OUTLINE OF
THE U. S. LEGAL SYSTEM
|
HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT HOA KỲ P2
|
1
HISTORY AND ORGANIZATION OF THE FEDERAL
JUDICIAL SYSTEM
|
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ VÀ TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG TƯ
PHÁP LIÊN BANG
|
|
One of the most important, most interesting,
and, possibly, most confusing features of the judiciary in the United States
is the dual court system; that is, each level of government (state and
national) has its own set of courts. Thus, there is a separate court system
for each state, one for the District of Columbia, and one for the federal
government. Some legal problems are resolved entirely in the state courts,
whereas others are handled entirely in the federal courts. Still others may
receive attention from both sets of tribunals, which sometimes causes friction.
The federal courts are discussed in this chapter and the state courts in
chapter 2.
|
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất, thú vị nhất và
có lẽ rối rắm nhất của tư pháp Hoa Kỳ là hệ thống tòa án kép; tức là tại mỗi
cấp chính quyền (bang và quốc gia) có một hệ thống tòa án riêng. Do đó, có
một hệ thống tòa án riêng cho mỗi bang, một cho Hạt Columbia (Washington, D.
C) và một cho chính quyền liên bang. Một số vấn đề pháp lý được giải quyết
hoàn toàn ở tòa án bang, trong khi các vấn đề khác được giải quyết hoàn toàn
tại tòa án liên bang. Nhưng vẫn còn các vấn đề khác được cả hai hệ thống xét
xử quan tâm, và đôi khi có xuất hiện va chạm. Các tòa án liên bang được trao
đổi trong chương này, còn các tòa án bang sẽ được xem xét trong chương 2.
|
|
THE
HISTORICAL CONTEXT
Prior to the adoption of the Constitution, the
United States was governed by the Articles of Confederation. Under the
Articles, almost all functions of the national government were vested in a
single-chamber legislature called Congress. There was no separation of
executive and legislative powers.
|
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Trước khi thông qua Hiến
pháp, Hoa Kỳ chịu sự điều chỉnh của Hiến chương liên minh (Charter of
Confederation). Theo Hiến chương, hầu hết chức năng của chính quyền quốc gia
đề u nằm trong tay của một cơ quan lập pháp duy nhất gọi là Quốc hội. Chưa có
sự phân chia quyền hành pháp và lập pháp.
|
The absence of a national judiciary was
considered a major weakness of the Articles of Confederation. Consequently,
the delegates gathered at the Constitutional Convention in Philadelphia in
1787 expressed widespread agreement that a national judiciary should be
established. A good deal of disagreement arose, however, on the specific form
that the judicial branch should take.
|
Việc thiếu vắng hệ thống tư
pháp quốc gia được coi là nhược điểm chính của Hiến chương. Do đó, các đại
biểu nhóm họp trong Hội nghị lập hiến được tổ chức tại Philadelphia năm 1787
đã nhất trí là phải thành lập một hệ thống tư pháp quốc gia. Tuy nhiên, có
nhiều bất đồng về hình thức cụ thể của ngành tư pháp.
|
The
Constitutional Convention and Article III
The first proposal presented to the
Constitutional Convention was the Virginia Plan, which would have set up both
a Supreme Court and inferior federal courts. Opponents of the Virginia Plan
responded with the New Jersey Plan, which called for the creation of a single
federal supreme tribunal. Supporters of the New Jersey Plan were especially
disturbed by the idea of lower federal courts. They argued that the state
courts could hear all cases in the first instance and that a right of appeal
to the Supreme Court would be sufficient to protect national rights and
provide uniform judgments throughout the country.
|
Hội nghị lập hiến và Điều III của Hiến pháp
Đề xuất đầu tiên được đưa ra
trước Hội nghị lậ p hiến là Kế họa ch Virginia, trong đó đề nghị thành lập
một Tòa án tối cao và các tòa liên bang cấp dưới. Những người phản đối Kế
hoạch Virginia đã đáp lại bằng Kế hoạch New Jersey, kêu gọi thành lập một cơ
quan xét xử tối cao duy nhất của liên bang. Nhữ ng người ủng hộ Kế hoạch New
Jersey đã hết sức khó chịu với ý tưởng thành lập các tòa án liên bang cấp
dưới. Họ cho rằng các tòa án bang phải xét sử sơ thẩm tất cả các vụ việc, và
quy định đầy đủ quyền kháng cáo lên Tòa án tối cao để bảo vệ các quyền quốc
gia và đảm bảo tính thống nhất xét xử trên toàn quốc.
|
The conflict between the states' rights
advocates and the nationalists was resolved by one of the many compromises
that characterized the Constitutional Convention. The compromise is found in
Article III of the Constitution, which begins, "The judicial Power of
the United States, shall be vested in one supreme Court, and in such inferior
Courts as the Congress may from time to time ordain and establish."
|
Mâu thuẫn giữa những người
ủng hộ quyền của bang và những người ủng hộ quyền quốc gia đã được giải quyết
thông qua thỏa hiệp chung của Hội nghị lập hiến. Sự thỏa hiệp này được thể
hiện trong Điều III của Hiến pháp, bắt đầu bằng câu: “Quyền tư pháp của Hợp
chúng quốc được trao cho một Toà án tối cao, và các tòa cấp dưới có thể được
Quốc hội trao quyền hoặc thành lập tùy từng thời điểm”.
|
The
Judiciary Act of 1789
Once the Constitution was ratified, action on
the federal judiciary came quickly. When the new Congress convened in 1789,
its first major concern was judicial organization. Discussion of Senate Bill
1 involved many of the same participants and arguments as were involved in
the Constitutional Convention's debates on the judiciary. Once again, the
question was whether lower federal courts should be created at all or whether
federal claims should first be heard in state courts. Attempts to resolve
this controversy split Congress into two distinct groups.
|
Đạo luật tư pháp năm 1789
Sau khi Hiến pháp được phê
chuẩn, vấn đề tư pháp liên bang nhanh chóng được đưa ra xem xét. Khi Quốc hội
mới nhóm họp năm 1789, mối quan tâm chính đầu tiên của nó là tổ chức tư pháp.
Các cuộc thảo luận Dự luật số 1 của Thượng viện xoay quanh nhiều bên tham gia
và lý lẽ giống hệt như trong cuộc tranh cãi tư pháp của Hội nghị lập hiến.
Một lần nữa, vấn đề đặt ra là nên thiết lập các tòa án liên bang cấp dưới hay
trao toàn quyền sơ thẩm cho tòa án bang. Nỗ lực giải quyết vấn đề tranh cãi
này đã chia Quốc hội thành các nhóm riêng rẽ.
|
TÒA ÁN HOA KỲ
|
Tòa phúc thẩm vùng (hay còn gọi là Tòa phúc thẩm lưu động) còn
thụ lý các vụ việc từ một số cơ quan liên bang. (**) Tòa phúc thẩm liên bang
còn thụ lý các vụ từ Ủy ban thương mại quốc tế, Hội đồng bảo vệ hệ thống năng
lực, Văn phòng bằng sáng chế và thương hiệu và Hội đồng phúc thẩm hợp đồng.
|
One group, which believed that federal law
should be adjudicated in the state courts first and by the U.S. Supreme Court
only on appeal, expressed the fear that the new government would destroy the
rights of the states. The other group of legislators, suspicious of the
parochial prejudice of state courts, feared that litigants from other states
and other countries would be dealt with unjustly. This latter group naturally
favored a judicial system that included lower federal courts. The law that
emerged from this debate, the Judiciary Act of 1789, set up a judicial system
composed of a Supreme Court, consisting of a chief justice and five associate
justices; three circuit courts, each comprising two justices of the Supreme
Court and a district judge; and 13 district courts, each presided over by one
district judge. The power to create inferior federal courts, then, was
immediately exercised. Congress created not one but two sets of lower courts.
|
Một nhóm bao gồm những người tin rằng luật liên bang đầu
tiên cần được xét xử tại các tòa án bang, và chỉ được xét xử tại Tòa án tối
cao Hoa Kỳ theo trình tự phúc thẩm. Những người này sợ chính quyền mới sẽ hủy
bỏ quyền của các bang. Nhóm còn lại gồm những nhà lập pháp nghi ngại các tòa
án bang sẽ mang tính cục bộ địa phương, và sợ rằng những người khởi kiện từ
các bang khác, hoặc nước khác sẽ bị đối xử bất công. Nhóm thứ hai đương nhiên
muốn có một hệ thống tư pháp có cả các tòa án liên bang cấp dưới. Kết quả của
cuộc tranh cãi này là sự ra đời của Đạo luật tư pháp năm 1789, thiết lập một
hệ thống tư pháp bao gồm một Tòa án tối cao (bao gồm một chánh án và năm thẩm
phán), ba tòa lưu động (bao gồm hai thẩm phán của Tòa án tối cao và một thẩm
phán hạt); và 13 toà án hạt (mỗi tòa án hạt do một thẩm phán chủ trì). Như
vậy, quyền được thiết lập các tòa án liên bang cấp dưới đã được thực thi ngay
lập tức. Quốc hội không chỉ tạo ra một, mà đến hai nhóm tòa án cấp dưới.
|
THE U.S.
SUPREME COURT
|
TÒA ÁN TỐI CAO HOA KỲ
|
Supreme Court Justice Charles Evans Hughes
wrote in The Supreme Court of the United States (1966) that the Court
"is distinctly American in conception and function, and owes little to
prior judicial institutions." To understand what the framers of the
Constitution envisioned for the Court, another American concept must be
considered: the federal form of government. The Founders provided for both a
national government and state governments; the courts of the states were to
be bound by federal laws. However, final interpretation of federal laws could
not be left to a state court and certainly not to several state tribunals,
whose judgments might disagree. Thus, the Supreme Court must interpret
federal legislation. Another of the Founders' intentions was for the federal
government to act directly upon individual citizens as well as upon the
states.
|
Thẩm phán Tòa án tối cao Charles
Evans Hughes đã viết trong cuốnTòa
án tối cao Hoa Kỳ (Supreme Court of the United States) (1966)
rằng Tòa án này “là sản phẩm đặc trưng của người Mỹ cả về mặt khái niệm và
chức năng, không kế thừa gì nhiều từ các tổ chức tư pháp trước đó”. Để hiểu
được ý định của những người định khung Hiến pháp, cần phải xem xét một khái
niệm khác của người Mỹ: hình thức chính quyền liên bang. Các nhà lập quốc quy
định hai hình thức chính quyền: chính quyền quốc gia và chính quyền bang; tòa
án bang bị ràng buộc bởi luật liên bang. Tuy nhiên, quyền giải thích cuối
cùng đối với luật liên bang không thể để cho tòa án bang tự quyết định, và
chắc chắn cũng không thể đặt trong tay cơ quan xét xử của một vài tiểu bang,
vì có thể sẽ nảy sinh bất đồng. Do đó, Tòa án tối cao phải giải thích các văn
kiện lập pháp liên bang. Một chủ định khác của các nhà lập quốc là cho phép
chính quyền liên bang được hành động đối với các cá nhân cũng như các bang.
|
Given the Supreme Court's importance to the
U.S. system of government, it was perhaps inevitable that the Court would
evoke great controversy. Charles Warren, a leading student of the Supreme
Court, said in The Supreme Court in United States History: "Nothing in
the Court's history is more striking than the fact that while its significant
and necessary place in the Federal form of Government has always been
recognized by thoughtful and patriotic men, nevertheless, no branch of the
Government and no institution under the Constitution has sustained more
continuous attack or reached its present position after more vigorous
opposition."
|
Do vai trò đặc biệt quan trọng của Tòa án tối cao trong hệ
thống chính quyền Mỹ, chắc chắn là Toà án này sẽ gây nhiều tranh cãi. Trong
cuốnTòa án tối cao trong Lịch sử
Hoa Kỳ (The Supreme Court in United States History), Charles
Warren, một nhà nghiên cứu hàng đầu về Tòa án tối cao đã viết: “Có một thực
tế nổi bật nhất trong lịch sử Tòa án tối cao là mặc dù hầu như mọi công dân
yêu nước và có suy nghĩ chín chắn đều nhận thấy vai trò quan trọng và cần
thiết của nó trong hình thức chính quyền liên bang, nhưng không có ngành nào
trong hệ thống tam quyền của chính quyền Mỹ, cũng như không có cơ quan nào
được thành lập theo Hiến pháp, lại liên tục bị tấn công và phải vượt qua
nhiều sự đối kháng như vậy mới đạt đến vị thế ngày nay”.
|
The
Court's First Decade
George Washington, the first president of the
United States, established two important traditions when he appointed the
first Supreme Court justices. First, he began the practice of naming to the
Court those with whom he was politically compatible. Washington, the only
president ever to have an opportunity to appoint the entire federal
judiciary, filled federal judgeships, without exception, with faithful
members of the Federalist Party. Second, Washington's appointees offered
roughly equal geographic representation on the federal courts. His first six
appointees to the Supreme Court included three Northerners and three
Southerners.
|
Thập kỷ đầu của Tòa án tối cao
Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, George Washington, đã
thiết lập hai tập quán quan trọng khi chỉ định các thẩm phán của Tòa án tối
cao. Thứ nhất, ông đã khởi xướng tập quán chỉ định các thẩm phán tương thích
về chính trị với Tổng thống. Washington là Tổng thống duy nhất có cơ hội chỉ
định toàn bộ nhân sự tư pháp liên bang. Ông đã bổ nhiệm tất cả các thẩm phán
liên bang là các đảng viên thân tín của Đảng Liên bang, mà không có bất cứ
ngoại lệ nào. Thứ hai, những người được Washington bổ nhiệm tương đối đại
diện về mặt địa lý trong các tòa án liên bang. Trong sáu người được chỉ định
vào Tòa án tối cao, có ba người miền Nam và ba người miền Bắc.
|
The chief justiceship was the most important
appointment Washington made. The president felt that the man to head the
first Supreme Court should be an eminent lawyer, statesman, executive, and
leader. Many names were presented to Washington, and at least one person
formally applied for the position. Ultimately, Washington settled upon John
Jay of New York. Although only 44 years old, Jay had experience as a lawyer,
a judge, and a diplomat. In addition, he was the main drafter of his state's
first constitution.
|
Vị trí Chánh án là đề cử quan trọng nhất của Washington.
Tổng thống cho rằng, người lãnh đạo Toà án tối cao đầu tiên phải là một nhà
lãnh đạo - quản lý có uy tín lớn và là một luật gia kiệt xuất. Nhiều cái tên
đã được giới thiệu với Washington, và ít nhất đã có một người chính thức xin
ứng cử vào chức vị đó. Cuối cùng, Washington đã quyết định chọn John Jay của
New York. Mặc dù chỉ mới 44 tuổi, nhưng John Jay đã từng trải trong vai trò
là một luật gia, thẩm phán và nhà ngoại giao. Ngoài ra, ông là người dự thảo
chính Hiến pháp đầu tiên của bang New York.
|
The Supreme Court met for the first time on
Monday, February 1, 1790, in the Royal Exchange, a building located in the
Wall Street section of New York City, and its first session lasted just 10
days. During this period the Court selected a clerk, chose a seal, and
admitted several lawyers to practice before it in the future. There were, of
course, no cases to be decided; the Court did not rule on a single case
during its first three years. In spite of this insignificant and abbreviated
beginning, Charles Warren wrote, "The New York and the Philadelphia
newspapers described the proceedings of this first session of the Court more
fully than any other event connected with the new government; and their accounts
were reproduced in the leading papers of all the states."
|
Tòa án tối cao nhóm họp lần đầu vào thứ Hai, ngày 1 tháng
Hai 1790 tại tòa nhà Royal Exchange ở khu vực Phố Wall của New York, và phiên
họp đầu tiên chỉ kéo dài 10 ngày. Trong thời gian này, Tòa đã chọn một thư
ký, con dấu và nhận một số luật sư được làm việc trước tòa trong thời gian
tới. Tất nhiên là trong phiên này, Tòa không xét xử một vụ việc nào; và ngay
cả trong ba năm sau, Tòa cũng không đưa ra phán quyết về bất cứ một vụ việc
đơn lẻ nào. Mặc dù đây là một giai đoạn không quan trọng và có nhiều ý nghĩa,
nhưng như Charles Warren đã viế t, “Báo chí New York và Philadelphia đã mô tả
trình tự phiên họp đầu tiên của Tòa án tối cao đầy đủ hơn bất kỳ sự kiện nào
liên quan đến nhà nước mới; và nội dung của nó được đăng tải trên tất cả các
tờ báo hàng đầu của các bang khác”.
|
During its first decade the Court decided only
about 50 cases. Given the scarcity of Supreme Court business in the early
days, Chief Justice Jay's contributions may be traced primarily to his
circuit court decisions and his judicial conduct.
|
Trong thập kỷ đầu tiên, Tòa chỉ quyết định khoảng 50 vụ.
Do công việc của Tòa án tối cao trong giai đoạn đầu quá ít, nên đóng góp của
Chánh án John Jay chủ yếu là trong các quyết định ở tòa lưu động và đạo đức
tư pháp của ông.
|
Vì trí địa lý của các tòa án phúc
thẩm Hoa Kỳ
và tòa án hạt Hoa Kỳ
|
Perhaps the most important of Jay's
contributions, however, was his insistence that the Supreme Court could not
provide legal advice for the executive branch in the form of an advisory
opinion. Jay was asked by Treasury Secretary Alexander Hamilton to issue an
opinion on the constitutionality of a resolution passed by the Virginia House
of Representatives, and President Washington asked Jay for advice on
questions relating to his Neutrality Proclamation. In both instances, Jay's
response was a firm "No," because Article III of the Constitution
provides that the Court is to decide only cases pertaining to actual
controversies.
|
Nhưng có lẽ đóng góp quan trọng nhất của Jay là đã kiên
quyết khẳng định Tòa án tối cao không tư vấn pháp lý cho ngành hành pháp dưới
hình thức các ý kiến cố vấn. Bộ trưởng Ngân khố Alexander Hamilton đã yêu cầu
ông cho ý kiến về tính hợp hiến của một nghị quyết do Hạ viện Virginia thông
qua, hay Tổng thống Washington đã xin ý kiến về các câu hỏi liên quan đến
Tuyên bố trung lập. Trong cả hai trường hợp, câu trả lời của ông là “Không”,
vì theo Điều III của Hiến pháp, Tòa án tối cao chỉ quyết định các vụ việc có
tranh cãi thực tế.
|
The
Impact of Chief Justice Marshall
John Marshall served as chief justice from
1801 to 1835 and dominated the Court to a degree unmatched by any other
justice. Marshall's dominance of the Court enabled him to initiate major
changes in the way opinions were presented. Prior to his tenure, the justices
ordinarily wrote separate opinions (called "seriatim" opinions --
Latin for "one after the other") in major cases. Under Marshall's
stewardship, the Court adopted the practice of handing down a single opinion.
Marshall's goal was to keep dissension to a minimum. Arguing that dissent
undermined the Court's authority, he tried to persuade the justices to settle
their differences privately and then present a united front to the public.
Marshall also used his powers to involve the Court in the policy-making
process. Early in his tenure as chief justice, for example, the Court
asserted its power to declare an act of Congress unconstitutional, in Marbury
v. Madison (1803).
|
Ảnh hưởng của Chánh
án Marshall
John Marshall giữ chức Chánh án từ năm 1801 đến 1835, và
có tầm thống trị rất lớn đối với Tòa án tối cao mà không một chánh án nào có
thể sánh được. Sự chi phối của Marshall đối với Tòa án tối cao cho phép ông
có thể khởi xướng nhiều thay đổi về cách thức đưa ra phán quyết. Trước thời
kỳ của ông, các thẩm phán viết ra các ý kiến độc lập (còn gọi là các ý kiến
“seriatim” – tiếng Latin có nghĩa là “lần lượt từng người một”) trong các vụ
án lớn. Dưới “triều đại” của Marshall, Tòa án áp dụng thủ tục đưa ra một ý
kiến duy nhất. Mục đích của Marshall là hạn chế bất đồng đến mức tối thiểu.
Với lý do sự bất đồng sẽ làm giảm thẩm quyền của Tòa án, ông đã cố gắng
thuyết phục các thẩm phán giải quyết riêng những khác biệt và sau đó đưa ra
một ý kiến thống nhất trước công chú ng. Marshall cũng sử dụng quyền lực của
mình để đưa Tòa án tối cao tham gia vào quá trình lập chính sá ch. Ví dụ ,
ngay từ đầu nhiệm kỳ Chánh án của ông, Tòa án tối cao đã khẳng định quyền lực
của mình bằng việc tuyên bố một đạo luật của Quốc hội là vi hiến, trong
vụMarbury kiện Madison (1803).
|
This case had its beginnings in the
presidential election of 1800, when Thomas Jefferson defeated John Adams in
his bid for reelection. Before leaving office in March 1801, however, Adams
and the lame-duck Federalist Congress created several new federal judgeships.
To fill these new positions Adams nominated, and the Senate confirmed, loyal
Federalists. In addition, Adams named his outgoing secretary of state, John
Marshall, to be the new chief justice of the Supreme Court.
|
Vụ này bắt đầu từ cuộc bầu cử tổng thống năm 1800, khi mà
Thomas Jefferson chiến thắng và dập tắt khả năng tái cử của John Adams. Nhưng
trước khi hết nhiệm kỳ vào tháng Ba 1801, Quốc hội của những đảng viên Liên
bang sắp mãn nhiệm đã đẻ ra một số vị trí thẩm phán liên bang mới. Đồng thời,
Tổng thống Adams đã đề cử những người trung thành với Đảng Liên bang, và được
Thượng viện chấp thuận. Trong đó có việc bổ nhiệm Ngoại trưởng sắp mãn nhiệm
của nhiệm kỳ Adams là John Marshall làm Chánh án Toà án tối cao.
|
As secretary of state it had been Marshall's
job to deliver the commissions of the newly appointed judges. Time ran out,
however, and 17 of the commissions were not delivered before Jefferson's
inauguration. The new president ordered his secretary of state, James
Madison, not to deliver the remaining commissions. One of the disappointed
nominees was William Marbury. He and three of his colleagues, all confirmed
as justices of the peace for the District of Columbia, decided to ask the
Supreme Court to force Madison to deliver their commissions. They relied upon
Section 13 of the Judiciary Act of 1789, which granted the Supreme Court the
authority to issue writs of mandamus -- court orders commanding a public
official to perform an official, nondiscretionary duty.
|
Với vai trò Ngoại trưởng, John Marshall phải phong hàm cho
các thẩm phán mới được bổ nhiệm. Nhưng do thời gian không kịp, khi bắt đầu
nhiệm kỳ của Jefferson, vẫn còn 17 người chưa được phong hàm. Tổng thống mới
ra lệnh cho Ngoại trưởng của mình là James Madison không phong hàm cho những
người đó. Một trong những người thất vọng trước quyết định này là William
Marbury. Ông cùng ba người cũng được bổ nhiệm làm thẩm phán hoà giải ở Hạt
Columbia đã quyết định yêu cầu Tòa án tối cao buộc Madison phải phong hàm. Họ
đã căn cứ trên Mục 13 của Đạo luật tư pháp năm 1789, cho phép Tòa án tối cao
được phát đặc lệnh yêu cầu thực hiện (writ of mandamus) – tức là
lệnh của tòa án yêu cầu một viên chức công quyền phải thực hiện một nhiệm vụ
chính thức, không tùy nghi.
|
The case placed Marshall in a predicament.
Some suggested that he disqualify himself because of his earlier involvement
as secretary of state. There was also the question of the Court's power. If
Marshall were to grant the writ, Madison (under Jefferson's orders) would be
almost certain to refuse to deliver the commissions. The Supreme Court would
then be powerless to enforce its order. However, if Marshall refused to grant
the writ, Jefferson would win by default.
|
Vụ việc này đã đặt Marshall vào một tình huống khó xử. Một
số người đề nghị ông tự rút lui vì những liên quan trước đây với tư cách là
Ngoại trưởng. Đồng thời cũng có người đặt nghi vấn về quyền lực của Tòa án.
Nếu Marshall phát đặc lệnh, gần như chắc chắn Madison sẽ từ chối phong hàm
(theo lệnh của Jefferson). Khi đó Tòa án tối cao không đủ quyền lực để cưỡng
chế thực hiện. Nhưng nếu Marshall từ chối phát đặc lệnh, thì Jefferson đương
nhiên sẽ thắng.
|
The decision Marshall fashioned from this
seemingly impossible predicament was evidence of sheer genius. He declared
Section 13 of the Judiciary Act of 1789 unconstitutional because it granted
original jurisdiction to the Supreme Court in excess of that specified in
Article III of the Constitution. Thus the Court's power to review and
determine the constitutionality of acts of Congress was established. This
decision is rightly seen as one of the single most important decisions the
Supreme Court has ever handed down. A few years later the Court also claimed the
right of judicial review over actions of state legislatures; during
Marshall's tenure it overturned more than a dozen state laws on
constitutional grounds.
|
Quyết định của Marshall trong tình huống khó xử có vẻ như
không lối thoát này đã cho thấy tài năng thiên bẩ m tuyệ t đối của ông.
Marshall đã tuyên bố Mục 13 của Đạo luật tư pháp năm 1789 là vi hiến, vì nó
trao quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án tối cao vượt quá phạm vi quy định trong
Điều III của Hiến pháp. Nhờ đó, quyền lực của Tòa án tối cao được xem xét lại
và quyết định các đạo luật của Quốc hội là vi hiến đã được thiết lập. Quyết
định này rõ ràng được coi là một trong những quyết định độc lập quan trọng
nhất của Tòa án tối cao. Một vài năm sau, Tòa án tối cao cũng khẳng định
quyền được xét duyệt tư pháp các hành động của cơ quan lập pháp bang; trong
nhiệm kỳ của Marshall, hơn một tá đạo luật bang đã bị bác bỏ trên cơ sở hiến
pháp.
|
The
Changing Issue Emphasis of the Supreme Court
Until approximately 1865 the legal
relationship between the national and state governments, or cases of
federalism, dominated the Court's docket. John Marshall believed in a strong
national government and did not hesitate to restrict state policies that
interfered with its activities. A case in point is Gibbons v. Ogden (1824),
in which the Court overturned a state monopoly over steamboat transportation
on the ground that it interfered with national control over interstate
commerce. Another good example of Marshall's use of the Court to expand the
federal government's powers came in McCulloch v. Maryland (1819), in which
the chief justice held that the Constitution permitted Congress to establish
a national bank. The Court's insistence on a strong national government did
not significantly diminish after Marshall's death. Roger Taney, who succeeded
Marshall as chief justice, served from 1836 to 1864. Although the Court's
position during this period was not as uniformly favorable to the federal
government, the Taney Court did not reverse the Marshall Court's direction.
|
Thay đổi trọng tâm
của Tòa án tối cao
Đến khoảng năm 1865, mối quan hệ pháp lý giữa chính quyền
quốc gia và bang, hay các vụ việc mang tính chế độ liên bang, là công việc
chủ yếu của Tòa án tối cao. John Marshall tin tưởng vào chế độ một chính
quyền quốc gia mạnh, và không hề ngần ngại trong việc hạn chế các chính sách
bang can thiệp vào hoạt động của nó. Một vụ việc thể hiện quan điểm này là
vụ Gibbons kiện Ogden (1824), trong đó Tòa án tối cao đã bác bỏ độc
quyền bang trong ngành vận chuyển bằng tàu hơi nước, trên cơ sở cho rằng
quyền độc quyền đó đã can thiệp vào việc kiểm soát thương mại xuyên bang của
quốc gia. Một ví dụ điển hình khác là việc Marshall sử dụng Tòa án tối cao để
mở rộng quyền lực của chính quyề n liên bang trong vụ McCulloch kiện
Bang Maryland (1819), trong đó vị Chánh án này đã phán quyết rằng Hiến
pháp cho phép Quốc hội được thiết lập một ngân hàng quốc gia. Sau khi
Marshall qua đời, Tòa án tối cao vẫn tiếp tục kiên định với chính sách ủng hộ
một nhà nước quốc gia mạnh. Roger Taney đã thay thế Marshall trở thành Chánh
án trong giai đoạn 1836-1864. Mặc dù trong giai đoạn này Tòa án tối cao không
hoàn tòan ủng hộ chính quyền liên bang, nhưng Taney đã không đảo ngược định
hướng do Marshall lập nên.
|
During the period 1865-1937 issues of economic
regulation dominated the Court's docket. The shift in emphasis from
federalism to economic regulation was brought on by a growing number of
national and state laws aimed at monitoring business activities. As such laws
increased, so did the number of cases challenging their constitutionality.
Early in this period the Court's position on regulation was mixed, but by the
1920s the bench had become quite hostile toward government regulatory policy.
Federal regulations were generally overturned on the ground that they were
unsupported by constitutional grants of power to Congress, whereas state laws
were thrown out mainly as violations of economic rights protected by the
Fourteenth Amendment.
|
Trong giai đoạn 1865–1937, các vấn đề điều tiết kinh tế
chiếm phần lớn thời gian của Tòa án tối cao. Việc chuyển trọng tâm từ chế độ
liên bang sang điều tiết kinh tế là do việc gia tăng số lượng các đạo luật
liên bang và bang nhằm giám sát các hoạt động kinh doanh. Do các đạo luật
tăng lên, số vụ đặt vấn đề về tính hợp hiến của chúng cũng tăng lên. Đầu giai
đoạn này, quan điểm của Tòa án về việc điều tiết còn nhiều điểm chưa thống
nhất, nhưng đến thập niên 1920 thì Tòa án trở nên khá đối nghịch với chính
sách điều tiết của chính quyền. Các quy định của liên bang thường bị hủy bỏ
trên cơ sở hiến pháp không trao quyền cho Quốc hội, còn các luật bang thường
bị loại bỏ vì vi phạm các quyền kinh tế được bảo vệ theo Tu chính án Hiến
pháp thứ mười bốn.
|
Since 1937 the Supreme Court has focused on
civil liberties concerns -- in particular, the constitutional guarantees of
freedom of expression and freedom of religion. In addition, an increasing
number of cases have dealt with procedural rights of criminal defendants.
Finally, the Court has decided a great number of cases concerning equal
treatment by the government of racial minorities and other disadvantaged
groups.
|
Từ năm 1937, Tòa án tối cao tập trung vào các vấn đề quyền
tự do công dân, đặc biệt là quyền hiến định được tự do ngôn luận và tự do tôn
giáo. Ngoài ra, ngày càng có nhiều vụ về quyền tố tụng của bị can hình sự.
Cuối cùng, Tòa án đã quyết định rất nhiều vụ về vấn đề chính quyền đối xử
công bằng với các nhóm chủng tộc và các nhóm thiệt thòi khác.
|
The
Supreme Court as a Policy Maker
The Supreme Court's role as a policy maker
derives from the fact that it interprets the law. Public policy issues come
before the Court in the form of legal disputes that must be resolved.
|
Tòa án tối cao với
tư cách là nhà lập chính sách
Vai trò lập chính sách của Tòa án tối cao xuất phát từ
thực tế nó là cơ quan giải thích luật. Các vấn đề chính sách công được đưa ra
xét xử trước Tòa dưới hình thức là các tranh chấp pháp lý cần giải quyết.
|
An excellent example may be found in the area
of racial equality. In the late 1880s many states enacted laws requiring the
separation of African Americans and whites in public facilities. In 1890, for
instance, Louisiana enacted a law requiring separate but equal railroad
accommodations for African Americans and whites. A challenge came two years
later. Homer Plessy, who was one-eighth black, protested against the
Louisiana law by refusing to move from a seat in the white car of a train
traveling from New Orleans to Covington, Louisiana. Arrested and charged with
violating the statute, Plessy contended that the law was unconstitutional.
The U.S. Supreme Court, in Plessy v. Ferguson (1896), upheld the Louisiana
statute. Thus the Court established the "separate-but-equal" policy
that was to reign for about 60 years. During this period many states required
that the races sit in different areas of buses, trains, terminals, and theaters;
use different restrooms; and drink from different water fountains. African
Americans were sometimes excluded from restaurants and public libraries.
Perhaps most important, African American students often had to attend
inferior schools.
|
Một ví dụ điển hình là trong lĩnh vực bình đẳng chủng tộc.
Cuối thập niên 1880, nhiều bang ban hành các đạo luật yêu cầu chia tách
phương tiện công ích riêng cho người Mỹ gốc Phi với người da trắng. Ví dụ,
năm 1890, bang Louisiana ban hành một đạo luật bắt buộc phải chia tách các
phương tiện đường sắt riêng cho người Mỹ gốc Phi và người da trắng, nhưng vẫn
đảm bảo công bằng. Hai năm sau, xuất hiện một sự việc gây nhiều phản đối. Lúc
đó, có một người da đen mười tám tuổi là Homer Plessy đã chống lại luật của
Louisiana và từ chối không chịu rời khỏi ghế dành cho người da trắng trên một
chuyến tàu đi từ New Orleans đến Covington, Louisiana. Khi bị bắt và bị buộc
tội đã vi phạm luật của Louisiana, Plessey đã khẳng định đây là đạo luật vi
hiến. Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã đưa ra phán quyết trong vụ Plessey kiện
Ferguson (1896), ủng hộ đạo luật trên. Qua đó, Tòa án đã thiết lập chính
sách “chia nhưng vẫn công bằng” tồn tại trong suốt 60 năm. Trong thời gian
này, nhiều bang đã quy định các chủng tộc phải ngồi tại các khu vực khác nhau
trên xe buýt, tàu hỏa, nhà ga, rạp hát; phải sử dụng các nhà vệ sinh khác
nhau, và lấy nước từ các vòi nước khác nhau. Đôi khi người Mỹ gốc Phi không
được vào các nhà hàng và thư viện công. Và có lẽ quan trọng nhất là các sinh
viên người Mỹ gốc Phi thường phải học ở các trường có chất lượng kém hơn.
|
Separation of the races in public schools was
contested in the famous case Brown v. Board of Education (1954). Parents of
African American schoolchildren claimed that state laws requiring or permitting
segregation deprived them of equal protection of the laws under the
Fourteenth Amendment. The Supreme Court ruled that separate educational
facilities are inherently unequal and, therefore, segregation constitutes a
denial of equal protection. In the Brown decision the Court laid to rest the
separate-but-equal doctrine and established a policy of desegregated public
schools.
|
Việc phân biệt chủng tộc trong trường công đã bị phản đối
trong một vụ kiện nổi tiếng, đó là vụ Brown kiện Hội đồng giáo
dục (1954). Phụ huynh của những trẻ em người Mỹ gốc Phi cho rằng các đạo
luật bang bắt buộc hoặc cho phép chia tách đã dẫn đến việc vi phạm nguyên tắc
luật pháp bảo vệ công bằng theo Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn. Tòa án
tối cao đã đưa ra phán quyết cho rằng việc chia tách phương tiện giáo dục vốn
là một quy định bất công, và do đó việc chia tách là vi phạm quyền bảo vệ
công bằng. Trong phán quyết của vụ Brown, Toà đã bác bỏ học thuyết “chia
nhưng vẫn công bằng” và thiết lập chính sách giáo dục công không chia tách.
|
In an average year the Court decides, with
signed opinions, between 80 and 90 cases. Thousands of other cases are disposed
of with less than the full treatment. Thus the Court deals at length with a
very select set of policy issues that have varied throughout the Court's
history. In a democracy, broad matters of public policy are presumed to be
left to the elected representatives of the people -- not to judicial
appointees with life terms. Thus, in principle U.S. judges are not supposed
to make policy. However, in practice judges cannot help but make policy to
some extent.
|
Bình quân một năm, Tòa đưa ra quyết định với các ý kiến
được ký tên trong khoảng 80–90 vụ. Hàng ngàn vụ khác được thu xếp mà không
cần phải xem xét toàn diện. Nhờ đó, Toà đã giải quyết rốt ráo một nhóm các
vấn đề chính sách rất chọn lọc, có điều chỉnh trong suốt quá trình lịch sử.
Trong một nền dân chủ, nhiều vấn đề chính sách công cần được giải quyết thông
qua những đại diện của người dân, chứ không phải những thẩm phán được chỉ
định có nhiệm kỳ trọn đời. Do đó, về nguyên tắc, các thẩm phán Hoa Kỳ không nên
lập chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế, mặc dù không chủ động nhưng các
thẩm phán vẫn lập chính sách ở một mức độ nào đó.
|
The Supreme Court, however, differs from
legislative and executive policy makers. Especially important is the fact
that the Court has no self-starting device. The justices must wait for
problems to be brought to them; there can be no judicial policy making if
there is no litigation. The president and members of Congress have no such
constraints. Moreover, even the most assertive Supreme Court is limited to
some extent by the actions of other policy makers, such as lower-court
judges, Congress, and the president. The Court depends upon others to
implement or carry out its decisions.
|
Nhưng Tòa án tối cao khác các nhà lập chính sách trong
ngành hành pháp hoặc lập pháp. Điểm đặc biệt quan trọng là Tòa án không có
phương tiện tự khởi xướng. Các thẩm phán phải đợi đến khi vấn đề được đưa ra
xét xử trước tòa; sẽ không có việc lập chính sách thông qua tư pháp nếu không
có kiện tụng. Tổng thống và các nghị sĩ không gặp phải sự hạn chế đó. Ngoài
ra, ngay cả tòa án quyết đoán nhất là Tòa án tối cao cũng bị hạn chế bởi hành
động của các nhà lập chính sách khác, như thẩm phán cấp dưới, Quốc hội và
Tổng thống. Toà án tối cao phải dựa vào các cơ quan đó thì quyết định của nó
mới được thi hành và thực hiện.
|
The
Supreme Court as Final Arbiter
The Supreme Court has both original and
appellate jurisdiction. Original jurisdiction means that a court has the
power to hear a case for the first time. Appellate jurisdiction means that a
higher court has the authority to review cases originally decided by a lower
court. The Supreme Court is overwhelmingly an appellate court since most of
its time is devoted to reviewing decisions of lower courts. It is the highest
appellate tribunal in the country. As such, it has the final word in the
interpretation of the Constitution, acts of legislative bodies, and treaties
-- unless the Court's decision is altered by a constitutional amendment or,
in some instances, by an act of Congress.
|
Tòa án tối cao với
tư cách là cơ quan xét xử cuối cùng
Tòa án tối cao vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm lẫn phúc
thẩm. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm nghĩa là tòa án có quyền xét xử một vụ việc
lần đầu tiên. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm nghĩa là một tòa án cấp cao hơn có
quyền xem xét lại các vụ việc đã được xét xử ở một tòa án cấp dưới. Tòa án
tối cao chủ yếu làm nhiệm vụ phúc thẩm vì phần lớn thời gian của nó được dành
để xem xét lại các phán quyết của tòa cấp dưới. Nó là cơ quan xét xử phúc
thẩm tối cao ở Hoa Kỳ. Do đó, nó là cơ quan có tiếng nói cuối cùng trong việc
giải thích Hiến pháp, các đạo luật của các cơ quan lập pháp và các hiệp ước –
trừ khi quyết định của Tòa bị thay đổi thông qua sửa đổi hiến pháp, hoặc
trong một số trường hợp là thông qua đạo luật của Quốc hội.
|
Since 1925 a device known as
"certiorari" has allowed the Supreme Court to exercise discretion
in deciding which cases it should review. Under this method a person may request
Supreme Court review of a lower court decision; then the justices determine
whether the request should be granted. If review is granted, the Court issues
a writ of certiorari, which is an order to the lower court to send up a
complete record of the case. When certiorari is denied, the decision of the
lower court stands.
|
Từ năm 1925, xuất hiện một công cụ gọi là “đặc lệnh lấy
lên xét xử lại” (certiorari), cho phép Tòa án tối cao được quyền tự quyết
định những vụ việc nào nó sẽ xem xét lại. Theo phương pháp này, một người có
thể yêu cầu Tòa án tối cao xem xét lại một phán quyết của tòa cấp dưới; và
các đại thẩm phán sẽ quyết định xem có đồng ý với yêu cầu đó hay không. Nếu
Tòa án tối cao đồng ý xem xét lại, nó sẽ phát “trát đòi lấy lên xét xử lại”,
tức là lệnh yêu cầu tòa cấp dưới chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc lên Tòa án tối cao.
Nếu yêu cầu đó bị từ chối, quyết định của toà cấp dưới vẫn giữ nguyên giá
trị.
|
The
Supreme Court at Work
The formal session of the Supreme Court lasts
from the first Monday in October until the business of the term is completed,
usually in late June or July. Since 1935 the Supreme Court has had its own
building in Washington, D.C. The imposing five-story marble building has the
words "Equal Justice Under Law" carved above the entrance. It
stands across the street from the U.S. Capitol. Formal sessions of the Court
are held in a large courtroom that seats 300 people. At the front of the
courtroom is the bench where the justices are seated. When the Court is in
session, the chief justice, followed by the eight associate justices in order
of seniority, enters through the purple draperies behind the bench and takes
a seat. Seats are arranged according to seniority with the chief justice in
the center, the senior associate justice on the chief justice's right, the
second-ranking associate justice on the left, and continuing alternately in
declining order of seniority. Near the courtroom are the conference room
where the justices decide cases and the chambers that contain offices for the
justices and their staffs.
|
Thực tế công việc
của Tòa án tối cao
Một kỳ làm việc chính thức của Toà án tối cao kéo dài từ
ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Mười, cho đến khi mọi công việc của năm kết
thúc, thường là và o cuố i tháng Sáu hoặc tháng Bảy. Từ năm 1935, Tòa án tối
cao có trụ sở riêng ở Washington, D. C; đó là một tòa nhà năm tầng oai nghiêm
ố p đá cẩm thạch, trên cửa chính có khắc dòng chữ “Equal Justice Under Law”
(“Công lý bình đẳng theo luật pháp”). Tòa nhà này nằm đối diện Đồi Capitol
(nơi đóng trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ) qua một con phố. Các phiên chính thức của
Tòa án tối cao diễn ra trong một phòng xét xử rộng cỡ 300 chỗ ngồi. Phía
trước phòng xét xử là một băng ghế dài để đại thẩm phán ngồi. Khi phiên xét
xử diễn ra, Chánh án bước vào qua một tấm phông màu tía phía sau băng ghế và
ngồi vào vị trí, tiếp theo là lần lượt các thẩm phán khác. Các ghế thẩm phán
được bố trí theo thứ tự thâm niên; Chánh án ngồi ở giữa, tiếp đó là thẩm phán
có thâm niên cao nhất ngồi bên phải, thẩm phán tiếp theo ngồi bên trái, và cứ
tiếp tục đổi bên như vậy theo thứ tự thâm niên giảm dần. Gần phòng xét xử là
phòng nghị án, tại đó các thẩm phán quyết định vụ việc, và các phòng khác là
nơi làm việc của thẩm phán và nhân viên tòa án.
|
The Court's term is divided into sittings of
approximately two weeks each, during which it meets in open session and holds
internal conferences, and recesses, during which the justices work behind
closed doors as they consider cases and write opinions. The 80 to 90 cases
per term that receive the Court's full treatment follow a fairly routine
pattern.
|
Mỗi kỳ làm việc của tòa được chia thành các đợt xét xử cứ
hai tuần một lần, trong đó có các phiên xét xử công khai và các cuộc họp nội
bộ, và các thời gian nghỉ để các thẩm phán làm việc sau những cánh cửa đóng
kín trong lúc xem xét vụ việc và viết ý kiến. Trong mỗi kỳ, Tòa án tối cao
xét xử rốt ráo khoảng 80–90 vụ, theo một mô hình tương đối đều đặn.
|
Oral
Argument. Oral arguments are generally scheduled on Monday through
Wednesday during the sittings. The sessions run from 10:00 a.m. until noon
and from 1:00 until 3:00 p.m. Because the procedure is not a trial or the
original hearing of a case, no jury is assembled and no witnesses are called.
Instead, the two opposing attorneys present their arguments to the justices.
The general practice is to allow 30 minutes for each side, although the Court
may decide that additional time is necessary. The Court can normally hear
four cases in one day. Attorneys presenting oral arguments are frequently
interrupted with questions from the justices. The oral argument is considered
very important by both attorneys and justices because it is the only stage in
the process that allows such personal exchanges.
|
Tranh tụng. Các cuộc tranh tụng thường được
bố trí từ thứ Hai đến thứ Tư của đợt xét xử. Phiên làm việc kéo dài từ 10 giờ
sáng đến 12 giờ trưa và từ 1 giờ chiều đến 3 giờ chiều. Do đây không phải là
thủ tục sơ thẩm nên không có bồi thẩm đoàn, và không gọi nhân chứng. Thay vào
đó, luật sư hai bên sẽ đưa ra luận điểm của mình trước các thẩm phán. Tập
quán chung là mỗi bên được tranh tụng 30 phút, tuy nhiên, Tòa có thể quyết
định cho thêm thời gian. Toà thường nghe tranh tụng bốn vụ trong một ngày.
Trong quá trình luật sư đưa ra luận điểm, họ thường bị các thẩm phán cắt
ngang để nêu câu hỏi. Tranh tụng là giai đoạn rất quan trọng đối với cả luật
sư lẫn thẩm phán vì đây là giai đoạn duy nhất trong trình tự xét xử có sự
trao đổi trực tiếp giữa các bên liên quan.
|
The
Conference. On Fridays preceding the two-week sittings the Court holds
conferences; during sittings it holds conferences on Wednesday afternoon and
all day Friday. At the Wednesday meeting the justices discuss the cases
argued on Monday. At the Friday conference they discuss the cases that were
argued on Tuesday and Wednesday, plus any other matters that need to be
considered. The most important of these other matters are the certiorari
petitions.
|
Nghị án. Vào các ngày thứ Sáu trước đợt
xét xử hai tuần, Tòa án tối cao tổ chức nghị án; và vào chiều thứ Tư và cả
ngày thứ Sáu của đợt xét xử, Toà cũng tiếp tục nghị án. Trong cuộc họp ngày
thứ Tư, các thẩm phán thảo luận về các vụ việc tranh tụng trong ngày thứ Hai.
Còn trong cuộc họp ngày thứ Sáu, họ trao đổi về các vụ việc tranh tụng vào
ngày thứ Ba và thứ Tư, cộng thêm các vấn đề khác cần xem xét. Vấn đề quan
trọng nhất trong số các vấn đề khác được xem xét là các đơn xin phát “trát
đòi lấy lên xét xử lại”.
|
Prior to the Friday conference each justice is
given a list of the cases that will be discussed. The conference begins at
about 9:30 or 10:00 a.m. and runs until 5:30 or 6:00 p.m. As the justices
enter the conference room they shake hands and take their seats around a
rectangular table. They meet behind locked doors, and no official record is
kept of the discussions. The chief justice presides over the conference and
offers an opinion first in each case. The other justices follow in descending
order of seniority.
|
Trước cuộc họp ngày thứ Sáu, mỗi thẩm phán được cung cấp
một danh sách các vụ việc sẽ được thảo luận. Cuộc họp bắt đầu khoảng 9 giờ 30
hoặc 10 giờ sáng, và kéo dài đến 5 giờ 30 hoặc 6 giờ chiều. Khi bước vào
phòng nghị án, các thẩm phán bắt tay nhau và ngồi vào vị trí quanh một chiếc
bàn hình chữ nhật. Cuộc họp được tiến hành sau những cánh cửa đóng kín, và
không có bất cứ ghi chép chính thức nào về nội dung thảo luận. Chánh án là
người chủ toạ phiên họp và là người đầu tiên đưa ra ý kiến đối với mỗi vụ việc.
Các thẩm phán khác lần lượt đưa ra ý kiến theo thứ tự thâm niên.
|
A quorum for a decision on a case is six
members; obtaining a quorum is seldom difficult. Cases are sometimes decided
by fewer than nine justices because of vacancies, illnesses, or nonparticipation
resulting from possible conflicts of interest. Supreme Court decisions are
made by a majority vote. In case of a tie the lower-court decision is upheld.
|
Số thẩm phán tối thiểu để quyết định một vụ việc là sáu
người; số lượng tối thiểu này thường được đáp ứng không mấy khó khăn. Và
nhiều lúc các vụ việc được quyết định với số lượng thẩm phán ít hơn chín
người, do vắng mặt, ốm đau, không tham gia do mâu thuẫn lợi ích. Quyết định
của Tòa án tối cao được thông qua theo nguyên tắc đa số. Trong trường hợp hai
bên có số phiếu ngang nhau, thì quyết định của tòa cấp dưới được giữ nguyên.
|
Opinion
Writing. After a tentative decision has been reached in conference, the
next step is to assign the Court's opinion to an individual justice. The
chief justice, if voting with the majority, either writes the opinion or
assigns it to another justice who voted with the majority. When the chief
justice votes with the minority, the most senior justice in the majority
makes the assignment.
|
Viết ý kiến. Sau khi đạt được quyết định tạm
thời tại phiên nghị án, bước tiếp theo là giao việc viết ý kiến cho cá nhân
một thẩm phán. Nếu Chánh án bỏ phiếu ở bên đa số, thì ông chính là người viết
ý kiến hoặc giao việc đó cho một thẩm phán bên phía đa số. Khi Chánh án bỏ phiếu
ở bên thiểu số, thì thẩm phán có thâm niên cao nhất bên phía đa số sẽ viết ý
kiến.
|
After the conference the justice who will
write the Court's opinion begins work on an initial draft. Other justices may
work on the case by writing alternative opinions. The completed opinion is
circulated to justices in both the majority and the minority groups. The
writer seeks to persuade justices originally in the minority to change their
votes, and to keep his or her majority group intact. A bargaining process occurs,
and the wording of the opinion may be changed in order to satisfy other
justices or obtain their support. A deep division in the Court makes it
difficult to achieve a clear, coherent opinion and may even result in a shift
in votes or in another justice's opinion becoming the Court's official
ruling.
|
Sau cuộc họp, thẩm phán chịu trách nhiệm viết ý kiến của
Tòa sẽ viết bản dự thảo ban đầu. Các thẩm phán khác có thể viết các ý kiến
riêng. Bản ý kiến hoàn chỉnh sẽ được chuyển cho tất cả các thẩm phán ở cả hai
nhóm đa số và thiểu số. Người viết dự thảo thường tìm cách thuyết phục các
thẩm phán bên phía thiểu số thay đổi quan điểm, và cố gắng giữ nguyên quan
điểm của nhóm đa số. Một quá trình thương lượng sẽ diễn ra, và câu chữ của
bản ý kiến có thể được thay đổi nhằm thỏa mãn các thẩm phán khác, và được họ
ủng hộ. Nếu có sự phân tán trong Tòa, thì sẽ rất khó đạt được một ý kiến
thống nhất rõ ràng và thậm chí có thể dẫn đến việc thay đổi kết quả bỏ phiếu
hoặc lấy ý kiến của một thẩm phán khác làm phán quyết chính thức của Tòa.
|
In most cases a single opinion does obtain
majority support, although few rulings are unanimous. Those who disagree with
the opinion of the Court are said to dissent. A dissent does not have to be
accompanied by an opinion; in recent years, however, it usually has been.
Whenever more than one justice dissents, each may write an opinion or all may
join in a single opinion.
|
Mặc dù ít vụ đạt được đồng thuận, nhưng hầu hết các vụ đều
được đa số ủng hộ. Những người không thống nhất với quan điểm của Tòa được
gọi là bất đồng. Một người bất đồng không nhất thiết phải viết ý kiến bất
đồng ra; tuy nhiên, trong vài năm lại đây, xu hướng viết ý kiến bất đồng trở
nên phổ biến. Khi có nhiều thẩm phán bất đồng, họ có thể viết ý kiến riêng
hoặc tập hợp nhau lại thành một ý kiến bất đồng chung.
|
On occasion a justice will agree with the
Court's decision but differ in his or her reason for reaching that
conclusion. Such a justice may write what is called a concurring opinion. An
opinion labeled "concurring and dissenting" agrees with part of a
Court ruling but disagrees with other parts. Finally, the Court occasionally
issues a per curiam opinion -- an unsigned opinion that is usually quite
brief. Such opinions are often used when the Court accepts the case for
review but gives it less than full treatment. For example, it may decide the
case without benefit of oral argument and issue a per curiam opinion to
explain the disposition of the case.
|
Đôi lúc một thẩm phán thống nhất với quyết định của Tòa
nhưng có nguyên cớ khác để dẫn đến kết luận đó. Trong trường hợp này, thẩm
phán đó sẽ viết một văn bản gọi là ý kiến đồng quy. Một ý kiến được ghi là
“đồng quy và bất đồng” nếu nó nhất trí với một phần quyết định của Tòa nhưng
không thống nhất với các phần khác. Cuối cùng, đôi lúc Tòa có thể đưa ra một
ý kiến “per curiam” (theo tòa án) – tức là một loại ý kiến không ký tên và
thường là rất ngắn. Loại ý kiến đó thường được dùng khi Tòa chấp nhận xem xét
lại một vụ việc, nhưng không giải quyết triệt để. Ví dụ, Toà có thể quyết
định vụ việc mà không cần tranh tụng và đưa ra một bản ý kiến “per curiam” để
giải thích cho cách giải quyết vụ việc.
|
THE U.S.
COURTS OF APPEALS
The courts of appeals receive less media
coverage than the Supreme Court, but they are very important in the U.S.
judicial system. Considering that the Supreme Court hands down decisions with
full opinions in only 80 to 90 cases each year, it is apparent that the
courts of appeals are the courts of last resort for most appeals in the
federal court system.
|
TÒA PHÚC THẨM HOA KỲ
Các tòa phúc thẩm ít được báo giới chú ý hơn so với Tòa án
tối cao, nhưng chúng đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tư pháp Hoa
Kỳ. Do Tòa án tối cao chỉ đưa ra quyết định với ý kiến đầy đủ trong khoảng
80–90 vụ trong một năm, nên rõ ràng các tòa phúc thẩm thường là các tòa cuối
cùng giải quyết hầu hết các đơn phúc thẩm trong hệ thống tòa án liên bang.
|
Circuit
Courts: 1789-1891
The Judiciary Act of 1789 created three
circuit courts (courts of appeals), each composed of two justices of the
Supreme Court and a district judge. The circuit court was to hold two
sessions each year in each district within the circuit. The district judge
became primarily responsible for establishing the circuit court's workload.
The two Supreme Court justices then came into the local area and participated
in the cases. This practice tended to give a local rather than national focus
to the circuit courts.
|
Các tòa lưu động:
1789–1891
Đạo luật tư pháp năm 1789 đã lập nên ba tòa lưu động (tòa
phúc thẩm), mỗi tòa bao gồm hai thẩm phán của Tòa án tối cao và một thẩm phán
hạt. Thẩm phán hạt trở thành người chịu trách nhiệm chính trong việc giải
quyết khối lượng công việc của tòa lưu động. Hai thẩm phán của Tòa án tối cao
thường đi đến từng địa phương và tham gia vào các vụ việc. Tập quán này tạo
ra đặc điểm thiên về địa phương hơn là quốc gia của tòa lưu động.
|
The circuit court system was regarded from the
beginning as unsatisfactory, especially by Supreme Court justices, who
objected to the traveling imposed upon them. Attorney General Edmund Randolph
and President Washington urged relief for the Supreme Court justices.
Congress made a slight change in 1793 by altering the circuit court
organization to include only one Supreme Court justice and one district
judge. In the closing days of President John Adams's administration in 1801,
Congress eliminated circuit riding by the Supreme Court justices, authorized the
appointment of 16 new circuit judges, and greatly extended the jurisdiction
of the lower courts.
|
Ngay từ đầu, hệ thống tòa lưu động đã được coi là không
đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là đối với các thẩm phán của Tòa án tối cao, bị
buộc phải đi lại quá nhiều. Tổng chưởng lý Edmund Randolph và Tổ ng thống
Washington đã thúc giục phải giảm bớt gánh nặng cho các thẩm phán Tòa án tối
cao. Quốc hội đã sửa lại đôi chút vào năm 1793, chỉ yêu cầu tòa lưu động phải
có một thẩm phán của Tòa án tối cao và một thẩm phán hạt. Vào cuối nhiệm kỳ
của Tổng thống John Adam năm 1801, Quốc hội đã bỏ yêu cầu đi lại đối với thẩm
phán Tòa án tối cao, và bổ nhiệm 16 thẩm phán lưu động mới, qua đó đã mở rộng
rất nhiều thẩm quyền xét xử của các tòa cấp dưới.
|
The new administration of Thomas Jefferson
strongly opposed this action, and Congress repealed it. The Circuit Court Act
of 1802 restored circuit riding by Supreme Court justices and expanded the
number of circuits. However, the legislation allowed the circuit court to be
presided over by a single district judge. Such a change may seem slight, but
it proved to be of great importance. Increasingly, the district judges began
to assume responsibility for both district and circuit courts. In practice,
then, original and appellate jurisdiction were both in the hands of the
district judges.
|
Nhiệm kỳ của Tổng thống Thomas Jefferson tiếp đó đã cực
lực phản đối, và Quốc hội đã phải bãi bỏ quyết định này. Đạo luật tòa lưu
động năm 1802 đã quay trở lại chế độ lưu động của các thẩm phán Toà án tối
cao và tăng số vùng. Tuy nhiên cơ quan lập pháp cho phép tòa lưu động có thể
được tổ chức với chỉ một thẩm phán hạt làm chủ tọa. Thay đổi đó trông có vẻ
nhỏ nhặt, nhưng thực chất có ý nghĩa rất quan trọng. Các thẩm phán hạt ngày
càng chịu trách nhiệm nhiều đối với cả tòa án hạt lẫn tòa lưu động. Thực tế,
lúc đó, thẩm quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đều nằm trong tay thẩm phán
hạt.
|
The next major step in the development of the
courts of appeals did not come until 1869, when Congress approved a measure
that authorized the appointment of nine new circuit judges and reduced the
Supreme Court justices' circuit court duty to one term every two years.
Still, the High Court was flooded with cases because there were no
limitations on the right of appeal to the Supreme Court.
|
Phải đến tận năm 1869 mới diễn ra bước phát triển tiếp
theo của tòa án phúc thẩm. Khi đó, Quốc hội đã chấp thuận một giải pháp cho
phép bổ nhiệm chín thẩm phán lưu động mới và giảm trách nhiệm xét xử lưu động
của các thẩm phán Tòa án tối cao, xuống còn một vòng trong hai năm. Tuy
nhiên, Tòa này vẫn bị tồn đọng rất nhiều vụ vì không có giới hạn về quyền
kháng cáo lên Tòa án tối cao.
|
The
Courts of Appeals: 1891 to the Present
On March 3, 1891, the Evarts Act was signed
into law, creating new courts known as circuit courts of appeals. These new
tribunals were to hear most of the appeals from district courts. The old
circuit courts, which had existed since 1789, also remained. The new circuit
court of appeals was to consist of one circuit judge, one circuit court of
appeals judge, one district judge, and a Supreme Court justice. Two judges
constituted a quorum in these new courts.
|
Tòa phúc thẩm: Từ
năm 1891 đến nay
Ngày 3 tháng Ba 1891, Đạo luật Evarts đã được ký ban hành,
thành lập các tòa án mới với tên gọi là toà phúc thẩm vùng. Các cơ quan xét
xử mới thành lập này sẽ xét xử hầu hết các kháng cáo từ tòa án hạt. Tòa lưu
động được thành lập từ năm 1789 vẫn tiếp tục tồn tại. Các tòa phúc thẩm vùng
mới thành lập bao gồm một thẩm phán lưu động, một thẩm phán tòa phúc thẩm
vùng, một thẩm phán hạt và một thẩm phán Tòa án tối cao. Hai thẩm phán là số
lượng tối thiểu bắt buộc ở tòa án này.
|
Following passage of the Evarts Act, the
federal judiciary had two trial tribunals: district courts and circuit
courts. It also had two appellate tribunals: circuit courts of appeals and
the Supreme Court. Most appeals of trial decisions were to go to the circuit
court of appeals, although the act also allowed direct review in some
instances by the Supreme Court. In short, creation of the circuit courts of
appeals released the Supreme Court from many petty types of cases. Appeals
could still be made, but the High Court would now have much greater control
over its own workload. Much of its former caseload was thus shifted to the
two lower levels of the federal judiciary.
|
Sau khi thông qua Đạo luật Evarts, tư pháp liên bang có
hai cấp sơ thẩm: đó là các tòa án hạt và toà lưu động. Đồng thời cũng có hai
cấp phúc thẩm là tòa phúc thẩm vùng và Tòa án tối cao. Mặc dù luật cho phép
trong một số trường hợp Toà án tối cao được trực tiếp xem xét lại vụ án,
nhưng phần lớn các phiên phúc thẩm quyết định sơ thẩm diễn ra ở tòa phúc thẩm
vùng. Tóm lại, việc thành lập các tòa phúc thẩm vùng đã giải tỏa bớt gánh
nặng của Tòa án tối cao khỏi các vụ nhỏ lẻ. Kháng cáo kháng nghị vẫn có thể
được đưa ra, nhưng Tòa án tối cao đã có quyền kiểm soát lớn hơn đối với khối
lượng công việc của nó. Phần lớn khối lượng công việc trước đây của nó có thể
được chuyển cho hai cấp xét xử liên bang thấp hơn.
|
The next step in the evolution of the courts
of appeals came in 1911. In that year Congress passed legislation abolishing
the old circuit courts, which had no appellate jurisdiction and frequently
duplicated the functions of district courts.
|
Bước phát triển tiếp theo của toà phúc thẩm diễn ra vào
năm 1911. Lúc đó, Quốc hội đã thông qua luật loại bỏ các tòa lưu động kiểu
cũ, vốn không còn thẩm quyền xét xử phúc thẩm và nhiều lúc bị trùng lặp chức
năng với tòa án hạt.
|
Today the intermediate appellate tribunals are
officially known as courts of appeals, but they continue to be referred to
colloquially as circuit courts. There are now 12 regional courts of appeals,
staffed by 179 authorized courts of appeals judges. The courts of appeals are
responsible for reviewing cases appealed from federal district courts (and in
some cases from administrative agencies) within the boundaries of the circuit.
A specialized appellate court came into existence in 1982 when Congress
established the Federal Circuit, a jurisdictional rather than a geographic
circuit.
|
Ngày nay, cơ quan xét xử phúc thẩm trung gian được gọi tên
chính thức là tòa phúc thẩm, nhưng câu chữ thông tục đôi khi vẫn gọi là toà
lưu động. Hiện có 12 tòa phúc thẩm vùng, với 179 thẩm phán tòa phúc thẩm có
thẩm quyền. Tòa phúc thẩm chịu trách nhiệm xem xét lại các vụ việc bị kháng
cáo kháng nghị từ toà án hạt liên bang (một số vụ việc xuất phát từ cơ quan
hành chính) trong phạm vi vùng của nó. Một tòa phúc thẩm chuyên biệt được
Quốc hội thành lập năm 1982 là Tòa phúc thẩm khu vực liên bang; đây là một
khu vực mang tính tài phán chứ không phải là khu vực địa lý.
|
The
Review Function of the Courts of Appeals
Most of the cases reviewed by the courts of
appeals originate in the federal district courts. Litigants disappointed with
the lower-court decision may appeal the case to the court of appeals of the
circuit in which the federal district court is located. The appellate courts
have also been given authority to review the decisions of certain
administrative agencies.
|
Chức năng xem xét
lại của toà phúc thẩm
Hầu hết các vụ việc được tòa phúc thẩm xem xét lại đều bắt
đầu từ các tòa án hạt liên bang. Cá c bên nguyên đơn không thỏa mãn với quyết
định của tòa cấp dưới có thể kháng cáo lên tòa phúc thẩm vùng có tòa án hạt
liên bang đó. Các toà phúc thẩm cũng có quyền xem xét lại quyết định của một
số cơ quan hành chính.
|
Because the courts of appeals have no control
over which cases are brought to them, they deal with both routine and highly
important matters. At one end of the spectrum are frivolous appeals or claims
that have no substance and little or no chance for success. At the other end
of the spectrum are the cases that raise major questions of public policy and
evoke strong disagreement. Decisions by the courts of appeals in such cases
are likely to establish policy for society as a whole, not just for the
specific litigants. Civil liberties, reapportionment, religion, and education
cases provide good examples of the kinds of disputes that may affect all
citizens.
|
Do tòa phúc thẩm không thể kiểm soát vụ việc nào sẽ được
xét xử theo trình tự phúc thẩm, nên nó phải giải quyết cả những công việc
hàng ngày lẫn những việc rất quan trọng. Một đằng là các kháng cáo và kiến
nghị nhỏ nhặt, không có ý nghĩa gì hoặc rất ít cơ hội thay đổi bản án. Nhưng
mặt khác, cũng có các vụ việc phát sinh những vấn đề lớn về chính sách công
và nảy sinh nhiều bất đồng. Quyết định của tòa phúc thẩm trong các vụ đó có
nhiều khả năng sẽ tạo lập chính sách chung cho tòa n xã hội, chứ không chỉ những
nguyên đơn liên quan. Các vụ việc về quyền tự do công dân, phân chia địa hạt,
tôn giáo và giáo dục là những ví dụ điển hình của loại tranh chấp có thể ảnh
hưởng đến mọi công dân.
|
There are two purposes of review in the courts
of appeals. The first is error correction. Judges in the various circuits are
called upon to monitor the performance of federal district courts and federal
agencies and to supervise their application and interpretation of national
and state laws. In doing so, the courts of appeals do not seek out new
factual evidence, but instead examine the record of the lower court for
errors. In the process of correcting errors the courts of appeals also settle
disputes and enforce national law.
|
Việc xem xét lại của tòa phúc thẩm có hai mục đích. Thứ
nhất là sửa lỗi. Thẩm phán vùng thường được kêu gọi đứng ra giám sát hoạt
động của các tòa án hạt liên bang và cơ quan hành pháp liên bang, và giám sát
việc các cơ quan này áp dụng và diễn giải luật liên bang và bang như thế nào.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, tòa phúc thẩm không cần tìm kiếm bằng chứng tình
tiết mới, mà là kiểm tra ghi chép của toà cấp dưới để tìm lỗi. Trong quá
trình sửa lỗi, tòa phúc thẩm cũng đồng thời giải quyết tranh chấp và thực thi
luật quốc gia.
|
The second function is sorting out and
developing those few cases worthy of Supreme Court review. The circuit judges
tackle the legal issues earlier than the Supreme Court justices and may help
shape what they consider review-worthy claims. Judicial scholars have found
that appealed cases often differ in their second hearing from their first.
|
Chức năng thứ hai là phân loại và phát triển một số ít các
vụ việc cần được Tòa án tối cao xem xét lại. Thẩm phán vùng giải quyết các
vấn đề pháp lý trước khi đưa lên các thẩm phán Tòa án tối cao, và có thể giúp
xếp loại những kiến nghị nào cần được xem xét lại. Các học giả tư pháp nhận
thấy rằng thường có sự khác nhau giữa phiên xét xử lần đầu và lần thứ hai
trong các vụ được phúc thẩm.
|
The
Courts of Appeals as Policy Makers
The Supreme Court's role as a policy maker
derives from the fact that it interprets the law, and the same holds true for
the courts of appeals. The scope of the courts of appeals' policy-making role
takes on added importance, given that they are the courts of last resort in
the vast majority of cases.
|
Tòa phúc thẩm với tư
cách là nhà lập chính sách
Vai trò lập chính sách của Tòa án tối cao xuất phát từ
thực tế nó là cơ quan giải thích luật, và đối với toà phúc thẩm cũng tương tự
như vậy. Phạm vi lập chính sách của tòa phúc thẩm thậm chí có lẽ còn quan trọng
hơn, vì trong phần lớn vụ việc, tòa phúc thẩm là cơ quan xét xử cuối cùng.
|
As an illustration of the far-reaching impact
of circuit court judges, consider the decision in a case involving the Fifth
Circuit. For several years the University of Texas Law School (as well as
many other law schools across the country) had been granting preference to
African American and Mexican American applicants to increase the enrollment
of minority students. This practice was challenged in a federal district
court on the ground that it discriminated against white and nonpreferred
minority applicants in violation of the Fourteenth Amendment. On March 18,
1996, a panel of Fifth Circuit judges ruled in Hopwood v. Texas that the
Fourteenth Amendment does not permit the school to discriminate in this way
and that the law school may not use race as a factor in law school
admissions. The U.S. Supreme Court denied a petition for a writ of certiorari
in the case, thus leaving it the law of the land in Texas, Louisiana, and Mississippi,
the states comprising the Fifth Circuit. Although it may technically be true
that only schools in the Fifth Circuit are affected by the ruling, an
editorial in The National Law Journal indicates otherwise, noting that while
some "might argue that Hopwood's impact is limited to three states in
the South..., the truth is that across the country law school (and other)
deans, fearing similar litigation, are scrambling to come up with an
alternative to affirmative action."
|
Để minh họa cho tác động quan trọng của các thẩm phán tòa
án vùng, chúng ta hãy xem xét một quyết định của Tòa phúc thẩm vùng số 5.
Trong nhiều năm, Trường Luật thuộc Đại học Texas (cũng như nhiều trường luật
khác ở Mỹ) đã ưu tiên cho người Mỹ gốc Phi và người Mỹ gốc Mêhicô nhằm tăng
số lượng các sinh viên thiểu số. Tập quán này đã bị khiếu kiện tại một tòa án
hạt liên bang trên cơ sở là nó đã phân biệt đối xử đối với người da trắng và
các nhóm thiểu số không được ưu tiên, vi phạm Tu chính án Hiến pháp thứ mười
bốn. Ngày 18 tháng Ba 1996, một cơ quan xét xử gồm các thẩm phán Vùng số 5 đã
ra phán quyết trong vụHopwood kiện Bang Texas, trong đó nêu rõ Tu chính án
Hiến pháp thứ mười bốn không cho phép các trường được phân biệt đối xử như
vậy, và trường luật này không được sử dụng chủng tộc làm một yếu tố xét
tuyển. Đơn kháng cáo được gửi lên yêu cầu Tòa án tối cao phát đặc lệnh (trát
đòi) lấy lên xét xử, nhưng đã bị từ chối. Từ đó phán quyết này đã trở thành
luật của các bang Texas, Louisiana và Mississippi (các bang thuộc Vùng số 5).
Mặc dù về mặt kỹ thuật, chỉ các trường ở Vùng số 5 bị tác động bởi phán quyết
này, nhưng một bài xã luận của Tạp chí luật quốc giađã cho thấy điều
khác hẳn, rằng mặc dù một số người “có thể lý luận rằng phán quyết trong
vụ Hopwood chỉ được áp dụng ở ba bang miền Nam. . . , nhưng thực tế
là hiệu trưởng tất cả các trường luật (và các trường khác) trên toàn quốc, do
sợ bị kiện tương tự, đã phải tìm các cách khác thay thế cho hành động ưu tiên
các nhóm thiểu số”.
|
The
Courts of Appeals at Work
The courts of appeals do not have the same
degree of discretion as the Supreme Court to decide whether to accept a case.
Still, circuit judges have developed methods for using their time as
efficiently as possible.
|
Thực tế công việc
của tòa phúc thẩm
Tòa phúc thẩm khác với Tòa án tối cao là chúng không được
quyết định vụ nào được xét xử, và vụ nào thì không. Nhưng các thẩm phán vùng
cũng đã xây dựng nhiều phương pháp để sử dụng thời giờ của họ một cách hiệu
quả nhất.
|
Screening. During the screening
stage the judges decide whether to give an appeal a full review or to dispose
of it in some other way. The docket may be reduced to some extent by
consolidating similar claims into single cases, a process that also results
in a uniform decision. In deciding which cases can be disposed of without
oral argument, the courts of appeals increasingly rely on law clerks or staff
attorneys. These court personnel read petitions and briefs and then submit
recommendations to the judges. As a result, many cases are disposed of
without reaching the oral argument stage.
|
Rà soát sơ bộ. Trong giai đoạn rà soát sơ bộ,
thẩm phán quyết định sẽ xem xét phúc thẩm một cách triệt để, hay giải quyết
vụ việc theo hình thức khác. Khối lượng án tồn đọng có thể được giảm bớt bằng
cách tập hợp các kháng nghị tương tự vào một vụ xét xử chung, và kết quả cũng
sẽ là một bản án chung. Để quyết định vụ nào sẽ được giải quyết mà không cần
tranh tụng, các tòa án phúc thẩm ngày càng phải dựa nhiều vào thư ký luật
hoặc các chưởng lý tham mưu. Những người này đọc đơn từ và tóm tắt lại, sau
đó gửi đề xuất lên các thẩm phán. Do đó, nhiều vụ việc được giải quyết mà
không thông qua giai đoạn tranh tụng.
|
Three-Judge
Panels.
Those cases given the full treatment are normally considered by panels of
three judges rather than by all the judges in the circuit. This means that
several cases can be heard at the same time by different three-judge panels,
often sitting in different cities throughout the circuit.
|
Ban xét xử gồm ba
thẩm phán. Các vụ
việc được giải quyết triệt để thường được xem xét bởi một cơ quan xét xử gồm
ba thẩm phán, chứ không phải toàn bộ thẩm phán phúc thẩm trong vùng. Tức là
nhiều vụ việc có thể được xét xử đồng thời bởi các nhóm ba thẩm phán khác
nhau, thường ngồi tại các thành phố khác nhau trong vùng.
|
En Banc
Proceedings. Occasionally, different three-judge panels within the same
circuit may reach conflicting decisions in similar cases. To resolve such
conflicts and to promote circuit unanimity, federal statutes provide for an
"en banc" (Old French for high seat)procedure in which all the
circuit's judges sit together on a panel and decide a case. The exception to
this general rule occurs in the large Ninth Circuit where assembling all the
judges becomes too cumbersome. There, en banc panels normally consist of 11
judges. The en banc procedure may also be used when the case concerns an
issue of extraordinary importance.
|
Thủ tục tố tụng toàn
thẩm (En Banc). Đôi
lúc, các nhóm thẩm phán khác nhau trong cùng một vùng có thể đưa ra các phán
quyết mâu thuẫn trong các vụ tương tự nhau. Để giải quyết mâu thuẫn và tăng
cường tính nhất quán trong vùng, luật liên bang quy định thủ tục tố tụng “en
banc” (toàn thẩm) (một từ cổ của Pháp, chỉ các ghế ngồi trên cao), trong đó
tất cả các thẩm phán phúc thẩm ngồi lại với nhau trong cùng một cơ quan xét
xử và quyết định một vụ việc. Ngoại lệ đối với quy tắc này xuất hiện ở Vùng
số 9, do ở đây việc tập hợp được tất cả các thẩm phán phúc thẩm là quá khó
khăn. Do đó, cơ quan xét xử “en banc” chỉ gồm 11 thẩm phán. Thủ tục tố tụng
“en banc” cũng có thể được sử dụng để giải quyết các vụ việc có tầm quan
trọng đặc biệt.
|
Oral
Argument. Cases that have survived the screening process and have not
been settled by the litigants are scheduled for oral argument. Attorneys for
each side are given a short amount of time (as little as 10 minutes) to
discuss the points made in their written briefs and to answer questions from
the judges.
|
Tranh tụng. Các vụ việc lọt qua vòng rà soát
sơ bộ và chưa được các bên liên quan tự giải quyết thì sẽ được đưa ra tranh
tụng. Luật sư của mỗi bên chỉ được cho phép một thời lượng ngắn (có thể chỉ
khoảng 10 phút); trong thời gian đó họ sẽ trao đổi về các điểm nêu trong văn
bản tóm lược của mình, và phải trả lời các câu hỏi của thẩm phán.
|
The
Decision. Following the oral argument, the judges may confer briefly and,
if they are in agreement, may announce their decision immediately. Otherwise,
a decision will be announced only after the judges confer at greater length.
Following the conference, some decisions will be announced with a brief order
or per curiam opinion of the court. A small portion of decisions will be
accompanied by a longer, signed opinion and perhaps even dissenting and
concurring opinions. Recent years have seen a general decrease in the number
of published opinions, although circuits vary in their practices.
|
Phán quyết. Sau giai đoạn tranh tụng, các
thẩm phán có thể nghị án trong một thời gian ngắn, và nếu thống nhất được, họ
sẽ công bố phán quyết ngay lậ p tức. Nếu không, phán quyết sẽ được đưa ra sau
khi kéo dài thời gian nghị án. Sau khi nghị án, một số quyết định sẽ được
công bố, kèm theo một lệnh ngắn hoặc văn bản ý kiến không ký tên của tòa. Một
số ít phán quyết được đưa ra kèm theo các ý kiến dài hơn, được các thẩm phán
ký tên, hay thậm chí là các ý kiến bất đồng và đồng quy. Dù tập tục tòa phúc
thẩm ở các vùng là khác nhau, nhưng gần đây có xu hướng chung là giảm bớt số
lượng các ý kiến được lập thành văn bản và công khai hóa.
|
U.S.
DISTRICT COURTS
The U.S. district courts represent the basic
point of input for the federal judicial system. Although some cases are later
taken to a court of appeals or perhaps even to the Supreme Court, most
federal cases never move beyond the U.S. trial courts. In terms of sheer
numbers of cases handled, the district courts are the workhorses of the
federal judiciary. However, their importance extends beyond simply disposing
of a large number of cases.
|
TÒA ÁN HẠT Ở HOA KỲ
Tòa án hạt Hoa Kỳ là đơn vị nhỏ nhất của hệ thống tư pháp
liên bang. Mặc dù một số vụ việc được kháng cáo kháng nghị lên tòa phúc thẩm
hay thậm chí là Toà án tối cao, nhưng hầu hết các vụ án liên bang đều chỉ
được xét xử ở các tòa sơ thẩm Hoa Kỳ. Nếu xét về mặt số lượng tuyệt đối các
vụ được xét xử, thì tòa án hạt là những con ngựa thồ của ngành tư pháp liên
bang. Nhưng tầm quan trọng của nó không chỉ đơn thuần là số vụ được xét xử.
|
The
First District Courts
Congress made the decision to create a
national network of federal trial courts when it passed the Judiciary Act of
1789. Section 2 of the act established 13 district courts by making each of
the 11 states then in the Union a district, and by making the parts of
Massachusetts and Virginia that were to become Maine and Kentucky into
separate districts. That organizational scheme established the practice,
which still exists, of honoring state boundary lines in drawing districts.
|
Các tòa án hạt đầu
tiên
Trong Đạo luật tư pháp năm 1789, Quốc hội đã quyết định
thành lập một mạng lưới các tòa sơ thẩm liên bang. Mục 2 của luật này đã lập
nên 13 tòa án hạt, trong đó quy định mỗi trong số 11 bang lúc đó trong Liên
minh là một hạt, một phần của Massachusetts và Virginia sau này trở thành
Maine và Kentucky mỗi nơi là một hạt. Cơ chế tổ chức này đã tạo lập tập quán
vẫn duy trì đến ngày nay, đó là phân chia địa giới tòa án hạt theo ranh giới
bang.
|
The
First District Judges
Each federal district court was to be presided
over by a single judge who resided in the district. As soon as this became
known, President Washington began receiving letters from individuals desiring
appointment to the various judgeships. Many asked members of Congress or Vice
President John Adams to recommend them to President Washington. Personal
applications were not necessarily successful and were not the only way in
which names came to the president's attention. Harry Innes, for example, was
not an applicant for the Kentucky judgeship but received it after being
recommended by a member of Congress from his state.
|
Các thẩm phán hạt
đầu tiên
Mỗi tòa án hạt liên bang có một thẩm phán sống ở hạt đó.
Ngay khi thông tin này được đưa ra, Tổng thống Washington bắt đầu nhận được
thư từ của nhiều người xin được bổ nhiệm. Nhiều người đề nghị các nghị sĩ và
Phó tổng thống John Adams đề cử với Tổng thống Washington. Nhưng ứng cử cá
nhân không hẳn đã thành công và đó không phải là cách duy nhất để được Tổng
thống chú ý. Ví dụ như Harry Innes, người không ứng cử và o vị trí thẩm phán
Kentucky, nhưng đã được bổ nhiệm sau khi được một nghị sĩ bang này đề cử.
|
As new states came into the Union, additional
district courts were created. The additions, along with resignations, gave Washington
an opportunity to offer judgeships to 33 people. All of the judges he
appointed were members of the bar, and all but seven had state or local legal
experience as judges, prosecutors, or attorneys general. Presidents have
continued to appoint lawyers with public service backgrounds to the federal
bench.
|
Khi các bang mới gia nhập Liên minh, các tòa án hạt mới
được thành lập. Tổng số người bổ sung cộng với thay thế được Washington bổ
nhiệm là 33 người. Tất cả các thẩm phán được bổ nhiệm đều là thành viên của
đoàn luật sư. Trừ bảy người, còn lại tất cả thẩm phán đều có kinh nghiệm làm
việc ở bang hoặc địa phương với tư cách là thẩm phán, công tố hoặc chưởng lý.
Các tổng thống sau này vẫn tiếp tục bổ nhiệm các luật sư có kinh nghiệm trong
hoạt động dịch vụ công làm thẩm phán liên bang.
|
Present
Organization of the District Courts
As the country grew, new district courts were
created. Eventually, Congress began to divide some states into more than one
district. California, New York, and Texas have the most, with four each.
Other than consistently honoring state lines, the organization of district
constituencies appears to follow no rational plan. Size and population vary
widely from district to district. Over the years, a court was added for the
District of Columbia, and several territories have been served by district
courts. There are now U.S. district courts serving the 50 states, the
District of Columbia, Guam, Puerto Rico, the Virgin Islands, and the Northern
Mariana Islands.
|
Tổ chức hiện nay của
tòa án hạt
Trong quá trình phát triển của đất nướ c, nhiều tòa án hạt
được thành lậ p. Và Quốc hội bắt đầu chia các bang thành nhiều hạt. Các bang
California, New York, và Texas có bốn hạt mỗi bang, nhiều nhất so với các
bang khác. Tổ chức khu vực hạt không còn theo đường ranh giới bang, mà việc
chia hạt hầu như không theo một cơ sở nào cả. Diện tích và số dân của các hạt
rất khác nhau. Qua nhiều năm, một tòa án hạt đã được thành lập cho Hạt
Columbia, và một số khu vực lãnh thổ đã có tòa án hạ t riêng. Hiện có đủ tòa
án hạt ở 50 bang, Hạt Columbia, Guam, Puerto Rico, Quần đảo Virgin và Quần
đảo Bắc Mariana.
|
The original district courts were each
assigned one judge. With the growth in population and litigation, Congress
has periodically had to add judges to most of the districts. The Federal
Judgeship Act of 1990 created 74 new district judgeships, bringing the
current total to 649. Today all districts have more than one judge; the
Southern District of New York, which includes Manhattan and the Bronx,
currently has 28 judges and is thus the largest. Because each federal
district court is normally presided over by a single judge, several trials
may be in session within the district at any given time.
|
Ban đầu, mỗi tòa án hạt chỉ có một thẩm phán. Nhưng khi số
dân và số vụ việc tăng lên, Quốc hội thường bổ sung thẩm phán cho hầu hết các
hạt. Đạo luật thẩm phán liên bang năm 1990 đẻ ra thêm 74 vị trí thẩm phán
hạt, đưa tổng số thẩm phán hạt lên 649 người. Ngày nay, tất cả các hạt đều có
hơn một thẩm phán; Hạt phía Nam New York, bao gồm Manhattan và Bronx, hiện có
28 thẩm phán, và là hạt có đông thẩm phán nhất. Vì mỗi phiên xét xử của tòa
án hạt liên bang thường do một thẩm phán điều khiển, nên tại một thời điểm có
thể có nhiều vụ việc được xét xử đồng thời trong phạm vi một hạt.
|
The
District Courts as Trial Courts
Congress established the district courts as
the trial courts of the federal judicial system and gave them original
jurisdiction over virtually all cases. They are the only federal courts in
which attorneys examine and cross-examine witnesses. The factual record is
thus established at this level. Subsequent appeals of the trial court
decision focus on correcting errors rather than on reconstructing the facts.
|
Tòa án hạt với tư
cách là tòa án sơ thẩm
Quốc hội đã xây dựng tòa án hạt làm cơ quan xét xử sơ thẩm
của hệ thống tư pháp liên bang, và trao quyền tài phán sơ khởi cho chúng
trong gần như tất cả các vụ việc. Tòa án hạt là tòa án liên bang duy nhất
trong đó luật sư được làm việc và đối chất giữa những người làm chứng. Do đó,
các ghi chép tình tiết được thực hiện tại giai đoạn này. Quá trình phúc thẩm
chỉ tập trung vào việc sửa lỗi chứ không phải xây dựng lại tình tiết.
|
The task of determining the facts in a case
often falls to a jury, a group of citizens from the community who serve as
impartial arbiters of the facts and apply the law to the facts. The
Constitution guarantees the right to a jury trial in criminal cases in the
Sixth Amendment and the same right in civil cases in the Seventh Amendment.
The right can be waived, however, in which case the judge becomes the arbiter
both of questions of fact and of matters of law. Such trials are referred to
as bench trials.
|
Nhiệm vụ xác định tình tiết vụ việc thuộc về bồi thẩm
đoàn, bao gồm một nhóm công dân của cộng đồng, đóng vai trò làm người phân xử
không thiên vị, và áp dụng luật cho tình tiết đó. Hiến pháp bảo vệ quyền của
bồi thẩm trong các vụ hình sự theo Tu chính án Hiến pháp thứ sáu, và trong
các vụ dân sự theo Tu chính án Hiến pháp thứ bảy. Tuy nhiên, quyền đó có thể
bị từ chối, và trong trường hợp đó, thẩm phán sẽ trở thành người phân xử cả
về tình tiết lẫn các vấn đề luật pháp. Trường hợp này gọi là thẩm phán sơ thẩm
(bench trial).
|
Two types of juries are associated with
federal district courts. The grand jury is a group of men and women convened
to determine whether there is probable cause to believe that a person has
committed the federal crime of which he or she has been accused. Grand jurors
meet periodically to hear charges brought by the U.S. attorney. Petit jurors
are chosen at random from the community to hear evidence and determine
whether a defendant in a civil trial has liability or whether a defendant in
a criminal trial is guilty or not guilty. Federal rules call for 12 jurors in
criminal cases but permit fewer in civil cases. The federal district courts
generally use six-person juries in civil cases.
|
Có hai loại bồi thẩm đi kèm với tòa án hạt liên bang. Đại
bồi thẩm đoàn là một nhóm nam giới và nữ giới họp lại để xác định xem có thể
có cơ sở tin rằng một người bị truy tố có phạm tội liên bang hay không. Các
đại bồi thẩm họp định kỳ để nghe những lời buộc tội do chưởng lý Hoa Kỳ đưa
ra. Ngược lại, tiểu bồi thẩm được chọn ngẫu nhiên trong cộng đồng để nghe các
bằng chứng, và quyết định xem một người bị kiện trong một vụ sơ thẩm dân sự
có phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không, hoặc một bị can trong một vụ sơ
thẩm hình sự có tội hay không có tội. Quy tắc liên bang yêu cầu trong các vụ
hình sự phải có 12 bồi thẩm, nhưng số lượng bồi thẩm trong các vụ dân sự
thường ít hơn. Các tòa án hạt liên bang thường có bồi thẩm đoàn sáu người
trong các vụ dân sự.
|
Trial courts are viewed as engaging primarily
in norm enforcement, whereas appellate courts are seen as having greater
opportunity to make policy. Norm enforcement is closely tied to the
administration of justice, because all nations develop standards considered
essential to a just and orderly society. Societal norms are embodied in
statutes, administrative regulations, prior court decisions, and community
traditions. Criminal statutes, for example, incorporate concepts of
acceptable and unacceptable behavior into law. A judge deciding a case
concerning an alleged violation of that law is practicing norm enforcement.
Because cases of this type rarely allow the judge to escape the strict
restraints of legal and procedural requirements, he or she has little chance
to make new law or develop new policy. In civil cases, too, judges are often
confined to norm enforcement, because such litigation generally arises from a
private dispute whose outcome is of interest only to the parties in the suit.
|
Tòa án sơ thẩm được coi là tham gia chủ yếu vào việc cưỡng
chế quy phạm, trong khi các tòa phúc thẩm được coi là có nhiều cơ hội trong
việc lập chính sách. Cưỡng chế quy phạm gắn chặt với việc thực thi công lý,
vì tất cả các nước đều phát triển các chuẩn mực căn bản để đạt được một xã
hội công bằng và trật tự. Quy phạm xã hội được đưa vào trong các đạo luật,
quy định hành pháp, tiền lệ án và truyền thống cộng đồng. Ví dụ, luật hình sự
quy định thành luật các khái niệm về hành vi có thể chấp nhận và không thể
chấp nhận. Một thẩm phán quyết định một vụ việc buộc tội vi phạm pháp luật
tức là đã cưỡng chế quy phạm. Do các vụ việc loại này hiếm khi cho phép thẩm
phán được vượt quá các giới hạn nghiêm khắc của yêu cầu pháp luật và yêu cầu
thủ tục, nên các thẩm phán ít có cơ hội được tạo ra các quy định luật mới
hoặc xây dựng chính sách mới. Trong các vụ dân sự cũng vậy, thẩm phán thường
bị giới hạn trong việc cưỡng chế quy phạm, vì các vụ kiện thường phát sinh từ
tranh chấp cá nhân, và hậu quả của nó chỉ liên quan đến các bên tham tụng.
|
The district courts also play a policy-making
role, however. As Americans have become more litigation-conscious, disputes
that were once resolved informally are now more likely to be decided in a
court of law. The courts find themselves increasingly involved in domains
once considered private. What does this mean for the federal district courts?
According to one study, "These new areas of judicial involvement tend to
be relatively free of clear, precise appellate court and legislative
guidelines; and as a consequence the opportunity for trial court jurists to
write on a clean slate, that is, to make policy, is formidable."
|
Tuy nhiên, tòa án hạt cũng đóng vai trò nhất định trong
việc lập chính sách. Do người Mỹ ngày càng thiên về kiện tụng, nên những
tranh chấp trước đây thường được giải quyết không chính thức thì nay lại được
quyết định ở tòa án. Điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với tòa án hạt liên
bang? Theo một nghiên cứu, “Những lĩnh vực mới có sự tham gia của tư pháp
thường không có hướng dẫn rõ ràng và chính xác của tòa án cấp trên cũng như
của ngành lập pháp; và kết quả là tạo cơ hội cho bồi thẩm tòa sơ thẩm có thể
viết ra những nội dung mới, tức là đóng vai trò lập chính sách”.
|
CONSTITUTIONAL
COURTS AND LEGISLATIVE COURTS
The Judiciary Act of 1789 established the
three levels of the federal court system in existence today. Periodically,
however, Congress has exercised its power, based on Article III and Article I
of the Constitution, to create other federal courts. Courts established under
Article III are known as constitutional courts and those created under
Article I are called legislative courts. The Supreme Court, courts of
appeals, and federal district courts are constitutional courts. Legislative
courts include the U.S. Court of Military Appeals, the United States Tax
Court, and the Court of Veterans Appeals.
|
TÒA ÁN HIẾN ĐỊNH VÀ
TÒA ÁN LUẬT ĐỊNH
Đạo luật tư pháp năm 1789 thiết lập ba cấp trong hệ thống
tòa án liên bang tồn tại đế n ngày nay. Tuy nhiên, thỉnh thoảng Quốc hội thự
c thi thẩm quyền của mình dựa trên Điều I và Điều III của Hiến pháp, và lập
nên các tòa án liên bang khác. Các tòa án được thiết lập theo Điều III được
gọi là tòa án hiến định, còn các tòa án được lập theo Điều I được gọi là tòa
án luật định. Tòa án tối cao, tòa phúc thẩm, tòa án hạt liên bang là tòa hiến
định. Tòa luật định bao gồm Tòa phúc thẩm quân sự Hoa Kỳ, Tòa án thuế Hoa Kỳ
và Tòa phúc thẩm cựu chiến binh.
|
Legislative courts, unlike their
constitutional counterparts, often have administrative and quasi-legislative
as well as judicial duties. Another difference is that legislative courts are
often created for the express purpose of helping to administer a specific
congressional statute. Constitutional courts, on the other hand, are
tribunals established to handle litigation.
|
Không giống như tòa hiến định, các tòa luật định ngoài nhiệm
vụ tư pháp còn có nhiệm vụ hành pháp và bán lập pháp. Một điểm khác nữa là
KHÁI QUÁT HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HOA KỲ 48 tòa án luật định thường được lập nên
nhằm mục đích công khai là giúp quản lý một đạo luật cụ thể của Quốc hội. Còn
các tòa hiến định là các cơ quan xét xử, được thiết lập để giải quyết kiện
tụng.
|
Finally, the constitutional and legislative
courts vary in their degree of independence from the other two branches of
government. Article III (constitutional court) judges serve during a period
of good behavior, or what amounts to life tenure. Because Article I
(legislative court) judges have no constitutional guarantee of good-behavior
tenure, Congress may set specific terms of office for them. In sum, the
constitutional courts have a greater degree of independence from the other
two branches of government than the legislative courts.
|
Cuối cùng, mức độ độc lập của tòa án hiến định và luật
định với hai ngành khác của chính quyền là khác nhau. Các thẩm phán theo Điều
III (tòa hiến định) được phục vụ trong suốt giai đoạn năng lực hành vi còn
tốt, tức là gần như suốt đời. Do các thẩm phán theo Điều I (tòa luật định)
không được Hiến pháp bảo đảm về giai đoạn năng lực hành vi còn tốt, nên Quốc
hội quy định nhiệm kỳ cụ thể. Tóm lại, tòa hiến định có mức độ độc lập đối
với hai ngành khác của chính quyền cao hơn so với tòa luật định.
|
ADMINISTRATIVE
AND STAFF SUPPORT IN
THE
FEDERAL JUDICIARY
Although judges are the most visible actors in
the judicial system, a large supporting cast is also at work. Their efforts
are necessary to perform the tasks for which judges are unskilled or
unsuited, or for which they simply do not have adequate time. Some members of
the support team, such as law clerks, may work specifically for one judge.
Others -- for example, U.S. magistrate judges -- are assigned to a particular
court. Still others may be employees of an agency, such as the Administrative
Office of the United States Courts, that serves the entire judicial system.
|
HỖ TRỢ HÀNH CHÍNH VÀ
NHÂN SỰ TRONG HỆ THỐNG TƯ PHÁP LIÊN BANG
Mặc dù thẩm phán là người nổi bật nhất trong hệ thống tư
pháp, nhưng phía sau họ có một đội ngũ hỗ trợ đông đảo. Công sức của họ nhằm
thực hiện các nhiệm vụ mà thẩm phán không có khả năng, hoặc không phù hợp để
thực hiện, hoặc đơn giản là vì họ không đủ thời gian. Một số thành viên đội
ngũ hỗ trợ, như thư ký luật, có thể làm việc riêng cho một thẩm phán. Nhưng
cũng có những người khác, như thẩm phán hòa giải và tiểu hình Hoa Kỳ, được
phân công làm việc cho một tòa án cụ thể. Ngoài ra còn có các cán bộ của cơ
quan hành chính, như Văn phòng hành chính các tòa án Hoa Kỳ, phục vụ toàn bộ
hệ thống tư pháp.
|
U.S.
Magistrate Judges
In an effort to help federal district judges
deal with increased workloads, Congress in 1968 created a system of
magistrate judges that responds to each district court's specific needs and
circumstances. Magistrate judges are appointed by the judges of the district
court for eight-year terms of office, although they can be removed before the
expiration of the term for "good cause." Within guidelines set by
the Congress, the judges in each district court establish the duties and
responsibilities of their magistrate judges. The legislation permits a
magistrate judge, with the consent of the involved parties, to conduct all
proceedings in a jury or nonjury civil matter and enter a judgment in the
case and to conduct a trial of persons accused of misdemeanors (less serious
offenses than felonies) committed within the district, provided the
defendants consent. Because the decision to delegate responsibilities to a
magistrate judge is still made by the district judge, however, a magistrate
judge's participation in the processing of cases may be more narrow than that
permitted by statute.
|
Thẩm phán hòa giải
và tiểu hình Hoa Kỳ
Để cố gắng hỗ trợ khối lượng công việc của các thẩm phán
hạt liên bang, năm 1968, Quốc hội đã thành lập một hệ thống thẩm phán hòa
giải và tiểu hình để phục vụ nhu cầu và tình hình cụ thể của mỗi tòa án hạt.
Thẩm phán hòa giải và tiểu hình được thẩm phán tòa án hạt bổ nhiệm theo nhiệm
kỳ tám năm, mặc dù họ có thể bị bãi nhiệm trước khi hết nhiệ m kỳ “nế u có lý
do chính đáng”. Trong phạm vi hướng dẫn của Quốc hội, các thẩm phán tại mỗi
tòa án hạt được quyền quy định nhiệm vụ và trách nhiệm cho các thẩm phán hòa
giải và tiểu hình. Cơ quan lập pháp cho phép nếu được sự đồng thuận củ a các
bên liên quan, thẩm phán hòa giải và tiểu hình được thực hiện tất cả các thủ
tục trong các vụ dân sự có hoặc không có bồi thẩm, và đưa ra phán quyết, cũng
như được tiến hành xét xử những người bị buộc tội tiểu hình (ít nghiêm trọng)
trong phạm vi hạt đó, với điều kiện phải được bị cáo đồng ý. Tuy nhiên, do
quyền quyết định ủy quyền trách nhiệm cho thẩm phán hòa giải và tiểu hình vẫn
thuộc thẩm phán hạt, nên sự tham gia của thẩm phán hòa giải và tiểu hình vào
việc giải quyết các vụ việc vẫn còn nhiều hạn hẹp so với phạm vi được luật
cho phép.
|
Law
Clerks
The first use of law clerks by an American
judge is generally traced to Horace Gray of Massachusetts. In the summer of
1875, while serving as chief justice of the Massachusetts Supreme Court, he
employed, at his own expense, a highly ranked new graduate of the Harvard Law
School. Each year, he employed a new clerk from Harvard. When Gray was
appointed to the U.S. Supreme Court in 1882, he brought a law clerk with him
to the nation's highest court.
|
Thư ký luật
Người được coi là đã sử dụng thư ký luật đầu tiên ở Hoa Kỳ
là Thẩm phán Horace Gray của bang Massachusetts. Vào mùa hè năm 1875, khi còn
làm chánh án ở Tòa án tối cao Massachusetts, ông đã tự bỏ tiền thuê một sinh
viên tốt nghiệp xuất sắc của Trường Luật Harvard. Mỗi năm, ông thuê thêm một
thư ký mới từ Trường Harvard, và đến khi ông được bổ nhiệm vào Tòa án tối cao
Hoa Kỳ năm 1882, ông đã đưa một thư ký luật đi cùng lên làm việc ở tòa án tối
cao của quốc gia.
|
Justice Gray's successor on the High Court was
Oliver Wendell Holmes, who also adopted the practice of annually hiring honor
graduates of Harvard Law School as his clerks. When William Howard Taft, a
former law professor at Yale, became chief justice, he secured a new law
clerk annually from the dean of the Yale Law School. Harlan Fiske Stone,
former dean of the Columbia Law School, joined the Court in 1925 and made it
his practice to hire a Columbia graduate each year.
|
Người kế nhiệm Thẩm phán Gray ở Tòa án tối cao là Oliver
Wendell Holmes đã tiếp tục áp dụng tập quán hàng năm thuê thêm một sinh viên
tốt nghiệp xuất sắc ở Trường Luật Harvard làm thư ký của mình. Khi William
Howard Taft, cựu giảng viên luật ở Trường Yale, trở thành chánh án, hàng năm
ông thuê thêm một thư ký luật của hiệu trưởng Trường Luật Yale. Harlan Fiske
Stone, cựu hiệu trưởng Trường Luật Columbia, sau khi được bổ nhiệm vào Tòa án
tối cao năm 1925 đã duy trì tập quán mỗi năm thuê một sinh viên tốt nghiệp
Columbia làm thư ký luật.
|
Since these early beginnings there has been a
steady growth in the use of law clerks by all federal courts. More than 2,000
law clerks now work for federal judges, and more than 600 serve bankruptcy
judges and U.S. magistrate judges. In addition to the law clerks hired by
individual judges, all appellate courts and some district courts hire staff
law clerks who serve the entire court.
|
Từ những tập quán này, đã có sự gia tăng ổn định số lượng
thư ký luật ở tất cả các tòa án liên bang. Hiện có hơn 2. 000 thư ký luật làm
việc cho các thẩm phán liên bang, và hơn 600 người phục vụ các thẩm phán xử
phá sản và thẩm phán hòa giải và tiểu hình Hoa Kỳ. Ngoài số lượng thư ký luật
được từng thẩm phán thuê riêng, tất cả các tòa án phúc thẩm và một số tòa án
hạt còn thuê thư ký luật chuyên nghiệp để phục vụ cho cả tòa án.
|
A law clerk's duties vary according to the
preferences of the judge for whom he or she works. They also vary according
to the type of court. Law clerks for federal district judges often serve
primarily as research assistants. They spend a good deal of time examining
the various motions filed in civil and criminal cases. They review each
motion, noting the issues and the positions of the parties involved, then
research important points raised in the motions and prepare written
memorandums for the judges. Because their work is devoted to the earliest
stages of the litigation process, they may have a substantial amount of
contact with attorneys and witnesses. Law clerks at this level may be
involved in the initial drafting of opinions.
|
Nhiệm vụ của thư ký luật rất khác nhau, tùy mức độ ưu ái
của thẩm phán mà họ đang phục vụ. Điều này cũng khác nhau giữa các loại tòa
án khác nhau. Thư ký luật cho các thẩm phán hạt liên bang thường làm nhiệm vụ
chủ yếu như một trợ lý nghiên cứu. Họ dành phần lớn thời gian xem xét các
kiến nghị trong các vụ án dân sự và hình sự. Đối với mỗi kiến nghị, họ xem
xét và lưu ý các vấn đề và địa vị của các bên liên quan, sau đó nghiên cứu
các điểm quan trọng phát sinh từ những kiến nghị đó và chuẩn bị báo cáo cho
thẩm phán. Vì công việc của họ liên quan đến giai đoạn đầu tiên của quá trình
xét xử, họ có nhiều mối liên hệ với luật sư và người làm chứng. Thư ký luật ở
cấp này có thể tham gia vào việc dự thảo ý kiến ban đầu của tòa thẩm phán.
|
At the appellate level, the law clerk becomes
involved in a case first by researching the issues of law and fact presented
by an appeal. The courts of appeals do not have the same discretion to accept
or reject a case that the Supreme Court has, and they use certain screening
devices to differentiate between cases that can be handled quickly and those
that require more time and effort. Law clerks are an integral part of this
screening process.
|
Ở cấp phúc thẩm, đầu tiên thư ký luật tham gia vụ việc với
nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề luật pháp và tình tiết thể hiện trong kháng
cáo kháng nghị. Tòa phúc thẩm không có quyền được chấp nhận xét xử hay không
xét xử một vụ việc như Tòa án tối cao, nên nó sử dụng một số công cụ sơ kiểm
để phân loại các vụ việc có thể giải quyết nhanh chóng, với những vụ việc đòi
hỏi nhiều thời gian và công sức hơn. Thư ký luật là một phần của quá trình sơ
kiểm này.
|
A number of cases are scheduled for oral
argument, and the clerk may be called upon to assist the judge in preparing
for it. Intensive analysis of the record by judges prior to oral argument is
not always possible. They seldom have time to do more than scan pertinent
portions of the record called to their attention by law clerks.
|
Một số vụ được tổ chức tranh tụng, và thư ký được gọi lên
hỗ trợ thẩm phán chuẩn bị. Nếu buộc thẩm phán phải phân tích rất nhiều tài
liệu trước buổi tranh tụng thì họ sẽ rất vất vả. Họ chỉ có đủ thời gian xem
qua những phần quan trọng nhất của các bản ghi do thư ký luật đưa lên.
|
Once a decision has been reached by an
appellate court, the law clerk frequently participates in writing the order
that accompanies the decision. The clerk's participation generally consists
of drafting a preliminary opinion or order pursuant to the judge's
directions. A law clerk may also be asked to edit or check
citations(references to a statute, precedent-setting case, or legal textbook,
in a brief or argument in court) in an opinion written by the judge. The work
of the law clerk for a Supreme Court justice roughly parallels that of a
clerk in the other appellate courts. Clerks play an indispensable role in
helping justices decide which cases should be heard. At the suggestion of
Justice Lewis F. Powell, Jr., in 1972, a majority of the Court's members
began to participate in a "certpool"; the justices pool their
clerks, divide up all filings, and circulate a single clerk's certiorari memo
to all those participating in the pool. The memo summarizes the facts of the
case, the questions of law presented, and the recommended course of action --
that is, whether the case should be granted a full hearing, denied, or
dismissed. Once the justices have voted to hear a case, the law clerks, like
their counterparts in the courts of appeals, prepare bench memorandums that
the justices may use during oral argument. Finally, law clerks for Supreme
Court justices, like those who serve courts of appeals judges, help to draft
opinions.
|
Khi một quyết định được tòa phúc thẩm thông qua, thư ký
luật thường tham gia vào việc viết lệnh đi kèm với phán quyết. Thư ký thường
tham gia dự thảo ý kiến ban đầu hoặc lệnh theo chỉ dẫn của thẩm phán. Thư ký
luật cũng có thể được yêu cầu chỉnh sửa hoặc kiểm tra dẫn chứng (viện dẫn một
đạo luật, một vụ án đã xét xử trước đó, hoặc cẩm nang pháp lý, dưới hình thức
tóm lược hoặc một luận điểm trước tòa) trong bản ý kiến của thẩm phán. Công
việc của thư ký luật cho các thẩm phán ở Tòa án tối cao cũng gần giống công
việc của thư ký ở các tòa phúc thẩm khác. Thư ký đóng vai trò hết sức quan
trọng trong việc hỗ trợ các đại thẩm phán quyết định xem vụ nào sẽ đem ra xét
xử. Theo đề nghị của Thẩm phán Lewis F. Powell (con), năm 1972, đa số các
thành viên của Tòa bắt đầu tham gia vào một nhóm gọi là “certpool” (“nhóm xem
xét đặc lệnh lấy lên xét xử”); các thẩm phán tập hợp các thư ký của mình lại,
chia tất cả các tài liệu, và chuyển bản nhận xét về đặc lệnh lấy lên xét xử
của từng thư ký cho tất cả những người trong nhóm. Bản nhận xét tổng hợp tình
tiết của vụ việc, các vấn đề luật pháp được đưa ra và đề xuất các hành động –
tức là có nên xét xử triệt để hay không, hay là từ chối hoặc loại bỏ. Khi các
thẩm phán bỏ phiếu đồng ý xét xử vụ việc, các thư ký luật cũng như các thư ký
ở tòa phúc thẩm sẽ chuẩn bị ý kiến để các thẩm phán sử dụng trong quá trình
tranh tụng. Cuối cùng, thư ký luật cho các thẩm phán Tòa án tối cao, cũng
giống như các thư ký ở tòa phúc thẩm, sẽ giúp soạn thảo ý kiến.
|
Administrative
Office of the U.S. Courts
The administration of the federal judicial
system as a whole is managed by the Administrative Office of the U.S. Courts.
Since its creation in 1939 it has handled everything from distributing
supplies to negotiating with other government agencies for court
accommodations in federal buildings to maintaining judicial personnel records
and collecting data on cases in the federal courts.
|
Văn phòng hành chính
của các tòa án Hoa Kỳ
Công tác hành chính của toàn bộ hệ thống tư pháp liên bang
do Văn phòng hành chính của các tòa án Hoa Kỳ quản lý. Từ khi thành lập năm
1939, văn phòng này đã giải quyết tất cả các việc từ cung cấp trang thiết bị đến
thương thảo với các cơ quan nhà nước khác để tiếp quản nơi làm việc cho tòa
án trong các tòa nhà liên bang, lưu giữ hồ sơ nhân sự tư pháp và thu thập dữ
liệu về các vụ việc được xem xét ở tòa liên bang.
|
The Administrative Office also serves the Judicial
Conference of the United States, the central administrative policy-making
organization of the federal judicial system. In addition to providing
statistical information to the conference's many committees, the
Administrative Office acts as a reception center and clearinghouse for
information and proposals directed to the Judicial Conference. The office
also acts as liaison for both the federal judicial system and the Judicial
Conference, serving as advocate for the judiciary in its dealings with Congress,
the executive branch, professional groups, and the general public. Especially
important is its representative role before Congress where, along with
concerned judges, it presents the judiciary's budget proposals, requests for
additional judgeships, suggestions for changes in court rules, and other key
measures.
|
Văn phòng hà nh chính cũng phục vụ cho Diễn đàn tư pháp
của Hoa Kỳ, là tổ chức lập chính sách hành chính trung tâm của hệ thống tư
pháp liên bang. Ngoài việc cung cấp số liệu thống kê cho nhiều ủy ban của
Diễn đàn, Văn phòng hành chính còn đóng vai trò làm trung tâm tiếp nhận và
trung chuyển cho các thông tin và kiến nghị đưa ra Diễn đàn tư pháp. Văn
phòng còn làm nhiệm vụ liên lạc cho cả hệ thống tư pháp liên bang và Diễn đàn
tư pháp, làm cơ quan hậu thuẫn cho ngành tư pháp trong các vấn đề liên quan
đến Quốc hội, ngành hành pháp, các nhóm nghề nghiệp và công chúng nói chung.
Đặc biệt quan trọng là vai trò đại diện trước Quốc hội, tại đó, văn phòng
phối hợp với các thẩm phán liên quan sẽ đưa ra đề xuất ngân sách, bổ sung
thẩm phán, kiến nghị thay đổi thủ tục tòa án và các biện pháp chủ chốt khác.
|
The
Federal Judicial Center
The Federal Judicial Center, created in 1967,
is the federal courts' agency for continuing education and research. Its
duties fall generally into three categories: conducting research on the
federal courts, making recommendations to improve the administration and
management of the federal courts, and developing educational and training
programs for personnel of the judicial branch.
|
Trung tâm tư pháp
liên bang
Trung tâm tư pháp liên bang được thành lập năm 1967 là cơ
quan của các tòa án liên bang phục vụ công tác đào tạo liên tục và nghiên
cứu. Nói chung, Trung tâm có ba nhóm nhiệm vụ: triển khai nghiên cứu về các
tòa án liên bang, đề xuất cải thiện công tác quản lý hành chính của các tòa
án liên bang, và xây dựng các chương trình giáo dục đào tạo cho cán bộ trong
ngành tư pháp.
|
Since its inception, judges have benefited
from orientation sessions and other educational programs put on by the
Federal Judicial Center. In recent years, magistrate judges, bankruptcy
judges, and administrative personnel have also been the recipients of
educational programs. The Federal Judicial Center's extensive use of videos
and satellite technology allows it to reach large numbers of people.
|
Từ ngày đầu thành lập, các thẩm phán đã được dự các bài
giảng định hướng và các chương trình đào tạo khác do Trung tâm tư pháp liên
bang tiến hành. Trong những năm gần đây, các thẩm phán hòa giải và tiểu hình,
các thẩm phán về phá sản và cán bộ hành chính cũng được tham dự các chương
trình đào tạo. Do sử dụng nhiều công nghệ hình ảnh và vệ tinh, nên Trung tâm
tư pháp liên bang có khả năng tiếp cận đến rất nhiều người.
|
FEDERAL
COURT WORKLOAD
The workload of the courts is heavy for all
three levels of the federal judiciary -- U.S. district courts, courts of
appeals, and the Supreme Court.
For fiscal year 2002 slightly more than
340,000 cases were commenced in the federal district courts. Criminal filings
alone have risen 43 percent since 1993.
In 1995, 50,072 appeals were filed in one of
the regional circuit courts. This figure increased every year, to a high of
60,847 appeals in 2003. However, the number of appeals terminated by the
courts of appeals has also been steadily increasing, from 49,805 in 1995 to
56,586 in 2002.
|
KHỐI LƯỢNG CÔNG VIỆC
CỦA TÒA ÁN LIÊN BANG
Khối lượng công việc của các tòa án liên bang ở cả ba cấp
- tòa án hạt, tòa phúc thẩm và Tòa án tối cao Hoa Kỳ - đều rất nặng nề.
Trong năm tài khóa 2002, có khoảng hơn 340.000 vụ được
khởi kiện ở tòa án hạt liên bang. Riêng số vụ hình sự đã tăng 43% tính từ năm
1993.
Năm 1995 đã có 50.072 vụ phúc thẩm ở một tòa án phúc thẩm
khu vực. Con số này tăng hàng năm, lên đến mức 60.847 vụ năm 2003. Tuy nhiên,
số vụ được tòa phúc thẩm giải quyết dứt điểm cũng tăng đều, từ 49.805 vụ năm
1995 lên đến 56.586 vụ năm 2002.
|
The overall caseload of the Supreme Court is
large by historical standards; there were 8,255 cases on the docket for the
2002 term. The Supreme Court, however, has discretion to decide which cases
merit its full attention. As a result, the number of cases argued before the
Court has declined rather dramatically over the years. In the 2002 term only
84 cases were argued and 79 were disposed of in 71 signed opinions.
|
Tổng khối lượng công việc của Tòa án tối cao phần lớn được
tính theo tiêu chuẩn lịch sử; đã có 8. 255 vụ được đặt lên bàn xem xét của
Tòa án tối cao trong kỳ làm việc năm 2002. Tuy nhiên, Tòa án tối cao được
quyền quyết định vụ việc nào sẽ được nó giải quyết triệt để. Do đó, số vụ đượ
c tranh tụng trước Tòa giả m khá nhiề u qua các năm. Trong kỳ làm việc năm
2002, chỉ có 84 vụ được tranh tụng và 79 vụ được giải quyết với 71 bản ý kiến
được ký tên.
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn