo quốc gia

Nhưng có lẽ thước đo tốt nhất về việc Việt Nam xuất hiện như một quốc gia không theo Trung Quốc có thể thấy được qua ngành xuất khẩu khổng lồ của nó, vốn đã tăng từ 5 tỉ lên đến 70 tỉ Mỹ kim trong vòng ba thập niên qua. Cho đến nay Hoa Kỳ đã nổi lên như một thị trường lớn nhất của Việt Nam, với hơn 10 triệu Mỹ kim giao dịch hàng năm. Nhật Bản đứng hàng thứ hai và Trung Quốc đứng sau.


This is all the more remarkable given that Vietnam possesses many things China needs and the two countries share both a border and obedience, at least nominally, to the same ideology. Vietnam seems to be making a choice to diversify itself away from China and avoid the semi-colonial status that many of China’s neighbors—notably Cambodia, Laos, and Myanmar—seem to have tacitly accepted (see map of “Vietnamese Exports”).

Điều này rất nổi bật vì Việt Nam có được nhiều thứ mà Trung Quốc cần và hai quốc gia có chung một đường biên giới và ít nhất là bề ngoài cùng đi theo một chủ thuyết. Việt Nam dường như đã lựa chọn con đường tách ra khỏi Trung Quốc và tránh khỏi tình trạng bán thuộc địa mà nhiều nước láng giềng Trung Quốc - đáng kể là Cambodia, Lào và Miến Điện - dường như đang ngầm chấp nhận. (Xem bản đồ ở dưới).


Bản đồ các quốc gia nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam (theo mức triệu Mỹ kim)

Imports from Vietnam by Country

This rising engagement with the global economy has brought great benefits. According to the CIA World Factbook, the country’s poverty rate has dropped from 75 percent in the 1980s to 10.6 percent in 2010. In terms of economic output, a brief on Vietnam by the World Bank reported that between 1995 and 2005 real GDP increased by 7.3 percent annually and per capita income by 6.2 percent annually.

Nhập khẩu từ Việt Nam tính theo quốc gia

Việc tiếp cận ngày càng nhiều với kinh tế toàn cầu đã đem lại nhiều lợi ích. Theo Sách Dữ kiện Thế giới của CIA, tỉ lệ nghèo đói của quốc gia này đã giảm từ 75% trong những năm 1980 xuống còn 10,6% trong năm 2010. Về khía cạnh hiệu suất kinh tế, một tóm tắt của Ngân hàng Thế giới cho biết rằng từ 1995 đến 2005 GDP thật đã tăng 7,3% hằng năm và thu nhập bình quân đầu người tăng 6,2% mỗi năm.


Vietnam’s exports increased from about $5 billion to over $70 billion over the past three decades.

Xuất khẩu của Việt Nam tăng từ 5 tỷ đến hơn $ 70 tỷ trong vòng ba thập kỷ qua.
Why Vietnam matters to America

Hanoi today—and even more so Ho Chi Minh City, the former Saigon—recalls China in the 1980s. But there are crucial differences. State-owned companies in Vietnam lack the depth and critical mass of their Chinese counterparts and are thus less likely to pose an immediate competitive threat to the United States and other foreign countries.

Tại sao Việt Nam quan trọng đối với Hoa Kỳ

Hà Nội hôm nay - và thậm chí Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn cũ) còn hơn nữa - làm nhớ đến Trung Quốc trong những năm 1980. Nhưng cũng có những khác biệt rất quan trọng. Những công ty nhà nước ở Việt Nam thiếu chiều sâu và tầm vóc tối quan so với những công ty Trung Quốc và vì thế sẽ khó mà tạo ra một đe doạ về cạnh tranh đối với Hoa Kỳ và những quốc gia khác.

Still, this is clearly a country on the way up. Many rural residents—still roughly 70 percent of the population—continue to pour into Hanoi and other cities, but without the same desperation that characterizes, for example, people moving from Bihar to New Delhi or Mumbai. There is nothing of the kind of criminal elements that fester in the favelas of Brazil or Mexico City’s colonias.

Rõ ràng đây vẫn là một đất nước đang lên. Nhiều người dân miền quê - vẫn chiếm gần 70% dân số - tiếp tục đổ về Hà Nội và những thành phố khác, nhưng không cùng trạng thái tuyệt vọng như đặc điểm của người dân từ Bihar đổ về Delhi hoặc Mumbai ở Ấn Độ. Hoàn toàn không có những phần tử tội phạm lũng đoạn những khu dân cư ổ chuột như ở Brazil hoặc Mexico City.


More important still are the “animal spirits” of the place. Adam Smith—or Jane Jacobs for that matter—would enjoy the  very un-socialistic frenzy as motorcyclists barrel down the streets like possessed demons, with little regard to walking lanes or lights. Everyone not on the government payroll seems to be hustling something, or looking to. It reminds one of the Vietnamese outposts in Orange County, California, or in Los Angeles’ Chinatown, which is now largely dominated by Chinese from Vietnam.

Điều quan trọng hơn nữa là nơi đây vẫn chứa đựng một “tinh thần hoang dã”. Adam Smith - hoặc thậm chí Jane Jacobs - chắc sẽ thích thú tình trạng hỗn loạn phi-xã hội khi những người chạy xe gắn máy phóng nhanh trên phố như bị quỷ bắt, chẳng đếm xỉa gì đến người đi bộ hoặc đèn giao thông. Bất cứ ai không là công chức nhà nước dường như đều đang hối hả tìm kiếm hoặc thực hiện một việc gì đấy. Nó làm chúng ta nhớ đến những cụm dân cư người Việt tại Quận Cam, California hoặc phố Tàu ở Los Angeles, hiện đa phần đang bị người Việt gốc Hoa chi phối.

The country’s poverty rate has dropped from 75 percent in the 1980s to 10.6 percent in 2010.
Tỷ lệ hộ nghèo của nước này đã giảm từ 75% trong những năm 1980 xuống 10,6%  năm 2010

Le Dang Doanh, one of the architects of Doi Moi, estimates that the private sector now accounts for 40 percent of the country’s GDP, up from virtually zero. But Le Dang also estimated that as much as 20 percent more occurs in the “underground” economy where cash—particularly U.S. dollars—is king.

Lê Đăng Doanh, một trong những kiến trúc sư của quá trình Đổi Mới, dự đoán rằng lĩnh vực tư nhân hầu như từ con số không hiện đang chiếm đến 40% tổng GDP của cả nước. Nhưng ông Doanh cũng dự tính đoán rằng có thêm đến 20% nữa đang nằm trong nền kinh tế “ngầm” - nơi đồng Mỹ kim đặc biệt là vua.


“You see firms with as many as 300 workers that are not registered,” the sprightly, bespectacled 69-year-old economist explains. “The motive force is underground. You walk along the street. I followed an electrical cable once and it led me to a factory with 27 workers making Honda parts and it was totally off the system.”

“Anh thấy những công ty có đến 300 công nhân nhưng lại không đăng ký giấy phép,” nhà kinh tế 69 tuổi đeo kính đầy hoạt bát giải thích. “Lực lượng chuyển vận nằm ngoài luồng. Anh chỉ đi theo con đường. Tôi từng theo dõi một cáp điện và nó dẫn tôi đến một nhà máy với 27 công nhân đang sản xuất phụ tùng Honda và nó hoàn toàn nằm ngoài hệ thống.”

This energy is in part a product of demographics. Most of the people you see in these unofficial workshops are in their 20s and 30s. And unlike what you see in China, these workers also have children. Vietnam may be modernizing and getting richer, but it also enjoys a growing population.

Năng lượng này là một phần của sản phẩm của dân số. Đa số những người ta thấy trong những phân xưởng ngoài luồng ở vào độ tuổi 20 và 30. Và không như những gì ta thấy ở Trung Quốc, những công nhân này cũng có con nhỏ. Việt Nam có thể đang hiện đại hoá và giàu lên, nhưng nó cũng có được một dân số đang tăng trưởng.


These trends have enormous long-term consequences. According to the CIA World Factbook, 69 percent of the approximately 86 million people in Vietnam are currently between the working ages of 15 and 64. In the next four decades the Vietnamese workforce is expected to expand rapidly; at the same time, it will contract dramatically in Japan, Taiwan, Singapore, South Korea, and China. As these countries amble into what demographer Nick Eberstadt has called a “fertility implosion” that will lead to a rapid aging of the workforce, Vietnam will remain relatively young.

Những xu hướng này có những hệ quả khổng lồ. Theo Sách Dữ kiện Thế giới của CIA, 69% của khoảng 86 triệu dân Việt Nam hiện đang ở vào lứa tuổi lao động từ 15 đến 64. Trong bốn thập niên tới lực lượng lao động Việt Nam sẽ tăng nhanh; trong cùng lúc, lực lượng lao động ở Nhật, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc sẽ thu nhỏ một cách trầm trọng. Trong khi những quốc gia này đang từ từ rơi vào tình trạng mà nhà dân số học Nick Eberstadt gọi là “suy giảm sinh sản”, dẫn đến sự lão hoá nhanh chóng của lực lượng lao động, Việt Nam vẫn tương đối còn trẻ.

State-owned companies in Vietnam lack the depth and critical mass of their Chinese counterparts and are thus less likely to pose an immediate competitive threat to the United States and other foreign countries.

Công ty nhà nước tại Việt Nam thiếu bề dày và chiều sâu so với các đối tác Trung Quốc và do đó ít có khả năng gây ra một mối đe dọa trực tiếp cạnh tranh với Hoa Kỳ và các nước khác.
Already this enormous source of cheap labor has compelled investors around the world to look toward Vietnam as a way to simultaneously cut costs and increase profits. But more important still is the rapid growth of education. The country enjoys nearly 95 percent literacy.

Nguồn lao động rẻ khổng lồ này đã hấp dẫn các nhà đầu tư trên khắp thế giới tìm đến Việt Nam như là một biện pháp nhằm cắt chi phí và tăng lợi nhuận. Nhưng điều quan trọng hơn nữa vẫn là sự tăng trưởng nhanh chóng của giáo dục. Quốc gia này có tỉ lệ biết đọc viết đến 95%.


This combination of a growing and skilled workforce represents the same combination of factors that previously led to rapid growth in other Asian countries, from Japan in the 1960s to South Korea and Taiwan in the 1980s, and China more recently. One local investment house, Indochina Capital, estimates that by 2050 Vietnam’s economy will be the world’s 14th-largest—ahead of Canada, Italy, South Korea, and Spain.

Tổng hợp của lực lượng lao động có tay nghề ngày càng tăng cũng tương tự với tổng hợp của những yếu tố từng dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng trước đây của những quốc gia châu Á, từ Nhật Bản trong những năm 1960 cho đến Hàn Quốc và Đài Loan trong những năm 1980, và gần đây là Trung Quốc. Một công ty đầu tư trong nước, Indochina Capital, dự đoán rằng đến năm 2050 nền kinh tế Việt Nam sẽ lớn thứ 14 trên thế giới - trên cả Canada, Ý, Hàn Quốc và Tây Ban Nha.

Combined with the strong human ties and its aversion to domineering neighbors, these factors suggest that Vietnam may well prove itself as valuable an ally and trade partner to the United States as it was once an irrepressible enemy.

Tổng hợp gồm quan hệ con người chặt chẽ và ác cảm của nó đối với người láng giềng hùng hổ, những yếu tố này cho thấy rằng Việt Nam có thể chứng minh mình là một đồng minh và đối tác thương mại giá trị với Hoa Kỳ như nó đã từng là một kẻ thù không khuất phục.

Joel Kotkin is a distinguished fellow at Chapman University and an adjunct fellow of the London-based Legatum Institute, which sponsored this research. He is author of The Next Hundred Million: America in 2050. Jane Le Skaife is a doctoral candidate at the University of California, Davis. She is currently conducting her dissertation research involving a cross-national comparison of Vietnamese refugees in France and the United States.

Joel Kotkin là một nghiên cứu viên xuất sắc tại Chapman University, và là cộng tác viên tại Viện Legatum ở London, mà tài trợ cho nghiên cứu này. Ông là tác giả của Trăm triệu tiếp theo: Nước Mỹ năm 2050. Jane Le Skaife là một ứng cử viên tiến sĩ tại Đại học California, Davis. Cô hiện đang tiến hành làm luận án có liên quan đến một so sánh xuyên quốc gia về những kiều bào Việt Nam tại Pháp và Hoa Kỳ.



Translated by Diên Vỹ


http://www.american.com/archive/2011/november/good-morning-vietnam/

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn