THE TRANS-PACIFIC
FREE-TRADE CHARADE
|
Chiêu Bài của TPP
|
|
By Joseph E. Stiglitz & Adam S. Hersch
Project Syndicate
2-Oct-2015
|
Joseph E. Stiglitz & Adam S. Hersch
Project Syndicate
2-10-2015
|
NEW YORK – As negotiators and ministers from the United
States and 11 other Pacific Rim countries meet in Atlanta in an effort to
finalize the details of the sweeping new Trans-Pacific Partnership (TPP),
some sober analysis is warranted. The biggest regional trade and investment
agreement in history is not what it seems.
|
NEW YORK – Khi các nhà đàm phán và các bộ trưởng của Hoa
Kỳ và 11 quốc gia khác trong Vành Đai Thái Bình Dương họp tại Atlanta để nỗ
lực đúc kết các chi tiết nhằm đổi mới Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược
Xuyên Thái Bình Dương (TPP), có một số phân tích nghiêm chỉnh đã cảnh báo là
hiệp định mậu dịch và đầu tư khu vực lớn nhất trong lịch sử không phải là
những gì như nó thể hiện.
|
You will hear much about the importance of the TPP for
“free trade.” The reality is that this is an agreement to manage its members’
trade and investment relations – and to do so on behalf of each country’s
most powerful business lobbies. Make no mistake: It is evident from the main
outstanding issues, over which negotiators are still haggling, that the TPP
is not about “free” trade.
|
Bạn sẽ nghe nhiều về tầm quan trọng của TPP trong “vấn đề
tự do mậu dịch“. Thực tế cho thấy đây là một thỏa thuận để quản lý các mối
quan hệ mậu dịch và đầu tư của các nước thành viên – Và để làm được điều đó
thoả thuận này nhân danh các nhóm lợi ích kinh doanh có áp lực mạnh nhất của
mỗi nước. Bạn không nên lầm lẫn là từ những vấn đề chủ yếu mà các nhà đàm
phán vẫn còn đang mặc cả nhau, nên TPP không bàn về vấn đề ”tự do“ mậu dịch
là chuyện hiển nhiên.
|
New Zealand has threatened to walk away from the agreement
over the way Canada and the US manage trade in dairy products. Australia is
not happy with how the US and Mexico manage trade in sugar. And the US is not
happy with how Japan manages trade in rice. These industries are backed by
significant voting blocs in their respective countries. And they represent
just the tip of the iceberg in terms of how the TPP would advance an agenda
that actually runs counter to free trade.
|
New Zealand đã đe dọa sẽ ra khỏi thỏa ước với phương cách
mà Canada và Hoa Kỳ quản lý mậu dịch trong các sản phẩm về sữa. Australia
không hài lòng với phương cách mà Hoa Kỳ và Mexico quản lý mậu dịch các sản
phẩm đường. Và Hoa Kỳ không hài lòng với cách quản lý mậu dịch của Nhật Bản
về gạo. Các ngành công nghiệp này được hậu thuẫn bởi các nhóm lợi ích có
quyền biểu quyết quan trọng ở nước của mình. Và đó chỉ là biểu hiện một phần
nhỏ nhưng rõ nét trong các vấn đề rộng lớn hơn về những điều kiện để làm sao
cho TPP sẽ thúc đẩy theo một chương trình nghị sự, nhưng thực sự là đi ngược
với ý nghĩa của tự do mậu dịch.
|
For starters, consider what the agreement would do to
expand intellectual property rights for big pharmaceutical companies, as we
learned from leaked versions of the negotiating text. Economic research
clearly shows the argument that such intellectual property rights promote
research to be weak at best. In fact, there is evidence to the contrary: When
the Supreme Court invalidated Myriad’s patent on the BRCA gene, it led to a
burst of innovation that resulted in better tests at lower costs. Indeed,
provisions in the TPP would restrain open competition and raise prices for
consumers in the US and around the world – anathema to free trade.
|
Để bắt đầu, ta hãy xét đến những gì thỏa ước sẽ làm để mở
rộng các quyền sở hữu trí tuệ đối với các tổng công ty dược phẩm, như chúng
ta đã học được từ các phiên bản bị rò rỉ của các văn bản đang đàm phán.
Nghiên cứu kinh tế cho thấy rõ có lập luận cho rằng quyền sở hữu trí tuệ thúc
đẩy nghiên cứu là yếu nhất. Trong thực tế, có bằng chứng ngược lại: Khi Tòa
án Tối cao tuyên bố về bằng sáng chế của Myriad về gen BRCA là vô hiệu lực, điều
này đã dẫn đến sự bùng nổ về canh tân mà kết quả là việc xét nghiệm tốt hơn
với chi phí thấp hơn. Thật vậy, các quy định TPP sẽ hạn chế cạnh tranh công
khai và làm tăng giá bán cho người tiêu dùng ở Mỹ và trên khắp thế giới – một
đề tài đối nghịch với tinh thần tự do mậu dịch.
|
The TPP would manage trade in pharmaceuticals through a
variety of seemingly arcane rule changes on issues such as “patent linkage,”
“data exclusivity,” and “biologics.” The upshot is that pharmaceutical
companies would effectively be allowed to extend – sometimes almost
indefinitely – their monopolies on patented medicines, keep cheaper generics
off the market, and block “biosimilar” competitors from introducing new
medicines for years. That is how the TPP will manage trade for the
pharmaceutical industry if the US gets its way.
|
TPP sẽ quản lý mậu dịch các dược phẩm thông qua một loạt
các quy tắc dường như phức tạp và bí ẩn, nó thay đổi tùy theo các vấn đề như
“liên kết bằng sáng chế”, “độc quyền dữ liệu” và “sinh học”. Kết quả là các
công ty dược phẩm sẽ được phép gia hạn – đôi khi gần như vô thời hạn – độc
quyền của mình về cấp bằng sáng chế thuốc một cách có hiệu quả, kéo theo việc
đưa các chủng loại thuốc có giá rẻ ra khỏi thị trường, ngăn chặn các đối thủ
cạnh tranh có khả năng tương đương về các mặt hàng sinh học trong việc du
nhập các dược phẩm mới trong nhiều năm. Đó là cách mà TPP sẽ quản lý mậu dịch
cho ngành công nghiệp dược phẩm, nếu Hoa Kỳ làm theo cách của mình.
|
Similarly, consider how the US hopes to use the TPP to
manage trade for the tobacco industry. For decades, US-based tobacco
companies have used foreign investor adjudication mechanisms created by agreements
like the TPP to fight regulations intended to curb the public-health scourge
of smoking. Under these investor-state dispute settlement (ISDS) systems,
foreign investors gain new rights to sue national governments in binding
private arbitration for regulations they see as diminishing the expected
profitability of their investments.
|
Cũng tương tự như vậy, ta hãy xét đến việc Hoa Kỳ hy vọng
gì trong việc sử dụng TPP để quản lý mậu dịch cho ngành công nghiệp thuốc lá.
Trong nhiều thập niện, các công ty thuốc lá đặt cơ sở tại Hoa Kỳ đã sử dụng
cơ chế tài phán cho các nhà đầu tư nước ngoài được tạo ra bởi các hiệp ước
tương tự như TPP để chống lại các quy định nhằm kiềm chế tai họa y tế công
cộng của việc hút thuốc. Thông qua những hệ thống giải quyết tranh chấp giữa
nhà đầu tư và nhà nước (ISDS), các nhà đầu tư nước ngoài đạt được tố quyền
mới để khởi kiện chính phủ các nước trong các quy định trọng tài tư nhân có
hiệu lực ràng buộc mà họ cho là làm giảm bớt lợi nhuận dự kiến trong các
khoản đầu tư của họ.
|
International corporate interests tout ISDS as necessary
to protect property rights where the rule of law and credible courts are
lacking. But that argument is nonsense. The US is seeking the same mechanism
in a similar mega-deal with the European Union, the Transatlantic Trade and
Investment Partnership, even though there is little question about the
quality of Europe’s legal and judicial systems.
|
Lợi ích của các công ty quốc tế cố thuyết phục là cơ chế
tài phán ISDS là cần thiết để bảo vệ quyền sở hữu ở những nơi mà tinh thần
trọng pháp và các tòa án khả tín còn thiếu. Nhưng lập luận đó là vô nghĩa.
Hoa Kỳ đang tìm kiếm các cơ chế tương tự trong một thỏa thuận với một quy mô
tương tự với Liên Âu, Hiệp ước Thương mại và Hợp tác Đầu tư Xuyên Đại Tây
Dương (TTIP), mặc dù về phẩm chất của hệ thống pháp luật và tư pháp của châu
Âu có ít vấn đề.
|
To be sure, investors – wherever they call home – deserve
protection from expropriation or discriminatory regulations. But ISDS goes
much further: The obligation to compensate investors for losses of expected
profits can and has been applied even where rules are nondiscriminatory and
profits are made from causing public harm.
|
Để chắc chắn, các nhà đầu tư – cho dù quê hương của họ là
ở bất cứ nơi nào – dành quyền bảo vệ trong các quy định về trưng thu hoặc
phân biệt đối xử. Nhưng cơ chế ISDS đi xa hơn: Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
cho nhà đầu tư về những lợi nhuận dự kiến có thể và đã được áp dụng cho cả
trường hợp quy định về việc không phân biệt đối xử và lợi nhuận đạt được do
việc gây haị công cộng.
|
Philip Morris International is currently prosecuting such
cases against Australia and Uruguay (not a TPP partner) for requiring
cigarettes to carry warning labels. Canada, under threat of a similar suit,
backed down from introducing a similarly effective warning label a few years
back.
|
Tổng công ty trước đây gọi là Philip Morris hiện đang khởi
tố các vụ như vậy đối với Australia và Uruguay (không phải đối tác TPP) có
yêu cầu thuốc lá mang nhãn hiệu cảnh báo. Canada, do bị đe dọa của một vụ
kiện tương tự, nên đã rút lui lại việc du nhập một loại nhãn cảnh báo có hiệu
ứng tương tự từ một vài năm trở lại.
|
Given the veil of secrecy surrounding the TPP
negotiations, it is not clear whether tobacco will be excluded from some
aspects of ISDS. Either way, the broader issue remains: Such provisions make
it hard for governments to conduct their basic functions – protecting their
citizens’ health and safety, ensuring economic stability, and safeguarding
the environment.
|
Đứng trước bức màn bí mật xung quanh các cuộc đàm phán về
TPP, chuyện chưa rõ là liệu thuốc lá sẽ được loại trừ khỏi một số khía cạnh
của cơ chế ISDS không. Dù bằng cách nào thì các vấn đề rộng lớn hơn vẫn còn
tồn đọng là: quy định này đã làm khó cho chính phủ thực hiện các chức năng cơ
bản của họ – là bảo vệ sức khỏe và an toàn của người dân, đảm bảo ổn định
kinh tế và bảo vệ môi trường.
|
Imagine what would have happened if these provisions had
been in place when the lethal effects of asbestos were discovered. Rather
than shutting down manufacturers and forcing them to compensate those who had
been harmed, under ISDS, governments would have had to pay the manufacturers
not to kill their citizens. Taxpayers would have been hit twice – first to
pay for the health damage caused by asbestos, and then to compensate
manufacturers for their lost profits when the government stepped in to
regulate a dangerous product.
|
Ta hãy tưởng tượng những gì sẽ xảy ra nếu những quy định
này đã được đưa ra thi hành khi các tác động gây chết người của chất amiăng
đã được phát hiện. Thay vì đóng cửa các nhà sản xuất và buộc họ phải bồi
thường cho những người đã bị nhiễm bệnh, nếu theo cơ chế ISDS, thì các chính
phủ sẽ phải trả cho các nhà sản xuất không giết công dân của họ. Người nộp
thuế có thể bị liên hệ đến hai lần – lần đầu tiên họ phải trả tiền cho những
thiệt hại về sức khỏe do amiăng gây ra, và sau đó cho các nhà sản xuất để bù
đắp cho lợi nhuận bị mất khi chính quyền vào cuộc để quy định về một sản phẩm
nguy hiểm.
|
It should surprise no one that America’s international
agreements produce managed rather than free trade. That is what happens when
the policymaking process is closed to non-business stakeholders – not to
mention the people’s elected representatives in Congress.
|
Chuyện không gây cho ai ngạc nhiên là có một thoả ước quốc
tế của Mỹ đưa ra một cơ chế mậu dịch để được quản lý chứ không phải là theo
tinh thần tự do. Đó là những gì xảy ra khi tiến trình hoạch định chính sách
không cho các bên có liên quan, không thuộc về lĩnh vực kinh tế, tham gia –
chưa kể đến các đại biểu Quốc hội do dân bầu.
|
Joseph E. Stiglitz,
a Nobel laureate in economics and University Professor at Columbia
University, was Chairman of President Bill Clinton’s Council of Economic
Advisers and served as Senior Vice President and Chief Economist of the World
Bank.
Adam S. Hersh is
Senior Economist at the Roosevelt Institute and Visiting Scholar at Columbia
University’s Initiative for Policy Dialogue.
|
Joseph E. Stiglitz, đoạt
giải Nobel kinh tế và giáo sư tại Đại học Columbia, là Chủ tịch Hội đồng cố
vấn kinh tế của Tổng thống Bill Clinton và từng là Phó Chủ tịch và kinh tế gia cao cấp của Ngân hàng Thế giới.
Adam S. Hersh là
kinh tế gia cao cấp tại Viện Roosevelt và Học giả thỉnh giảng tại Sáng kiến cho đối thoại chính sác của trường Đại học
Columbia
|
|
Translated by Đỗ Kim Thêm
|
http://www.project-syndicate.org/commentary/trans-pacific-partnership-charade-by-joseph-e--stiglitz-and-adam-s--hersh-2015-10
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn