OUTLINE
OF THE U. S. LEGAL SYSTEM
|
HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT HOA KỲ P8
|
|
7 FEDERAL JUDGES
|
CHƯƠNG 7: CÁC THẨM
PHÁN LIÊN BANG
|
The main actors in the federal system are the
men and women who serve as judges and justices. What characteristics do these
people have that distinguish them from the rest of the citizenry? What are
the qualifications -- both formal and informal -- for appointment to the
bench? How are judges selected and who are the participants in the process?
How do judges learn to be judges? How are judges disciplined and when are
they removed from the bench?
|
Các nhân vật chính của hệ thống pháp lý liên bang là những
người đảm nhiệm chức vụ thẩm phán và chánh án. Những người này có đặc điểm gì
để phân biệt họ với toàn thể các công dân còn lại? Có những phẩm chất nào -
cả chính thức và không chính thức - để những người này được bổ nhiệm vào đội
ngũ đó? Các thẩm phán được lựa chọn như thế nào và ai là người tham gia trong
quá trình này? Các thẩm phán phải học tập như thế nào để trở thành thẩm phán?
Các thẩm phán được rèn luyện như thế nào và khi nào họ sẽ bị bãi miễn?
|
|
BACKGROUND
CHARACTERISTICS OF FEDERAL JUDGES
Americans cling to the notion that someone
born in the humblest of circumstances (such as Abraham Lincoln) may one day
grow up to be the president of the United States, or at least a U.S. judge.
As with most myths, this one has a kernel of truth. In principle virtually
anyone can become a prominent public official, and a few well-known examples
can be cited of people who came from poor backgrounds yet climbed to the
pinnacle of power. More typically, however, America's federal judges, like
other public officials and the captains of commerce and industry, come from the
nation's middle and upper-middle classes.
|
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ
HOÀN CẢNH XUẤT THÂN CỦA CÁC THẨM PHÁN LIÊN BANG
Người dân Mỹ gắn bó với ý niệm rằng một người sinh ra
trong hoàn cảnh tầm thường nhất (như Abraham Lincohn) một ngày nào đó cũng có
thể trở thành tổng thống của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, hoặc ít nhất là thẩm phán
của Tòa án tối cao. Cũng như hầu hết các truyền thuyết, truyền thuyết này
cũng có một phần sự thật trong đó. Về nguyên tắc, mọi người đều có thể trở
thành một quan chức chính phủ xuất chúng, và có một số ví dụ rất nổi tiếng về
những người có xuất thân thấp kém song đã đạt tới đỉnh cao quyền lực. Tuy
nhiên, các thẩm phán liên bang Mỹ, cũng giống như các quan chức chính phủ
khác và những người đứng đầu các ngành thương mại và công nghiệp, thường xuất
thân từ tầng lớp trung lưu và thượng lưu của đất nước này.
|
District
Judges
Background data for all federal district
judges for the past 210 years have never been collected, but a good deal is
known about judges who have served in recent decades.
|
Các thẩm phán hạt
Dữ liệu về hoàn cảnh xuất thân của tất cả các thẩm phán
hạt của liên bang trong 210 năm qua không được thu thập, song đã có một số
lượng khá lớn dữ liệ u về các thẩm phán phục vụ trong những thập niên gần
đây.
|
Before assuming the federal bench, a plurality
of judges had been judges at the state or local level. The next largest blocs
were employed either in the political or governmental realms or in moderate-
to large-sized law firms. Those working in small law firms or as professors
of law made up the smallest bloc.
|
Trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ thẩm phán tòa án liên
bang, đa số các thẩm phán đều đã là thẩm phán của các tòa án bang hoặc địa
phương. Nhóm chiếm đa số tiếp sau đó là những người đã làm việc trong các
lĩnh vực chính trị hoặc chính quyền hoặc - khiêm tốn hơn - trong các hãng
luật có quy mô lớn. Những người làm việc trong các hãng luật nhỏ hoặc các
giáo sư giảng dạy môn luật chỉ chiếm số lượng nhỏ.
|
Judges' educational background reveals
something of their elite nature. All graduated from college; about half
attended either costly Ivy League schools or other private universities to
receive their undergraduate and law degrees. Judges also differ from the
population as a whole in that there is a strong tendency toward
"occupational heredity" -- that is, for judges to come from
families with a tradition of judicial and public service.
|
Quá trình học tập của các thẩm phán cho chúng ta thấy đôi
điều về phẩm chất ưu tú của họ. Tất cả đều tốt nghiệp đại học/cao đẳng; có khoảng
một nửa trong số họ đã theo học tại các trường đại học nổi tiếng ở miền Đông
Bắc nước Mỹ với học phí rất đắt đỏ hoặc các trường đại học tư khác để lấy
bằng tốt nghiệp đại học hoặc bằng chuyên khoa luật. Các thẩm phán cũng khác
với toàn bộ công chúng nói chung ở chỗ họ có một xu hướng mạnh mẽ về “tính kế
nghiệp” - có nghĩa là các thẩm phán thường xuất thân từ những gia đình có
truyền thống làm việc trong lĩnh vực tư pháp hoặc dịch vụ công.
|
Although the United States is about 51 percent
female, judges have been almost exclusively male. Until the presidency of
Jimmy Carter (1977-81), less than 2 percent of district judges were female,
and even with conscious effort to change this phenomenon, only 14.4 percent
of Carter's appointments to district judgeships were women. Racial minorities
also have been underrepresented on the trial bench, not only in absolute
numbers but also in comparison with figures for the overall population. Until
the present time, only Jimmy Carter had appointed a significant number of
non-Anglos to the federal bench -- over 21 percent. During the administration
of President Bill Clinton (1993-2001), a dramatic change took place. During
his first six years in office, 49 percent of his judicial appointees were
either women or minorities.
|
Mặc dù 51% dân số Mỹ là phụ nữ, song các thẩm phán hầu như
hoàn toàn là nam giới. Cho tới tận nhiệm kỳ tổng thống của Jimmy Carter
(1977-1982), mới chỉ có chưa đầy 2% các thẩm phán hạt là phụ nữ, và ngay cả
với những nỗ lực có chủ ý nhằm thay đổi tình trạng này, chỉ có 14, 4% trong
số những người được Jimmy Carter bổ nhiệm vào vị trí thẩm phán hạt là phụ nữ.
Các nhóm chủng tộc thiểu số cũng chỉ chiếm một tỷ lệ đại diện rất ít ỏi trong
số các thẩm phán, không chỉ về con số tuyệt đối mà còn cả tỷ lệ so sánh trên
số dân. Cho tới tận thời điểm hiện nay, chỉ có Jimmy Carter đã bổ nhiệm một
số lượng đáng kể những người không thuộc chủng tộc Anglo vào nhánh tư pháp -
trên 21%. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống Bill Clinton (1993 - 2001), đã diễn
ra một sự thay đổi lớn. Trong sáu năm đầu cầm quyền, 49% số người ông bổ
nhiệm giữ các chức vụ trong ngành tư pháp là phụ nữ hoặc thuộc nhóm thiểu số.
|
About nine out of 10 district judges have been
of the same political party as the appointing president, and historically
about 60 percent have a record of active partisanship.
|
Có khoảng chín phần mười các thẩm phán hạt thuộc cùng một
đảng phái chính trị với tổng thống bổ nhiệm họ, và xét về mặt lịch sử thì có
khoảng 60% trong số họ đã tham gia hoạt động đảng phái rất tích cực.
|
The typical judge has been 49 years old at the
time of appointment. Age variations from one presidency to another have been
small, with no discernible trend over the years from one administration to
another.
|
Trung bình, một thẩm phán thường ở vào độ tuổi 49 khi được
bổ nhiệm. Sự khác biệt về độ tuổi bổ nhiệ m hầu như không đáng kể giữ a các
nhiệm kỳ tổng thống khác nhau, và không có xu hướng sai lệch theo thời gian
giữa các chính quyền khác nhau.
|
Appeals
Court Judges
Appeals judges are much more likely to have
previous judicial experience than their counterparts on the trial court
bench, and they are just as likely, if not more so, to have attended private
and Ivy League schools.
|
Các thẩm phán tòa
phúc thẩm / thượng thẩm
Các thẩm phán tòa phúc thẩm/ thượng thẩm thường có nhiều
kinh nghiệm hơn trong ngành tư pháp trước khi được bổ nhiệm so với các thẩm
phán tại tòa sơ thẩm, và họ cũng thườ ng, nếu không nói là nhiều khả năng
hơn, theo học tại những trường danh tiếng vùng Đông Bắc và các trường đại học
tư nổi tiếng khác.
|
In terms of political party affiliation,
little difference is seen between trial and appellate court appointments.
However, appeals judges have a slight tendency to be more active in their
respective parties than their colleagues on the trial bench.
|
Xét về khía cạnh đảng phái chính trị, hầu như không có sự
khác biệt giữa việc bổ nhiệm thẩm phán tại các tòa sơ thẩm với thẩm phán tòa
phúc thẩm/thượng thẩm. Tuy nhiên, các thẩm phán tòa phúc thẩm/thượng thẩm
thường có xu hướng hoạt động đảng phái tích cực hơn so với các đồng sự của họ
tại tòa sơ thẩm.
|
The Clinton initiative to make the bench more
accurately reflect U.S. gender and racial demographics is evident in the
ranks of the appellate judges as well. A third of his appointees were women,
and more African-Americans, Hispanics, and Asians were appointed to the
appellate court bench by Clinton than by any other president.
|
Sáng kiến của Clinton nhằm làm cho ngành tư pháp phản ánh
chính xác hơn thành phần chủng tộc và giới của nước Mỹ cũng được thể hiện rõ
rệt trong việc bổ nhiệm các thẩm phán tòa phúc thẩm/thượng thẩm. Một phần ba
trong số những người được ông bổ nhiệm giữ chức vụ này là phụ nữ, và Clinton
đã bổ nhiệm nhiều người Mỹ gốc Phi, Á và Tây Ban Nha - Bồ Đào Nha vào chức vụ
này hơn bất cứ tổng thống nào khác.
|
President George W. Bush, in turn, also has
shown a commitment to racial and gender diversity. Almost one-third of his
district court appointments, for example, have been
"non-traditional" -- women and minorities.
|
Đến lượt mình, Tổng thống George W. Bush (con) cũng thể
hiện sự cam kết đối với tính đa dạng về chủng tộc và giới của nước Mỹ. Một ví
dụ là gần một phần ba số thẩm phán tòa án hạt do ông bổ nhiệm thuộc nhóm “phi
truyền thống” - tức phụ nữ và nhóm thiểu số.
|
Supreme
Court Justices
Since 1789, 106 men and two women have sat on
the bench of America's highest judicial tribunal. Although perhaps 10 percent
of the justices were of essentially humble origin, a majority of the justices
came from politically active families, and about a third were related to
jurists and closely connected with families with a tradition of judicial
service.
|
Các thẩm phán Tòa án
tối cao
Từ năm 1789, đã có 106 nam giới và hai phụ nữ ngồi vào ghế
thẩm phán tại tòa án tư pháp cấp cao nhất của Hoa Kỳ. Mặc dù có lẽ khoảng 10%
trong số họ thực sự xuất thân từ tầng lớp dưới, song phần lớn các thẩm phán
này đều xuất thân từ những gia đình có hoạt động đảng phái rất tích cực, và
khoảng một phần ba trong số họ có quan hệ với các luật gia và có liên hệ chặt
chẽ với các gia đình có truyền thống phục vụ trong ngành tư pháp.
|
Until the 1960s the High Court had been all
white and all male, but in 1967 President Lyndon Johnson appointed Thurgood
Marshall as the first African American member of the Court. When Marshall
retired in 1991, President George H.W. Bush, father of President George W.
Bush, replaced him with another African American, Clarence Thomas. In 1981
the gender barrier was broken when President Ronald Reagan named Sandra Day
O'Connor to the Court, and 13 years later she was joined by Ruth Bader
Ginsburg.
|
Cho tới tận thập niên 1960, Tòa án tối cao vẫn chỉ bao gồm
các thành viên nam giới và da trắng, nhưng vào năm 1967, Tổng thống Lyndon B.
Johnson đã bổ nhiệm Thurgood Marshall làm thành viên người Mỹ gốc Phi đầu
tiên của Tòa án. Khi Marshall nghỉ hưu vào năm 1991, Tổng thống George H. W.
Bush (cha), cha của Tổng thống George W. Bush (con), đã thay thế ông bằng một
người Mỹ gốc Phi khác, ông Clarence Thomas. Năm 1981, rào cản về giới đã bị
phá vỡ khi Tổng thống Ronald Reagan bổ nhiệm Sandra Day O’ Connor vào một
chức vụ tại Tòa, và 13 năm sau có thêm một phụ nữ nữ a được bổ nhiệm là Ruth
Bader Ginsburg.
|
As for the nonpolitical occupations of the
justices, all 108 had legal training and all had practiced law at some stage
in their careers. Only 22 percent had state or federal judicial experience
immediately prior to their appointments, although more than half had served
on the bench at some time before their nomination to the Supreme Court. As
with their colleagues in the lower federal judiciary, the justices were much
more likely to have been politically active than the average American, and
virtually all shared many of the ideological and political orientations of
their appointing president.
|
Về những nghề nghiệp phi chính trị của các thẩm phán Tòa
án tối cao, tất cả 108 người này đều học luật và đã hành nghề luật ở một số
giai đoạn trong sự nghiệp của họ. Chỉ có 22% đang làm việc tại các tòa án
bang hoặc liên bang ngay trước khi được bổ nhiệm, mặc dù có hơn một nửa đã
từng làm thẩm phán tại một thời điểm nào đó trước khi được bổ nhiệm vào Tòa
án tối cao. Cũng giống như những đồng sự của mình tại các tòa án liên bang
cấp thấp hơn, các thẩm phán Tòa án tối cao thường tham gia hoạt động chính
trị tích cực hơn so với người dân Mỹ bình thường, và hầu hết trong số họ đều
có cùng các định hướng về chính trị và lý tưởng với tổng thống bổ nhiệm họ.
|
QUALIFICATIONS
OF FEDERAL JUDGES
Despite the absence of formal qualifications
for a federal judgeship, there are well-defined informal requirements.
|
PHẨM CHẤT VÀ NĂNG
LỰC CỦA CÁC THẨM PHÁN LIÊN BANG
Mặc dù không có một tiêu chuẩn chính thức nào về phẩm chất
và năng lực của vị trí thẩm phán liên bang, song có một số yêu cầu không
chính thức được xác định rất rõ ràng.
|
Formal
Qualifications
No constitutional or statutory qualifications
are stipulated for serving on the Supreme Court or the lower federal courts.
The Constitution merely indicates that "the judicial Power of the United
States, shall be vested in one supreme Court" as well as in any lower
federal courts that Congress may establish (Article III, Section 1) and that
the president "by and with the Advice and Consent of the Senate, shall
appoint...Judges of the supreme Court" (Article II, Section 2). Congress
has applied the same selection procedure to the appeals and the trial courts.
There are no exams to pass, no minimum age requirement, no stipulation that
judges be native-born citizens or legal residents, no requirement that judges
even have a law degree.
|
Các tiêu chuẩn chính
thức về phẩm chất và năng lực
Hiến pháp cũng như luật pháp không hề quy định về các phẩm
chất và năng lực cần thiết để một người có thể làm việc tại Tòa án tối cao
hoặc các tòa án liên bang cấp thấp hơn. Hiến pháp chỉ nêu rõ rằng “quyền lực
về tư pháp của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ cần phải được trao cho một Tòa án tối
cao” cũng như các tòa án liên bang cấp thấp hơn khác mà Quốc hội có thể lập
ra (Điều III, Mục 1) và rằng tổng thống, “do và cùng với sự tư vấn và đồng
thuận của Thượng viện, sẽ bổ nhiệm… các thẩm phán của Tòa án tối cao” (Điều
II, Mục 2). Quốc hội đã áp dụng quy trình lựa chọn tương tự đối với tòa sơ
thẩm và phúc thẩm. Không hề có một kỳ thi nào được đặt ra để người được bổ
nhiệm phải vượt qua, không có quy định về độ tuổi tối thiểu, không có quy
định về việc các thẩm phán phải là công dân bản xứ hoặc công dân thường trú
hợp pháp, và cũng không có yêu cầu nào về việc các thẩm phán phải có một bằng
tốt nghiệp ngành luật.
|
Informal
Requirements
At least four vital although informal factors
determine who sits on the federal bench in America: professional competence,
political qualifications, self-selection, and the element of luck.
|
Các yêu cầu không
chính thức
Có ít nhất bốn yếu tố không chính thức song hết sức thiết
yếu để xác định ai sẽ có thể đảm nhiệm chức vụ thẩm phán tại các tòa án Mỹ:
năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, sự khẳng định mong muốn, và yếu tố
may mắn.
|
Professional Competence: Although candidates
for U.S. judicial posts do not have to be attorneys, it has been the custom
to appoint lawyers who have distinguished themselves professionally. Although
the political rules may allow a president to reward an old ally with a seat
on the bench, tradition has created an expectation that the would-be judge
have some reputation for professional competence, the more so as the
judgeship in question goes from the trial court to the appeals court to the
Supreme Court level.
|
Năng lực chuyên môn: Mặc dù ứng cử viên cho những chức vụ
trong ngành tư pháp Hoa Kỳ không nhất thiết phải là các luật sư, song có một
thông lệ về việc bổ nhiệm các luật sư - những người nổi bật về khả năng
chuyên môn. Mặc dù các quy định chính trị có thể cho phép một tổng thống
thưởng cho một đồng minh kỳ cựu của mình vị trí thẩm phán tại một tòa án,
song theo truyền thống, người ta thường kỳ vọng rằng vị thẩm phán tương lai
phải có danh tiếng nhất định về năng lực chuyên môn, và danh tiếng này càng
phải cao đối với vị trí thẩm phán tại Tòa án tối cao và các tòa phúc thẩm so
với tòa sơ thẩm.
|
Political
Qualifications: Most nominees for judicial office have some record of political
activity for two reasons. First, to some degree judgeships are still
considered part of the political patronage system; those who have served the
party are more likely to be rewarded with a federal post than those who have
not. Second, some political activity on the part of the would-be judge is
often necessary, because otherwise the candidate would simply not be visible
to the president, senator(s),or local party leaders who send forth the names
of candidates.
|
Phẩm chất chính trị: Hầu hết những ứng cử viên cho vị
trí thẩm phán đều phải có thành tích nhất định về hoạt động chính trị vì hai
lý do. Thứ nhất, ở một mức độ nào đó, vị trí thẩm phán vẫn được coi là một
phần của hệ thống chính trị bảo trợ; những người đã phục vụ trong đảng phái
thường có nhiều khả năng được bổ nhiệm làm thẩm phán liên bang hơn so với
những người không thuộc đảng phái. Thứ hai, một số hoạt động chính trị của vị
thẩm phán tương lai thường là cần thiết, bởi vì nếu không như vậy thì ứng cử
viên đơn giản là không được biết đến bởi tổng thống, các thượng nghị sĩ hoặc
lãnh đạo đảng phái tại địa phương - những người sẽ gửi cho tổng thống tên của
ứng cử viên vào vị trí thẩm phán.
|
Self-Selection: While many consider
it undignified and lacking in judicial temperament for someone to announce
publicly a desire for a federal judgeship, some would-be jurists orchestrate
discreet campaigns on their own behalf or at least pass the word that they
are available for judicial service. Few will admit to seeking an appointment
actively, but credible anecdotes suggest that attorneys often position
themselves in such a way that their names will come up when there is a vacant
seat to fill.
|
Sự khẳng định mong
muốn: Mặc dù rất
nhiều người coi việc ai đó công khai bày tỏ mong muốn được trở thành thẩm
phán liên bang là không đúng đắn và thiếu sự điềm đạm của một quan tòa, song
một số thẩm phán tương lai đã tự mình tiến hành những chiến dịch vận động kín
đáo hoặc ít nhất cũng phát tín hiệu rằng họ đã sẵn sàng để phục vụ tại tòa
án. Sẽ chỉ có rất ít người thừa nhận đang tích cực tìm kiếm sự bổ nhiệm,
nhưng các giai thoại cho thấy rằng các luật sư thường đặt mình vào những vị
trí sao cho tên của họ sẽ được xem xét đến khi có một ghế trống cần bổ nhiệm.
|
The Element of Luck: A good measure of
happenstance exists in virtually all judicial appointments. Being a member of
the right party at the right time or being visible to the power brokers at
the right moment often has as much to do with becoming a judge as one's
professional background.
|
Yếu tố may mắn: Một sự ngẫu nhiên may mắn luôn tồn tại
trong hầu như tất cả các trường hợp bổ nhiệm thẩm phán. Là thành viên của một
đảng thích hợp tại thời điểm phù hợp hoặc được những nhà môi giới quyền lực
chú ý tới tại đúng thời điểm cần thiết thường góp phần đáng kể để giúp một
người trở thành thẩm phán, cũng đáng kể như những yếu tố về năng lực chuyên
môn của người đó.
|
THE
FEDERAL SELECTION PROCESS AND ITS PARTICIPANTS
The framework of judicial selection is the
same for all federal judges, although the roles of the participants vary
depending on the level of the U.S. judiciary. All nominations are made by the
president after due consultation with the White House staff, the attorney
general's office, certain senators, and other political operatives. The
Federal Bureau of Investigation (FBI), an arm of the Justice Department,
customarily performs a routine security check. After the nomination is
announced to the public, various interest groups that believe they have a
stake in the appointment may lobby for or against the candidate. Also, the
candidate's qualifications will be evaluated by a committee of the American
Bar Association. The candidate's name is sent to the Senate Judiciary
Committee, which conducts an investigation of the nominee's fitness for the
post. If the committee's vote is favorable, the nomination is sent to the
floor of the Senate, where it is either approved or rejected by a simple
majority vote.
|
QUY TRÌNH TUYỂN CHỌN
CỦA LIÊN BANG VÀ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA
Khung tuyển chọn thẩm phán là như nhau đối với tất cả các
thẩm phán liên bang, mặc dù vai trò của những người tham dự rất khác nhau tùy
theo cấp độ của các tòa án Hoa Kỳ. Tất cả đều được bổ nhiệm bởi tổng thống
sau khi tham khảo ý kiến theo đúng quy trình với đội ngũ nhân viên Nhà Trắng,
văn phòng chưởng lý, một số thượng nghị sĩ và các nhà hoạt động chính trị
khác. Cục điều tra liên bang (FBI), một bộ phận của Bộ Tư pháp, thường tiến
hành một cuộc kiểm tra an ninh theo thủ tục. Sau khi việc bổ nhiệm được công
bố công khai, các nhóm lợi ích khác nhau - những người tin rằng họ có lợi ích
liên quan đối với sự bổ nhiệm này - có thể vận động để ủng hộ hoặc chống lại
ứng cử viên. Tương tự, các phẩm chất và năng lực của ứng cử viên sẽ được một
ủy ban của Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ đánh giá. Tên của ứng cử viên sẽ được gửi
lên ủy ban tư pháp của Thượng viện, và ủy ban này sẽ tiến hành một cuộc điều
tra để xem xét xem ứng cử viên có phù hợp với vị trí này hay không. Nếu kết
quả của ứng cử viên là thuận lợi, việc bổ nhiệm sẽ được đưa ra thảo luận tại
cuộc họp của Thượng viện; tại đó nó sẽ được thông qua hoặc phản đối bởi một
đa số đơn thuần.
|
The
President
Technically, the president nominates all
judicial candidates, but historically the chief executive has been more
involved in appointments to the Supreme Court than to the lower courts. This
is so for two major reasons.
|
Tổng thống
Về mặt kỹ thuật, tổng thống đề cử tất cả các ứng cử viên
vào chức vụ thẩm phán, tuy nhiên, về mặt lịch sử, người đứng đầu ngành hành
pháp thường liên quan mật thiết tới việc bổ nhiệm các thẩm phán Tòa án tối
cao hơn là tại các tòa án cấp thấp hơn. Sở dĩ có tình trạng này là do hai nguyên
nhân chủ yếu sau.
|
First, Supreme Court appointments are seen by
the president -- and by the public at large -- as generally more important
and politically significant than openings on the lesser tribunals. Presidents
often use their few opportunities for High Court appointments to make a
political statement or to set the tone of their administration. For example,
during the period of national stress prior to U.S. entry into World War II,
Democratic President Franklin D. Roosevelt elevated Republican Harlan Fiske
Stone to chief justice as a gesture of national unity. In 1969 President
Richard Nixon used his appointment of the conservative Warren Burger to
fulfill his campaign pledge to restore "law and order." And
President Ronald Reagan in 1981 hoped to dispel his reputation for being
unsympathetic toward the women's movement by being the first to name a woman
to the High Court.
|
Thứ nhất, việc bổ nhiệm thẩm phán tại Tòa án tối cao được
tổng thống - và công chúng nói chung - xem là quan trọng hơn và có ý nghĩa về
mặt chính trị hơn so với việc bổ nhiệm thẩm phán tại các tòa án cấp thấp hơn.
Các tổng thống thường nắm lấy những cơ hội ít ỏi của mình trong việc bổ nhiệm
tại Tòa án tối cao để đưa ra một tuyên bố chính trị hoặc nêu lên tinh thần
chung của chính quyền của mình. Ví dụ, trong thời kỳ nước Mỹ tập trung vào
vấn đề tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai, Tổng thống của Đảng Dân chủ
Franklin D. Roosevelt đã bổ nhiệm Harlan Fiske Stone thuộc Đảng Cộng hòa làm
Chánh án Tòa án tối cao - một biểu hiện của sự đoàn kết trong nước. Năm 1969,
Tổng thống Richard Nixon đã bổ nhiệm Warren Burger, một người bảo thủ, để
hoàn tất cam kết trong chiến dịch vận động tranh cử của ông về việc khôi phục
“luật pháp và trật tự”. Và Tổng thống Ronald Reagan vào năm 1981 đã hy vọng
giũ bỏ hình ảnh của mình như một người không đồng cảm với phong trào đòi
quyền của phụ nữ bằng việc trở thành vị tổng thống đầu tiên bổ nhiệm một phụ
nữ vào vị trí thẩm phán tại Tòa án tối cao.
|
A second reason why presidents are likely to
devote more attention to Supreme Court appointments and less to lower court
appointments is that tradition has allowed for individual senators and local
party leaders to influence, and often dominate, lower court appointments. The
practice known as senatorial courtesy is part of the appointment process for
district judges. Under senatorial courtesy, senators of the president's
political party who are from the home state of the nominee are asked their
opinions of the candidate by the Senate Judiciary Committee. In expressing
their views about a particular candidate, these senators are in a position to
virtually veto a nomination. Senatorial courtesy does not apply to appellate
court appointments, although it is customary for presidents to defer to
senators of their party from states that make up the appellate court circuit.
|
Lý do thứ hai giải thích việc tại sao các tổng thống
thường dành nhiều sự quan tâm hơn cho việc bổ nhiệm thẩm phán Tòa án tối cao
và ít chú trọng hơn tới các tòa án cấp thấp chính là vì, theo truyền thống,
cá nhân các thượng nghị sĩ và lãnh đạo đảng phái địa phương có thể ảnh hưởng,
và thường là chi phối, việc bổ nhiệm thẩm phán tòa án cấp thấp hơn. Thông lệ
được biết đến dưới cái tên “sự tham khảo ý kiến thượng nghị sĩ” là một phần
của quy trình bổ nhiệm các thẩm phán hạt. Theo thông lệ này, các thượng nghị
sĩ cùng thuộc một đảng chính trị với tổng thống đến từ bang của ứng cử viên
sẽ được ủy ban tư pháp của Thượng viện hỏi ý kiến về ứng cử viên đó. Bằng
việc trình bày quan điểm của mình về một ứng cử viên cụ thể, các thượng nghị
sĩ này trên thực tế ở vào một vị trí có thể phủ quyết việc đề cử. Quy trình
tham khảo ý kiến thượng nghị sĩ không được áp dụng cho việc bổ nhiệm thẩm
phán tại các tòa phúc thẩm, mặc dù thông thường các tổ ng thống sẽ chiều theo
ý kiến của thượng nghị sĩ đảng mình đến từ những bang có tòa phúc thẩm.
|
The
Department of Justice
Assisting the president and the White House
staff in the judicial selection process are the two key presidential
appointees in the Justice Department -- the attorney general of the United
States and the deputy attorney general. Their primary job is to seek out
candidates for federal judicial posts who conform to general criteria set by
the president. Once several names are obtained, the staff of the Justice
Department will subject each candidate to further scrutiny. They may order an
FBI investigation of the candidate's character and background; they will
usually read copies of all articles or speeches the candidate has written or
evaluate a sitting judge's written opinions; they might check with local
party leaders to determine that the candidate is a party faithful and is in
tune with the president's major public policy positions.
|
Bộ Tư pháp
Hỗ trợ cho tổng thống và đội ngũ nhân viên Nhà Trắng trong
quy trình tuyển lựa thẩm phán là hai vị trí then chốt do tổng thống bổ nhiệm
trong Bộ Tư pháp - chưởng lý của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và phó chưởng lý.
Nhiệm vụ chủ yếu của họ là tìm kiếm các ứng cử viên phù hợp với những tiêu
chuẩn chung do tổng thống đặt ra để bổ nhiệm vào vị trí thẩm phán liên bang.
Khi đã tìm được một số người, nhân viên của Bộ Tư pháp sẽ tiến hành thẩm tra
kỹ lưỡng từng ứng cử viên một. Họ có thể đề nghị FBI tiến hành một cuộc điều
tra về đặc điểm, tính cách và xuất thân của ứng cử viên; họ thường đọc các
bản sao của mọi bài báo hoặc bài phát biểu mà ứng cử viên đã viết hoặc đánh
giá về các ý kiến được nêu ra của một thẩm phán đương nhiệm; họ có thể kiểm
tra với lãnh đạo đảng chính trị ở địa phương để xác định rằng ứng cử viên là
một người trung thành với đảng và có xu hướng ủng hộ những quan điểm chính
sách công chủ yếu của tổng thống.
|
In the case of district judge appointments,
where names are often submitted by home-state senators, the Justice
Department's function is more that of screener than of initiator. Regardless
of who comes up with a list of names, the Justice Department's primary duty
is to evaluate the candidate's personal, professional, and political
qualifications. In performing this role the department may work closely with
the White House staff, with the senators involved in the nomination, and with
party leaders who may wish to have some input in choosing the nominee.
|
Trong trường hợp bổ nhiệm các thẩm phán tòa án hạt, khi
tên của các ứng cử viên thường được thượng nghị sĩ cùng bang đưa lên, chức
năng của Bộ Tư pháp thường chỉ là thẩm tra lại chứ không phải là người đề
xướng. Bất kể ai là người đưa danh sách đó ra, chức năng chủ yếu của Bộ Tư
pháp chỉ là đánh giá ứng cử viên về mặt tư cách cá nhân, trình độ chuyên môn,
và phẩm chất và năng lực chính trị. Trong khi thực thi vai trò này, Bộ Tư
pháp có thể làm việc chặt chẽ cùng với nhân viên Nhà Trắng, với các thượng
nghị sĩ tham gia đề cử, và với các lãnh đạo đảng muốn tham gia góp ý cho việc
lựa chọn ứng cử viên.
|
State
and Local Party Leaders
Regional party leaders have little to say in
the appointment of Supreme Court justices, where presidential prerogative is
dominant, and their role in the choice of appeals court judges is minimal.
However, in the selection of U.S. trial judges their impact is formidable,
especially when appointments occur in states in which neither senator is of
the president's political party. In such cases the president will be more
likely to consult with state leaders of his own party rather than with the
state's senators.
|
Các lãnh đạo đảng
cấp bang và địa phương
Các lãnh đạo đảng phái khu vực hầu như không có ảnh hưởng
gì trong việc bổ nhiệm thẩm phán của Tòa án tối cao, quy trình mà trong đó
tổng thống có quyền chi phối, và vai trò của họ trong việc lựa chọn các thẩm
phán của tòa phúc thẩm cũng hết sức khiêm tốn. Tuy nhiên, trong việc lựa chọn
các chánh án tòa sơ thẩm của Hoa Kỳ, ảnh hưởng của họ là rất lớn, đặc biệt
khi việc bổ nhiệm được tiến hành tại các bang mà thượng nghị sĩ của bang
không thuộc cùng một đảng chính trị với tổng thống. Trong những trường hợp
như vậy, tổng thống thường có xu hướng tham khảo ý kiến các lãnh đạo của đảng
mình tại bang đó, chứ không tham khảo ý kiến thượng nghị sĩ của bang.
|
Interest
Groups
A number of pressure groups in the United
States, representing the whole political spectrum from left to right, often
lobby either for or against judicial nominations. Leaders of these groups --
civil liberties, business, organized labor, civil rights -- have little
hesitation about urging the president to withdraw the nomination of someone
whose political and social values are different from their own or about
lobbying the Senate to support the nomination of someone who is favorably
perceived. Interest groups lobby for and against nominees at all levels of
the federal judiciary.
|
Các nhóm lợi ích
Một số nhóm gây áp lực tại Hoa Kỳ, đại diện cho toàn bộ
đời sống chính trị từ tả sang hữu, thường vận động để ủng hộ hoặc chống lại
việc đề cử các thẩm phán. Những nhà lãnh đạo của các nhóm này - những nhóm
đòi quyền tự do công dân, doanh nghiệp, các tổ chức lao động, các nhóm dân
quyền - đều không ngần ngại thúc giục tổng thống rút lại việc đề cử một người
mà các giá trị về mặt chính trị và xã hội của người ấy khác với họ, hoặc vận
động Thượng viện ủng hộ việc đề cử người mà họ ưa thích. Các nhóm lợi ích
thường vận động hành lang để ủng hộ hoặc chống lại các ứng cử viên vào chức
thẩm phán tại mọi cấp tòa án của liên bang.
|
The
American Bar Association (ABA)
For more than five decades, the Committee on
the Federal Judiciary of the ABA has played a key role in evaluating the
professional credentials of potential nominees for positions on the federal
bench. The committee, whose 15 members represent all the U.S. circuits,
evaluates candidates on the basis of three criteria: judicial temperament,
professional competence, and integrity. A candidate approved by the committee
is rated either "qualified" or "well qualified," whereas
an unacceptable candidate is stamped with a "not qualified" label.
|
Hiệp hội luật sư Hoa
Kỳ (ABA)
Trong hơn năm thập kỷ, ủy ban tư pháp liên bang thuộc Hiệp
hội luật sư Hoa Kỳ đã đóng một vai trò thiết yếu trong việc đánh giá năng lực
chuyên môn của các ứng cử viên tương lai cho chức vụ thẩm phán liên bang. Ủy
ban này, với 15 thành viên đại diện cho tất cả các hạt, đánh giá ứng cử viên
dựa trên ba tiêu chuẩn: khí chất của một thẩm phán, năng lực chuyên môn và
tính liêm chính. Một ứng cử viên được ủy ban phê chuẩn sẽ được xếp loại là “đủ
điều kiện” hoặc “rất có khả năng”, trong khi những người không được chấp nhận
sẽ được phê là “không đủ điều kiện”.
|
The
Senate Judiciary Committee
The rules of the Senate require its Judiciary
Committee to consider all nominations to the federal bench and to make
recommendations to the Senate as a whole. Its role is thus to screen
individuals who have already been nominated, not to suggest names of possible
candidates. The committee holds hearings on all nominations, at which time
witnesses are heard and deliberations take place behind closed doors. The
hearings for district court appointments are largely perfunctory because the
norm of senatorial courtesy has, for all intents and purposes, already
determined whether the candidate will be acceptable to the Senate. However,
for appeals court nominees -- and surely for an appointment to the Supreme
Court -- the committee hearing is a serious proceeding.
|
Ủy ban tư pháp của
Thượng viện
Theo quy định của Thượng viện, ủy ban Tư pháp của Thượng
viện phải xem xét tất cả những vị trí đề cử vào chức vụ thẩm phán liên bang
và đưa ra khuyến nghị cuối cùng trước toàn thể Thượng viện. Như vậy, vai trò
của ủy ban này là thẩm tra các cá nhân được đề cử vào chức vụ thẩm phán, chứ
không phải là nêu tên của những ứng cử viên tiềm năng. Ủy ban tổ chức các
buổi điều trần về tất cả những vị trí đề cử, trong đó việc nghe các nhân
chứng trình bày và thảo luận đều được tiến hành không công khai. Các buổi
điều trần về việc bổ nhiệm thẩm phán hạt thường chỉ mang tính hình thức, bởi
vì với mọi ý định và mục đích, quy trình tham khảo ý kiến thượng nghị sĩ đã
quyết định liệu ứng cử viên có được Thượng viện chấp nhận hay không. Tuy
nhiên, đối với việc đề cử các thẩm phán tòa phúc thẩm - và tất nhiên cả việc
bổ nhiệm thẩm phán Tòa án tối cao - việc điều trần của ủy ban thực sự là một
quy trình nghiêm túc.
|
The
Senate
The final step in the judicial appointment
process for federal judges is a majority vote by the Senate. Historically,
two general views have prevailed of the Senate's prescribed role. Presidents
from the time of George Washington and a few scholars have taken the position
that the Senate ought quietly to go along with the presidential choices
unless overwhelmingly strong reasons exist to the contrary. Other scholars and
most senators have held the view that the Senate has the right and the
obligation to make its own decision regarding the nominee. In practice the
role of the Senate in the judicial confirmation process has varied, depending
on the level of the federal judgeship that is being considered.
|
Thượng viện
Bước cuối cùng trong quy trình bổ nhiệm các thẩm phán liên
bang là việc có được đa số phiếu của Thượng viện. Về mặt lịch sử, có hai quan
điểm chung phổ biến về vai trò được quy định của Thượng viện. Các tổng thống
từ thời George Washington và một số học giả kiên trì quan điểm cho rằng
Thượng viện nên lặng lẽ tán thành những sự lựa chọn của tổng thống trừ phi có
những lý do mạnh mẽ khiến đa số nhất trí phản đối lại quyết định đó. Các học
giả khác và đa số thượng nghị sĩ thì cho rằng Thượng viện có quyền và nghĩa
vụ phải đưa ra quyết định của riêng mình liên quan tới những người được bổ
nhiệm. Trên thực tế, vai trò của Thượng viện trong quy trình chấp thuận việc
bổ nhiệm thẩm phán là rất khác nhau, tùy thuộc vào việc thẩm phán liên bang
đang được xem xét được bổ nhiệm vào cấp tòa án nào.
|
For district judges the norm of senatorial
courtesy prevails. That is, if the president's nominee is acceptable to the
senator(s) of the president's party in the state in which the judge is to
sit, the Senate is usually happy to confirm the appointment. For appointments
to the appeals courts, senatorial courtesy does not apply, since the vacancy
to be filled covers more than just the state of one or possibly two senators.
But senators from each state in the circuit in which the vacancy has occurred
customarily submit names of possible candidates to the president. An
unwritten rule is that each state in the circuit should have at least one
judge on that circuit's appellate bench. As long as the norms are adhered to
and the president's nominee has reasonably good qualifications, the Senate as
a whole usually goes along with the recommendations of the chief executive.
|
Đối với các thẩm phán tòa án hạt, tiêu chuẩn về việc tham
khảo ý kiến thượng nghị sĩ có vai trò quyết định. Điều đó có nghĩa là nếu ứng
cử viên mà tổng thống nêu ra được thượng nghị sĩ cùng đảng phái với tổng
thống đến từ bang mà ứng cử viên sẽ được bổ nhiệm làm thẩm phán chấp nhận,
thì Thượng viện thường đồng tình với việc bổ nhiệm ứng cử viên đó. Đối với
việc bổ nhiệm các thẩm phán tòa phúc thẩm, quy trình tham khảo ý kiến thượng
nghị sĩ không được áp dụng, bởi vì vị trí cần bổ nhiệm thường liên quan tới
nhiều hơn một bang có một hoặc hai thượng nghị sĩ (và do đó cần nhiều hơn một
hoặc thậm chí là hai thượng nghị sĩ). Nhưng các thượng nghị sĩ đến từ mỗi
bang trong hạt cần đề cử thẩm phán thường đưa ra tên của những ứng cử viên có
khả năng cho tổng thống. Có một quy tắc bất thành văn là mỗi bang trong hạt
có thể có ít nhất một thẩm phán trong tòa phúc thẩm của hạt. Nếu quy tắc này
được tuân thủ và ứng cử viên của tổng thống có đầy đủ phẩm chất và năng lực,
Thượng viện nói chung thường nhất trí với những đề cử của người đứng đầu
ngành hành pháp.
|
The Senate has been inclined to dispute the
president if disagreement arises over a nominee's fitness for the High Court.
Since 1789, presidents have sent the names of 144 Supreme Court nominees to
the Senate for its advice and consent. Of this number, 30 were either
rejected or "indefinitely postponed" by the Senate, or the names
were withdrawn by the president. Thus presidents have been successful about
79 percent of the time, and their success rate seems to be improving, given
that as many as one-third of the nominations were rejected by the Senate in
the 19th century. The record shows that presidents have met with the most
success in getting their High Court nominations approved when the nominee
comes from a noncontroversial background and has middle-of-the-road political
leanings, and when the president's party also controls the Senate, or at
least a majority shares the president's basic attitudes and values.
|
Thượng viện có xu hướng tranh chấp với tổng thống nếu bất
đồng ý kiến về sự phù hợp của một ứng cử viên đối với chức vụ thẩm phán tại
Tòa án tối cao. Từ năm 1789, các tổng thống đã gửi cho Thượng viện tên của
144 ứng cử viên đề cử vào Tòa án tối cao để Thượng viện xem xét và tán thành.
Trong số này, có 30 người đã bị Thượng viện phản đối hoặc “trì hoãn vô thời
hạn”, hoặc tên của họ đã bị tổng thống rút lại. Như vậy, các tổng thống chỉ
thành công trong 79% các trường hợp, và tỷ lệ thành công của họ có vẻ tăng
lên khi xem xét thực tế rằng đã có một phần ba số ứng cử viên bị Thượng viện
phản đối trong thế kỷ XIX. Các tài liệu ghi chép cho thấy rằng tổng thống
thường thành công nhất trong việc thuyết phục Thượng viện chấp thuận việc bổ
nhiệm thẩm phán Tòa án tối cao khi các ứng cử viên có lai lịch, phẩm chất
không gây tranh cãi và thiên hướng chính trị ôn hòa, và khi đảng của tổng
thống đồng thời kiểm soát Thượng viện, hoặc ít nhất đa số trong Thượng viên
có cùng những quan điểm và giá trị cơ bản với tổng thống.
|
THE
JUDICIAL SOCIALIZATION PROCESS
In college and law school, future judges
acquire important analytic and communication skills, in addition to the basic
substance of the law. After a couple of decades of legal practice, the future
judge has learned a good bit about how the courts and the law actually work
and has specialized in several areas of the law. Despite all this
preparation, sometimes called "anticipatory socialization," most
new judges in America still have a lot to learn about being a judge.
|
QUÁ TRÌNH HÒA NHẬP
VÀO BỘ MÁY TƯ PHÁP
Tại các trường cao đẳng và trường luật, các thẩm phán
tương lai được học những kỹ năng phân tích và giao tiếp quan trọng, bên cạnh
kiến thức cơ bản về luật pháp. Sau một hoặc hai chục năm hành nghề luật, vị
thẩm phán tương lai đã có được một hiểu biết khá tốt về cách thức hoạt động
trên thực tế của các tòa án và luật pháp, và có chuyên môn sâu về một vài
lĩnh vực luật. Mặc dù có tất cả những sự chuẩn bị này, đôi khi được gọi là
“quá trình hòa nhập trước”, phần lớn các thẩm phán mới của Mỹ vẫn có rất
nhiều điều phải học để làm một thẩm phán.
|
Not only does the United States lack
formalized training procedures for the judicial profession, but there is an
assumption that being a lawyer for a decade or so is all the experience one
needs to be a judge. On the contrary, becoming a judge in America requires a
good deal of freshman socialization (short-term learning and adjustment to
the new role) and occupational socialization (on-the-job training over a
period of years).
|
Hoa Kỳ không chỉ thiếu những quy trình đào tạo chính thức
đối với nghề thẩm phán, mà người Mỹ còn cho rằng việc hành nghề luật sư trong
một thập kỷ hoặc hơn là tất cả những gì cần thiết để có thể trở thành một
thẩm phán. Ngược lại, việc trở thành một thẩm phán ở Mỹ đòi hỏi phải có sự
hòa nhập tương đối nhiều của người mới vào nghề (học tập ngắn hạn và điều
chỉnh cho phù hợp với vai trò mới) và sự hòa nhập về mặt nghề nghiệp (đào tạo
tại chức trong khoảng thời gian một vài năm).
|
Typical new trial court appointees may be
first-rate lawyers and experts in a few areas of the law in which they have
specialized. As judges, however, they are expected to be experts on all legal
subjects, are required to engage in judicial duties usually unrelated to any
tasks they performed as lawyers (for example, sentencing), and are given a
host of administrative assignments for which they have had no prior
experience (for example, learning how to docket efficiently several hundred
diverse cases).
|
Thông thường, những người mới được bổ nhiệm vào các tòa án
sơ thẩm có thể là các luật sư hạng nhất và các chuyên gia trong một vài lĩnh
vực luật mà họ có kiến thức chuyên ngành. Tuy nhiên, với vai trò là một thẩm
phán, họ được yêu cầu phải là chuyên gia trong mọi lĩnh vực pháp lý, phải
tham gia vào những nhiệm vụ tư pháp mà thường không có liên quan gì tới những
công việc họ đã tiến hành khi làm luật sư (ví dụ như kết án), và được giao
cho rất nhiều nhiệm vụ mà họ không có kinh nghiệm gì trước đó (ví dụ như học
cách vào sổ ghi án một cách hiệu quả hàng trăm vụ án khác nhau).
|
At the appeals court level there is also a
period of freshman socialization -- despite the circuit judge's possible
prior judicial experience -- and former trial judges appear to make the
transition more easily. During the transition time, circuit judges tend to
speak less for the court than their more experienced colleagues. They often
take longer to write opinions, defer more often to senior colleagues, or
experience a period of indecision.
|
Tại các tòa phúc phẩm, cũng có một quá trình hòa nhập
những người mới được bổ nhiệm - mặc dù các thẩm phán hạt thường đã có kinh
nghiệm làm thẩm phán từ trước - và các cựu thẩm phán tòa sơ thẩm dường như
chuyển đổi dễ dàng hơn. Trong suốt thời gian chuyển đổi, các thẩm phán hạt có
xu hướng phát biểu tại tòa ít hơn so với các đồng sự giàu kinh nghiệm hơn của
mình. Họ thường mất nhiều thời gian hơn để ghi chép các ý kiến, tham khảo
nhiều hơn các đồng nghiệp có thâm niên cao, hoặc trải qua một thời kỳ do dự
và thiếu quyết đoán.
|
The learning process for new Supreme Court
justices is even harder. As with new appeals court judges, novice Supreme
Court justices tend to defer to senior associates, to write fewer majority
and dissenting opinions, and to manifest a degree of uncertainty. New High
Court appointees may have more judicial experience than their lower-court
colleagues, but the fact that the Supreme Court is involved in broad judicial
policy making -- as opposed to the error correction of the appeals courts and
the norm enforcement of the trial courts -- may account for their initial
indecisiveness.
|
Quá trình học tập đối với các thẩm phán mới của Tòa án tối
cao còn vất vả hơn nữa. Giống như các thẩm phán mới của tòa phúc thẩm, các
thẩm phán mới được bổ nhiệm của Tòa án tối cao cũng có xu hướng tham khảo ý
kiến các đồng sự nhiều kinh nghiệm, đưa ra ít hơn những ý kiến đa số hoặc
quan điểm bất đồng, và thể hiện một mức độ không chắc chắn. Các thẩm phán mới
của Tòa án tối cao có thể có nhiều kinh nghiệm thẩm phán hơn các đồng sự của
họ tại những tòa án cấp thấp hơn, nhưng thực tế là Tòa án tối cao tham gia
vào một phạm vi rộng các quyết sách tư pháp - trái ngược với việc sửa chữa
những sai sót của các tòa phúc thẩm và việc thực thi luật pháp của tòa sơ
thẩm - có thể giải thích cho sự thiếu quyết đoán ban đầu của họ.
|
Given the need on the part of all new federal
jurists for both freshman and occupational socialization, where do they go
for instruction? For both the appeals court judges and their trial court
peers, most of their training comes from their more senior, experienced
colleagues on the bench -- particularly the chief judge of the circuit or
district. Likewise on the Supreme Court, older associates, often the chief
justice, play a primary part in passing on to novice justices the essential
rules and values of the Court.
|
Khi xem xét nhu cầu của tất cả các thẩm phán mới của liên
bang đối với việc hòa nhập về mặt nghề nghiệp cũng như trên khía cạnh một
người mới vào nghề, họ sẽ có được sự chỉ dẫn ở đâu? Đối với các thẩm phán tòa
phúc thẩm và sơ thẩm, họ học được những điều này chủ yếu là từ các đồng sự có
thâm niên cao hơn và giàu kinh nghiệm hơn - đặc biệt là chánh án của hạt hoặc
của khu vực lưu động. Cũng tương tự ở Tòa án tối cao, các đồng sự lớn tuổi
hơn, và đặc biệt là chánh án, đóng vai trò chủ yếu trong việc truyền lại cho
các thẩm phán mới những phép tắc và giá trị thiết yếu của Tòa.
|
Training seminars provided by the Federal
Judicial Center for newly appointed judges also play an important role in the
training and socialization of new jurists. Although some of these seminars
are conducted by outsider specialists -- subject matter experts in the law
schools -- the key instructors tend to be seasoned judges whose real-life
experience on the bench commands the respect of the new members of the
federal judiciary.
|
Các buổi hội thảo đào tạo do Trung tâm tư pháp liên bang
tiến hành dành cho những thẩm phán mới được bổ nhiệm cũng có một vai trò quan
trọng trong việc đào tạo và giúp các thẩm phán mới hòa nhập với công việc.
Mặc dù một số buổi hội thảo được tiến hành bởi các chuyên gia ngoài ngành -
các chuyên gia về từng lĩnh vực luật pháp trong trường luật - song các giảng
viên chủ yếu thường là những thẩm phán giàu kinh nghiệm - những người mà kinh
nghiệm thực tiễn của họ trên ghế thẩm phán thường khiến cho các thành viên
mới của hệ thống tòa án liên bang phải kính phục.
|
What is the significance of this socialization
process for the operation of the U.S. judicial-legal system? First, the
agents of socialization that are readily available to the novice jurists
allow the system to operate more smoothly, with a minimum of down time. If
new judges were isolated from their more experienced associates,
geographically or otherwise, they would require more time to learn the fine
points of their trade and presumably a greater number of errors would occur
in litigation.
|
Tầm quan trọng của quá trình hòa nhập này đối với hoạt
động của hệ thống tòa án - luật pháp Hoa Kỳ là gì? Thứ nhất, những tác nhân
giúp hòa nhập được chuẩn bị sẵn sàng cho các thẩm phán mới sẽ cho phép hệ
thống vận hành trôi chảy hơn, với thời gian gián đoạn tối thiểu. Nếu các thẩm
phán mới bị tách biệt khỏi các đồng sự lớn tuổi và giàu kinh nghiệm hơn của
họ, về phương diện địa lý hoặc bởi các yếu tố khác, họ sẽ cần nhiều thời gian
hơn để học được những điểm cần thiết trong nghề nghiệp của mình và có thể sẽ
có nhiều sai sót hơn trong việc giải quyết các tranh chấp.
|
Second, the fact that the system is able to
provide its own socialization -- that the older, experienced jurists train
the novices -- serves as a sort of glue that helps bond the system together.
It allows the judicial values, practices, and orientations of one generation
of judges to be passed on to another. It gives continuity and a sense of
permanence to a system that operates in a world where chaos and random
behavior are common.
|
Thứ hai, thực tế rằng hệ thống này tự bản thân nó có thể
giúp cho việc hòa nhập -có nghĩa là các thẩm phán lớn tuổi hơn và giàu kinh
nghiệm hơn giúp đào tạo những người mới vào nghề - có tác dụng như một chất
keo dính kết hệ thống với nhau. Nó cho phép các giá trị, những thông lệ và
định hướng của tòa án được truyền từ thế hệ thẩm phán này sang thế hệ thẩm
phán khác. Nó mang lại sự liên tục và cảm giác về sự vĩnh viễn cho một hệ
thống vận hành trong một thế giới mà sự hỗn loạn và các hành vi tùy tiện luôn
phổ biến.
|
THE
RETIREMENT AND REMOVAL OF JUDGES
Judges cease performing their judicial duties
when they retire by choice or because of ill health or death, or when they
are subjected to the disciplinary actions of others.
|
VIỆC NGHỈ HƯU VÀ TỪ
NHIỆM CỦA CÁC THẨM PHÁN
Các thẩm phán ngừng thực hiện những nhiệm vụ xét xử của
mình khi nghỉ hưu theo nguyện vọng hoặc do tình trạng sức khỏe yếu kém hay
qua đời, hoặc khi họ phải chịu sự kỷ luật của những người khác.
|
Disciplinary
Action Against Federal Judges
All federal judges appointed under the
provisions of Article III of the Constitution hold office "during good
Behavior," which means in effect for life or until they choose to step
down. The only way they can be removed from the bench is by impeachment
(indictment by the House of Representatives) and conviction by the Senate. In
accordance with constitutional requirements (for Supreme Court justices) and
legislative standards (for appeals and trial court judges), impeachment may
occur for "Treason, Bribery, or other high Crimes and
Misdemeanors." An impeached jurist would face trial in the Senate, which
could convict by a vote of two-thirds of the members present.
|
Hành động kỷ luật
đối với các thẩm phán liên bang
Tất cả các thẩm phán liên bang được bổ nhiệm theo quy định
trong Điều III của Hiến pháp đều được giữ chức vụ đó “trong thời gian có hành
vi chính đáng”, có nghĩa là họ sẽ được giữ chức vụ đó suốt đời hoặc cho đến
khi họ muốn ngừng lại. Cách thức duy nhất khiến họ phải từ nhiệm là thông qua
việc luận tội (cáo buộc bởi Hạ viện) và kết tội bởi Thượng viện. Theo quy
định của Hiến pháp (đối với các thẩm phán Tòa án tối cao) và các tiêu chuẩn
lập pháp (đối với thẩm phán tòa phúc thẩm và sơ thẩm), việc luận tội có thể
được tiến hành đối với những tội danh “phản quốc, nhận hối lộ hoặc những tội
mức độ cao và nghiêm trọng khác”. Thẩm phán bị luận tội sẽ có thể bị xét xử
tại Thượng viện, nơi sẽ kết án họ bằng hai phần ba số phiếu thuận của các
thành viên có mặt.
|
Since 1789 the House of Representatives has
initiated impeachment proceedings against only 13 jurists -- although about
an equal number of judges resigned just before formal action was taken
against them. Of these 13 cases, only seven resulted in a conviction, which
removed them from office.
|
Từ năm 1789, Hạ viện chỉ khởi xướng thủ tục luận tội đối
với 13 thẩm phán - mặc dù có một số lượng tương tự các thẩm phán đã từ chức
trước khi có hành động chính thức chống lại họ. Trong số 13 trường hợp này,
chỉ có 7 trường hợp bị kết tội, và những người bị kết tội đã bị cách chức.
|
Although outright acts of criminality by those
on the bench are few, a gray area of misconduct may put offending judges
somewhere between acceptable and impeachable behavior. What to do with the
federal jurist who hears a case despite an obvious conflict of interest, who
consistently demonstrates biased behavior in the courtroom, whose personal
habits negatively affect his or her performance in court? Historically,
little has been done in such cases other than issuance of a mild reprimand by
colleagues. In recent decades, however, actions have been taken to discipline
judges.
|
Mặc dù chỉ có rất ít các hành động phạm tội công khai của
các thẩm phán, song có một “vùng đệm” các hành vi sai trái có thể đặt các
thẩm phán vi phạm ở những mức độ nào đó giữa những hành vi có thể chấp nhận
được và hành vi có thể bị luận tội. Cần phải làm gì với những thẩm phán liên
bang xét xử một vụ kiện bất chấp sự xung đột rõ ràng về lợi ích, một thẩm
phán thường thể hiện sự thiên vị trong phòng xử án, một thẩm phán mà những
thói quen cá nhân thường gây tác động tiêu cực tới việc xét xử của ông / bà
ta tại tòa án? Về mặt lịch sử, hầu như không có hành động nào khác được tiến
hành đối với những trường hợp như vậy ngoài việc các đồng sự của họ đưa ra
một lời khiển trách. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, đã có những biện
pháp kỷ luật đối với các thẩm phán.
|
On October 1, 1980, a new statute of Congress
took effect. Titled the Judicial Councils Reform and Judicial Conduct and
Disability Act, the law has two distinct parts. The first part authorizes the
Judicial Council in each circuit, composed of both appeals and trial court
judges and presided over by the chief judge of the circuit, to "make all
necessary and appropriate orders for the effective and expeditious
administration of justice within its circuit." The second part of the
act establishes a statutory complaint procedure against judges. Briefly, it
permits an aggrieved party to file a written complaint with the clerk of the
appellate court. The chief judge then reviews the charge and may dismiss it
if it appears frivolous, or for a variety of other reasons. If the complaint
seems valid, the chief judge must appoint an investigating committee
consisting of himself or herself and an equal number of trial and circuit
court judges. After an inquiry the committee reports to the council, which
has several options: the judge may be exonerated; if the offender is a
bankruptcy judge or magistrate, he or she may be removed; and an Article III
judge may be subject to private or public reprimand or censure, certification
of disability, request for voluntary resignation, or prohibition against
further case assignments. However, removal of an Article III judge is not
permitted; impeachment is still the only recourse. If the council determines
that the conduct might constitute grounds for impeachment, it will notify the
Judicial Conference, which in turn may transmit the case to the U.S. House of
Representatives for consideration.
|
Vào ngày 1 tháng Mười 1980, một quy định mới của Quốc hội
đã có hiệu lực. Với tên gọi “Đạo luật về cải cách các hội đồng thẩm phán và
về hành vi và sự không đủ tư cách của thẩm phán”, luật này có hai phần riêng
biệt. Phần thứ nhất ủy quyền cho Hội đồng thẩm phán tại mỗi hạt, bao gồm các
thẩm phán của tòa phúc thẩm và sơ thẩm do chánh án của hạt đứng đầu, được
“đưa ra những quy định phù hợp và cần thiết để bảo đảm việc thực thi luật
pháp hiệu quả và nhanh chóng trong hạ t của mình”. Phần thứ hai của đạo luật
quy định một trình tự khiếu kiện về mặt pháp lý chống lại các thẩm phán. Nói
một cách ngắn gọn, nó cho phép một bên không đồng tình trong vụ kiện được đệ
đơn khiếu nại lên viên lục sự của tòa phúc thẩm. Chánh án sau đó sẽ xem xét
lời cáo buộc và có thể bác bỏ nếu nó tỏ ra không đúng đắn hoặc vì rất nhiều
lý do khác. Nếu lời khiếu nại tỏ ra có cơ sở, chánh án sẽ phải chỉ định một
ủy ban điều tra bao gồm bản thân ông / bà ta và một số lượng bằng nhau các
thẩm phán tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm. Sau khi điều tra, ủy ban này sẽ báo
cáo cho hội đồng, và hội đồng sẽ có một số lựa chọn: thẩm phán có thể được
miễn tội; nếu người vi phạm là một thẩm phán hoặc chánh án của bang, ông / bà
ta có thể bị cách chức; và một thẩm phán được bổ nhiệm theo Điều III của Hiến
pháp có thể phải chịu sự khiển trách hoặc phê bình riêng tư hoặc công khai,
tuyên bố không đủ tư cách, hoặc cấm xét xử trong các vụ việc khác. Tuy nhiên,
không được phép cách chức thẩm phán được bổ nhiệm theo Điều III của Hiến
pháp; việc luận tội vẫn là cách thức duy nhất. Nếu hội đồng quyết định rằng
hành vi vi phạm có thể tạo ra cơ sở cho việc luận tội, hội đồng sẽ thông báo
cho Hội nghị tư pháp, và Hội nghị này sẽ chuyển vụ việc cho Hạ viện Hoa Kỳ để
xem xét.
|
Disability
of Federal Judges
Perhaps more problematic than removing jurists
for misconduct is the removal of those who have become too old and infirm to
carry out their judicial responsibilities effectively. Congress has tried
with some success to tempt the more senior judges into retirement by making
it financially more attractive to do so. Since 1984 federal judges have been
permitted to retire with full pay and benefits under what is called the rule
of 80; that is, when the sum of a judge's age and number of years on the
bench is 80. Congress has also permitted judges to go on senior status
instead of accepting full retirement. In exchange for a reduced caseload they
are permitted to retain their office and staff and -- equally important --
the prestige and self-respect of being an active judge.
|
Tình trạng không đủ
tư cách pháp lý của các thẩm phán liên bang
Có lẽ việc thuyết phục những người đã quá già và không còn
đủ sự quyết đoán để thực thi chức trách thẩm phán một cách hiệu quả rời bỏ
chức vụ của họ còn phức tạp hơn cả việc cách chức các thẩm phán vì những hành
vi sai phạm. Quốc hội đã cố gắng - với đôi chút thành công - khuyến khích
nhiều thẩm phán cao tuổi nghỉ hưu bằng việc dành cho họ những lợi ích vật
chất hấp dẫn khi nghỉ hưu. Từ năm 1984, các thẩm phán liên bang được phép
nghỉ hưu mà vẫn được hưởng nguyên lương và phúc lợi theo cái gọi là quy tắc
80; có nghĩa là khi tổng số tuổi và số năm hành nghề thẩm phán của họ là 80.
Quốc hội cũng cho phép các thẩm phán chuyển sang ngạch chuyên viên cao cấp
thay vì nghỉ hưu hoàn toàn. Để đổi lấy việc giảm khối lượng các vụ xét xử, họ
được phép giữ lại văn phòng và các nhân viên và - quan trọng không kém - duy
trì uy tín và lòng tự hào về việc vẫn là một thẩm phán đương nhiệm.
|
Judges often time their resignations to occur
when their party controls the presidency so that they will be replaced by a
jurist of similar political and judicial orientation. A 1990 study found that
especially since 1954, "judicial retirement/resignation rates have been
strongly influenced by political/ideological considerations, and infused with
partisanship," thus indicating that many jurists view themselves as part
of a policy link between the people, the judicial appointment process, and
the subsequent decisions of the judges and justices.
|
Các thẩm phán thường chọn thời điểm để từ chức khi đảng của
họ kiểm soát được tổng thống, và như vậy họ sẽ được thay thế bởi một thẩm
phán có định hướng tương tự về pháp luật và chính trị. Một nghiên cứu tiến
hành năm 1990 đã phát hiện thấy rằng, đặc biệt từ năm 1954, “tỷ lệ các thẩm
phán nghỉ hưu / từ chức bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những cân nhắc về mặt chính
trị / ý thức hệ, và liên hệ chặt chẽ với tính đảng phái”, và do vậy đã chỉ ra
rằng rất nhiều thẩm phán coi bản thân họ như một phần của sự liên kết chính
sách giữa nhân dân, quy trình bổ nhiệm thẩm phán, và các quyết định tiếp theo
của các thẩm phán và chánh án.
|
QUALIFICATIONS
AND BACKGROUNDS OF STATE JUDGES
Most state laws and constitutions provide few
rigid conditions for being a state judge. The vast majority of the states do
not require their justices of the peace or magistrates to have law degrees,
but such degrees are virtually required (either formally or in practice) for
trial and appellate judges.
|
PHẨM CHẤT VÀ NỀN
TẢNG XUẤT THÂN CỦA CÁC THẨM PHÁN BANG
Phần lớn luật lệ và hiến pháp bang hầu như không quy định
những điều kiện khắt khe đối với thẩm phán bang. Đa số các bang không quy
định thẩm phán hòa giải hoặc tiểu hình của họ phải có bằng tốt nghiệp trường
luật, nhưng những bằng cấp này hầu hết đều được yêu cầu (chính thức hoặc trên
thực tế) đối với các thẩm phán tòa sơ thẩm và phúc thẩm.
|
Although women constitute a slight majority of
the American population and despite the upsurge in recent decades in the
number of women in the legal profession, women are still underrepresented on
the bench. Those who do serve as state jurists are much more likely to serve
at the lower levels of the state judiciary than on the supreme courts,
although this varies greatly from one state to the next. As of the mid-1990s,
only about 14 percent of all state judges were women and 6 percent were
either African American, Hispanic, or Asian American.
|
Mặc dù phụ nữ chiếm một tỷ lệ lớn hơn trong dân số Mỹ và
dù đã có sự tăng lên mạnh mẽ về số lượng phụ nữ làm việc trong ngành luật
trong những thập kỷ gần đây, phụ nữ vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ đại diện ít ỏi và
không tương xứng trong nghề thẩm phán. Những phụ nữ đã từng đảm nhiệm chức vụ
thẩm phán bang thường có nhiều khả năng trở thành thẩm phán ở các tòa cấp
thấp hơn so với khả năng được phục vụ tại các tòa án tối cao, mặc dù điều này
là rất khác nhau giữa các bang. Cho tới giữa những năm 1990, chỉ có khoảng
14% các thẩm phán bang là phụ nữ và 6% thuộc nhóm người Mỹ gốc Phi, người Mỹ
gốc Tây Ban Nha - Bồ Đào Nha hoặc người Mỹ gốc Á.
|
State judges, like their federal counterparts,
have generally stayed in the region where they grew up and were educated.
About three-fourths of all state jurists were born in the state in which they
serve, and less than a third went out of state for their undergraduate
degrees or for their law degrees. This penchant for localism is also
reflected in the patterns of work experience that state judges bring to the
bench. For example, of those serving on the state supreme court bench, only
13 percent have any prior federal experience, whereas 93 percent have some
type of prior state experience.
|
Các thẩm phán bang, giống như những đồng sự cấp liên bang
của mình, thường ở lại nơi mà họ đã trưởng thành và được học hành. Có khoảng
ba phần tư số thẩm phán bang được sinh ra tại bang mà họ hiện đang công tác,
và chỉ có chưa đầy một phần ba đi khỏi bang để theo học đại học hoặc lấy bằng
luật. Thiên hướng đối với chủ nghĩa địa phương cũng được phản ánh trong mẫu
hình kinh nghiệm công tác mà các thẩm phán bang mang theo tới chức vụ thẩm
phán của mình. Ví dụ, trong số các thẩm phán của tòa án tối cao của bang, chỉ
có 13% đã từng là các thẩm phán liên bang, trong khi 93% có ít nhiều kinh
nghiệm với tư cách là thẩm phán bang.
|
Judges tend to be middle-aged when they assume
the bench. State trial judges come to the bench at about age 46, which
corresponds roughly to the figure of 49 for federal trial judges. State
appellate court judges tend to be slightly older than their trial court
colleagues when they become jurists -- about 53, which is approximately the
same as their federal equivalents.
|
Các thẩm phán thường ở vào độ tuổi trung niên khi họ đảm
nhiệm chức vụ thẩm phán. Các thẩm phán tòa sơ thẩm của bang thường ở độ tuổi
46 khi họ trở thành thẩm phán, gần tương ứng với độ tuổi 49 của các thẩm phán
sơ thẩm liên bang. Các thẩm phán tòa phúc thẩm của bang lớn tuổi hơn một chút
so với các thẩm phán tòa sơ thẩm - thường ở độ tuổi 53 khi trở thành thẩm
phán, cũng gần bằng với các thẩm phán tòa phúc thẩm của liên bang.
|
In terms of political party affiliation, state
judges, whether they be elected or appointed, tend to mirror the party that
dominates in the judge's state. Also, the vast majority of state judges had
been politically active before assuming the bench, whether they were elected
to the bench or appointed by a governor.
|
Về quan hệ chính trị, thẩm phán bang, cho dù
họ được bầu hoặc bổ nhiệm, có xu hướng phản ánh đảng cầm quyền tại tiểu bang
của thẩm phán. Ngoài ra, phần lớn các thẩm phán bang đã hoạt động chính trị
trước khi giữ ghế, cho dù họ được bầu hoặc bổ nhiệm bởi thống đốc.
|
Over half the state trial judges come to the
bench from the private practice of law, and about a quarter were elevated
from a lower court judgeship, such as a magistrate's position. Of those who
practiced law, most reported a general practice without specialization. About
one in five was recruited from the ranks of district attorneys, and only 3
percent come from private criminal law practice. Of those serving on state
supreme courts, almost two-thirds came from the ranks of the intermediate
appellate courts or from the state trial courts.
|
Có hơn một nửa các thẩm phán tòa sơ thẩm bang đảm nhiệm
chức vụ thẩm phán khi đang hành nghề luật trong khu vực tư nhân, và khoảng
một phần tư thăng tiến từ chức vụ thẩm phán cấp thấp hơn tại tòa, ví dụ như
vị trí thẩm phán tiểu hình. Trong số những người hành nghề luật, hầu hết đều
là về các vấn đề luật pháp chung chứ không chuyên sâu. Có khoảng một phần năm
được tuyển chọn từ đội ngũ các luật sư của hạt, và chỉ 3% đếm từ lĩnh vực
luật hình sự tư nhân. Trong số những người được bổ nhiệm làm thẩm phán tòa án
tối cao của bang, gần hai phần ba đã đảm nhiệm chức vụ thẩm phán tòa phúc
thẩm trung gian hoặc các tòa sơ thẩm của bang.
|
THE
SELECTION PROCESS FOR STATE JUDGES
At the state level a variety of methods are
used to select jurists, and each of these has many permutations. Basically,
there are five routes to a judgeship in any one of the 50 states: partisan
election, nonpartisan election, merit selection, gubernatorial appointment,
and appointment by the legislature.
|
QUY TRÌNH TUYỂN CHỌN
CÁC THẨM PHÁN BANG
Tại cấp bang, có rất nhiều phương pháp được sử dụng để lựa
chọn thẩm phán, và mỗi phương pháp trong số này đều có rất nhiều sự hoán vị.
Về cơ bản, có năm con đường đến với chức vụ thẩm phán tại bất kỳ bang nào
trong số 50 bang của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ: tuyển cử theo đảng phái, tuyển cử
không qua đảng phái, tuyển chọn theo công trạng, bổ nhiệm của thống đốc và bổ
nhiệm bởi cơ quan lập pháp bang.
|
Election
of Judges
The election of judges, on either a partisan
or a nonpartisan ballot, is the norm in the states. This method became
popular during the time of President Andrew Jackson (1829-37), an era when
Americans sought to democratize the political process. In practice, however,
political party leaders often regard judicial elections as indirect patronage
to reward the party faithful. Also, judges who must run for election are
often forced to solicit campaign contributions from the lawyers and law firms
that will eventually appear before them in court -- a potential source of
conflict of interest. Finally, voter turnout in judicial elections is
extremely low. Voters may know whom they prefer for president or member of
Congress or state senator, but they may be unfamiliar with the persons
running for state judgeships.
|
Việc tuyển cử các
thẩm phán
Việc tuyển cử các thẩm phán, trên cơ sở bỏ phiếu theo đảng
phái hoặc phi đảng phái, là một quy phạm của các bang. Phương pháp này trở
nên phổ biến trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Andrew Jackson
(1829-1837), một kỷ nguyên trong đó người Mỹ tìm cách dân chủ hóa quy trình
chính trị. Tuy nhiên, trên thực tế, các lãnh đạo đảng phái chính trị thường
coi việc tuyển cử các thẩm phán là một hình thức bảo trợ gián tiếp để thưởng
công cho những người trung thành với đảng phái. Tương tự, những thẩm phán
phải tham gia vận động cho cuộc tuyển cử thường buộc phải tìm kiếm những
khoản quyên góp cho chiến dịch vận động của mình từ những luật sư và hãng
luật mà sau đó sẽ xuất hiện trước mặt họ tại tòa án - nguồn gốc gây ra xung
đột lợi ích tiềm tàng. Cuối cùng, số lượng người đi bầu trong các cuộc tuyển
cử thẩm phán thường vô cùng thấp. Các cử tri có thể biết được ai là người họ
ưa thích trong các cuộc bầu cử tổng thống, thành viên Quốc hội hoặc thượng
nghị sĩ bang, nhưng họ thường không biết về những người ra ứng cử cho chức vụ
thẩm phán bang.
|
As part of the Progressive movement at the
turn of the 20th century, reformers sought to take some of the partisanship
out of judicial elections by having judges run on a nonpartisan basis. In
principle they would run on their ideas and qualifications, not on the basis
of which party they belonged to. But even in these technically nonpartisan
states, the political parties endorse individual judicial candidates and
contribute to their campaigns so that the candidates acquire identification
with one political party or another.
|
Như là một phần của trào lưu Tiến bộ trong những năm đầu
thế kỷ XX, các nhà cải cách đã cố gắng tách tính đảng phái ra khỏi các cuộc
tuyển cử thẩm phán bằng việc cho phép các thẩm phán ra ứng cử trên cơ sở phi
đảng phái. Về nguyên tắc, họ có thể ra tranh cử dựa trên cơ sở những tư tưởng
và năng lực phẩm chất của mình, chứ không dựa trên việc họ là thành viên của
đảng nào. Nhưng ngay cả ở những bang tiến hành tuyển cử trên cơ sở phi đảng
phái này, các đảng chính trị cũng thường ủng hộ những ứng cử viên thẩm phán
độc lập và đóng góp vào chiến dịch vận động của họ, bởi vậy các ứng cử viên
cũng được nhận biết là gắn với một đảng chính trị này hoặc một đảng chính trị
khác.
|
Merit
Selection
Merit selection has been in use since the
early 1900s as a preferred method of selecting judges. The first state fully
to adopt such a method was Missouri in 1940, and ever since such schemes have
come to be known as generic variants of "the Missouri Plan."
|
Tuyển lựa theo công
trạng
Việc tuyển lựa theo công trạng được sử dụng từ đầu những
năm 1900 như một biện pháp ưa thích để lựa chọn các thẩm phán. Bang đầu tiên
áp dụng triệt để phương pháp này là Missouri vào năm 1940, và từ đó trở đi,
các cơ chế tuyển lựa như vậy đã được biết đến như là những biến thể đồng biến
của “Kế hoạch Missouri”.
|
The states with Missouri-type plans use a
combination of elections and appointments. The governor appoints a judge from
among several candidates recommended by a nominating panel of five or more
people, usually including attorneys (often chosen by the local bar
association), nonlawyers appointed by the governor, and sometimes a senior
local judge. Either by law or by implicit agreement, the governor appoints
someone from the recommended list. After serving for a short period of time,
often a year, the newly appointed judge must stand for a special election, at
which time he or she in effect runs on his or her record. (The voters are
asked, "Shall Judge X be retained in office?") If the judge's
tenure is supported by the voters, as is virtually always the case, the judge
will serve for a regular and fairly long term.
|
Các bang áp dụng những cơ chế theo kiểu của Missouri sử
dụng kết hợp các hình thức tuyển cử và bổ nhiệm. Thống đốc bổ nhiệm một thẩm
phán từ rất nhiều ứng cử viên được khuyến nghị bởi một ủy ban đề cử gồm năm
người hoặc hơn, thường bao gồm các luật sư (được lựa chọn bởi hiệp hội luật
sư địa phương), những người không phải luật sư do thống đốc chỉ định, và đôi
khi có cả một thẩm phán lâu năm ở địa phương. Theo luật hoặc theo thỏa thuận
ngầm, thống đốc sẽ bổ nhiệm một người từ danh sách khuyến nghị. Sau khi phục
vụ trong một thời gian ngắn, thường là một năm, vị thẩm phán mới được bổ
nhiệm sẽ phải trải qua một cuộc tuyển cử đặc biệt, trên thực tế tại thời điểm
đó ông / bà ta sẽ vận động tuyển cử dựa trên thành tích làm việc của mình.
(Câu hỏi đưa ra cho các cử tri là: “Thẩm phán X có nên được duy trì chức
trách của mình hay không?”) Nếu các cử tri ủng hộ việc thẩm phán tiếp tục đảm
nhiệm chức trách của mình - một điều thường xảy ra trên thực tế - thì thẩm
phán sẽ duy trì chức vụ của mình trong một nhiệm kỳ bình thường tương đối
dài.
|
Gubernatorial
Appointment and Legislative Appointment
Today, judges are chosen by the governor or by
the state legislature in only a handful of states. When judges are appointed
by the governor, politics almost invariably comes into play. Governors tend
to select individuals who have been active in state politics and whose
activity has benefited either the governor personally or the governor's
political party or allies. Also, in making judicial appointments the governor
often bargains with local political leaders or with state legislators whose
support he or she needs. A governor may also use a judgeship to reward a
legislator or local politician who has given faithful political support in
the past.
|
Bổ nhiệm bởi thống
đốc và bởi cơ quan lập pháp
Ngày nay, chỉ còn một số bang áp dụng chế độ bổ nhiệm thẩm
phán bởi thống đốc hoặc bởi cơ quan lập pháp bang. Khi các thẩm phán được bổ
nhiệm bởi thống đốc, yếu tố chính trị thường đóng vai trò chủ đạo. Các thống
đốc thường có xu hướng tuyển chọn những cá nhân tham gia tích cực vào đời
sống chính trị của bang và hoạt động của họ mang lại lợi ích cho thống đốc
hoặc cho đảng chính trị hay các đồng minh của thống đốc. Thông qua việc bổ
nhiệm thẩm phán, thống đốc cũng thường mặc cả với các lãnh đạo đảng chính trị
ở địa phương hoặc các nhà lập pháp mà ông ta cần sự ủng hộ. Thống đốc cũng có
thể dùng chức vụ thẩm phán để thưởng công cho một nhà lập pháp hoặc nhà hoạt
động chính trị địa phương đã ủng hộ ông một cách trung thành về mặt chính trị
trong quá khứ.
|
Only a few states still allow their
legislators to appoint state judges. Although a variety of criteria may be
used in choosing members of the state supreme courts, when it comes to
filling the state trial benches, state legislators tend to turn to former
members of the legislature.
|
Chỉ còn một số rất ít bang vẫn cho phép cơ quan lập pháp
bổ nhiệm thẩm phán bang. Mặc dù có rất nhiều tiêu chuẩn khác nhau được sử
dụng trong khi lựa chọn thành viên của tòa án tối cao của bang, nhưng đối với
các thẩm phán tòa sơ thẩm của bang, các nhà lập pháp bang thường có xu hướng
bổ nhiệm những cựu thành viên của cơ quan lập pháp bang.
|
THE
RETIREMENT AND REMOVAL OF JUDGES
Judges who are too old or unfit to serve seem
to be less of a problem at the state level than at the federal level. A number
of states have mandatory retirement plans. Minimum ages for retirement range
from 65 to 75, with 70 being the most common. Some states have declining
retirement benefit plans for judges who serve beyond the desired tenure; that
is, the longer judges stay on the bench, the lower their retirement benefits.
|
VIỆC NGHỈ HƯU VÀ TỪ
NHIỆM CỦA CÁC THẨM PHÁN
Các thẩm phán đã quá già hoặc không còn thích hợp để đảm
nhiệm chức vụ thẩm phán của bang thường không tạo thành vấn đề phức tạp như
các thẩm phán liên bang. Một số bang đã xây dựng các kế hoạch hưu trí bắt
buộc. Độ tuổi tối đa để thẩm phán nghỉ hưu dao động từ 65 tới 75, và phổ biến
nhất là ở tuổi 70. Một số bang có những kế hoạch giảm phúc lợi hưu trí đối
với các thẩm phán đã phục vụ vượt quá nhiệm kỳ mong muốn; có nghĩa là các
thẩm phán càng giữ chức vụ của mình lâu thì phúc lợi hưu trí của họ càng
giảm.
|
Retirement plans, no matter how effective in
getting the older judge to resign, are of little use against the younger
jurist who is incompetent, corrupt, or unethical. Throughout American history
the states have used procedures such as impeachment, recall elections, and
concurrent resolutions of the legislature to dismiss these judges. These
methods were only minimally effective, however, either because they proved to
be politically difficult to put into operation or because of their
time-consuming, cumbersome nature.
|
Các kế hoạch hưu trí, cho dù có hiệu quả thế nào trong
việc khuyến khích các thẩm phán cao tuổi từ nhiệm, hầu như không được sử dụng
trong trường hợp các thẩm phán chưa đến tuổi song không đủ năng lực, có hành
vi tham nhũng hoặc phi đạo đức. Trong suốt lịch sử nước Mỹ, các bang đã sử
dụng những thủ tục như luận tội, bỏ phiếu bất tín nhiệm và các nghị quyết
đồng thời của cơ quan lập pháp để bãi nhiệm thẩm phán. Tuy nhiên, những biện
pháp này chỉ có hiệu quả rất khiêm tốn, bởi vì việc áp dụng chúng trên thực
tế là quá khó xét về mặt chính trị, hoặc bởi vì chúng tốn quá nhiều thời gian
và rất phức tạp.
|
More recently, the states have begun to set up
special commissions, often made up of the judges themselves, to police their
own members. Such commissions are not always effective, however, because
judges are often loath to expose a colleague to public censure and
discipline.
|
Gần đây, các bang đã bắt đầu thiết lập những ủy ban đặc
biệt, thường bao gồm các thẩm phán, để giám sát và trừng phạt các thành viên
của chúng. Tuy nhiên, những ủy ban này không phải lúc nào cũng hoạt động hiệu
quả, bởi vì các thẩm phán thường rất miễn cưỡng trong việc khiển trách và kỷ
luật công khai các đồng nghiệp của mình.
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn