OUTLINE OF
THE U. S. LEGAL SYSTEM
|
HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT HOA KỲ P4
|
|
3 JURISDICTION AND POLICY-MAKING BOUNDARIES
In setting the jurisdictions of courts,
Congress and the U.S. Constitution -- and their state counterparts -- mandate
the types of cases each court may hear. This chapter considers how Congress,
in particular, can influence judicial behavior by redefining the types of
cases judges may hear. It also discusses judicial self-restraint, examining
10 principles, derived from legal tradition and constitutional and statutory
law, that govern a judge's decision about whether to review a case.
|
CHƯƠNG 3: RANH GIỚI
TÀI PHÁN VÀ LẬP CHÍNH SÁCH
Về vấn đề thẩm quyền xét xử tòa án, Quốc hội và Hiến pháp
Hoa Kỳ, cũng như Quốc hội và hiến pháp bang, đã quy định chặt chẽ những loại
vụ việc mà mỗi tòa án có thể xét xử. Chương này sẽ xem xét cụ thể xem Quốc
hội có thể tác động lên hành vi tư pháp như thế nào thông qua việc thay đổi
quy định những loại vụ việc thẩm phán được xét xử. Đồng thời, chương này cũng
sẽ thảo luận về 10 nguyên tắc thẩm tra tự hạn chế tư pháp, xuất phát từ
truyền thống pháp lý, hiến pháp và luật, nhằm điều chỉnh quyết định của thẩm
phán có thể xem xét lại một vụ việc hay không.
|
|
FEDERAL
COURTS
The federal court system is divided into three
separate levels: the trial courts, the appellate tribunals, and the U.S.
Supreme Court.
|
CÁC TÒA ÁN LIÊN BANG
Hệ thống tòa án liên bang được chia thành ba cấp riêng
biệt: tòa sơ thẩm, tòa phúc thẩm, và Tòa án tối cao Hoa Kỳ.
|
U.S.
District Courts
Congress has set forth the jurisdiction of the
federal district courts. These tribunals have original jurisdiction in
federal criminal and civil cases; that is, by law, the cases must be first
heard in these courts, no matter who the parties are or how significant the
issues.
|
Tòa án hạt Hoa Kỳ
Quốc hội đã quy định thẩm quyền xét xử của tòa án hạt liên
bang. Các cơ quan xét xử này có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ hình sự
và dân sự liên bang, tức là, theo luật, các vụ án đó phải được xét xử lần đầu
ở các tòa án này, cho dù các bên liên quan là ai hay vấn đề đó có tầm quan
trọng như thế nào.
|
Criminal
Cases.
These cases commence when the local U.S. attorneys have reason to believe
that a violation of the U.S. Penal Code has occurred. After obtaining an
indictment from a federal grand jury, the U.S. attorney files charges against
the accused in the district court in which he or she serves. Criminal
activity as defined by Congress covers a wide range of behavior, including
interstate theft of an automobile, illegal importation of narcotics,
assassination of a president, conspiracy to deprive persons of their civil
rights, and even the killing of a migratory bird out of season.
|
Các vụ án hình sự. Các vụ này bắt đầu được xem xét
khi chưởng lý địa phương của Hoa Kỳ có lý do tin rằng đã có sự vi phạm Bộ
hình luật Hoa Kỳ (U. S. Penal Code). Sau khi lấy được bản cáo trạng
(indictment) của đại bồi thẩm đoàn liên bang, chưởng lý Hoa Kỳ sẽ lập cáo
trạng chống lại bị cáo tại tòa án hạt nơi chưởng lý làm việc. Các hành vi
hình sự theo quy định của Quốc hội bao gồm nhiều loại hành vi khác nhau, như
ăn cắp ôtô xuyên bang, nhập khẩu ma túy trái phép, ám sát tổng thống, âm mưu
tước quyền công dân của một (hoặc nhiều) người, và thậm chí là sát hại chim
di trú trái mùa.
|
After charges are filed against an accused,
and if no plea bargain has been made, a trial is conducted by a U.S. district
judge. In court the defendant enjoys all the privileges and immunities
granted in the Bill of Rights (such as the right to a speedy and public
trial) or by congressional legislation or Supreme Court rulings (for
instance, a 12-person jury must render a unanimous verdict). Defendants may
waive the right to a trial by a jury of their peers. A defendant who is found
not guilty of the crime is set free and may never be tried again for the same
offense (the Fifth Amendment's protection against double jeopardy). If the
accused is found guilty, the district judge determines the appropriate
sentence within a range set by Congress. The length of a sentence cannot be
appealed so long as it is in the range prescribed. A verdict of not guilty
may not be appealed by the government, but convicted defendants may appeal if
they believe that the judge or jury made an improper legal determination.
|
Sau khi lập cáo trạng chống lại bị cáo, và nếu không có
thỏa thuận khai để được giảm án (plea bargain), một thẩm phán hạt Hoa Kỳ sẽ
tiến hành một phiên sơ thẩm. Tại tòa, bị cáo được hưởng tất cả các đặc quyền
và miễn trách nhiệm theo Hiến chương nhân quyền (như được quyền xét xử công
khai và nhanh chóng) hoặc theo luật của Quốc hội hoặc phán quyết của Tòa án
tối cao (ví dụ, bồi thẩm đoàn 12 người phải đưa ra phán định nhất trí). Bị
cáo có thể từ bỏ quyền được xét xử bởi một bồi thẩm đoàn đồng đẳng. Một bị cáo
được phán định không có tội sẽ được trả tự do và sẽ không bao giờ bị xét xử
lại vì hành vi đó (quyền được bảo vệ chống nguy cơ tái hình theo Tu chính án
Hiến pháp thứ mười lăm). Nếu bị cáo bị buộc có tội, thẩm phán hạt sẽ quyết
định hình phạt phù hợp trong khung hình phạt do Quốc hội quy định. Nếu hình
phạt nằm trong khung quy định, thì không được kháng án về thời gian thụ án.
Chính quyền không được kháng nghị các phán định vô tội, nhưng bị cáo bị buộc
tội có thể kháng cáo nếu họ cho rằng thẩm phán hoặc bồi thẩm đã đưa ra một
quyết định không đúng.
|
Civil
Cases.
A majority of the district court caseload is civil in nature; that is, suits
between private parties or between the U.S. government, acting in a
nonprosecutorial capacity, and a private party. Civil cases that originate in
the U.S. district courts may be placed in several categories. The first is
litigation concerning the interpretation or application of the Constitution,
acts of Congress, or U.S. treaties. Examples of cases in this category include
the following: a petitioner claims that one of his or her federally protected
civil rights has been violated, a litigant alleges that he or she is being
harmed by a congressional statute that is unconstitutional, and a plaintiff
argues that he or she is suffering injury from a treaty that is improperly
affecting him. The key point is that a federal question must be raised in
order for the U.S. trial courts to have jurisdiction.
|
Các vụ án dân sự. Đa số khối lượng công việc của
tòa án hạt là những vụ mang tính chất dân sự; tức là các vụ kiện giữa các bên
tư nhân hoặc giữa Chính phủ Hoa Kỳ, với tư cách từ bỏ quyền miễn trách, với
một bên tư nhân. Các vụ dân sự được xét sơ thẩm ở tòa án hạt Hoa Kỳ có thể
phân thành mấy loại. Thứ nhất là các vụ kiện liên quan đến diễn giải hoặc áp
dụng Hiến pháp, đạo luật của Quốc hội, và hiệp ước của Hoa Kỳ. Ví dụ như một
người cho rằng một hoặc nhiều quyền công dân được liên bang bảo vệ đã bị vi
phạm, một người khởi kiện khẳng định là mình đã bị một đạo luật vi hiến của Quốc
hội làm tổn hại, hay một nguyên đơn khẳng định là mình đã bị thiệt hại do tác
động bất hợp lý của một hiệp ước. Điểm mấu chốt là, để được xét xử ở tòa sơ
thẩm Hoa Kỳ, vụ việc phải có yếu tố liên bang.
|
Traditionally, some minimal dollar amounts had
to be in controversy in some types of cases before the trial courts would
hear them, but such amounts have been waived if the case falls into one of
several general categories. For example, an alleged violation of a civil
rights law, such as the Voting Rights Act of 1965, must be heard by the
federal rather than the state judiciary. Other types of cases in this
category are patent and copyright claims, passport and naturalization
proceedings, admiralty and maritime disputes, and violations of the U.S.
postal laws.
|
Theo truyền thống, để được xét xử ở tòa sơ thẩm liên bang,
vụ việc phải liên quan đến tranh chấp số tiền tối thiểu nhất định tính bằng
đôla, nhưng giới hạn đó có thể được bỏ qua nếu vụ việc rơi vào một trong
những nhóm phân loại chung. Ví dụ, một hành vi bị cáo buộc là vi phạm luật về
quyền công dân, như Đạo luật về quyền bầu cử (1965), phải được tòa liên bang
xét xử chứ không thể xét xử ở tòa án bang. Các loại vụ việc khác thuộc nhóm
này là khiếu kiện về phát minh và bản quyền, hộ chiếu và thủ tục nhập quốc
tịch, tranh chấp chủ quyền biển và hàng hải, và vi phạm luật bưu chính Hoa
Kỳ.
|
Another broad category of cases over which the
U.S. trial courts exercise general original jurisdiction includes what are
known as diversity of citizenship disputes. These are disputes between
parties from different states or between an American citizen and a foreign
country or citizen.
|
Một nhóm vụ việc khác được tòa sơ thẩm Hoa Kỳ xét xử theo
thẩm quyền sơ thẩm chung là những vụ việc được gọi là tranh chấp đa chủng (diversity
of citizenship). Đây là các tranh chấp giữa các bên thuộc các bang khác nhau,
hoặc giữa công dân Mỹ và nhà nước hoặc công dân nước ngoài.
|
Federal district courts also have jurisdiction
over petitions from convicted prisoners who contend that their incarceration
(or perhaps their denial of parole) is in violation of their federally
protected rights. In the vast majority of these cases prisoners ask for a
writ of "habeas corpus" (Latin for "you should have the
body"), an order issued by a judge to determine whether a person has
been lawfully imprisoned or detained. The judge would demand that the prison
authorities either justify the detention or release the petitioner. Prisoners
convicted in a state court must argue that a federally protected right was
violated -- for example, the right to be represented by counsel at trial.
Otherwise, the federal courts would have no jurisdiction. Federal prisoners
have a somewhat wider range for their appeals since all their rights and
options are within the scope of the U.S. Constitution. Finally, the district
courts have the authority to hear any other cases that Congress may validly
prescribe by law.
|
Tòa án hạt liên bang cũng có thẩm quyền xét xử đối với các
đơn kiện của những tù nhân đã bị buộc tội, nếu họ khẳng định rằng việc họ bị
giam giữ (hoặc bị từ chối quyền tạm tha) là vi phạm quyền được liên bang bảo
vệ. Trong đại đa số các vụ việc thuộc loại này, tù nhân yêu cầu được phát
lệnh “habeas corpus” (tiếng Latinh là “bạn có quyền kiểm soát thân thể”), tức
là lệnh của thẩm phán xác định một người đã bị giam giữ trái phép. Thẩm phán
có thể ra lệnh cho cơ quan quản lý trại giam phải chứng minh việc giam giữ
hoặc phải trả tự do cho người khởi kiện. Các tù nhân bị buộc tội tại một tòa
án bang phải lập luận được rằng quyền được liên bang bảo vệ đã bị vi phạm, ví
dụ, quyền được luật sư đại diện tại tòa. Nếu không, tòa án bang không có thẩm
quyền xét xử. Những tù nhân liên bang có rất nhiều cơ sở kháng cáo vì tất cả
các quyền và lựa chọn của họ đều thuộc phạm vi Hiến pháp Hoa Kỳ. Cuối cùng,
tòa án hạt có quyền xét xử các vụ án khác được Quốc hội quy định theo luật.
|
U.S.
Courts of Appeals
The U.S. appellate courts have no original
jurisdiction whatsoever; every case or controversy that comes to one of these
intermediate level panels has been first argued in some other forum. These
tribunals, like the district courts, are the creations of Congress, and their
structure and functions have varied considerably over time.
|
Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ
Tòa án phúc thẩm Hoa Kỳ không có thẩm quyền sơ thẩm, nên
tất cả các vụ án hay tranh chấp được tòa cấp trung gian này thụ lý đều đã
được tranh tụng ở các cơ quan xét xử khác. Tòa án này, cũng giống tòa án hạt,
đều được Quốc hội thành lập, và cơ cấ u cũng như chức năng của nó được thay
đổi nhiều theo thời gian.
|
Basically, Congress has granted the circuit
courts appellate jurisdiction over two general categories of cases. The first
of these are ordinary civil and criminal appeals from the federal trial
courts. In criminal cases the appellant is the defendant because the
government is not free to appeal a verdict of not guilty. In civil cases the
party that lost in the trial court is usually the appellant, but the winning
party may appeal if it is not satisfied with the lower-court judgment. The
second broad category of appellate jurisdiction includes appeals from certain
federal administrative agencies and departments and also from independent
regulatory commissions, such as the Securities and Exchange Commission and
the National Labor Relations Board.
|
Về cơ bản, Quốc hội trao thẩm quyền phúc thẩm cho tòa phúc
thẩm vùng đối với hai nhóm vụ việc chung. Nhóm thứ nhất là các kháng cáo
kháng nghị hình sự và dân sự thông thường từ tòa sơ thẩm liên bang. Đối với
các vụ hình sự, người kháng cáo là bị cáo vì chính quyền không được quyền
kháng nghị một phán định vô tội. Đối với các vụ dân sự, người kháng cáo
thường là bên bị thua kiện ở tòa sơ thẩm, nhưng bên thắng kiện cũng có thể
kháng cáo nếu họ không thỏa mãn với phán quyết của tòa cấp dưới. Nhóm thẩm
quyền phúc thẩm lớn thứ hai là các kháng cáo kháng nghị từ một số cơ quan
hành pháp liên bang và các bộ, cũng như các ủy ban điều tiết độc lập, như ủy
ban chứng khoán và Hội đồng quan hệ lao động quốc gia.
|
U.S.
Supreme Court
The U.S. Supreme Court is the only federal
court mentioned by name in the Constitution, which spells out the general
contours of the High Court's jurisdiction. Although the Supreme Court is
usually thought of as an appellate tribunal, it does have some general
original jurisdiction. Probably the most important subject of such
jurisdiction is a suit between two or more states.
|
Tòa án tối cao Hoa
Kỳ
Tòa án tối cao Hoa Kỳ là tòa án liên bang duy nhất được
nêu tên trong Hiến pháp, và được Hiến pháp quy định thẩm quyền chung. Mặc dù
Tòa án tối cao thường được coi là một cơ quan xét xử phúc thẩm, nhưng nó cũng
có một số thẩm quyền sơ thẩm chung. Có lẽ nội dung quan trọng nhất của thẩm
quyền xét xử đó là một vụ kiện giữa hai hoặc nhiều bang.
|
The High Court shares original jurisdiction
(with the U.S. district courts) in certain cases brought by or against
foreign ambassadors or consuls, in cases between the United States and a
state, and in cases commenced by a state against citizens of another state or
another country. In situations such as these, where jurisdiction is shared,
the courts are said to have concurrent jurisdiction. Cases over which the
Supreme Court has original jurisdiction are often important, but they do not
constitute a sizable proportion of the overall caseload. In recent years less
than 1 percent of the High Court's docket consisted of cases heard on
original jurisdiction.
|
Tòa án tối cao cũng có chung thẩm quyền sơ thẩm (với tòa
án hạt Hoa Kỳ) trong một số vụ án nhất định do đại sứ hoặc lãnh sự nước ngoài
khởi kiện, hoặc bị kiện, các vụ việc giữa Chính phủ Hoa Kỳ (liên bang) với
một bang, và những vụ việc trong đó một bang này chống lại công dân của một
bang khác hoặc công dân nước ngoài. Những trường hợp đó, tức là có chung thẩm
quyền, thì gọi là thẩm quyền đồng thời (concurrent jurisdiction). Các vụ việc
mà Tòa án tối cao có thẩm quyền sơ thẩm thường là các vụ quan trọng, nhưng
chúng không tỷ lệ với khối lượng công việc. Trong những năm gần đây, chỉ chưa
đầy 1% khối lượng công việc của Tòa án tối cao là các vụ xét xử theo thẩm
quyền sơ thẩm.
|
The U.S. Constitution declares that the
Supreme Court "shall have appellate Jurisdiction...under such
Regulations as the Congress shall make." Over the years Congress has
passed much legislation setting forth the "Regulations" determining
which cases may appear before the nation's most august judicial body. Appeals
may reach the Supreme Court through two main avenues. First, there may be
appeals from all lower federal constitutional and territorial courts and also
from most, but not all, federal legislative courts. Second, the Supreme Court
may hear appeals from the highest court in a state -- as long as there is a
substantial federal question.
|
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định Tòa án tối cao “có thẩm quyền
phúc thẩm… theo các quy định của Quốc hội”. Qua nhiều năm, Quốc hội đã thông
qua nhiều văn kiện về “quy định” nêu trên, nhằm xác định các vụ việc có thể
được xét xử tại cơ quan tư pháp oai nghiêm nhất của quốc gia. Các kháng cáo
kháng nghị có thể được đưa lên Tòa án tối cao thông qua hai con đường chính.
Thứ nhất là kháng cáo kháng nghị từ tất cả các tòa án hiến định và tòa án
lãnh thổ, cũng như từ hầu hết (nhưng không phải tất cả ) các tòa án luật định
liên bang. Thứ hai, là Tòa án tối cao có thể xét xử các kháng cáo kháng nghị
từ các tòa án cao nhất của bang - nếu vụ việc có yếu tố quan trọng liên quan
đến liên bang.
|
Most of the High Court's docket consists of
cases in which it has agreed to issue a writ of certiorari -- a discretionary
action. Such a writ (which must be supported by at least four justices) is an
order from the Supreme Court to a lower court demanding that it send up a complete
record of a case so that the Supreme Court can review it. Historically, the
Supreme Court has agreed to grant the petition for a writ of certiorari in
only a tiny proportion of cases -- usually less than 10 percent of the time,
and in recent years the number has been closer to 1 percent.
|
Hầu hết công việc của Tòa án tối cao là các vụ việc đã
được đồng ý phát lệnh lấy lên xét xử (certiorari), và đây là lệnh tùy ý không
bắt buộc. Lệnh này phải được ít nhất bốn thẩm phán ủng hộ, và có giá trị là
lệnh của Tòa án tối cao gửi một tòa án cấp dưới yêu cầu tòa cấp dưới chuyển
toàn bộ hồ sơ vụ việc để Tòa án tối cao có thể xem xét lại. Trong lịch sử,
Tòa án tối cao chỉ đồng ý chấp nhận yêu cầu phát lệnh lấy lên xét xử cho một
tỷ lệ số vụ việc rất ít, thường là dưới 10%, và trong những năm gần đây con
số đó đã giảm xuống gần 1%.
|
Another method by which the Supreme Court
exercises its appellate jurisdiction is certification. This procedure is
followed when one of the appeals courts asks the Supreme Court for instructions
regarding a question of law. The justices may choose to give the appellate
judges binding instructions, or they may ask that the entire record be
forwarded to the Supreme Court for review and final judgment.
|
Một phương cách khác để Tòa án tối cao thực hiện thẩm
quyền phúc thẩm của mình là xác nhận. Thủ tục này cho phép tòa phúc thẩm được
phép xin Tòa án tối cao cho hướng dẫn về vấn đề luật pháp. Các thẩm phán có
thể chọn phương án đưa ra các hướng dẫn ràng buộc cho thẩm phán tòa phúc
thẩm, hoặc họ có thể yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ lên Tòa án tối cao để xem
xét lại và đưa ra phán quyết cuối cùng.
|
JURISDICTION
AND POLICY MAKING OF STATE COURTS
The jurisdictions of the 50 separate state
court systems in the United States are established in virtually the same
manner as those within the national court system. Each state has a
constitution that sets forth the authority and decision-making powers of its
trial and appellate judges. Likewise, each state legislature passes laws that
further detail the specific powers and prerogatives of judges and the rights
and obligations of those who bring suit in the state courts. Because no two
state constitutions or legislative bodies are alike, the jurisdictions of
individual state courts vary from one state to another.
|
THẨM QUYỀN XÉT XỬ VÀ
VAI TRÒ LẬP CHÍNH SÁCH CỦA TÒA ÁN BANG
Thẩm quyền xét xử của 50 hệ thống tòa án bang riêng biệt ở
Hoa Kỳ được thiết lập gần như giống với thẩm quyền của hệ thống tòa án quốc
gia. Mỗi bang có một hiến pháp quy định thẩm quyền và quyền ra quyết định của
các thẩm phán sơ thẩm và phúc thẩm của nó. Tương tự, cơ quan lập pháp bang
thông qua các đạo luật chi tiết hóa quyền cụ thể và đặc quyền của các thẩm
phán, và quyền cũng như nghĩa vụ của những người khởi kiện ở tòa án bang. Do hiến
pháp và thể chế luật ở mỗi bang đều khác nhau, nên thẩm quyền của từng tòa án
bang cũng khác nhau giữa các bang.
|
State courts are extremely important in terms
of policy making in the United States. Well over 99 percent of the judicial
workload in the United States consists of state, not federal, cases, and 95
percent of all judges in the United States work at the state level. Moreover,
the decisions of state jurists frequently have a great impact on public
policy. For example, during the 1970s a number of suits were brought into
federal court challenging the constitutionality of a state's spending vastly
unequal sums on the education of its schoolchildren. (This occurred because
poorer school districts could not raise the same amount of money as could
wealthy school districts.) The litigants claimed that children in the poorer
districts were victims of unlawful discrimination in violation of their equal
protection rights under the U.S. Constitution. The Supreme Court said they
were not, however, in a five-to-four decision in San Antonio Independent
School District v. Rodriguez (1973). But the matter did not end there.
Litigation was instituted in many states arguing that unequal educational
opportunities were in violation of various clauses in the state
constitutions. Since Rodriguez such suits have been brought 28 times in 24
states. In 14 of these cases, state supreme courts invalidated their state's
method of financing education, thus requiring the reallocation of billions of
dollars.
|
Các tòa án bang có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
lập chính sách ở Hoa Kỳ. Hơn 99% khối lượng công việc tư pháp ở Hoa Kỳ là các
vụ việc ở cấp bang, và 95% số thẩm phán ở Hoa Kỳ làm việc ở cấp bang. Hơn
nữa, quyết định của bồi thẩm bang thường tác động rất lớn đến chính sách
công. Ví dụ, trong thập niên 1970, có một số vụ kiện được đưa ra trước tòa án
liên bang thách thức tính hợp hiến của chi tiêu bang bất bình đẳng cho giáo
dục phổ thông. (Do các hạt giáo dục nghèo không thể huy động nhiều tiền như
các hạt giáo dục giàu có). Những người khởi kiện cho rằng học sinh ở các hạt
nghèo là nạn nhân của việc phân biệt đối xử trái pháp luật, vi phạm quyền
được bảo vệ công bằng theo Hiến pháp Hoa Kỳ. Nhưng Tòa án tối cao cho rằng
luận điểm đó không đúng trong phán quyết được đưa ra theo tỷ lệ 5:4 trong vụ
án Hạt giáo dục độc lập San Antonio kiện Rodriguez năm 1973. Nhưng vấn đề
chưa dừng ở đó. Nhiều đơn kiện đã được đưa ra ở nhiều bang khẳng định vấn đề
cơ hội giáo dục bất bình đẳng là vi phạm nhiều điều khoản trong hiến pháp
bang. Từ sau vụ Rodriguez, đã có 28 vụ kiện tương tự ở 24 bang. Trong 14 vụ,
Tòa án tối cao của bang đã vô hiệu hóa phương pháp tài trợ giáo dục của bang,
và yêu cầu phân phối lại khoản ngân sách hàng tỷ đôla.
|
JURISDICTION
AND LEGISLATIVE POLITICS
Some judges and judicial scholars argue that
the U.S. Constitution and the respective state documents confer a certain
inherent jurisdiction upon the judiciaries in some key areas, independent of
the legislative will. Nevertheless, the jurisdictional boundaries of American
courts are also a product of legislative judgments -- determinations often
influenced by politics.
|
THẨM QUYỀN XÉT XỬ VÀ
CHÍNH TRỊ LẬP PHÁP
Một số thẩm phán và học giả tư pháp cho rằng Hiến pháp Hoa
Kỳ và các văn kiện tương ứng của bang đã trao thẩm quyền cố hữu nhất định cho
ngành tư pháp trong một số lĩnh vực mấu chốt, độc lập khỏi ý chí của ngành
lập pháp. Tuy nhiên, ranh giới thẩm quyền xét xử của các tòa án Mỹ vẫn là một
sản phẩm của quyết định lập pháp, những quyết định thường chịu ảnh hưởng
chính trị.
|
Congress may advance a particular cause by
giving courts the authority to hear cases in a public policy realm that
previously had been forbidden territory for the judiciary. For example, when
Congress passed the Civil Rights Act of 1968, it gave judges the authority to
penalize individuals who interfere with "any person because of his race,
color, religion or national origin and because he is or has been...traveling
in ...interstate commerce." Prior to 1968 the courts had no jurisdiction
over incidents that stemmed from interference by one person with another's
right to travel. Likewise, Congress may discourage a particular social
movement by passing legislation to make it virtually impossible for its
advocates to have success in the courts.
|
Quốc hội có thể thúc đẩy một đường lối nhất định thông qua
việc trao quyền cho tòa án được xét xử trong một lĩnh vực chính sách công vốn
trước đó là khu vực cấm đối với ngành tư pháp. Ví dụ, khi thông qua Đạo luật
quyền công dân năm 1968, Quốc hội đã trao cho các thẩm phán quyền được trừng
phạt các cá nhân nếu họ dám đụng vào “một người vì lý do chủng tộc, màu da,
tôn giáo hoặc xuất xứ quốc gia của họ, và vì họ đã di chuyển vì lý do. . .
thương mại xuyên bang”. Trước năm 1968, tòa án không có thẩm quyền xét xử các
vụ phát sinh từ việc can thiệp của một người đối với quyền được đi lại của
một người khác. Tương tự, Quốc hội có thể ngăn cản một phong trào xã hội nhất
định bằng cách thông qua luật làm cho những người ủng hộ phong trào đó gần
như không thể thắng kiện ở tòa án.
|
The jurisdictions of state courts, like their
federal counterparts, also are very much governed by -- and the political
product of -- the will of the state legislatures.
|
Thẩm quyền xét xử của tòa án bang, cũng giống như thẩm
quyền của tòa liên bang, bị khống chế bởi ý chí của cơ quan lập pháp bang, và
là sản phẩm chính trị của cơ quan lập pháp bang.
|
JUDICIAL
SELF-RESTRAINT
The activities that judges are forbidden to
engage in, or at least discouraged from engaging in, deal not so much with
jurisdiction as with justiciability -- the question of whether judges in the
system ought to hear or refrain from hearing certain types of disputes. Ten
principles of judicial self-restraint, discussed below, serve to check and
contain the power of American judges. These maxims originate from a variety
of sources -- the U.S. Constitution and state constitutions, acts of Congress
and of state legislatures, and the common law. Some apply more to appellate
courts than to trial courts; most apply to federal and state judicial
systems.
|
TỰ HẠN CHẾ TƯ PHÁP
Vấn đề hành vi thẩm phán không được làm, hoặc không nên
làm, là một vấn đề không liên quan nhiều đến thẩm quyền xét xử, mà liên quan
đến vấn đề địa vị người xét xử - tức là vấn đề các thẩm phán trong hệ thống
cần phải xét xử hoặc từ chối xét xử một số loại tranh chấp nhất định. Mười
nguyên tắc tự hạn chế tư pháp dưới đây là những yếu tố cần được kiểm tra đối
chiếu và hạn chế quyền lực của thẩm phán Mỹ. Những tập quán này xuất phát từ
nhiều nguồn khác nhau – như Hiến pháp Hoa Kỳ và hiến pháp các bang, luật của
Quốc hội và cơ quan lập pháp bang, và thông luật. Một số nguyên tắc được áp
dụng nhiều cho tòa phúc thẩm hơn là tòa sơ thẩm, hầu hết các nguyên tắc đều
được áp dụng cho cả hệ thống tư pháp bang lẫn liên bang.
|
A
Definite Controversy Must Exist
The U.S. Constitution states that "the
judicial Power shall extend to all Cases, in Law and Equity, arising under
this Constitution, the Laws of the United States, and Treaties made...under
their Authority" (Article III, Section 2). The key word here is cases.
Since 1789 the federal courts have chosen to interpret the term in its most
literal sense: There must be an actual controversy between legitimate
adversaries who have met all the technical legal standards to institute a
suit. The dispute must concern the protection of a meaningful, nontrivial
right or the prevention or redress of a wrong that directly affects the
parties to the suit. There are three corollaries to this general principle.
|
Phải tồn tại một
tranh cãi rõ ràng
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định: “Quyền lực tư pháp căn cứ vào
Hiến pháp này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các vụ việc trên phương diện luật
pháp và công lý, các điều luật của Hoa Kỳ, các hiệp ước đã hoặc sẽ ký dưới
thẩm quyền của Chính phủ” (Điều III, Mục 2). Từ mấu chốt trong câu này là từ
“các vụ việc”. Từ năm 1789, các tòa án liên bang đã chọn cách giải thích
thuật ngữ này theo nghĩa đen: Phải có một tranh cãi thực tế giữa các bên đối
nghịch hợp pháp, đáp ứng tất cả các tiêu chí kỹ thuật để có thể cấu thành một
vụ kiện. Tranh chấp phải liên quan đến việc bảo vệ một quyền có ý nghĩa và
không tầm thường, hoặc nhằm ngăn cản hoặc uốn nắn một vấn đề sai lệch ảnh
hưởng trực tiếp đến các bên tham gia vụ kiện. Nguyên tắc chung này có ba hệ
quả.
|
The first is that the federal courts do not
render advisory opinions, rulings about situations that are hypothetical or
that have not caused an actual clash between adversaries. A dispute must be
real and current before a court will agree to accept it for adjudication.
|
Hệ quả thứ nhất là tòa liên bang không được đưa ra ý kiến
cố vấn, hoặc các phán quyết về các tình huống mang tính giả định, hoặc chưa
gây ra sự va chạm giữa các bên đối nghịch. Tranh chấp phải là thực tế và hiện
hữu trước khi tòa đồng ý chấp nhận xét xử.
|
A second corollary is that the parties to the
suit must have proper standing. This notion deals with the matter of who may
bring litigation to court. The person bringing suit must have suffered (or be
immediately about to suffer) a direct and significant injury. As a general
rule, a litigant cannot bring a claim on behalf of others (except for parents
of minor children or in special types of suits called class actions). In
addition, the alleged injury must be personalized and immediate -- not part
of some generalized complaint.
|
Hệ quả thứ hai là các bên tham gia vụ kiện phải có địa vị
phù hợp. Hệ quả này giải quyết vấn đề ai là người được đưa vụ kiện ra tòa.
Người mang vụ kiện ra tòa đã phải chịu (hoặc sẽ phải chịu ngay lập tức) một
thiệt hại trực tiếp và đáng kể. Theo nguyên tắc chung, một bị đơn không thể
đưa ra một khiếu kiện nhân danh người khác (trừ trường hợp bố mẹ của người
chưa đủ tuổi hoặc trong các loại vụ việc đặc biệt được gọi là hành động pháp
lý tập thể). Ngoài ra, thiệt hại theo luận điểm của bên nguyên phải được cá
nhân hóa, và là thiệt hại trực tiếp, chứ không phải là một phần của một khiếu
nại chung nào đó.
|
The third corollary is that courts ordinarily
will not hear a case that has become moot -- when the basic facts or the
status of the parties have significantly changed between the time when the
suit was first filed and when it comes before the judge(s). The death of a
litigant or the fact that the litigants have ceased to be warring parties
would render a case moot in most tribunals. However, sometimes judges may
decide that it is necessary to hear a case, even though the status of the
facts and parties would seem to have radically altered. Examples include
cases where someone has challenged a state's refusal to permit an abortion or
to permit the life-support system of a terminally ill person to be switched
off. (In such cases, by the time the suit reaches an appellate court, the
woman may already have given birth or the moribund person may have died.) In
these cases judges have believed that the issues were so important that they
needed to be addressed by the court. To declare such cases moot would,
practically speaking, prevent them from ever being heard in time by an
appellate body.
|
Hệ quả thứ ba là tòa án thường không xét xử một vụ việc đã
biến thành giả định (moot) – tức là khi các khách thể hoặc địa vị của các bên
tham gia đã bị thay đổi lớn tính từ thời điểm đầu tiên vụ kiện được lập hồ sơ
đến khi nó được đưa ra trước các thẩm phán. Nếu người khởi kiện chết hoặc
không còn là một bên xung đột, thì hầu hết cơ quan xét xử đều coi đó là một
vụ việc mang tính giả định. Tuy nhiên, đôi lúc thẩm phán có thể quyết định họ
cần phải xét xử vụ việc, cho dù tình trạng khách quan và địa vị các bên đã có
dấu hiệu bị thay đổi rất nhiều. Điển hình là các vụ việc trong đó một người
đã thách thức tính hợp pháp của việc một bang từ chối cho phép phá thai hoặc
cho phép tắt hệ thống hỗ trợ sự sống của những người bệnh vô phương cứu chữa.
(Trong trường hợp đó, đến khi vụ việc được đưa ra tòa phúc thẩm, thì người mẹ
đã sinh con hoặc người hấp hối có thể đã chết). Trong các vụ việc này, thẩm
phán tin rằng vấn đề quan trọng đến mức phải được tòa án giải quyết. Nếu
tuyên bố các vụ việc đó là giả định, thì về mặt thực tế là chúng không được
một cơ quan phúc thẩm xét xử kịp thời.
|
Although federal judges do not rule on
abstract, hypothetical issues, many state courts are permitted to do so in
some form or other. Federal legislative courts may give advisory opinions as
well. Also, American judges are empowered to render declaratory judgments,
which define the rights of various parties under a statute, a will, or a
contract. The judgments do not entail any type of coercive relief. The
federal courts were given the authority to act in this capacity in the
Federal Declaratory Judgment Act of 1934, and about three-fourths of the
states grant their courts this power. Although a difference exists between an
abstract dispute that the federal courts must avoid and a situation where a
declaratory judgment is in order, in the real world the line between the two
is often a difficult one for jurists to draw.
|
Mặc dù thẩm phán liên bang không được phán quyết các vấn
đề mang tính trừu tượng, giả định, song nhiều tòa án bang được quyền xét xử
các vấn đề đó dưới nhiều hình thức. Tòa luật định liên bang cũng có thể đưa
ra ý kiến tư vấn. Ngoài ra, các thẩm phán Mỹ được quyền đưa ra các phán quyết
mang tính giải thích, trong đó xác định quyền của các bên theo một đạo luật,
một di chúc hoặc một hợp đồng. Phán quyết đó không có ý nghĩa như một lệnh
bắt buộc thực hiện. Các tòa án liên bang có quyền được thực hiện năng lực của
mình theo Đạo luật phán quyết giải thích liên bang năm 1934, và ba phần tư số
bang cho phép các tòa án của mình được thực hiện quyền này. Mặc dù có sự khác
nhau giữa một tranh chấp trừu tượng mà tòa phải tránh, với một tình huống có
thể đưa ra phán quyết giải thích, nhưng trên thực tế, đường ranh giới giữa
hai vấn đề này rất khó phân biệt.
|
A Plea
Must Be Specific
Another constraint upon the federal judiciary
is that judges will hear no case on the merits unless the petitioner is first
able to cite a specific part of the Constitution as the basis of the plea.
For example, the First Amendment forbids government from making a law
"respecting an establishment of religion." In 1989 the state of New
York created a special school district solely for the benefit of the Satmar
Hasids, a group of Hasidic Jews with East European roots that strongly
resists assimilation into modern society. Most of the children attended
parochial schools in the Village of Kiryas Joel, but these private schools
weren't able to accommodate retarded and disabled students, and the Satmars
claimed that such children within their community would be traumatized if
forced to attend a public school. Responding to this situation, the state
legislature created a special district encompassing a single school that
served only handicapped children from the Hasidic Jewish community. This
arrangement was challenged by the association representing New York state's
school boards. In June 1994 the U.S. Supreme Court ruled that the creation of
the one-school district effectively delegated political power to the orthodox
Jewish group and therefore violated the First Amendment's ban on governmental
"establishment of religion." Whether or not everyone agrees that
the New York law was constitutional, few, if any, would doubt that the school
board association met the specific criteria for securing judicial review: The
Constitution clearly forbids the government from delegating political power
to a specific religious entity. The government here readily acknowledged that
it had passed a law for the unique benefit of a singular religious community.
|
Luận điểm phải cụ
thể
Một hạn chế khác khống chế ngành tư pháp liên bang là các
thẩm phán sẽ không xét xử các vụ việc theo tình, nếu đầu tiên người đệ đơn
không viện dẫn được một nội dung cụ thể của Hiến pháp làm cơ sở cho luận điểm
của mình. Chẳng hạn, Tu chính án Hiến pháp thứ nhất cấm chính quyền thông qua
các luật “đề cao cơ sở tôn giáo”. Năm 1989, bang New York lập ra một hạt giáo
dục đặc biệt chỉ phục vụ lợi ích của một nhóm Do thái giáo dòng Hasids có gốc
Đông Âu gọi là Satmar Hasids; đây là một tổ chức từ chối hòa nhập vào xã hội
hiện đại. Hầu hết trẻ em học ở các trường giáo xứ ở làng Kiryas Joel, nhưng
các trường tư này không được trang bị để phục vụ các học sinh khuyết tật và
chậm phát triển, còn những người thuộc nhóm Satmars lại cho rằng nếu những
trẻ em như thế trong cộng đồng của họ bị buộc phải học trường công, thì chúng
sẽ bị thương tổn. Để giải quyết tình trạng này, cơ quan lập pháp bang đã lập
ra một hạt giáo dục đặc biệt, chỉ bao gồm một trường phụ c vụ những trẻ em
khuyết tật của cộng đồng Do thái giáo dòng Hasids. Quyết định này đã bị một
hiệp hội đại diện cho các hội đồng giáo dục bang New York lên án. Tháng Sáu
1994, Tòa án tối cao Hoa Kỳ ra phán quyết rằng việc thành lập hạt giáo dục
một trường học thực tế đã trao quyền chính trị cho nhóm Do thái giáo chính
thống, và vì vậy đã vi phạm quy định cấm của Tu chính án Hiến pháp thứ nhất
đối với “cơ sở tôn giáo” do chính quyền thiết lập. Cho dù mọi người có thể
thống nhất hay không thống nhất rằng luật của New York hợp hiến, nhưng nếu có
thì cũng rất ít người có thể nghi ngờ khả năng hiệp hội hội đồng giáo dục có
thể đáp ứng các tiêu chí để yêu cầu tư pháp xem xét lại: Hiến pháp quy định
rõ ràng cấm chính quyền trao quyền chính trị cho một thực thể tôn giáo cụ
thể. Ở đây chính quyền đã thừa nhận là nó đã thông qua một đạo luật phục vụ
lợi ích chuyên biệt của một cộng đồng tôn giáo đơn lẻ.
|
However, if one went into court and contended
that a particular law or official action "violated the spirit of the
Bill of Rights" or "offended the values of the Founders," a judge
surely would dismiss the proceeding. For if judges were free to give
concrete, substantive meaning to vague generalities such as these, there
would be little check on what they could do. In the real world this principle
is not as simple and clear-cut as it sounds, because the Constitution
contains many clauses that are open to a wide variety of interpretations,
giving federal judges sufficient room to maneuver and make policy.
|
Tuy nhiên, nếu một người đi đến tòa án và cho rằng một đạo
luật hoặc một hành động hành pháp nào đó “vi phạm tinh thần của hiến chương”
hoặc “xâm phạm giá trị của các nhà lập quốc”, thì chắc chắn sẽ bị thẩm phán
từ chối xem xét. Nhưng nếu các thẩm phán được tự do gán cho các vấn đề chung
mang tính mù mờ này một ý nghĩa rõ ràng và thực chất, thì đâu cần phải kiểm
tra xem họ được làm gì. Trong thực tế, nguyên tắc này không đơn giản như bề
ngoài của nó, vì Hiến pháp có nhiều quy định mở cho nhiều cách giải thích
khác nhau, đủ chỗ cho thẩm phán liên bang có thể biến tấu và lập chính sách.
|
Beneficiaries
May Not Sue
A third aspect of judicial self-restraint is
that a petitioner who has been the beneficiary of a law or an official action
may not subsequently challenge that law. For example, suppose that a farmer
has long been a member of a program under which he agreed to take part of his
land out of production and periodically was paid a subsidy by the federal
government. After years as a participant, the farmer learns that a neighbor
is also drawing regular payments for letting all of his farmland lie fallow.
The idea that the neighbor is getting something for nothing offends the
farmer, and he questions the program's constitutionality. The farmer
challenges the legality of the program in the local federal district court.
As soon as it is brought to the judge's attention that the farmer had himself
been a member of the program and had gained financially from it, the suit is
dismissed: One may not benefit from a particular governmental endeavor or
official action and subsequently attack it in court.
|
Người hưởng lợi
không được kiện
Mảng thứ ba trong quy định tự hạn chế tư pháp là một người
đệ đơn đã được hưởng lợi từ một đạo luật hoặc một hành động hành pháp thì sau
đó không được kiện luật đó. Ví dụ, giả sử một nông dân từ lâu đã tham gia một
chương trình, trong đó anh ta đồng ý không sản xuất một phần đất của mình, và
định kỳ nhận một khoản hỗ trợ từ chính quyền liên bang. Sau nhiều năm tham
gia, người nông dân nhận thấy người hàng xóm nhận tiền thường xuyên vì để
hoang toàn bộ đất của mình. Người nông dân thấy người hàng xóm không làm gì
mà vẫn có tiền, nên đặt vấn đề về tính hợp hiến của chương trình đó. Người
nông dân khởi kiện tính hợp pháp của chương trình ở tòa án hạt liên bang.
Ngay khi thẩm phán biết được người nông dân đó đã là một thành viên của
chương trình và được hưởng lợi tài chính từ chương trình đó, vụ kiện đã bị
bác bỏ: Một người không thể hưởng lợi từ một nỗ lực của chính quyền hoặc một
hành động hành pháp cụ thể, rồi sau đó quay lại tấn công nó tại một tòa án.
|
Appellate
Courts Rule on Legal -- Not Factual -- Questions
A working proposition of state and federal
appellate court practice is that these courts will generally not hear cases
if the grounds for appeal are that the trial judge or jury wrongly amassed
and identified the basic factual elements of the case. It is not that trial
judges and juries always do a perfect job of making factual determinations.
Rather, there is the belief that they are closer to the actual parties and
physical evidence of the case, and, therefore, they will do a much better job
of making factual assessments than would an appellate body reading a
transcript of the case some months or years after the trial. However, legal
matters -- which laws to apply to the facts of a case or how to assess the
facts in light of the prevailing law -- are appropriate for appellate review.
|
Tòa phúc thẩm phán
quyết theo yếu tố pháp lý, chứ không phải yếu tố khách quan
Có một định đề trong thông lệ các tòa phúc thẩm bang và
liên bang là các tòa án này nói chung không xét xử nếu cơ sở kháng cáo kháng
nghị là thẩm phán hoặc bồi thẩm sơ thẩm đã tập hợp sai, hoặc xác định sai các
yếu tố khách quan cơ bản cấu thành vụ việc. Không phải là thẩm phán và bồi
thẩm sơ thẩm luôn xác định khách quan hoàn hảo. Thay vào đó, người ta tin
rằng họ gần gũi hơn với các bên liên quan thực tế và bằng chứng vật chất của
vụ việc, nên họ có thể đánh giá khách quan tốt hơn các cơ quan xét xử phúc
thẩm, vốn chỉ được đọc tài liệu vụ án nhiều tháng hoặc nhiều năm sau khi
phiên sơ thẩm xảy ra. Tuy nhiên, các vấn đề pháp lý, tức là áp dụng luật nào
cho thực tế khách quan của vụ việc, và đánh giá khách quan đó như thế nào
theo luật hiện hành, thì cần được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.
|
The
Supreme Court Is Not Bound (Technically) by Precedents
If the High Court is free to overturn or
circumvent past and supposedly controlling precedents when it decides a case,
this might appear to be an argument for judicial activism -- not restraint.
However, this practice is one of the principles of self-restraint. If the
Supreme Court were inescapably bound by the dictates of its prior rulings, it
would have very little flexibility. By occasionally allowing itself the
freedom to overrule a past decision or to ignore a precedent that would seem
to be controlling, the Supreme Court establishes a corner of safety to which
it can retreat if need be. When wisdom dictates that the Court change
direction or at least keep an open mind, this principle of self-restraint is
put to use.
|
Tòa án tối cao không
bị ràng buộc (về mặt kỹ thuật) bởi các tiền lệ
Nếu Tòa án tối cao được tự do đảo ngược hoặc phá vỡ các
tiền lệ quá khứ và mang tính khống chế khi quyết định một vụ việc, thì dường
như đây là một luận điểm ủng hộ cho xu hướng cấp tiến tư pháp – chứ không
phải tự hạn chế. Tuy nhiên, tập quán này là một trong những nguyên tắc tự hạn
chế. Nếu Tòa án tối cao bị ràng buộc không lối thoát bởi sự sai khiến của các
phán quyết trước, thì nó sẽ rất kém linh hoạt. Nhờ việc tự cho phép mình
thỉnh thoảng được tự do đảo ngược một quyết định quá khứ hoặc bỏ qua một tiền
lệ đã trở thành quy định khống chế, Tòa án tối cao đã thiết lập được một lối
thoát an toàn để có thể rút lui nếu cần. Khi sự suy xét sáng suốt ra lệnh cho
Tòa án thay đổi đường hướng, hoặc duy trì tư tưởng cởi mở, thì nguyên tắc tự
hạn chế này sẽ được sử dụng.
|
Other
Remedies Must Be Exhausted
Another principle of self-restraint often
frustrates the anxious litigant but is essential to the orderly
administration of justice: Courts in the United States will not accept a case
until all other remedies, legal and administrative, have been exhausted. In
its simplest form this doctrine means that one must work up the ladder with
one's legal petitions. Federal cases must first be heard by the U.S. trial
courts, then reviewed by one of the appellate tribunals, and finally heard by
the U.S. Supreme Court. This orderly procedure of events must occur despite
the importance of the case or of the petitioners who filed it. In certain
circumstances, however, the appellate process can be shortened.
|
Các giải pháp khắc
phục khác phải được xem xét cho hết
Một nguyên tắc tự hạn chế nữa thường làm cho các nguyên
đơn nổi khùng, thất vọng là một yếu tố cực kỳ quan trọng để có thể kiểm soát
công lý một cách trật tự: Các tòa án ở Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận một vụ việc
nếu chưa tính hết khả năng thực hiện các giải pháp khắc phục khác, kể cả pháp
lý lẫn hành chính. Theo nghĩa giản đơn, chủ thuyết này có nghĩa là một người
phải leo từng nấc thang của quá trình khiếu kiện pháp lý. Các vụ án liên bang
đầu tiên phải được xét xử ở tòa sơ thẩm Hoa Kỳ, tiếp đó được xem xét lại tại
một cơ quan xét xử phúc thẩm, và cuối cùng mới được xét xử tại Tòa án tối
cao. Thủ tục thứ tự diễn biến này phải được tuân thủ cho dù nội dung vụ việc
hay người đệ đơn có quan trọng đến đâu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
nhất định, trình tự phúc thẩm có thể được rút ngắn.
|
Exhaustion of remedies refers to possible
administrative relief as well as to adherence to the principle of a
three-tiered judicial hierarchy. Such relief might be in the form of an
appeal to an administrative officer, a hearing before a board or committee,
or formal consideration of a matter by a legislative body.
|
Hết khả năng thực hiện các giải pháp khắ c phục khác có
nghĩa là hết khả năng thực hiện giải pháp hành chính hay phải tuân thủ nguyên
tắc cấu trúc tư pháp ba cấp. Giải pháp hành chính có thể nằm dưới dạng khiếu
nại lên một viên chức hành chính, xét xử tại một hội đồng hoặc ủy ban, hoặc
được cơ quan lập pháp xem xét chính thức một vấn đề nào đó.
|
Courts
Do Not Decide "Political Questions"
To U.S. judges, the executive and the
legislative branches of government are political in that they are elected by
the people for the purpose of making public policy. The judiciary, in
contrast, was not designed by the Founders to be an instrument manifesting
the popular will and is therefore not political. According to this line of
reasoning, then, a political question is one that ought properly to be
resolved by one of the other two branches of government.
|
Tòa án không xét xử
các “yếu tố chính trị”
Đối với thẩm phán Hoa Kỳ, hai ngành hành pháp và lập pháp
của chính quyền là những ngành mang tính chính trị vì nó được dân bầu lên để
lập chính sách công. Còn tư pháp thì ngược lại, các Nhà lập quốc không thiết chế
ngành này thành một công cụ để thể hiện ý chí chung, và do đó không mang tính
chính trị. Theo hướng luận giải này thì các yếu tố chính trị cần được giải
quyết bởi một trong hai ngành kia của chính quyền.
|
For example, when the state of Oregon gave its
citizens the right to vote on popular statewide referendums and initiatives
around 1900, the Pacific States Telephone and Telegraph Company objected.
(The company feared that voters would bypass the more business-oriented
legislature and pass laws restricting its rates and profits.) The company
claimed that Article IV, Section 4, of the Constitution guarantees to each
state "a Republican Form of Government" -- a term that supposedly
means that laws are to be made only by the elected representatives of the
people, not by the citizens directly. The High Court refused to rule on the
merits of the case, declaring the issue to be a political question. The Court
reasoned that since Article IV primarily prescribes the duties of Congress,
it follows that the Founders wanted Congress -- not the courts -- to oversee
the forms of government in the several states.
|
Ví dụ, khi bang Oregon trao quyền cho công dân được bỏ
phiếu thông qua các sáng kiến và các cuộc trưng cầu dân ý phổ thông vào
khoảng năm 1900, Công ty điện thoại và điện tín các bang Thái Bình Dương đã
phản đối. (Công ty này sợ rằng các cử tri sẽ bỏ qua các văn kiện lập pháp hỗ
trợ kinh doanh và thông qua các đạo luật hạn chế đơn giá và lợi nhuận của
mình). Công ty cho rằng Điều IV, Mục 4 của Hiến pháp bảo vệ “Hình thái Chính
phủ Cộng hòa” ở mỗi bang – thuật ngữ được cho là đã quy định rằng, chỉ có các
đại diện của dân mới được ban hành luật, chứ không phải trực tiếp người dân.
Tòa án tối cao từ chối đưa ra phán quyết về sự phải trái của vụ việc, Tòa
tuyên bố vấn đề này mang yếu tố chính trị. Cơ sở phán quyết của Tòa là Điều
IV chủ yếu quy định nhiệm vụ của Quốc hội, và nó cho rằng các Nhà lập quốc
muốn Quốc hội, chứ không phải tòa án, được quyền giám sát hình thái chính
quyền ở các bang.
|
In recent decades an important political
versus nonpolitical dispute has concerned the matter of reapportionment of legislative
districts. Prior to 1962, a majority on the Supreme Court refused to rule on
the constitutionality of legislative districts with unequal populations,
saying that such matters were "nonjusticiable" and that the Court
dared not enter what Justice Felix Frankfurter called "the political
thicket." According to traditional Supreme Court thinking, the Founders
wanted legislatures to redistrict themselves -- perhaps with input from the
electorate. However, with the Supreme Court's decision in Baker v. Carr
(1962), the majority reversed that thinking. Since then the Court has held in
scores of cases that the equal-protection clause of the Fourteenth Amendment
requires legislative districts to be of equal population size and,
furthermore, that the courts should see to it that this mandate is carried
out.
|
Trong những thập niên gần đây, đã xuất hiện một xung đột
về việc nên coi việc điều chỉnh ranh giới hạt lập pháp là một vấn đề chính
trị hay phi chính trị. Trước năm 1962, đa số thành viên Tòa án tối cao từ
chối phán quyết về tính hợp hiến của các hạt lập pháp có số dân không đều, vì
cho rằng đây không phải là vấn đề “có thể xét xử”, và Tòa án không dám xâm
phạm cái mà Thẩm phán Felix Frankfurter gọi là “bụi rậm chính trị”. Theo lối
tư duy truyền thống của Tòa án tối cao, thì các Nhà lập quốc muốn các cơ quan
lập pháp tự phân chia ranh giới hạt – có lẽ là cùng với ý kiến của cử tri.
Tuy nhiên, với phán quyết của Tòa án tối cao trong vụ Baker kiện Carr (1962),
đa số đã thay đổi quan điểm đó. Từ thời điểm đó, Tòa án tối cao đã quyết định
nhiều vụ việc theo hướng điều luật bảo vệ công bằng theo Tu chính án Hiến
pháp thứ mười bốn, yêu cầu các hạt lập pháp phải có số dân tương đương, và
hơn nữa, các tòa án phải xem xem quy định đó đã được thực hiện hay chưa.
|
The
Burden of Proof Is on the Petitioner
The nation's jurists generally agree that an
individual who would challenge the constitutionality of a statute bears the
burden of proof. Thus, if someone were to attack a particular statute, he or
she would have to do more than demonstrate that it was "questionable or
of doubtful constitutionality"; the petitioner would have to persuade
the court that the evidence against the law was clear-cut and overwhelming.
|
Trách nhiệm cung cấp
chứng cứ thuộc về người đệ đơn
Các luật gia của quốc gia nói chung đều nhất trí là người
nào khiếu kiện tính hợp hiến của một đạo luật phải có trách nhiệm cung cấp
chứng cứ. Do đó, nếu một người muốn tấn công một đạo luật nào đó, thì họ phải
làm rất nhiều việc chứ không chỉ đơn thuần nêu được là đạo luật đó “có vấn đề
hay đáng nghi ngờ về tính hợp hiến”; người đệ đơn phải thuyết phục tòa án
rằng chứng cứ chống lại đạo luật đó là rõ ràng và phổ biến.
|
The only exception to this burden of proof
principle is in the realm of civil rights and liberties. Some jurists who are
strong civil libertarians have long contended that when government attempts
to restrict basic human freedoms the burden of proof should shift to the
government. And in several specific areas of civil rights jurisprudence that
philosophy now prevails. For example, the U.S. Supreme Court has ruled in a
variety of cases that laws that treat persons differently according to their
race or gender are automatically subject to "special scrutiny."
This means that the burden of proof shifts to the government to demonstrate a
compelling or overriding need to differentiate persons according to their
ethnic origins or sex. For instance, the government has long argued (successfully)
that some major restrictions can be placed on women in the armed forces that
prevent them from being assigned to full combat duty.
|
Chỉ có một ngoại lệ đối với nguyên tắc này là trong lĩnh
vực quyền công dân và tự do công dân. Một số luật gia ủng hộ mạnh mẽ quyền tự
do công dân từ lâu đã cho rằng nếu chính quyền cố gắng hạn chế các quyền tự
do con người cơ bản, thì trách nhiệm đưa ra chứng cứ phải chuyển sang cho
chính quyền. Và trong một số lĩnh vực cụ thể của ngành luật quyền công dân,
triết lý này đã trở nên phổ biến. Ví dụ, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã phán quyết
trong nhiều vụ rằng các đạo luật đối xử con người khác biệt theo chủng tộc
hay giới tính sẽ tự động bị “soi xét đặc biệt” (special scrutity). Điều này
có nghĩa là trách nhiệm chứng cứ chuyển sang chính quyền, buộc chính quyền
phải chứng minh là có một nhu cầu bắt buộc và có tầm quan trọng vượt trội
trong việc phân biệt con người theo xuất xứ dân tộc hoặc giới tính. Ví dụ, từ
lâu chính quyền đã lý luận (và đã thành công) rằng cần có một số hạn chế lớn
đối với phụ nữ trong quân lực để tránh cho họ không phải thực hiện các nhiệm
vụ chiến đấu trực tiếp.
|
Laws Are
Overturned on the Narrowest Grounds Only
Sometimes during a trial a judge clearly sees
that the strictures of the Constitution have been offended by a legislative
or executive act. Even here, however, a jurist may proceed with caution.
First, a judge may have the option of invalidating an official action on what
is called statutory, instead of constitutional, grounds. Statutory
invalidation means that a judge overturns an official's action because the
official acted beyond the authority delegated to him or her by the law. Such
a ruling has the function of saving the law itself while still nullifying the
official's misdeed. Second, judges may, if possible, invalidate only that
portion of a law they find constitutionally defective instead of overturning
the entire statute.
|
Chỉ bác bỏ luật trên
cơ sở hẹp nhất
Đôi khi trong một phiên xét xử, một thẩm phán nhận thấy rõ
ràng một văn kiện lập pháp hay một hành động hành pháp đã vi phạm nghiêm
trọng Hiến pháp. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này thì các luật gia vẫn
hành động rất thận trọng. Đầu tiên, thẩm phán có thể chọn phương án vô hiệu
hóa một hành động hành pháp trên cơ sở luật định, chứ chưa phải hiến định. Vô
hiệu hóa luật định có nghĩa là một thẩm phán bác bỏ một hành động hành pháp
vì viên chức hành pháp đã hành động vượt quá thẩm quyền được luật cho phép.
Phán quyết đó có ý nghĩa bảo vệ luật nhưng vẫn vô hiệu hóa được hành động sai
trái của viên chức hành pháp. Thứ hai, là các thẩm phán có thể (nếu có khả
năng) chỉ vô hiệu hóa một phần của đạo luật mà họ cho là có lỗi về mặt hiến
định, chứ không bác bỏ toàn bộ đạo luật.
|
No
Rulings Are Made on the "Wisdom" of Legislation
If followed strictly, this principle means
that the only basis for declaring a law or an official action
unconstitutional is that it literally violates the Constitution. Statutes do
not offend the Constitution merely because they are unfair, are fiscally
wasteful, or constitute bad public policy. If taken truly to heart, this
means that judges and justices are not free to invoke their own personal
notions of right and wrong or of good and bad public policy when they examine
the constitutionality of legislation.
|
Không phán quyết về
“sự sáng suốt” của cơ quan lập pháp
Nếu được tuân thủ nghiêm khắc, nguyên tắc này có nghĩa là
cơ sở duy nhất để tuyên bố một đạo luật hoặc một hành vi hành pháp vi hiến là
cho rằng nó vi phạm từng chữ của Hiến pháp. Các đạo luật không xâm phạm Hiến
pháp chỉ vì nó không công bằng, lãng phí tài chính, hoặc cấu thành một chính
sách công tồi tệ. Nếu thực sự xem xét cẩn thận, thì điều này có nghĩa là thẩm
phán và đại thẩm phán không được tự do vận dụng các quan niệm cá nhân về đúng
sai, hoặc quan niệm chính sách công tốt xấu khi xem xét tính hợp hiến của văn
kiện lập pháp.
|
Another spinoff of this principle is that a
law may be passed that all agree is good and wise but that is nevertheless
unconstitutional; conversely, a statute may legalize the commission of an
official deed that all know to be bad and dangerous but that still does not
offend the Constitution.
|
Một hệ quả phụ khác của nguyên tắc này là có thể một đạo
luật được thông qua và được mọi người nhất trí là một đạo luật tốt và khôn
ngoan, nhưng vẫn bị coi là vi hiến; ngược lại, một đạo luật có thể hợp pháp
hóa hành vi của quan chức hành pháp bị mọi người coi là tồi tệ và nguy hiểm,
nhưng vẫn không vi phạm Hiến pháp.
|
The principle of not ruling on the
"wisdom" of a law is difficult to follow in the real world. This is
so because the Constitution, a rather brief document, is silent on many areas
of public life and contains a number of phrases and admonitions that are open
to a variety of interpretations. For instance, the Constitution says that
Congress may regulate interstate commerce. But what exactly is commerce, and
how extensive does it have to be before it is of an "interstate"
character? As human beings, judges have differed in the way they have
responded to this question. The Constitution guarantees a person accused of a
crime the right to a defense attorney. But does this right continue if one
appeals a guilty verdict and, if so, for how many appeals? Strict
constructionists and loose constructionists have responded differently to
these queries.
|
Nguyên tắc không phán quyết về “tính sáng suốt” của các
đạo luật là một nguyên tắc khó tuân thủ trong thực tiễn. Đó là vì Hiến pháp
là một tài liệu khá ngắn gọn, không đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống
công và chứa một số câu chữ và lời khuyên răn có thể có nhiều cách lý giải
khác nhau. Ví dụ, Hiến pháp quy định Quốc hội được điều chỉnh thương mại
xuyên bang. Nhưng chính xác thế nào là thương mại, và phạm vi của nó rộng đến
mức nào khi chưa thêm chữ “xuyên bang”? Thẩm phán cũng là con người, và họ có
nhiều cách trả lời khác nhau đối với câu hỏi này. Hiến pháp bảo vệ một người
bị truy tố về một tội phạm nào đó có quyền được luật sư bào chữa. Nhưng quyền
này có được duy trì khi người đó kháng cáo yêu cầu một phán định có tội hay
không, nếu có thì bao nhiêu kháng cáo? Những người giải thích luật chặt chẽ
và những người giải thích luật lỏng lẻo đã đưa ra những câu trả lời khác
nhau.
|
In all, despite the inevitable intrusion of
judges' personal values into their interpretation of many portions of the
Constitution, virtually every jurist subscribes to the general principle that
laws can be invalidated only if they offend the Constitution -- not the
personal preferences of the judges.
|
Tóm lại, mặc dù việ c đưa giá trị cá nhân của thẩm phán
vào trong cách diễn giải nhiều phần của Hiến pháp là không thể trá nh khỏi,
nhưng hầu như các luật gia đều tán thà nh nguyên tắc chung là các đạo luật
chỉ có thể bị vô hiệu hóa nếu nó vi phạm Hiến pháp, chứ không phải theo ý
thích cá nhân của thẩm phán.
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn