OUTLINE
OF THE U. S. LEGAL SYSTEM
|
HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT HOA KỲ P6
|
|
5 THE CRIMINAL COURT PROCESS
|
CHƯƠNG 5: THỦ TỤC TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
|
The criminal process begins when a law is
first broken and extends through the arrest, indictment, trial, and appeal.
There is no single criminal, or civil, court process in the United States.
Instead, the federal system has a court process at the national level, and
each state and territory has its own set of rules and regulations that affect
the judicial process. Norms and similarities do exist among all of these
governmental entities, and the discussion will focus primarily on these, but
no two states have identical judicial systems and no state's system is
identical to that of the national government.
|
Tố tụng hình sự bắt đầu khi một đạo luật bị vi phạm và
trải qua các giai đoạn bắt giữ, cáo trạng, xử sơ thẩm và phúc thẩm. Ở Mỹ
không có một trình tự tố tụng hình sự hoặc dân sự thống nhất. Thay vào đó, hệ
thống liên bang có một trình tự tố tụng ở cấp độ quốc gia, và mỗi bang và
lãnh thổ có những quy tắc và quy định riêng tác động lên thủ tục tố tụng.
Những chuẩn mực và sự tương đồng tồn tại giữa tất cả các thực thể chính quyền
này, và ở đây chúng tôi sẽ tập trung trao đổi về các chuẩn mực và tương đồng
đó, mặc dù thực tế không có hai bang nào có hệ thống tòa án hoàn toàn giống
nhau, và không bang nào có hệ thống tòa án hoàn toàn giống với hệ thống tòa
án của chính quyền quốc gia.
|
|
THE
NATURE AND SUBSTANCE OF CRIME
An act is not automatically a crime because it
is hurtful or sinful. An action constitutes a true crime only if it
specifically violates a criminal statute duly enacted by Congress, a state
legislature, or some other public authority. A crime, then, is an offense
against the state punishable by fine, imprisonment, or death. A crime is a
violation of obligations due the community as a whole and can be punished
only by the state. The sanctions of imprisonment and death cannot be imposed
by a civil court or in a civil action (although a fine may be a civil or a
criminal penalty).
|
BẢN CHẤT VÀ CĂN
NGUYÊN CỦA TỘI PHẠM
Một hành động không tự động được coi là tội phạm vì nó gây
tổn hại hay sai trái. Một hành động chỉ cấu thành tội phạm thực sự khi hành
động đó vi phạm một cách cụ thể một đạo luật hình sự do Quốc hội, một cơ quan
lập pháp bang hay một số cơ quan công quyền khác ban hành. Khi đó, tội phạm
là một hành vi chống lại bang, mà có thể bị phạt tiền, ngồi tù hoặc tử hình.
Tội phạm là sự vi phạm các nghĩa vụ đối với toàn thể cộng đồng và chỉ có thể
bị trừng phạt bởi bang. Chế tài phạt tù hay tử hình không thể được đặt ra bởi
một tòa án dân sự hay trong một hành động dân sự (mặc dù tiền phạt có thể là
hình phạt dân sự hoặc hình sự).
|
In the United States most crimes constitute
sins of commission, such as aggravated assault or embezzlement; a few consist
of sins of omission, such as failing to stop and render aid after a traffic
accident or failing to file an income tax return. The state considers some
crimes serious, such as murder and treason, and this seriousness is reflected
in the corresponding punishments, such as life imprisonment or the death
penalty. The state considers others crimes only mildly reprehensible, such as
double parking or disturbing the peace, and consequently punishments of a
light fine or a night in the local jail are akin to an official slap on the
wrist.
|
Ở Mỹ, hầu hết tội phạm đều cấu thành từ một hành động sai
trái như tấn công nghiêm trọng hay tham ô; một số ít tội phạm cấu thành từ
việc không hành động như không dừng lại hay không trợ giúp sau một tai nạn
giao thông hoặc không nộp một khoản hoàn thuế thu nhập. Bang coi một số tội
phạm là nghiêm trọng như giết người hay phản quốc, và sự nghiêm trọng này
được phản ánh ở những chế tài tương ứng như tù chung thân hay án tử hình.
Bang coi những tội phạm khác chỉ bị khiển trách phần nào như vi phạm đỗ xe
hai lần hay quấy rối trật tự, và chịu nộp một ít tiền phạt hay một đêm trong
nhà tù địa phương đại loại như một hành động nhắc nhở của chính quyền.
|
Some crimes, such as kidnapping or rape,
constitute actions that virtually all citizens consider outside the sphere of
acceptable human conduct, whereas other crimes constitute actions about which
opinion would be divided. For example, an 1897 Michigan statute makes it
illegal to curse in front of a child, and a Nebraska law forbids bingo games
at church suppers. Other criminal statutes are plainly silly: In Wisconsin it
is illegal to sing in a bar, and in Louisiana it is forbidden to appear drunk
at a meeting of a literary society.
|
Một số tội phạm, như bắt cóc hay cưỡng hiếp, cấu thành
những hành động mà thực sự mọi công dân đều coi là nằm ngoài phạm vi những
hành xử có thể chấp nhận được của con người, trong khi những tội phạm khác
cấu thành những hành động mà quan điểm về chúng có thể khác nhau. Chẳng hạn,
một điều luật của bang Michigan năm 1897 coi việc chửi rủa trước mặt trẻ em
là phạm pháp, và một đạo luật của bang Nebraska cấm chơi bingo trong bữa tối
ở nhà thờ. Những đạo luật hình sự khác lại hết sức ngớ ngẩn: Tại bang Wisconsin,
việc hát trong quán bar là phạm pháp, và ở bang Louisiana, việc xuất hiện
trong tình trạng say xỉn tại cuộc họp của một hội văn học là điều bị cấm.
|
The most serious crimes in the United States
are felonies. In a majority of the states a felony is any offense for which
the penalty may be death (in states that allow it) or imprisonment in the
penitentiary (a federal or state prison); all other offenses are misdemeanors
or infractions. In other states, and under federal law, a felony is an
offense for which the penalty may be death or imprisonment for a year or
more. Thus, felonies are distinguished in some states according to the place
where the punishment occurs; in some states and according to the federal
government, the length of the sentence is the key factor. Examples of
felonies include murder, forcible rape, and armed robbery.
|
Những tội phạm nghiêm trọng nhất ở Mỹ là những tội nặng /
trọng tội. Tại phần lớn các bang trọng tội là bất kỳ sự phạm tội nào mà hình
phạt có thể là tử hình (ở những bang cho phép điều đó) hay tống giam vào nhà
đá (một nhà tù liên bang hoặc bang); tất cả những tội khác là tội nhẹ / khinh
tội hoặc vi cảnh. Ở những bang khác và theo luật liên bang, trọng tội là một
tội mà hình phạt có thể là tử hình hoặc phạt tù từ một năm trở lên. Do vậy,
việc định nghĩa trọng tội là khác nhau ở một số bang tùy theo nơi diễn ra
hình phạt; ở một số bang và theo chính quyền liên bang, thời hạn của bản án
là yếu tố chính. Những ví dụ về trọng tội bao gồm giết người, hãm hiếp bằng
vũ lực và cướp có vũ khí.
|
Misdemeanors are regarded as petty crimes by
the state, and their punishment usually consists of confinement in a city or
county jail for less than a year. Public drunkenness, small-time gambling,
and vagrancy are common examples of misdemeanor offenses. Some states have a
third category of offense known as infractions. Often they include minor
traffic offenses, such as parking violations, and the penalty is usually a
small fine. Fines may also be part of the penalty for misdemeanors and felonies.
|
Tội nhẹ / khinh tội được bang coi là những tội ít nghiêm
trọng, và hình phạt của chúng thường là giam trong nhà tù của thành phố hay
địa hạt trong thời gian dưới một năm. Say rượu nơi công cộng, đánh bạc lặt
vặt và sống lang thang là những ví dụ chung về những vi phạm nhỏ. Một số bang
còn có phân loại thứ ba về tội phạm là vi cảnh (infractions). Thông thường
loại này bao gồm những vi phạm giao thông nhỏ, như vi phạm nơi đỗ xe, và hình
phạt thường là nộp ít tiền phạt. Tiền phạt cũng có thể là một phần trong hình
phạt dành cho những tội nhẹ / khinh tội và tội nặng / trọng tội.
|
CATEGORIES
OF CRIME
Five broad categories that comprise the
primary criminal offenses in the United States today are conventional,
economic, syndicated, political, and consensual.
|
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
Năm hạng mục rộng phân loại tội phạm bao gồm những loại vi
phạm hình sự chủ yếu ở nước Mỹ ngày nay là tội phạm thông thường, tội phạm
kinh tế, tội phạm có tổ chức, tội phạm chính trị và tội phạm đồng thuận.
|
Conventional
Crimes
Property crimes make up the lion's share of
the 31.3 million conventional crimes committed annually in the United States.
Property crimes are distinguished by the government from crimes of violence,
although the two often go hand in glove. For example, the thief who breaks
into a house and inadvertently confronts a resistant owner may harm the owner
and thus be involved in more than just the property crime of burglary.
|
Tội phạm thông
thường
Tội phạm tài sản chiếm tỷ trọng lớn trong 31, 3 triệu vụ
tội phạm thông thường hàng năm ở Mỹ. Tội phạm tài sản được chính phủ phân
biệt với tội phạm bạo lực mặc dù hai loại tội phạm này thường có mối quan hệ
mật thiết. Chẳng hạn, kẻ trộm đột nhập vào nhà và vô tình chạm mặt chủ nhà có
sức kháng cự; tên trộm này có thể làm bị thương người chủ nhà và do vậy sẽ bị
kết tội không chỉ là ăn trộm tài sản.
|
The less numerous, but more feared,
conventional crimes are those against the person. These crimes of violence
include murder and nonnegligent manslaughter, forcible rape, robbery, and
aggravated assault.
|
Những tội phạm thông thường ít gặp hơn nhưng đáng sợ hơn
là những tội liên quan đến con người. Những tội phạm bạo lực này bao gồm giết
người và sát hại có chủ ý, hiếp dâm có bạo lực, cướp và hành hung nghiêm
trọng.
|
Economic
Crimes
There are four broad categories of economic
crimes:
Personal crimes consist of nonviolent criminal
activity that one person inflicts on another with the hope of monetary gain.
Examples include intentionally writing a bad check, cheating on one's income
tax, and committing welfare fraud.
Abuse of trust occurs when business or
government employees violate their fidelity to their employer or clients and
engage in practices such as commercial bribery, theft and embezzlement from
the workplace, and filling out false expense accounts.
Business crimes are crimes that are not part
of the central purpose of the business enterprise but are incidental to (or
in furtherance of) it. Misleading advertising, violations of the antitrust
laws, and false depreciation figures computed for corporate income tax
purposes are all business crimes.
Con games are white-collar criminal activities
committed under the guise of a business.
|
Tội phạm kinh tế
Có bốn loại tội phạm kinh tế lớn: Những tội phạm cá nhân
bao gồm hành động phạm tội không dùng bạo lực mà một người bắt người khác
phải chịu với hy vọng có được tiền. Những ví dụ bao gồm cố ý viết séc sai,
gian trá với thuế thu nhập của mình và gian lận về tiền trợ cấp.
Việc lợi dụng niềm tin xảy ra khi các nhân viên trong
doanh nghiệp và chính phủ vi phạm sự trung thực đối với người chủ hay khách
hàng của họ và tham gia vào những việc làm như hối lộ thương mại, ăn trộm và
biển thủ từ nơi làm việc, và lập sai hồ sơ các tài khoản chi tiêu.
Tội phạm kinh doanh là những tội phạm mà không nằm trong
mục tiêu trọng tâm của doanh nghiệp kinh doanh nhưng có liên quan đến (hoặc
trợ giúp cho) mục tiêu đó. Quảng cáo sai, vi phạm các luật chống tơ-rớt, và
tính sai khấu hao để làm lệch thuế thu nhập công ty đều là tội phạm kinh
doanh.
Những trò gian lận là hoạt động tội phạm mà những người
lao động trí óc phạm phải dưới hình thức một doanh nghiệp/hoạt động kinh
doanh.
|
Syndicated,
or Organized, Crimes
Syndicated crime is engaged in by groups of
people and is often directed on some type of hierarchical basis. It
represents an ongoing activity that is inexorably entwined with fear and
corruption. Organized crime tends to focus on areas that are particularly
lucrative, such as trafficking in illegal drugs, gambling, prostitution, and
loan-sharking (money-lending at exorbitant interest rates and high repayment
rates).
|
Những tội phạm có tổ
chức
Tội phạm có tổ chức là do những nhóm người phạm phải và
thường được điều hành trên cơ sở một hệ thống thứ bậc nào đó. Nó thể hiện một
hành động đang diễn ra gắn chặt với nỗi sợ hãi và tham nhũng. Tội phạm có tổ
chức có xu hướng tập trung vào những lĩnh vực cực kỳ cám dỗ như buôn lậu
thuốc, đánh bạc, mại dâm và cho vay nặng lãi (cho vay tiền với lãi suất và
mức trả nợ gốc rất lớn).
|
Political
Crimes
Political crime usually constitutes an offense
against the government: treason, armed rebellion, assassination of public
officials, and sedition. However, the term has come to include crimes
committed by the government against individual citizens, dissident groups,
and foreign governments or nationals -- for example, illegal wiretaps
conducted by the government of politically dissident groups or the refusal of
the military to investigate incidents of sexual harassment.
|
Tội phạm chính trị
Tội phạm chính trị thường cấu thành một tội chống lại
chính quyền: phản quốc, nổi loạn có vũ trang, ám sát các quan chức xã hội và
xúi giục nổi loạn. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã được chính phủ coi là bao gồm
tội phạm do cá nhân công dân, các nhóm chống đối và chính quyền hay quốc gia
nước ngoài phạm phải - chẳng hạn những cuộc nghe trộm bất hợp pháp do chính
quyền của các nhóm chống đối về chính trị tiến hành hay việc quân đội từ chối
điều tra những vụ quấy rối tình dục.
|
Consensual
Crimes
So-called victimless crime, such as
prostitution, gambling, illegal drug use, and unlawful sexual practices
between consenting adults, is called consensual because both perpetrator and
client desire the forbidden activity.
|
Tội phạm đồng thuận
Cái gọi là tội phạm không có nạn nhân, như mại dâm, đánh
bạc, sử dụng ma tuý, và những hành vi tính dục bất hợp pháp giữa những người
trưởng thành đồng thuận, được gọi là đồng thuận (consensual) vì cả kẻ gây ra
lẫn đối tượng đều mong muốn hành động bị cấm đoán đó.
|
ELEMENTS
OF A CRIME
Every crime has several distinct elements, and
unless the state is able to demonstrate in court the existence of these
essential elements there can be no conviction. Although the judicial process
in the courtroom may not focus separately and distinctly on each of these
elements, they are at least implicit throughout the entire process of duly
convicting someone of a criminal offense.
|
NHỮNG YẾU TỐ CẤU
THÀNH TỘI PHẠM
Mọi tội phạm đều có một vài yếu tố cấu thành khác biệt, và
không thể bị kết tội trừ phi bang có khả năng trình bày tại tòa sự tồn tại
của những yếu tố thiết yếu này. Mặc dù thủ tục tố tụng ở phòng xử án có thể
không tập trung một cách riêng rẽ và phân biệt vào mỗi một yếu tố cấu thành
này nhưng chúng ít nhất cũng ẩn chứa xuyên suốt toàn bộ quá trình kết tội
chính xác ai đó đã phạm một tội hình sự.
|
A Law
Defining the Crime and the Punishment
If an act is to be prohibited or required by
the law, a duly constituted authority (usually Congress or a state legislature)
must properly spell out the matter so that the citizenry can know in advance
what conduct is prohibited or required. Lawmakers must also set forth the
penalties to be imposed upon the individual who engages in the harmful
conduct.
|
Luật định nghĩa tội
phạm và hình phạt
Nếu một hành động được coi là bị cấm hoặc được luật pháp
yêu cầu thì một cơ quan chức năng được thành lập chính đáng (thường là bởi
Quốc hội hoặc cơ quan lập pháp bang) phải giải thích sự việc một cách chính
xác để toàn thể công dân có thể biết trước hành vi nào là bị cấm hay được yêu
cầu. Các nhà làm luật cũng phải công bố những hình phạt sẽ được áp dụng đối
với cá nhân tham gia vào hành vi gây phương hại.
|
There are several corollaries to this general
principle. One is that the U.S. Constitution forbids criminal laws that are
ex post facto, that is, laws that declare certain conduct to be illegal after
the conduct takes place. Likewise, the state may not pass bills of attainder,
which are laws that single out a particular person or group of persons and
declare that something is criminal for them but legal for everyone else. A
final corollary is that a law defining a crime must be precise so that the
average person can determine in advance what conduct is prohibited or
required.
|
Có một vài hệ quả của nguyên tắc chung này. Một hệ quả là
Hiến pháp Mỹ cấm các luật hình sự có giá trị hồi tố (ex post facto), có nghĩa
là các luật tuyên bố một số hành vi là phạm pháp sau khi hành vi đó đã diễn
ra. Cũng như vậy, bang có thể không thông qua lệnh tước quyền công dân và
tịch thu tài sản, là những đạo luật chọn ra một người hay một nhóm người
riêng biệt và tuyên bố một điều gì đó là phạm tội đối với họ nhưng lại là hợp
pháp với tất cả những người khác. Một hệ quả cuối cùng là luật định nghĩa tội
phạm cần phải chính xác để người bình thường cũng có thể xác định trước hành
vi nào là bị cấm hay được yêu cầu.
|
The
Actus Reus
"Actus reus" is the Latin phrase
meaning the criminal action committed by the accused that gives rise to the
legal prosecution. The actus reus is the material element of the crime. This
element may be the commission of an action that is forbidden (for instance,
assault and battery), or it may be the failure to perform an action that is
required (for instance, a person's refusal to stop and render aid to a motor
vehicle accident victim).
|
Actus Reus (khách
quan của tội phạm)
“Actus reus” là một cụm từ tiếng Latinh có nghĩa là hành
động phạm tội mà bị cáo phạm phải dẫn đến việc khởi tố theo pháp luật. Actus
reus là yếu tố vật chất của tội phạm. Yếu tố này có thể là việc phạm phải một
hành động bị cấm (chẳng hạn, sự đe dọa và hành hung), hoặc có thể là không
thực hiện hành động được yêu cầu (chẳng hạn, một người từ chối không dừng lại
và giúp đỡ nạn nhân tai nạn xe máy).
|
The Mens
Rea
The "mens rea"(a Latin term) is the
essential mental element of the crime. The U.S. legal system has always made
a distinction between harm that was caused intentionally and harm that was
caused by simple negligence or accident. Thus, if one person takes the life
of another, the state does not always call it murder. If the killing was done
with malice aforethought by a sane individual, it will likely be termed
"murder in the first degree." But if the killing occurred in the
passion of a barroom brawl, it would more likely be called "second-degree
murder," which carries a lesser penalty. Reckless driving on the highway
that results in the death of another would correspondingly be considered
"negligent homicide" -- a wrong, to be sure, but not as serious in
the eyes of the state as the intentional killing of another.
|
Mens Rea (chủ quan của tội phạm)
“Mens rea”
(một thuật ngữ Latinh) chỉ yếu tố tinh thần căn bản của tội phạm. Hệ thống
pháp luật Mỹ luôn có sự phân biệt giữa sự phương hại bị gây ra một cách có
chủ ý và sự phương hại bị gây ra do sơ suất hay ngẫu nhiên. Do đó, nếu một
người lấy đi cuộc sống của một người khác thì bang không phải lúc nào cũng
coi đó là tội giết người. Nếu việc giết người do một cá nhân lành mạnh thực
hiện với dã tâm có suy tính trước thì đó có thể được coi là “giết người ở mức
độ cấp một”. Nhưng nếu việc giết người xảy ra do hăng máu cãi lộn ở quán rượu
thì có thể được gọi là “giết người ở mức độ cấp hai” và chịu hình phạt thấp
hơn. Việc lái xe cẩu thả trên đường cao tốc gây ra cái chết của người khác sẽ
được coi là “giết người do khinh suất” - một sự sai trái, chắc chắn là như
vậy, nhưng không nghiêm trọng bằng tội giết người có chủ ý trong con mắt của
bang.
|
An
Injury or Result
A crime consists of a specific injury or a
wrong perpetrated by one person against another. The crime may harm society
at large, such as selling military secrets to a foreign government, or the
injury may be inflicted upon an individual and, because of its nature, is
considered to offend society as a whole. The nature of the injury, as with
the mens rea, often determines the nature of the crime itself. For example,
consider two drivers who have been cutting each other off in traffic. Finally
they both stop their cars and come out fighting. Suppose one of them hits the
other so hard he dies. The crime may be murder (of some degree). If the man
does not die but suffers serious bodily harm, the crime is aggravated
assault. If the injury is minor, the charge may be simple assault. Because
the nature of the injury often determines the offense, it is frequently
asserted that the nature of the injury is the key legal element of the crime.
|
Thiệt hại hay hậu
quả
Một tội phạm bao gồm một thiệt hại hay sai trái cụ thể mà
người này phạm phải đối với người khác. Tội phạm có thể làm phương hại toàn
thể xã hội như bán những bí mật quân sự cho một chính quyền nước ngoài, hoặc
sự tổn hại có thể giáng xuống một người và, do bản chất của nó, bị coi là xâm
phạm toàn bộ xã hội. Bản chất của thiệt hại, giống như chủ quan của tội phạm
(mens rea), thường xác định bản chất của tội phạm. Ví dụ, hai tài xế cắt mặt
nhau trên đường. Cuối cùng cả hai đều dừng xe và nhảy ra ngoài đánh nhau. Giả
sử một trong số họ đánh người kia trọng thương đến chết. Tội phạm có thể là
giết người (ở cấp độ nào đó). Nếu người bị đánh không chết nhưng bị chấn
thương cơ thể nặng thì tội phạm là hành hung nghiêm trọng (aggravated assault).
Nếu sự tổn hại là nhỏ thì có thể buộc tội là hành hung không nghiêm trọng
(simple assault). Do bản chất của sự tổn hại thường xác định sự vi phạm nên
bản chất của sự tổn hại thường được khẳng định là yếu tố pháp lý then chốt
của tội phạm.
|
Some actions may be criminal even though no
injury is actually inflicted. Most crimes of criminal conspiracy fall into
this category. For instance, if several persons were to plan to assassinate a
judge or to bribe jurors in an attempt to keep a criminal from being
convicted, the crime would be conspiracy to obstruct justice. This would be a
crime even if the judge went unharmed and no money was ever passed to the
jurors. All that is required is that the crime be planned and intended and
that some specific, overt act be taken by one of the conspirators in
furtherance of their plan (such as the purchase of a weapon or possession of
a map of the route that the judge takes between his home and the courtroom).
|
Một số hành động có thể là tội phạm ngay cả khi trên thực
tế không có sự tổn hại nào. Hầu hết tội phạm có âm mưu hình sự đều rơi vào
loại này. Chẳng hạn, nếu một vài người lập kế hoạch ám sát một thẩm phán hay
hối lộ những thành viên bồi thẩm đoàn để cố gắng làm cho kẻ phạm tội không bị
kết án thì tội phạm sẽ là âm mưu cản trở việc xét xử. Đây cũng có thể là tội
phạm ngay cả khi thẩm phán không hề bị phương hại và các thành viên bồi thẩm
đoàn không nhận được đồng nào. Tất cả những điều được yêu cầu ở đây là tội
phạm phải được lập kế hoạch và có chủ đích, và một số hành động cụ thể, công
khai phải do một trong những kẻ chủ mưu thực hiện để thúc đẩy kế hoạch của
chúng (như việc mua vũ khí hay sở hữu bản đồ con đường mà thẩm phán đi từ nhà
đến phòng xử án).
|
A Causal
Relationship Between the Action and the Resultant Injury
Before there can be a conviction for a
criminal offense, the state must prove that the accused, acting in a natural
and continuous sequence, produced the harmful situation. Usually proving a
causal relationship is not difficult. If "Bill" stabs "John"
with a knife and inflicts a minor wound, there is no doubt that Bill is
guilty of assault with a deadly weapon. But what if John does not obtain
proper medical care for the wound, develops an infection, and subsequently
dies? Is Bill now guilty of manslaughter or murder? Or what if after being
stabbed, John stumbles across a third party and causes injury to her? Is Bill
to blame for this, too?
|
Quan hệ nhân quả
giữa hành động và thiệt hại
Trước khi có thể kết án một tội phạm hình sự, bang phải
chứng tỏ rằng bị cáo, khi hành động theo chuỗi tự nhiên và liên tục, đã tạo
ra tình huống gây phương hại. Thông thường, việc chứng minh mối quan hệ nhân
quả không phải là khó khăn. Nếu “Bill” đâm “John” bằng một con dao và gây
thương tích nhẹ thì rõ ràng là Bill đã phạm tội hành hung bằng vũ khí có thể
gây chết người. Nhưng nếu John không được chăm sóc thuốc men đầy đủ cho vết
thương khiến vết thương bị nhiễm trùng và làm anh ta chết thì chuyện gì sẽ
xảy ra? Hoặc nếu sau khi bị đâm, John lỡ va vào một người thứ ba khác và
khiến cô ta bị thương thì sao? Liệu Bill có bị buộc tội vì điều đó không?
|
Resolution of questions such as these are
often difficult for judges and juries. The law requires that all
circumstances be taken into account. The accused can be convicted only if the
state can prove that his or her conduct is the direct, immediate, or
determining cause of the resultant harm to the victim.
|
Giải pháp cho những câu hỏi như vậy thường rất khó đối với
các thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Luật pháp yêu cầu phải tính đến mọi tình
huống. Bị cáo chỉ bị kết tội khi bang có thể chứng tỏ rằng hành động của bị
cáo là nguyên nhân trực tiếp, tức thì hay quyết định đến sự phương hại của
nạn nhân.
|
PROCEDURES
BEFORE A CRIMINAL TRIAL
Before a criminal trial can be held, federal
and state laws require a series of procedures and events. Some of these
stages are mandated by the U.S. Constitution and state constitutions, some by
court decisions, and others by legislative enactments. Custom and tradition
often account for the rest. Although the exact nature of these procedural
events varies from federal to state practice -- and from one state to another
-- there are similarities throughout the country. These procedures, however,
are not as automatic or routine as they might appear; rather, the judicial
system's decision makers exercise discretion at all stages according to their
values, attitudes, and views of the world.
|
THỦ TỤC TRƯỚC KHI
XÉT XỬ SƠ THẨM
Trước khi một phiên tòa sơ thẩm hình sự được tiến hành,
luật pháp của liên bang và bang yêu cầu rất nhiều thủ tục và sự kiện. Một số
bước do Hiến pháp Mỹ và hiến pháp bang ủy quyền, một số do phán quyết của tòa
án, và số khác do những đạo luật lập pháp. Phần còn lại thường là tập tục và
truyền thống. Mặc dù bản chất chính xác của những sự kiện mang tính thủ tục
này thay đổi theo thực tiễn của liên bang và bang – và giữa các bang với nhau
– nhưng vẫn có những điểm tương đồng trên toàn đất nước. Tuy nhiên, những thủ
tục này không mang tính tự động hay lệ thường mà đúng hơn là những người ra
phán quyết của hệ thống pháp lý thực thi quyền tự quyết tại mọi bước tùy theo
giá trị, thái độ và thế giới quan của họ.
|
The
Arrest
The arrest is the first substantial contact
between the state and the accused. The U.S. legal system provides for two
basic types of arrest -- those with a warrant and those without. A warrant is
issued after a complaint, filed by one person against another, has been
presented and reviewed by a magistrate who has found probable cause for the
arrest. Arrests without a warrant occur when a crime is committed in the
presence of a police officer or when an officer has probable cause to believe
that someone has committed (or is about to commit) a crime. Such a belief
must later be established in a sworn statement or testimony. In the United
States up to 95 percent of all arrests are made without a warrant.
|
Việc bắt giữ
Bắt giữ là sự liên hệ quan trọng đầu tiên giữa bang và bị
cáo. Hệ thống pháp lý Mỹ đưa ra hai loại bắt giữ cơ bản – bắt giữ có lệnh và
bắt giữ không có lệnh. Lệnh bắt giữ được ban hành sau khi một đơn kiện, do
một người lập hồ sơ để kiện người khác, đã được trình bày và xem xét bởi một
thẩm phán tiểu hình, người đã tìm ra nguyên nhân hợp lý cho việc bắt giữ. Bắt
giữ không có lệnh xảy ra khi tội phạm diễn ra trước sự có mặt của một cảnh
sát hay khi một viên cảnh sát có nguyên nhân hợp lý để tin rằng một người nào
đó đã phạm (hoặc dường như phạm) một tội. Niềm tin như vậy sau đó phải được
thể hiện bằng một tuyên bố cam đoan hoặc một bản cam kết. Ở Mỹ, 95% các cuộc
bắt giữ là không có lệnh.
|
An officer's decision whether to make an
arrest is far from simple or automatic. To be sure, the officer who witnesses
a murder will make an arrest on the spot if possible. But most lawbreaking
incidents are not that simple or clear-cut, and police officials possess --
and exercise -- wide discretion about whether to take someone into custody.
Sufficient resources are simply not available to the police for them to
proceed against all activities that Congress and the legislatures have
forbidden. Consequently, discretion must be exercised in determining how to
allocate the time and resources that do exist. Police discretion is at a
maximum in several areas.
|
Quyết định của cảnh sát có bắt giữ hay không không hề đơn
giản hay mang tính tự động một chút nào. Để chắc chắn, viên cảnh sát chứng
kiến vụ giết người sẽ bắt giữ ngay tại chỗ nếu có thể. Nhưng hầu hết những vụ
vi phạm pháp luật đều không đơn giản hay rõ ràng, và những viên chức cảnh sát
có được - và thực thi - quyền tự quyết lớn về việc có bắt giữ người nào đó
hay không. Những nguồn lực cần thiết không sẵn có cho cảnh sát một cách giản
đơn để họ khởi kiện tất cả những hành động mà Quốc hội và các cơ quan lập
pháp cấm. Do vậy, quyền tự quyết phải được thực thi để xác định phân bổ thời
gian và nguồn lực đang có như thế nào. Quyền tự quyết của cảnh sát được phát
huy tối đa trong một số lĩnh vực.
|
Trivial
Offenses. Many police manuals advise their officers that when minor
violations of the law are concerned, a warning is a more appropriate response
than an arrest. Traffic violations, misconduct by juveniles, drunkenness,
gambling, and vagrancy all constitute less serious crimes and entail judgment
calls by police.
|
Những vi phạm nhỏ. Nhiều cẩm nang cho cảnh sát
khuyên các sĩ quan rằng khi xảy ra những vi phạm luật pháp không đáng kể thì
cảnh cáo, nhắc nhở là biện pháp hợp lý hơn so với bắt giữ. Vi phạm giao
thông, những hành xử sai của tuổi vị thành niên, say rượu, đánh bạc và sống
lang thang cấu thành những tội không quá nghiêm trọng và đòi hỏi cảnh sát
phải có sự phán xét.
|
Victim
Will Not Seek Prosecution. Nonenforcement of the law is also the rule in
situations where the victim of a crime will not cooperate with the police in
prosecuting a case. In the instance of minor property crimes, for example,
the victim is often satisfied if restitution occurs and the victim cannot
afford the time to testify in court. Unless the police have expended
considerable resources in investigating a particular property crime, they are
generally obliged to abide by the victim's wishes.
|
Nạn nhân sẽ không
tìm cách khởi kiện.
Không cưỡng chế thi hành luật pháp cũng là nguyên tắc trong những tình huống
mà nạn nhân của một tội phạm sẽ không hợp tác với cảnh sát trong việc khởi tố
một vụ án. Chẳng hạn, trong trường hợp tội phạm tài sản không đáng kể, nạn
nhân thường thỏa mãn nếu có bồi thường và không thể có đủ thời gian để làm
chứng trước tòa. Nhìn chung, cảnh sát bắt buộc phải tôn trọng mong muốn của
nạn nhân trừ phi họ đã dùng hết những nguồn lực to lớn để điều tra một tội
phạm tài sản cụ thể.
|
When the victim of a crime is in a continuing
relationship with the criminal, the police often decline to make an arrest.
Such relationships include landlord and tenant, one neighbor and another,
and, until recently, husband and wife. In this last case, however, heightened
awareness of domestic violence has had a significant impact on police
procedures.
|
Khi nạn nhân của một tội phạm đang có mối quan hệ với kẻ
phạm tội thì cảnh sát thường có xu hướng bắt giữ. Những mối quan hệ như vậy
bao gồm chủ nhà và người thuê nhà, người hàng xóm này với người hàng xóm
khác, và cho đến gần đây là giữa chồng và vợ. Tuy nhiên, trong trường hợp
cuối này, nhận thức được đề cao về bạo lực trong gia đình có ảnh hưởng cực kỳ
quan trọng đến các thủ tục của cảnh sát.
|
Rape and child molestation constitute another
major category of crimes for which there are often no arrests because the
victims will not or cannot cooperate with the police. Oftentimes the victim
is personally acquainted with, or related to, the criminal, and the fear of
reprisals or of ugly publicity inhibits the victim from pressing a complaint.
|
Hãm hiếp và quấy rối trẻ em cấu thành một hạng mục tội
phạm quan trọng khác mà đối với chúng thường không có bắt giữ vì nạn nhân sẽ
không hoặc không thể hợp tác với cảnh sát. Thông thường, về mặt cá nhân nạn
nhân quen biết với, hoặc liên quan đến, kẻ phạm tội và nỗi sợ bị trả đũa hay
công khai thù địch ngăn cản nạn nhân khởi kiện.
|
Victim
Also Involved in Misconduct. When police officers perceive that the victim
of a crime is also involved in some type of improper or questionable conduct,
the officers frequently opt not to make an arrest.
|
Nạn nhân cũng tham
gia vào hành vi sai trái. Khi cảnh sát nhận thấy rằng nạn nhân của một tội phạm cũng có liên
quan đến một số hành xử không đúng hoặc đáng ngờ thì cảnh sát thường lựa chọn
không bắt giữ.
|
Appearance
Before a Magistrate
After a suspect is arrested for a crime, he or
she is booked at the police station; that is, the facts surrounding the
arrest are recorded and the accused may be fingerprinted and photographed.
Next the accused appears before a lower-level judicial official whose title
may be judge, magistrate, or commissioner. Such an appearance is supposed to
occur "without unnecessary delay"; in 1991 the U.S. Supreme Court
ruled that police may detain an individual arrested without a warrant for up to
48 hours without a court hearing on whether the arrest was justified.
|
Xuất hiện trước thẩm
phán tiểu hình
Khi một người bị bắt giữ vì tình nghi phạm tội thì người
đó sẽ bị lưu giữ ở đồn cảnh sát; có nghĩa là những sự kiện xung quanh việc
bắt giữ được ghi chép lại và bị cáo có thể bị lấy vân tay và chụp hình. Sau
đó bị cáo xuất hiện trước một quan chức tư pháp cấp thấp mà chức danh có thể
là thẩm phán, thẩm phán tiến hành, hay ủy viên hội đồng (commissioner). Sự
xuất hiện như vậy phải xảy ra “mà không có sự chậm trễ vô cớ”; năm 1991, Tòa
án tối cao Mỹ quyết định rằng cảnh sát có thể lưu giữ một người bị bắt giữ
không có lệnh trong vòng 48 giờ mà không cần phải có một phiên tòa xem xét
việc bắt giữ đó có đúng hay không.
|
This appearance in court is the occasion of
several important events in the criminal justice process. First, the accused
must have been informed of the precise charges and must be informed of all
constitutional rights and guarantees. Among others, these rights include
those of the now famous Miranda v. Arizona decision handed down in 1966 by
the Supreme Court. The accused "must be warned prior to any questioning
that he has the right to remain silent, that anything he says can be used
against him in a court of law, that he has the right to the presence of an
attorney, and that if he cannot afford an attorney one will be appointed for
him prior to any questioning." (Such warnings must also be given by the
arresting officer if the officer questions the suspect about the crime.) In some
states the accused must be informed about other rights that are provided for
in the state's Bill of Rights, such as the right to a speedy trial and the
right to confront hostile witnesses.
|
Sự xuất hiện này ở tòa án là dịp diễn ra một số sự kiện
quan trọng trong thủ tục tố tụng hình sự. Trước hết, bị cáo phải được thông
báo trước về những lời buộc tội chính xác và phải được thông tin về bảo lãnh
và những quyền được hưởng theo Hiến pháp. Trong số những quyền khác, những
quyền được hưởng theo Hiến pháp này bao gồm những quyền nêu trong phán quyết
của vụ án nổi tiếng hiện nay, vụ Miranda kiện Arizona, do Tòa án tối cao đưa
ra năm 1966. Bị cáo “phải được cảnh báo trước bất kỳ câu hỏi nào rằng anh ta
có quyền giữ im lặng, rằng bất cứ điều gì anh ta nói đều có thể dùng làm bằng
chứng chống lại anh ta ở tòa án, rằng anh ta có quyền thuê luật sư, và rằng
nếu anh ta không có khả năng thuê luật sư thì sẽ có một người được chỉ định
thay mặt anh ta trả lời bất kỳ câu hỏi nào”. (Những cảnh báo như vậy cũng
phải được viên cảnh sát bắt giữ thông báo nếu viên cảnh sát đó là người đặt
câu hỏi về tội phạm cho kẻ bị tình nghi). Ở một số bang, bị cáo phải được
thông báo về những quyền khác nêu trong Hiến chương nhân quyền của bang, như
quyền được xét xử nhanh và quyền đối chất với những nhân chứng đối nghịch.
|
Second, the magistrate will determine whether
the accused is to be released on bail and, if so, what the amount of bail is
to be. Constitutionally, the only requirement for the amount is that it shall
not be "excessive." Bail is considered to be a privilege -- not a
right -- and it may be denied altogether in capital punishment cases for
which the evidence of guilt is strong or if the magistrate believes that the
accused will flee from prosecution no matter what the amount of bail. An
alternative to bail is to release the defendant on recognizance, basically on
a pledge by the defendant to return to court on the appointed date for trial.
|
Thứ hai, thẩm phán tiểu hình sẽ xác định bị cáo có được
bảo lãnh tại ngoại hay không, và trong trường hợp đó thì số tiền bảo lãnh là
bao nhiêu. Về mặt Hiến pháp, yêu cầu duy nhất đối với số tiền bảo lãnh là nó
không được “quá lớn”. Bảo lãnh được coi là một đặc quyền - chứ không phải
quyền lợi - và nó có thể bị từ chối trong những vụ án tử hình mà bằng chứng
phạm tội có tính thuyết phục cao hoặc nếu thẩm phán tiểu hình tin rằng bị cáo
sẽ lẩn trốn khỏi bị kiện tụng mà không cần quan tâm số tiền bảo lãnh là bao
nhiêu. Một biện pháp thay thế bảo lãnh là giải phóng bị đơn bằng cam kết
trước tòa, về cơ bản là một lời hứa của bị đơn sẽ quay lại tòa án vào ngày
xét xử được chỉ định.
|
In minor cases the accused may be asked to
plead guilty or not guilty. If the plea is guilty, a sentence may be
pronounced on the spot. If the defendant pleads not guilty, a trial date is
scheduled. However, in the typical serious (felony) case, the next primary
duty of the magistrate is to determine whether the defendant requires a preliminary
hearing. If such a hearing is appropriate, the matter is adjourned by the
prosecution and a subsequent stage of the criminal justice process begins.
|
Trong những vụ án nhỏ, bị cáo có thể được yêu cầu bào chữa
có phạm tội hoặc không phạm tội. Nếu lời bào chữa là có phạm tội thì một bản
án có thể được tuyên đọc ngay tại chỗ. Nếu bị đơn bào chữa là vô tội thì sẽ
lên kế hoạch một ngày xét xử. Tuy nhiên, trong vụ án nghiêm trọng điển hình
(tội phản quốc), nhiệm vụ quan trọng tiếp theo của thẩm phán tiểu hình là xác
định liệu bên bị có yêu cầu một phiên tòa sơ bộ hay không. Nếu một phiên tòa
như vậy là cần thiết thì vụ án sẽ được công tố hoãn lại và bắt đầu một bước
tiếp theo của thủ tục tố tụng hình sự.
|
WARNING
AS TO YOUR RIGHT
You are
under arrest. Before we ask you any questions, you must understand what your
rights are.
You have
the right to remain silent. You are not required to say anything at any time
to answer any questions. Anything you say can be used against you in a court
of law.
You have
the right to talk to a lawyer for advice before we question you and to have
him with you during questioning.
If you
cannot afford a lawyer and want one, a lawyer will be provided for you.
If you
want to answer questions now without a lawyer present, you will still have
the right to stop answering at anytime. You also have the right to stop
answering questions at any time until you talk to a lawyer.
p4475
|
CẢNH BÁO VỀ QUYỀN CỦA BẠN
Bạn đã bị bắt. Trước
khi chúng tôi hỏi bạn bất cứ câu hỏi nào, bạn cần phải hiểu những quyền của
bạn là gì.
Bạn có quyền giữ im
lặng. Bạn không cần thiết phải nói bất cứ điều gì cho chúng tôi vào bất cứ
thời điểm nào hoặc trả lời bất cứ câu hỏi nào. Bất cứ điều gì bạn nói có thể
được dùng để chống lại bạn trước tòa.
Bạn có quyền nói
chuyện với một luật sư để lấy lời khuyên trước khi chúng tôi hỏi bạn và có
quyền yêu cầu luật sư ở bên cạnh bạn trong lúc chúng tôi đặt câu hỏi.
Nếu bạn muốn có
nhưng không thể thuê luật sư, chúng tôi sẽ cung cấp luật sư cho bạn.
Nếu bạn muốn trả lời
các câu hỏi bây giờ mà không cần có luật sư thì bạn vẫn sẽ có quyền dừng việc
trả lời vào bất cứ lúc nào. Bạn cũng có quyền dừng trả lời vào bất cứ lúc nào
cho đến khi bạn nói chuyện với luật sư.
Trang 4475
|
The
Grand Jury Process or the Preliminary Hearing
At the federal level all persons accused of a
crime are guaranteed by the Fifth Amendment to have their cases considered by
a grand jury. However, the Supreme Court has refused to make this right
binding on the states. Today only about half of the states use grand juries;
in some of these, they are used for only special types of cases. Those states
that do not use grand juries employ a preliminary hearing or an examining
trial. (A few states use both procedures.) Regardless of which method is
used, the primary purpose of this stage in the criminal justice process is to
determine whether there is probable cause for the accused to be subjected to
a formal trial.
|
Thủ tục đại bồi thẩm
đoàn hay phiên tòa sơ bộ
Ở cấp độ liên bang tất cả những người bị cáo buộc phạm tội
đều được bảo đảm theo Tu chính án Hiến pháp thứ năm rằng vụ án của họ sẽ được
một đại bồi thẩm đoàn xem xét. Tuy nhiên, Tòa án tối cao từ chối làm cho
quyền lợi này ràng buộc tất cả các bang. Ngày nay, chỉ khoảng một nửa số bang
sử dụng đại bồi thẩm đoàn; ở một số bang trong những bang này đại bồi thẩm
đoàn chỉ được dùng cho những loại vụ án đặc biệt. Những bang không sử dụng
đại bồi thẩm đoàn sẽ áp dụng một phiên tòa sơ bộ hoặc một phiên thẩm vấn.
(Một số bang sử dụng cả hai thủ tục này). Bất cứ phương pháp nào được sử
dụng, mục đích cơ bản của khâu này trong thủ tục tố tụng hình sự là để xác
định liệu có nguyên nhân hợp lý nào để đưa bị cáo ra phiên tòa chính thức
không.
|
The
Grand Jury. Grand juries consist of 16 to 23 citizens, usually selected at
random from the voter registration lists, who render decisions by a majority
vote. Their terms may last anywhere from one month to one year, and some may
hear more than a thousand cases during their term. The prosecutor alone
presents evidence to the grand jury. Not only are the accused and his or her
attorney absent from the proceedings, but usually they also have no idea
which grand jury is hearing the case or when. If a majority believes probable
cause exists, then an indictment, or true bill, is brought. Otherwise the
result is a no bill.
|
Đại bồi thẩm đoàn. Các đại bồi thẩm đoàn gồm 16 đến
23 công dân, thường lựa chọn một cách ngẫu nhiên từ danh sách đăng ký cử tri,
đưa ra phán quyết trên cơ sở đa số phiếu bầu. Nhiệm kỳ của những người này có
thể kéo dài tùy ý từ một tháng đến một năm, và một số người có thể tham gia
vào hơn 1000 vụ án trong nhiệm kỳ của họ. Chỉ một mình công tố trình bày bằng
chứng trước đại bồi thẩm đoàn. Bị cáo và luật sư của bị cáo không chỉ vắng
mặt ở vụ kiện mà thông thường họ còn không có ý kiến gì về việc đại bồi thẩm
đoàn xét xử vụ án như thế nào và khi nào. Nếu có đa số tin rằng có nguyên
nhân hợp lý thì một bản cáo trạng (indictment), hay một đơn kiện (bill) thực
sự, sẽ được đưa ra. Nếu không thì sẽ không có đơn kiện.
|
Historically two arguments have been made in
favor of grand juries. One is that grand juries serve as a check on a
prosecutor who might be using the office to harass an innocent person for
political or personal reasons. Ideally an unbiased group of citizens would
interpose themselves between an unethical prosecutor and the defendant. A
second justification for grand juries is to make sure that the district
attorney has secured enough evidence to warrant the trouble and expense --
for both the state and the accused -- of a full-fledged trial.
|
Từ trước đến nay, có hai lý lẽ được đưa ra để ủng hộ cho
các đại bồi thẩm đoàn. Một là các đại bồi thẩm đoàn hoạt động như là người
ngăn cản công tố có thể sử dụng chức vụ của mình để quấy rối một người vô tội
vì những lý do chính trị hay cá nhân. Lý tưởng nhất là một nhóm người không
thiên vị sẽ tự can thiệp vào giữa công tố vô nguyên tắc và bị cáo. Lý lẽ thứ
hai ủng hộ đại bồi thẩm đoàn là bảo đảm rằng luật sư địa hạt đã có đủ bằng
chứng để chứng thực rắc rối và chi phí (cho cả bang và bị cáo) của một phiên
tòa xét xử đầy đủ.
|
The Preliminary Hearing. In the majority of
states that have abolished the grand jury system, a preliminary hearing is
used to determine whether there is probable cause for the accused to be bound
over for trial. At this hearing the prosecution presents its case, and the
accused has the right to cross-examine witnesses and to produce favorable
evidence. Usually the defense elects not to fight at this stage of the
criminal process; in fact, a preliminary hearing is waived by the defense in
the vast majority of cases.
|
Phiên tòa sơ bộ. Ở đa số các bang đã bãi bỏ hệ thống đại
bồi thẩm đoàn, một phiên tòa sơ bộ được sử dụng để xác định liệu đã có nguyên
nhân hợp lý để ràng buộc bị cáo để xét xử hay chưa. Ở phiên tòa này, công tố
trình bày vụ kiện, và bị cáo có quyền đối chất các nhân chứng và đưa ra bằng
chứng thỏa đáng. Thông thường, các luật sư của bị cáo lựa chọn không tranh
cãi ở khâu này của thủ tục tố tụng hình sự; trên thực tế, các luật sư từ bỏ
phiên tòa sơ bộ trong phần lớn các vụ kiện.
|
If the examining judge determines that there
is probable cause for a trial or if the preliminary hearing is waived, the
prosecutor must file a bill of information with the court where the trial
will be held. This serves to outline precisely the charges that will be
adjudicated in the new legal setting.
|
Nếu thẩm phán thẩm vấn xác định rằng có nguyên nhân hợp lý
để xét xử hay nếu phiên tòa sơ bộ bị chối bỏ thì công tố phải đệ trình một
đơn kiện lên tòa án nơi việc xét xử sẽ được tiến hành. Điều này giúp cho việc
phác thảo chính xác những lời buộc tội sẽ được đưa ra xét xử ở cấp độ pháp lý
mới.
|
The
Arraignment
Arraignment is the process in which the
defendant is brought before the judge in the court where he or she is to be
tried to respond to the grand jury indictment or the prosecutor's bill of
information. The prosecutor or a clerk usually reads in open court the
charges that have been brought against the accused. The defendant is informed
that he or she has a constitutional right to be represented by an attorney
and that a lawyer will be appointed without charge if necessary.
|
Luận tội
Luận tội là quá trình bị cáo được đưa ra trước thẩm phán
tại tòa án mà tại đó bị cáo sẽ bị xét xử trên cơ sở cáo trạng của đại bồi
thẩm đoàn hoặc đơn kiện của công tố. Công tố hoặc thư ký tòa thường đọc ở tòa
án công khai lời buộc tội đã được đưa ra chống lại bị cáo. Bị đơn được thông
báo rằng anh ta có quyền hiến định được một luật sư đại diện và một luật sư
sẽ được chỉ định không mất tiền nếu cần thiết.
|
The defendant has several options about how to
plead to the charges. The most common pleas are guilty and not guilty. But
the accused may also plead not guilty by reason of insanity, former jeopardy
(having been tried on the same charge at another time), or "nolo
contendere" (from the Latin, no contest). Nolo contendere means that the
accused does not deny the facts of the case but claims that he or she has not
committed any crime, or it may mean that the defendant does not understand
the charges. The nolo contendere plea can be entered only with the consent of
the judge (and sometimes the prosecutor as well). Such a plea has two
advantages. It may help the accused save face vis-is the public because he or
she can later claim that technically no guilty verdict was reached even
though a sentence or a fine may have been imposed. Also, the plea may spare
the defendant from certain civil penalties that might follow a guilty plea
(for example, a civil suit that might follow from conviction for fraud or
embezzlement).
|
Bị đơn có một số lựa chọn cho việc bào chữa cho lời buộc
tội. Những lời bào chữa thông thường nhất là có phạm tội và vô tội. Nhưng bị
cáo cũng có thể bào chữa vô tội vì mất trí, trước đó bị cùng một hiểm họa (đã
bị xét xử vì cùng một lời buộc tội vào một thời điểm khác), hoặc “nolo
contendere” (tiếng Latinh có nghĩa là không tranh cãi). “Nolo contendere” có
nghĩa là bị cáo không chối bỏ những tình tiết của vụ án nhưng khiếu nại rằng
anh ta không phạm bất cứ tội gì, hoặc nó có thể có nghĩa là bị đơn không hiểu
lời buộc tội. Bào chữa không tranh cãi chỉ có thể được đưa vào với sự đồng ý
của thẩm phán (và đôi khi của cả công tố). Bào chữa như vậy có hai điều lợi.
Nó có thể giúp bị cáo giữ được thể diện trước công chúng vì anh ta sau đó có
thể khiếu nại rằng không có phán quyết có tội nào được đưa ra ngay cả khi một
bản án hay tiền phạt đã được áp dụng. Mặc dù vậy, bào chữa này có thể miễn
cho bị đơn khỏi một số hình phạt dân sự có thể xảy ra sau lời bào chữa có tội
(chẳng hạn, một vụ kiện dân sự có thể tiếp theo lời kết tội gian trá hay biển
thủ).
|
If the accused pleads not guilty, the judge
will schedule a date for a trial. If the plea is guilty, the defendant may be
sentenced on the spot or at a later date set by the judge. Before the court
will accept a guilty plea, the judge must certify that the plea was made
voluntarily and that the defendant was aware of the implications of the plea.
A guilty plea is to all intents and purposes the equivalent to a formal
verdict of guilty.
|
Nếu bị cáo bào chữa vô tội thì thẩm phán sẽ lên kế hoạch
một ngày xét xử. Nếu bị đơn tự nhận là có tội thì có thể bị kết án ngay tại
chỗ hoặc một ngày sau đó do thẩm phán ấn định. Trước khi tòa án chấp nhận tự
nhận tội, thẩm phán phải chứng nhận rằng lời bào chữa được đưa ra một cách tự
nguyện và rằng bị đơn đã được biết những ý nghĩa của lời nhận tội. Tự nhận
tội hầu như tương đương với phán quyết chính thức có tội.
|
The
Possibility of a Plea Bargain
At both the state and federal levels at least
90 percent of all criminal cases never go to trial. That is because before
the trial date a bargain has been struck between the prosecutor and the
defendant's attorney concerning the official charges to be brought and the
nature of the sentence that the state will recommend to the court. In effect,
some form of leniency is promised in exchange for a guilty plea.
|
Khả năng thương
lượng lời khai
Ở cả cấp độ bang và liên bang, ít nhất 90 phần trăm số vụ
hình sự không bao giờ bị xét xử. Điều này là vì, trước ngày xử án, giữa công
tố và luật sư bên bị đã có sự thương lượng về những lời buộc tội chính thức
sẽ được đưa ra và nội dung bản án mà bang sẽ khuyến nghị với tòa án. Trên
thực tế sẽ có cam kết về một hình thức khoan dung để đổi lấy lời khai tự nhận
tội.
|
Because plea bargaining virtually seals the
fate of the defendant before trial, the role of the judge is simply to ensure
that the proper legal and constitutional procedures have been followed. There
are three (not mutually exclusive) types of plea bargains.
|
Vì thương lượng bào chữa thực sự đã định đoạt số phận của
bị đơn trước khi xét xử nên vai trò của thẩm phán chỉ đơn giản là để bảo đảm
rằng những thủ tục pháp lý và Hiến pháp đúng đắn được tuân thủ. Có ba loại
thương lượng lời khai (không loại trừ lẫn nhau).
|
Reduction
of Charges. The most common form of agreement between a prosecutor and a
defendant is a reduction of the charge to one less serious than that
supported by the evidence. This exposes the criminal to a substantially
reduced range of sentence possibilities. A second reason for a defendant to
plead guilty to a reduced charge is to avoid a record of conviction for an
offense that carries a social stigma. Another possibility is that the
defendant may wish to avoid a felony record altogether and would be willing
to plead guilty to almost any misdemeanor offered by the prosecutor rather
than face a felony charge.
|
Giảm cáo trạng. Hình thức thỏa thuận phổ biến
nhất giữa công tố và bên bị là giảm cáo trạng xuống một mức đỡ nghiêm trọng
hơn so với những gì mà bằng chứng có thể ủng hộ. Điều này làm cho những khả
năng kết án tội phạm bị giảm đi đáng kể. Lý do thứ hai cho bị đơn tự nhận tội
được giảm bớt cáo trạng là để tránh mang tiền án của một tội nhơ nhuốc về xã
hội. Khả năng thứ hai là bị đơn có thể muốn tránh hồ sơ trọng tội và sẵn sàng
tự nhận có phạm bất cứ tội ít nghiêm trọng nào nào do công tố đưa ra để tránh
phải bị buộc tội nghiêm trọng.
|
Deletion
of Tangent Charges. A second form of plea bargain is the agreement of the district
attorney to drop other charges pending against an individual. There are two
variations on this theme. One is an agreement not to prosecute
"vertically" -- that is, not to prosecute more serious charges
filed against the individual. The second type of agreement is to dismiss
"horizontal" charges; that is to dismiss additional indictments for
the same crime pending against the accused.
|
Xóa cáo trạng tăng
nặng. Hình thức
thương lượng lời khai thứ hai là chưởng lý hạt đồng ý xóa bỏ những lời buộc
tội khác đang dành cho một cá nhân. Có hai biến thể đối với hình thức này.
Một là thỏa thuận không khởi tố “theo chiều dọc” - có nghĩa là không đưa ra
những cáo buộc nghiêm trọng hơn chống lại cá nhân đó. Loại thỏa thuận thứ hai
là bác những cáo buộc “theo chiều ngang”; đó là bác bỏ những cáo trạng bổ
sung đối với cùng một tội đang dành cho bị cáo.
|
Another variation of this type of plea bargaining
is the agreement in which a repeater clause is dropped from an indictment. At
the federal level and in many states, a person is considered a habitual
criminal upon the third conviction for a violent felony anywhere in the
United States. The mandatory sentence for the habitual criminal is life
imprisonment. In state courts the habitual criminal charge often is dropped
in exchange for a plea of guilty.
|
Một biến thể khác của hình thức thương lượng lời khai này
là thỏa thuận mà trong đó điều khoản phạm tội nhiều lần được xóa khỏi bản cáo
trạng. Ở cấp độ liên bang và tại nhiều bang, một người bị đánh giá là phạm
tội thường xuyên khi bị kết án lần thứ ba về một trọng tội tại bất cứ nơi nào
ở Mỹ. Bản án bắt buộc cho phạm tội thường xuyên là tù chung thân. Ở các tòa
án bang, lời buộc tội đối với phạm tội thường xuyên thường được xóa bỏ để đổi
lấy lời khai tự nhận tội.
|
Another plea bargain of this type is the
agreement in which indictments in different courts are consolidated into one
court in order that the sentences may run concurrently. As indictments or
preliminary hearing rulings are handed down in many jurisdictions, they are
placed on a trial docket on a rotation system. This means that a defendant
charged with four counts of forgery and one charge of possession of a forged
instrument might be placed on the docket of five different courts. Generally
it is common practice in such multicourt districts to transfer all of a
person's indictments to the first court listed. This gives the presiding
judge the discretion of allowing all of the defendant's sentences to run
concurrently.
|
Một thương lượng lời khai khác thuộc loại này là thỏa
thuận mà trong đó những cáo trạng ở các tòa án khác nhau được hợp nhất tại
một tòa án để các bản án được thi hành cùng một lúc. Do những cáo trạng và
quyết định của phiên tòa sơ bộ được lưu giữ ở nhiều khu vực tài phán nên
chúng được đưa vào sổ ghi án xét xử trong một hệ thống luân phiên. Điều này
có nghĩa là một bị đơn bị cáo buộc bốn điểm giả mạo và tội danh sở hữu công
cụ giả mạo có thể bị đưa vào sổ ghi án của năm tòa án khác nhau. Nhìn chung,
việc chuyển tất cả những cáo trạng của một người cho tòa án đầu tiên được
liệt kê là tập quán phổ biến ở những địa hạt có hệ thống nhiều tòa án như
vậy. Điều này mang lại cho thẩm phán chủ tọa quyền tự quyết cho phép tất cả
những bản án của bị đơn được thực hiện cùng một lúc.
|
Sentence
Bargaining. A third form of plea bargaining concerns a plea of guilty from
the defendant in exchange for a prosecutor's agreement to ask the judge for a
lighter sentence. The strength of the sentence negotiation is based upon the
realities of the limited resources of the judicial system. At the state level,
at least, prosecutors are able to promise the defendant a fairly specific
sentence with confidence that the judge will accept the recommendation. If
the judge were not to do so, the prosecutor's credibility would quickly begin
to wane, and many of the defendants who had been pleading guilty would begin
to plead not guilty and take their chances in court. The result would be a
gigantic increase in court dockets that would overwhelm the judicial system
and bring it to a standstill. Prosecutors and judges understand this reality,
and so do the defense attorneys.
|
Thương lượng hình
phạt. Hình thức
thứ ba của thương lượng lời khai liên quan đến việc để bị đợn tự nhận tội để
đổi lấy một thỏa thuận của công tố yêu cầu thẩm phán có bản án nhẹ hơn. Sức
mạnh của việc thương lượng hình phạt này dựa trên những thực tế về nguồn lực
hạn chế của hệ thống pháp lý. Ít nhất ở cấp độ bang công tố có thể hứa với bị
đơn một bản án công bằng cụ thể với niềm tin rằng thẩm phán sẽ chấp thuận đề
nghị đó. Nếu thẩm phán không chấp thuận thì niềm tin của công tố sẽ nhanh
chóng giảm sút và nhiều bị đơn đã tự nhận tội sẽ bắt đầu bào chữa vô tội và
giành lấy cơ hội của họ tại tòa án. Kết quả có thể là án nợ đọng trong sổ ghi
án của tòa ngày càng tăng lên, tràn ngập hệ thống pháp lý và làm nó bị ngưng
trệ. Công tố và thẩm phán hiểu rõ điều này, và luật sư bào chữa cũng vậy.
|
Constitutional
and Statutory Restrictions on Plea Bargaining. At both the state and
federal levels, the requirements of due process of law mean that plea
bargains must be made voluntarily and with comprehension. This means that the
defendant must be admonished by the court of the consequences of a guilty
plea (for example, the defendant waives all opportunities to change his or
her mind at a later date), that the accused must be sane, and that, as one
state puts it, "It must plainly appear that the defendant is
uninfluenced by any consideration of fear or by any persuasion, or delusive
hope of pardon prompting him to confess his guilt."
|
Những hạn chế về mặt
hiến định và luật định đối với thương lượng lời khai. Ở cả cấp độ bang và liên bang,
những yêu cầu về thủ tục pháp luật thỏa đáng có nghĩa là thương lượng lời
khai phải được đưa ra một cách tự nguyện và trên cơ sở nhận thức được. Điều này
có nghĩa rằng bị đơn phải được tòa án cảnh báo về những hậu quả của việc tự
nhận tội (chẳng hạn, bị đơn khước từ mọi cơ hội thay đổi ý kiến vào một thời
điểm sau đó), rằng bị cáo phải có đầu óc bình thường và, như một bang đã nêu,
rằng “Rõ ràng là bị đơn phải không chịu ảnh hưởng của bất kỳ sự đe dọa hay
thuyết phục nào, hay hy vọng hão huyền sẽ được tha thứ khiến anh ta nhận
tội”.
|
For the first two types of plea bargains --
reduction of charges and deletion of tangent charges -- some stricter standards
govern the federal courts. One is that the judge may not actually participate
in the process of plea bargaining; at the state level judges may play an
active role in this process. Likewise, if a plea bargain has been made
between the U.S. attorney and the defendant, the government may not renege on
the agreement. If the federal government does so, the federal district judge
must withdraw the guilty plea. Finally, the Federal Rules of Criminal
Procedure require that before a guilty plea may be accepted, the prosecution
must present a summary of the evidence against the accused, and the judge
must agree that there is strong evidence of the defendant's guilt.
|
Đối với hai loại thương lượng lời khai đầu - giảm lời buộc
tội và xóa cáo trạng tăng nặng - một số chuẩn mực chặt chẽ hơn được đặt ra
cho các tòa án liên bang. Một chuẩn mực là thẩm phán trên thực tế không thể
tham gia vào quá trình thương lượng lời khai; ở cấp độ bang, các thẩm phán có
thể đóng một vai trò tích cực trong quá trình này. Mặc dù vậy, nếu thương
lượng lời khai được đưa ra giữa viên chưởng lý Hoa Kỳ và bị đơn thì chính phủ
không thể thất hứa với thỏa thuận. Nếu chính quyền liên bang làm vậy thì thẩm
phán hạt liên bang phải rút lại lời bào chữa có tội. Cuối cùng, các Quy định
liên bang về tố tụng hình sự đòi hỏi rằng, trước khi lời tự nhận tội có thể
được chấp nhận, công tố phải đệ trình một bản tóm tắt những bằng chứng chống
lại bị cáo, và thẩm phán phải đồng ý rằng có bằng chứng thuyết phục cho tội
của bị đơn.
|
Arguments
For and Against Plea Bargaining. For the defendant the obvious advantage of
the bargain is that he or she is treated less harshly than would be the case
if the accused were convicted and sentenced under maximum conditions. Also,
the absence of a trial often lessens publicity on the case, and because of
personal interests or social pressures, the accused may wish to avoid the
length and publicity of a formal trial. Finally, some penologists
(professionals in the field of punishment and rehabilitation) argue that the
first step toward rehabilitation is for a criminal to admit guilt and to
recognize his or her problem.
|
Những lập luận ủng
hộ và phản đối thương lượng lời khai. Đối với bị đơn, lợi thế hiển nhiên của việc thương lượng
là anh ta được đối xử đỡ khắc nghiệt hơn so với việc bị buộc tội và kết án
cao nhất theo những điều kiện sẵn có. Mặc dù vậy, việc không có xét xử thường
làm giảm sự công khai của vụ án, và do những lợi ích cá nhân và sức ép xã
hội, bị cáo có thể muốn tránh mất nhiều thời gian và sự công khai của việc
xét xử chính thức. Cuối cùng, một số nhà hình phạt học (những chuyên gia
trong lĩnh vực trừng phạt và cải tạo) lập luận rằng bước đầu tiên để một tội
phạm cải tạo là thừa nhận tội lỗi và nhận thức được vấn đề của mình.
|
Plea bargaining also offers some distinct
advantages for the state and for society as a whole. The most obvious is the
certainty of conviction, because no matter how strong the evidence may
appear, an acquittal is always a possibility as long as a trial is pending.
Also, the district attorney's office and judges are saved an enormous amount
of time and effort by their not having to prepare and preside over cases in
which there is no real contention of innocence or that are not suited to the
trial process. Finally, when police officers are not required to be in court
testifying in criminal trials, they have more time to devote to preventing
and solving crimes.
|
Thương lượng lời khai cũng mang lại những lợi ích nhất
định cho bang và toàn thể xã hội. Lợi ích rõ ràng nhất là sự chắc chắn của
lời kết tội, vì bất kể bằng chứng đưa ra có sức thuyết phục đến đâu thì vẫn
có khả năng được tuyên bố trắng án chừng nào việc xét xử chưa hoàn tất. Ngoài
ra, văn phòng chưởng lý hạt và các thẩm phán tiết kiệm được rất nhiều thời
gian và công sức do họ không phải chuẩn bị và chủ trì những vụ án không có
tranh cãi thực sự về sự vô tội hoặc những vụ không phù hợp với thủ tục xét
xử. Cuối cùng, khi cảnh sát không được yêu cầu xuất hiện ở tòa án để chứng
thực trong các vụ xét xử hình sự thì họ sẽ có nhiều thời gian hơn cho việc
ngăn ngừa và giải quyết tội phạm.
|
Plea bargains do have a negative side as well.
The most frequent objection to plea bargaining is that the defendant's
sentence may be based upon nonpenological grounds. With the large volume of cases
making plea bargaining the rule, the sentence often bears no relation to the
specific facts of the case, to the correctional needs of the criminal, or to
society's legitimate interest in vigorous prosecution of the case. A second
defect is that if plea bargaining becomes the norm of a particular system,
then undue pressure may be placed upon even innocent persons to plead guilty.
Studies have shown that, in some jurisdictions, the less the chance for
conviction, the harder the bargaining may be because the prosecutor wants to
get at least some form of minimal confession out of the accused.
|
Thương lượng lời khai cũng có những mặt tiêu cực của nó.
Lý lẽ phản đối thường xuyên nhất đối với thương lượng lời khai là bản án của
bị đơn có thể dựa trên những căn cứ không mang tính hình phạt. Với rất nhiều
vụ án có thương lượng lời khai trong quyết định của tòa án, bản án có thể
không liên quan gì đến những dữ kiện cụ thể của vụ án, đến những yêu cầu
trừng phạt đối với tội phạm, hay đến mối quan tâm chính đáng của xã hội về sự
khởi tố vụ án quyết liệt. Nhược điểm thứ hai là ở chỗ nếu thương lượng lời
khai trở thành quy phạm của một hệ thống riêng biệt, khi đó những người vô
tội thậm chí có thể bị những sức ép phi lý phải tự nhận tội. Những nghiên cứu
đã chỉ ra rằng, trong một số quyền hạn xét xử, khả năng kết tội càng thấp thì
việc thương lượng càng khó khăn do công tố muốn chí ít bị cáo cũng phải có
một hình thức thú tội nào đó.
|
A third disadvantage of plea bargaining is the
possibility of the abuse called overcharging -- the process whereby the
prosecutor brings charges against the accused more severe than the evidence
warrants, with the hope that this will strengthen his or her hand in
subsequent negotiations with the defense attorney.
|
Nhược điểm thứ ba của thương lượng lời khai là khả năng
xảy ra sự lạm dụng, được gọi là cáo trạng thổi phồng - thủ tục tố tụng mà
theo đó công tố đưa ra những lời buộc tội đối với bị cáo nặng hơn nhiều so
với những gì bằng chứng thể hiện, với hy vọng là công tố sẽ có lợi thế hơn
trong việc thương lượng với luật sư bào chữa.
|
Another flaw with the plea bargaining system
is its very low level of visibility. Bargains between prosecutor and defense
attorney are not made in open court presided over by a neutral jurist and for
all to observe. Instead, they are more likely made over a cup of coffee in a
basement courthouse cafeteria where the conscience of the two lawyers is the
primary guide.
|
Một thiếu sót nữa của cơ chế thương lượng lời khai là nó
có mức độ minh bạch rất thấp. Những cuộc thương lượng giữa công tố và luật sư
bào chữa không được thực hiện ở tòa án công khai do một luật gia trung gian
chủ trì và không phải để cho tất cả mọi người quan sát. Thay vào đó, những
cuộc thương lượng này có thể diễn ra bên tách cà phê trong một quán cà phê ở
tầng hầm trụ sở tòa án nơi mà lương tâm của hai luật sư mới chính là vị quan
tòa thực thụ.
|
Finally, the system has the potential to
circumvent key procedural and constitutional rules of evidence. Because the
prosecutor need not present any evidence or witnesses in court, a bluff may
result in a conviction even though the case might not be able to pass the
muster of the due process clause. The defense may be at a disadvantage
because the rules of discovery (the laws that allow the defense to know in
detail the evidence the prosecution will present) in some states limit the
defense counsel's case preparation to the period after the plea bargain has
occurred. Thus the plea bargain may deprive the accused of basic
constitutional rights.
|
Cuối cùng, cơ chế thương lượng lời khai có khả năng phá vỡ
những quy tắc bằng chứng then chốt về mặt thủ tục tố tụng và hiến pháp. Do
công tố không nhất thiết phải đưa ra bằng chứng hay nhân chứng trước tòa nên
một sự lừa bịp cũng có thể tạo ra lời kết tội ngay cả khi vụ án không thể đáp
ứng các yêu cầu về thủ tục tố tụng thỏa đáng. Luật sư bào chữa có thể gặp bất
lợi vì những quy tắc khám phá (những điều luật cho phép luật sư bào chữa được
biết chi tiết bằng chứng mà công tố sẽ đưa ra) ở một số bang hạn chế việc
chuẩn bị vụ án của luật sư bào chữa trong một khoảng thời gian sau khi thương
lượng lời khai đã diễn ra. Do vậy, việc thương lượng lời khai có thể tước đi
những quyền hiến định căn bản của bị cáo.
|
The
Adversarial Process
The adversarial model is based on the
assumption that every case or controversy has two sides to it: In criminal
cases the government claims a defendant is guilty while the defendant
contends innocence; in civil cases the plaintiff asserts that the person he
or she is suing has caused some injury while the respondent denies
responsibility. In the courtroom each party provides his or her side of the
story as he or she sees it. The theory (or hope) underlying this model is
that the truth will emerge if each party is given unbridled opportunity to
present the full panoply of evidence, facts, and arguments before a neutral
and attentive judge (and jury).
|
Thủ tục tố tụng đối
nghịch
Mô hình đối nghịch được dựa trên giả định rằng mọi vụ án
hay tranh cãi đều có hai mặt đối lập: Trong những vụ án hình sự, chính quyền
kiện một bị đơn là phạm tội còn bị đơn cho rằng mình vô tội; trong các vụ án
dân sự, công tố khẳng định rằng người mà anh ta đang khởi kiện đã gây ra một
số thiệt hại trong khi người bị kiện lại chối bỏ trách nhiệm. Tại phòng xử
án, mỗi bên cung cấp cho bên kia câu chuyện như đã chứng kiến. Lý thuyết (hay
hy vọng) làm nền tảng cho mô hình này là: sự thật sẽ được sáng tỏ nếu mỗi bên
có được cơ hội không hạn chế để đưa ra đầy đủ bằng chứng, dữ kiện và lập luận
trước một thẩm phán (và bồi thẩm đoàn) trung lập và chu đáo.
|
The lawyers representing each side are the
major players in this courtroom drama. The judge acts more as a passive,
disinterested referee whose primary role is to keep both sides within the
accepted rules of legal procedure and courtroom decorum. The judge eventually
determines which side has won in accordance with the rules of evidence, but
only after both sides have had a full opportunity to present their case.
|
Luật sư đại diện cho mỗi bên là những người có vai trò
chính tại phòng xử án. Thẩm phán hành động như một trọng tài thụ động, không
vụ lợi mà vai trò chủ yếu là kiểm soát hai bên trong những quy tắc được chấp
nhận về thủ tục pháp lý và sự đúng mực trong phòng xử án. Thẩm phán cuối cùng
sẽ xác định bên nào thắng kiện phù hợp với những quy tắc về bằng chứng, nhưng
chỉ sau khi cả hai bên đã được trao đầy đủ cơ hội để trình bày lý lẽ của họ.
|
PROCEDURES
DURING A CRIMINAL TRIAL
Assuming that no plea bargain has been struck
and the accused maintains his or her innocence, a formal trial will take
place. This is a right guaranteed by the Sixth Amendment to all Americans
charged with federal crimes and a right guaranteed by the various state
constitutions -- and by the Fourteenth Amendment -- to all persons charged
with state offenses. The accused is provided many constitutional and
statutory rights during the trial. The following are the primary rights that
are binding on both the federal and state courts.
|
NHỮNG THỦ TỤC TRONG
MỘT PHIÊN TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Giả định rằng việc thương lượng lời khai không được thực
hiện và bị cáo xác nhận sự vô tội của mình, thì một phiên tòa chính thức sẽ
diễn ra. Đây là một quyền được Tu chính án Hiến pháp thứ sáu bảo đảm cho tất
cả người dân Mỹ bị cáo buộc phạm những tội ở cấp độ liên bang và là một quyền
được bảo đảm theo hiến pháp của nhiều bang - và theo Tu chính án Hiến pháp
thứ mười bốn - dành cho tất cả những người bị cáo buộc phạm những tội ở cấp
độ bang. Bị cáo được dành cho nhiều quyền hiến định và luật định trong thời
gian xử án. Sau đây là những quyền lợi chủ yếu ràng buộc trách nhiệm các tòa
án của cả liên bang và bang.
|
Basic
Rights Guaranteed During the Trial Process
The Sixth Amendment says, "In all
criminal prosecutions, the accused shall enjoy the right to a speedy and
public trial." The Founders emphasized the word speedy so that an
accused would not languish in prison for a long time prior to the trial or
have the determination of his or her fate put off for an unduly long period
of time. But how soon is speedy? Although this word has been defined in
various ways by the Supreme Court, Congress gave new meaning to the term when
it passed the Speedy Trial Act of 1974. The act mandated time limits,
ultimately reaching 100 days, within which criminal charges must either be
brought to trial or dismissed. Most states have similar measures on the
statute books, although the precise time period varies from one jurisdiction
to another. By "public trial" the Founders meant to discourage the
notion of secret proceedings whereby an accused could be tried without public
knowledge and whisked off to some unknown detention camp.
|
Những quyền căn bản
được bảo đảm trong quá trình xét xử
Tu chính án Hiến pháp thứ sáu nêu rõ “Trong tất cả các vụ
khởi tố hình sự, bị cáo sẽ được hưởng quyền xét xử nhanh chóng và công khai”.
Những Người sáng lập của Tu chính án này nhấn mạnh từ nhanh chóng đến mức một
bị cáo sẽ không bị kiệt quệ trong tù trong một thời gian dài trước khi xét xử
hay phán quyết về số phận của họ bị trì hoãn trong một khoảng thời gian dài
mà không có lý do chính đáng. Nhưng thế nào là nhanh chóng? Mặc dù từ này đã
được Tòa án tối cao định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng Quốc hội đã
đưa ra định nghĩa mới khi thông qua Đạo luật xét xử nhanh năm 1974. Đạo luật
quy định rằng trong những giới hạn thời gian, cao nhất là 100 ngày, thì những
cáo buộc tội phạm phải được đưa ra xét xử hoặc bị bãi bỏ. Hầu hết các bang
đều có những biện pháp tương tự trong các cuốn sách luật, mặc dù khoảng thời
gian chính xác là khác nhau theo từng khu vực tài phán. Với cụm từ “xét xử
công khai”, những Người sáng lập hàm ý không khuyến khích quan điểm kiện tụng
bí mật mà theo đó bị cáo có thể bị xét xử mà không thông báo công khai và bị
đưa đến một trại giam nào đó mà không ai biết.
|
The Sixth Amendment also guarantees Americans
the right to an impartial jury. At the least this has meant that the prospective
jurors must not be prejudiced one way or the other before the trial begins.
For example, a potential juror may not be a friend or relative of the
prosecutor or the crime victim; nor may someone serve who believes that
anyone of the defendant's race or ethnic ancestry is "probably the
criminal type." What the concept of an impartial jury of one's peers has
come to mean in practice is that jurors are to be selected randomly from the
voter registration lists -- supplemented in an increasing number of
jurisdictions by lists based on automobile registrations, driver's licenses,
telephone books, welfare rolls, and so on. Although this system does not
provide a perfect cross-section of the community, because not all persons are
registered to vote, the Supreme Court has said that this method is good
enough. The High Court has also ruled that no class of persons (such as
African Americans or women) may be systematically excluded from jury service.
|
Tu chính án Hiến pháp thứ sáu cũng bảo đảm cho người dân
Mỹ quyền được có một bồi thẩm đoàn không thiên vị. Ít nhất thì điều này cũng
có nghĩa là những thành viên triển vọng của bồi thẩm đoàn phải không được có
định kiến theo chiều hướng này hay chiều hướng khác trước khi phiên tòa bắt
đầu. Chẳng hạn, một thành viên của bồi thẩm đoàn không được là bạn bè hay họ
hàng của công tố hay nạn nhân của tội phạm; cũng không phải là một người có
niềm tin thiên lệch cho rằng tất cả dòng họ hay tổ tiên của bị đơn đều “có
thể là tội phạm”. Ý nghĩa trên thực tế của khái niệm bồi thẩm đoàn không
thiên vị gồm những người đồng đẳng là ở chỗ các thành viên bồi thẩm đoàn được
lựa chọn ngẫu nhiên từ những danh sách đăng ký cử tri - được bổ sung vào
trong những lĩnh vực tài phán ngày một lớn theo những danh sách trên cơ sở
giấy đăng ký ô tô, bằng lái xe, danh bạ điện thoại, bảng phúc lợi, v. v. .
Mặc dù cơ chế này không thể hiện bộ phận tiêu biểu đại diện cho cộng đồng do
không phải tất cả mọi người đều được đăng ký bỏ phiếu nhưng Tòa án tối cao đã
khẳng định rằng phương pháp này đủ hiệu quả. Tòa án tối cao cũng quy định
rằng không một tầng lớp nào (chẳng hạn người Mỹ gốc Phi hay phụ nữ) có thể bị
loại trừ một cách có hệ thống khỏi diện được phục vụ trong bồi thẩm đoàn.
|
Besides being guaranteed the right to be tried
in the same locale where the crime was committed and to be informed of the
charges, defendants have the right to be confronted with the witnesses
against them. They have the right to know who their accusers are and what
they are charging so that a proper defense may be formulated. The accused is
also guaranteed the opportunity "to have the Assistance of Counsel for
his defense." Prior to the 1960s this meant that one had this right (at
the state level) only for serious crimes and only if one could pay for an
attorney. However, because of a series of Supreme Court decisions, the law of
the land guarantees one an attorney if tried for any crime that may result in
a prison term, and the government must pay for the legal defense for an
indigent defendant. This is the rule at both the national and state levels.
|
Ngoài việc được bảo đảm quyền được xét xử ở cùng địa điểm
diễn ra hành vi phạm tội và được thông báo về lời buộc tội, bị đơn còn có
quyền được đố i chất với những nhân chứng chống lại họ. Họ có quyền được biết
những người buộc tội mình là ai và đang buộc tội gì để có được cách thức bào
chữa hợp lý. Người bị buộc tội cũng được bảo đảm cơ hội “có được sự hỗ trợ
của luật sư để bào chữa”. Trước thập niên 1960, điều này có nghĩa là một
người chỉ có quyền này (ở cấp độ bang) khi liên quan đến những tội phạm cực kỳ
nghiêm trọng và chỉ khi có đủ tiền thuê luật sư. Tuy nhiên, do hàng loạt
những phán quyết của Tòa án tối cao, luật quốc gia bảo đảm cho một người được
luật sư bảo vệ nếu bị xét xử vì bất cứ tội danh nào mà có thể bị tù, và chính
quyền phải trả tiền bào chữa cho một bị đơn nghèo khó. Đây là quy định ở cấp
độ quốc gia và bang.
|
The Fifth Amendment to the U.S. Constitution
declares that no person shall "be subject for the same offence to be
twice put in jeopardy of life and limb." This is the double jeopardy
clause and means that no one may be tried twice for the same crime by any
state government or by the federal government. It does not mean, however,
that a person may not be tried twice for the same action if that action has
violated both national and state laws. For example, someone who robs a
federally chartered bank in New Jersey runs afoul of both federal and state
law. That person could be legally tried and acquitted for that offense in a
New Jersey court and subsequently be tried for that same action in federal
court.
|
Tu chính án Hiến pháp thứ năm tuyên bố rằng không một ai
“có thể bị nguy hiểm đến tính mạng và thân thể hai lần vì cùng một tội danh”.
Đây là điều khoản bảo vệ chống nguy cơ tái hình và có nghĩa là không một ai
có thể bị chính quyền bang hay chính quyền liên bang xét xử hai lần cho cùng
một tội danh. Tuy nhiên, nó không có nghĩa là một người không thể bị xét xử
hai lần vì cùng một hành vi nếu hành vi đó vi phạm những điều luật của cả
quốc gia và bang. Chẳng hạn, một người cướp một ngân hàng được thành lập theo
luật liên bang ở New Jersey sẽ phạm vào cả luật liên bang và bang. Người này
có thể bị xét xử pháp lý và được trắng án vì tội danh đó ở một tòa án của New
Jersey và sau đó bị xét xử vì tội danh đó tại tòa án liên bang.
|
Another important right guaranteed to the
accused at both the state and federal levels is not to "be compelled in
any criminal case to be a witness against himself." This has been
interpreted to mean that the fact that someone elects not to testify on his
or her own behalf in court may not be used against the person by judge and
jury. This guarantee serves to reinforce the principle that under the U.S.
judicial system the burden of proof is on the state; the accused is presumed
innocent until the government proves otherwise beyond a reasonable doubt.
|
Một quyền quan trọng khác được bảo đảm cho bị cáo ở cả cấp
độ bang và liên bang là không “bị ép buộc làm nhân chứng chống lại chính mình
trong bất cứ vụ án hình sự nào”. Điều này được giải thích là việc người lựa chọn
không làm chứng cho bản thân mình ở tòa án không thể được thẩm phán và bồi
thẩm đoàn sử dụng chống lại người đó. Sự bảo đảm này củng cố cho nguyên lý
rằng, trong hệ thống pháp lý của Mỹ, gánh nặng bằng chứng thuộc về bang; bị
cáo được coi là vô tội cho đến khi chính quyền chứng minh được rằng khả năng
ngược lại là không còn nghi ngờ hợp lý gì nữa.
|
Finally, the Supreme Court has interpreted the
guarantee of due process of law to mean that evidence procured in an illegal
search and seizure may not be used against the accused at trial. The source
of this so-called exclusionary rule is the Fourth Amendment to the U.S.
Constitution; the Supreme Court has made its strictures binding on the states
as well. The Court's purpose was to eliminate any incentive the police might
have to illegally obtain evidence against the accused.
|
Cuối cùng, Tòa án tối cao đã giải thích sự bảo đảm thủ tục
pháp lý thỏa đáng có nghĩa là bằng chứng có được bằng việc điều tra và sai áp
(lấy chứng cứ) bất hợp pháp không thể được sử dụng để chống lại bị cáo tại
phiên tòa. Nguồn gốc của cái gọi là nguyên tắc loại trừ này là Tu chính án
Hiến pháp thứ tư; Tòa án tối cao cũng đã ràng buộc quy tắc này đối với các
bang. Mục đích của Tòa án tối cao là loại bỏ bất cứ động cơ thúc đẩy nào của
cảnh sát trong lấy được bằng chứng một cách bất hợp pháp để chống lại bị cáo.
|
Selection
of Jurors
If the accused elects not to have a bench
trial -- that is, not to be tried and sentenced by a judge alone -- his or
her fate will be determined by a jury. At the federal level 12 persons must
render a unanimous verdict. At the state level such criteria apply only to
the most serious offenses. In many states a jury may consist of fewer than 12
persons and render verdicts by other than unanimous decisions.
|
Lựa chọn thành viên
bồi thẩm đoàn
Nếu bị cáo lựa chọn không theo tòa án xét xử - nghĩa là
không bị xét xử và kết án bởi chỉ một thẩm phán - thì số phận của người đó sẽ
do một bồi thẩm đoàn định đoạt. Ở cấp độ liên bang, 12 người phải đưa một
phán quyết thống nhất. Ở cấp độ bang, tiêu chí này chỉ áp dụng cho những tội
phạm nghiêm trọng nhất. Ở nhiều bang, một bồi thẩm đoàn có thể có quân số ít
hơn 12 người và đưa ra phán quyết không phải bằng những quyết định đồng lòng
tuyệt đối.
|
A group of potential jurors is summoned to
appear in court. They are questioned in open court about their general
qualifications for jury service in a process known as "voir dire"
(from Old French, meaning "to say the truth"). The prosecutor and
the defense attorney ask general and specific questions of the potential
jurors. Are they citizens of the state? Can they comprehend the English
language? Have they or anyone in their family ever been tried for a criminal
offense? Have they read about or formed any opinions about the case at hand?
|
Một nhóm những người có tiềm năng trở thành thành viên bồi
thẩm đoàn được triệu tập để có mặt ở tòa. Ở tòa án công khai, họ được thẩm
vấn về những phẩm chất chung cho hoạt động của bồi thẩm đoàn theo một thủ tục
được gọi là “voir dire” (tiếng Pháp cổ có nghĩa là “nói sự thật”). Công tố và
luật sư bào chữa hỏi những câu hỏi chung và cụ thể đối với những thành viên
tiềm năng của bồi thẩm đoàn. Họ có phải là công dân của bang không? Họ có thể
hiểu được tiếng Anh không? Họ hay ai đó trong gia đình họ đã từng bị xét xử
vì một tội hình sự hay chưa? Họ đã đọc hay nảy sinh ý kiến gì về vụ án có
trong tay hay chưa?
|
In conducting the voir dire, the state and the
defense have two goals. The first is to eliminate all members of the panel
who have an obvious reason why they might not render an impartial decision in
the case. Common examples might be someone who is excluded by law from
serving on a jury, a juror who is a friend or relative of a participant in
the trial, and someone who openly admits a strong bias in the case at hand.
Objections to jurors in this category are known as challenges for cause, and
the number of such challenges is unlimited. It is the judge who determines
whether these challenges are valid.
|
Khi thực hiện thủ tục “nói sự thật”, bang và luật sư bào
chữa có hai mục tiêu. Mục tiêu thứ nhất là để loại bỏ tất cả những thành viên
nào trong danh sách hội thẩm, có lý do rõ ràng giải thích tại sao họ không
thể đưa ra quyết định không thiên vị trong vụ án. Ví dụ phổ biến là một người
nào đó bị luật pháp loại trừ khỏi bồi thẩm đoàn, một thành viên bồi thẩm đoàn
là bạn hay họ hàng của một người tham gia vào việc xét xử, và một người nào
đó công khai thừa nhận đã có sự thiên lệch rõ ràng trong vụ án. Những phản
đối đối với thành viên bồi thẩm đoàn theo loại này được coi là phản đối vì
định kiến, và con số những phản đối như vậy là không hạn chế. Chính thẩm phán
là người quyết định những phản đối đó có hiệu lực hay không.
|
The second goal that the opposing attorneys
have in questioning prospective jurors is to eliminate those who they believe
would be unfavorable to their side even though no overt reason is apparent
for the potential bias. Each side is allowed a number of peremptory
challenges -- requests to the court to exclude a prospective juror with no
reason given. Most states customarily give the defense more peremptory
challenges than the prosecution. At the federal level one to three challenges
per jury are usually permitted each side, depending on the nature of the
offense; as many as 20 are allowed in capital cases. The use of peremptory
challenges is more of an art than a science and is usually based on the hunch
of the attorneys.
|
Mục tiêu thứ hai mà những luật sư phản biện hướng đến
trong việc thẩm vấn những thành viên triển vọng của bồi thẩm đoàn là để loại
bỏ những người mà họ tin là có thể không nghiêng về phía họ kể cả khi không
có nguyên nhân rõ ràng cho sự thiên lệch. Mỗi bên được phép có một số phản
đối võ đoán - yêu cầu tòa án loại trừ một thành viên triển vọng của bồi thẩm
đoàn mà không đưa ra lý do. Hầu hết các bang theo tập quán dành cho luật sư
bào chữa nhiều phản đối võ đoán hơn là cho công tố. Ở cấp độ liên bang, từ
một đến ba phản đối tính trên một bồi thẩm đoàn thường được dành cho mỗi bên,
tùy theo bản chất của tội phạm; còn đối với những vụ án tử hình thì con số
này lên đến 20. Việc sử dụng phản đối võ đoán là một nghệ thuật hơn là một
môn khoa học và thường dựa trên cơ sở linh cảm của luật sư.
|
In the past attorneys were able to exclude
potential jurors via the peremptory challenge for virtually any reason
whatsoever. However, in recent years the Supreme Court has interpreted the
Fourteenth Amendment's equal protection clause to restrict this discretion by
prohibiting prosecutors from using their challenges to exclude African
Americans or women from serving on a criminal jury.
|
Trong quá khứ, các luật sư có thể loại trừ những thành
viên tiềm năng của bồi thẩm đoàn thông qua phản đối võ đoán đối với hầu như
bất kỳ nguyên nhân gì. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Tòa án tối cao đã
giải thích điều khoản bảo vệ công bằng của Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn
là để hạn chế quyền tự quyết này bằng cách cấm công tố sử dụng phản đối của
mình để loại trừ những người Mỹ gốc Phi hay phụ nữ khỏi hoạt động của bồi
thẩm đoàn hình sự.
|
The process of questioning and challenging
prospective jurors continues until all those duly challenged for cause are
eliminated, the peremptory challenges are either used up or waived, and a
jury of 12 (six in some states) has been created. In some states alternate
jurors are also chosen. They attend the trial but participate in
deliberations only if one of the original jurors is unable to continue in the
proceedings. Once the panel has been selected, they are sworn in by the judge
or the clerk of the court.
|
Thủ tục đặt câu hỏi và phản đối những thành viên triển
vọng của bồi thẩm đoàn tiếp tục đến khi tất cả những người bị phản đối vì
định kiến đều được loại bỏ, những phản đối võ đoán hoặc đã được được sử dụng
hết hoặc bị khước từ dùng tiếp, và một bồi thẩm đoàn gồm 12 người (ở một số
bang là 6 người) được thành lập. Tại một số bang, những thành viên dự khuyết
cũng được lựa chọn. Họ tham dự phiên tòa nhưng chỉ tham gia vào những suy xét
kỹ lưỡng khi một trong số những thành viên ban đầu của bồi thẩm đoàn không thể
tiếp tục theo vụ kiện. Một khi danh sách bồi thẩm đoàn đã lựa chọn, họ sẽ
tuyên thệ trước thẩm phán và viên lục sự.
|
Opening
Statements
After the formal trial begins, both the
prosecution and the defense make an opening statement (although in no state
is the defense compelled to do so). Long and detailed statements are more
likely to be made in jury trials than in bench trials. The purpose of opening
statements is to provide members of the jury -- who lack familiarity with the
law and with procedures of criminal investigation -- with an outline of the
major objectives of each side's case, the evidence that is to be presented,
the witnesses that are to be called, and what each side seeks to prove. If
the opening statements are well presented, the jurors will find it easier to
grasp the meaning and significance of the evidence and testimony. The usual
procedure is for the state to make its opening statement first and for the
defense to follow with a statement about how it will refute that case.
|
Tuyên bố khai mạc
Sau khi phiên tòa chính thức bắt đầu, cả công tố và luật
sư bào chữa đều đọc một tuyên bố khai mạc (mặc dù không ở bang nào luật sư
bào chữa bắt buộc phải làm như vậy). Những tuyên bố dài dòng và quá chi tiết
có thể được thực hiện ở phiên tòa có bồi thẩm đoàn hơn là các phiên tòa toàn
thẩm phán. Mục đích của tuyên bố khai mạc là để cung cấp cho các thành viên
của bồi thẩm đoàn - những người chưa quen thuộc với luật pháp và những thủ
tục điều tra hình sự - một phác thảo những mục tiêu quan trọng trong vụ việc
của mỗi bên, bằng chứng sẽ được xuất trình, những nhân chứng được triệu tập,
và mỗi bên tìm cách chứng minh điều gì. Nếu những tuyên bố khai mạc được thực
hiện tốt thì các thành viên bồi thẩm đoàn sẽ dễ nắm bắt được ý nghĩa và tầm
quan trọng của bằng chứng và lời khai hơn. Thủ tục thông thường là bang sẽ
thực hiện tuyên bố khai mạc của mình ngay đầu tiên còn luật sư bào chữa sẽ
tiếp theo bằng một tuyên bố về việc luật sư sẽ bác lại vụ án như thế nào.
|
The
Prosecution's Case
After the opening statements the prosecutor
presents the evidence amassed by the state against the accused. Evidence is
generally of two types -- physical evidence and the testimony of witnesses.
The physical evidence may include things such as bullets, ballistics tests,
fingerprints, handwriting samples, blood and urine tests, and other documents
or items that serve as physical aids. The defense may object to the admission
of any of these tangible items and will, if successful, have the item
excluded from consideration. If defense challenges are unsuccessful, the
physical evidence is labeled by one of the courtroom personnel and becomes
part of the official record.
|
Lý lẽ từ phía công
tố
Sau những tuyên bố khai mạc, công tố viên sẽ xuất trình
bằng chứng mà bang đã thu thập được để chống lại bị cáo. Bằng chứng thường
gồm hai loại - bằng chứng hữu hình (vật chứng) và lời khai của nhân chứng.
Vật chứng có thể gồm những thứ như viên đạn, mẫu xét nghiệm đạn đạo, dấu vân
tay, mẫu chữ viết tay, xét nghiệm máu và nước tiểu, và những giấy tờ hay vật
khác dùng để hỗ trợ một cách hữu hình / cụ thể. Luật sư bào chữa có thể phản
đối việc áp dụng những thứ hữu hình này và, nếu thành công, sẽ loại những thứ
này khỏi diện xem xét. Nếu những phản đối của luật sư bào chữa không được chấp
thuận thì bằng chứng hữu hình sẽ được một nhân viên của phòng xử án xác định
chủng loại và trở thành một phần của hồ sơ chính thức.
|
Most evidence at criminal trials takes the
form of testimony of witnesses. The format is a question-and-answer procedure
whose purpose is to elicit very specific information in an orderly fashion.
The goal is to present only evidence that is relevant to the immediate case
at hand and not to give confusing or irrelevant information or illegal
evidence that might result in a mistrial (for example, evidence that the
accused had a prior conviction for an identical offense).
|
Hầu hết bằng chứng ở các vụ hình sự là dưới hình thức lời
khai của nhân chứng. Cách thức lấy lời khai là một thủ tục hỏi - đáp với mục
tiêu có được những thông tin hết sức cụ thể một cách đúng trật tự. Mục đích
của việc làm này là chỉ xuất trình những bằng chứng phù hợp với vụ án hiện
thời và không đưa ra những thông tin gây nhầm lẫn hoặc không phù hợp hay bằng
chứng bất hợp pháp mà có thể gây ra một vụ xét xử sai (chẳng hạn, bằng chứng
mà bị cáo đã bị kết tội trước đó cho cùng một tội danh).
|
After each witness the defense attorney has
the right to cross-examine. The goal of the defense will be to impeach the
testimony of the prosecution witness -- that is, to discredit it. The
attorney may attempt to confuse, fluster, or anger the witness, causing him or
her to lose self-control and begin providing confusing or conflicting
testimony. A prosecution witness' testimony may also be impeached if defense
witnesses who contradict the version of events suggested by the state are
subsequently presented. Upon completion of the cross-examination, the
prosecutor may conduct a redirect examination, which serves to clarify or
correct some telling point made during the cross-examination. After the state
has presented all its evidence and witnesses, it rests its case.
|
Sau mỗi nhân chứng, luật sư bào chữa có quyền đối chất.
Mục tiêu của luật sư bào chữa là nghi ngờ lời khai của nhân chứng cho công tố
- nghĩa là không tin lời khai đó. Luật sư bào chữa có thể nỗ lực làm cho nhân
chứng nhầm lẫn, bối rối hoặc giận dữ, khiến cho nhân chứng không kiểm soát
được bản thân và bắt đầu đưa ra những lời khai nhầm lẫn hay mâu thuẫn. Lời
khai của một nhân chứng cho công tố cũng có thể bị nghi ngờ nếu sau đó có
xuất hiện các nhân chứng bào chữa phủ nhận nội dung tường thuật theo gợi ý của
bang. Sau khi hoàn thành đối chất, công tố có thể tiến hành kiểm tra lại để
làm rõ hay chỉnh sửa một số điểm quan trọng trong quá trình đối chất. Sau khi
xuất trình tất cả bằng chứng và nhân chứng, bang sẽ tạm quay về chỗ nghỉ.
|
The Case
for the Defense
The presentation of the case for the defense
is similar in style and format to that of the prosecution. Tangible evidence
is less common in the defense's case, and most of the evidence will be that
of witnesses who are prepared to rebut or contradict the prosecution's
arguments. The witnesses are questioned by the defense attorney in the same
style as those in the prosecution case. Each defense witness may in turn be
cross-examined by the district attorney, and then a redirect examination is
in order.
|
Lý lẽ từ phía người
bào chữa
Việc trình bày lý lẽ từ phía luật sư bào chữa cũng tương
tự như từ phía công tố về mặt cách thể hiện và dạng thức. Đối với lý lẽ từ
phía luật sư bào chữa, bằng chứng hữu hình kém phổ biến hơn, và hầu hết bằng
chứng sẽ là của nhân chứng, những người được chuẩn bị để bác bỏ hay mâu thuẫn
với những lập luận của công tố. Các nhân chứng được luật sư bào chữa thẩm vấn
theo cùng một cách thức như trong lý lẽ phía công tố. Mỗi nhân chứng bào chữa
đến lượt mình có thể bị chưởng lý hạt đối chất, và sau đó việc kiểm tra lại
được tiến hành.
|
The difference between the case for the
prosecution and the case for the defense lies in their obligation before the
law. The defense is not required by law to present any new or additional
evidence or any witnesses at all. The defense may consist merely of
challenging the credibility or the legality of the state's evidence and
witnesses. The defense is not obligated to prove the innocence of the
accused; it need show only that the state's case is not beyond a reasonable
doubt. The defendant need not even take the stand. (However, if he or she
elects to do so, the accused faces the same risks of cross-examination as any
other witness.)
|
Sự khác biệt giữa việc đưa lý lẽ từ phía công tố và từ
phía luật sư bào chữa là ở trách nhiệm của họ trước pháp luật. Luật sư bào
chữa không bị luật pháp yêu cầu xuất trình bất kỳ bằng chứng mới hay bổ sung
nào hay bất kỳ nhân chứng nào. Việc bào chữa có thể chỉ đơn thuần là chất vấn
mức độ tin cậy hay tính hợp pháp của bằng chứng và nhân chứng của bang. Bên
bào chữa không bắt buộc phải chứng minh sự vô tội của bị cáo; nó chỉ cần chỉ
ra rằng lý lẽ của bang không nằm ngoài một mối nghi ngờ hợp lý. Bị đơn thậm
chí cũng không cần ra làm chứng. (Tuy nhiên, nếu lựa chọn làm như vậy thì bị
cáo sẽ phải đối mặt với rủi ro bị đối chất như những nhân chứng khác).
|
After the defense has rested its case, the
prosecution has the right to present rebuttal evidence. In turn, the defense
may offer a rejoinder known as a surrebuttal. After that, each side delivers
closing arguments. Oftentimes this is one of the more dramatic episodes in
the trial because each side seeks to sum up its case, condense its strongest
arguments, and make one last appeal to the jury. New evidence may not be
presented at this stage, and the arguments of both sides tend to ring with
emotion and appeals to values that transcend the immediate case. The
prosecutor may talk about the crime problem in general, about the need for
law and order, and about the need not to let compassion for the accused get
in the way of empathy for the crime victim. The defense attorney, on the
other hand, may remind the jurors "how we have all made mistakes in this
life" or argue that in a free, democratic society any doubt they have
should be resolved in favor of the accused. The prosecution probably avoids
emotionalism more than the defense attorney, however, because many jury
verdicts have been reversed on appeal after the district attorney injected
prejudicial statements into the closing statements.
|
Sau khi luật sư bào chữa tạm quay về chỗ nghỉ, công tố có
quyền đưa ra bằng chứng bác bỏ. Đến lượt mình, luật sư bào chữa đưa ra lời
kháng biện, được gọi là lời đập lại lời buộc tội của công tố. Sau đó, mỗi bên
đưa ra những lý lẽ cuối cùng. Thông thường, đây là một trong những hồi gay
cấn của phiên tòa vì mỗi bên tìm cách kết luận nhưng lý lẽ của mình, cô đọng
những lý lẽ thuyết phục nhất, và trình kháng nghị cuối cùng lên bồi thẩm
đoàn. Bằng chứng mới có thể không được đưa ra ở bước này, và lý lẽ của cả hai
bên dường như có cảm xúc và viện đến những giá trị vượt quá vụ án đang xét
xử. Công tố có thể nói về vấn đề tội phạm nói chung, về nhu cầu phải có luật
pháp và trật tự, và về yêu cầu không được để bị cáo giành được lòng trắc ẩn
bằng sự cảm thông của nạn nhân của tội phạm. Mặt khác, luật sư bào chữa có
thể nhắc nhở các thành viên bồi thẩm đoàn “tất cả chúng ta đều mắc sai lầm
trong cuộc đời này như thế nào” hay lập luận rằng, trong một xã hội tự do,
dân chủ, bất cứ điều gì nghi ngờ đều phải được giải quyết theo cách có lợi
cho bị cáo. Tuy nhiên, công tố có thể dễ dàng trá nh sự đa cảm hơn luật sư
bào chữa vì nhiều phán quyết của bồi thẩm đoàn đã bị đảo ngược ở tòa phúc
thẩm sau khi chưởng lý hạt thêm thắt những lời lẽ gây tổn hại vào những tuyên
bố sau cùng.
|
Role of
the Judge During the Trial
The judge's role in the trial, although very
important, is a relatively passive one. He or she does not present any
evidence or take an active part in the examination of the witnesses. The
judge is called upon to rule on the many motions of the prosecutor and of the
defense attorney regarding the types of evidence that may be presented and
the kinds of questions that may be asked of the witnesses. In some
jurisdictions the judge is permitted to ask substantive questions of the
witnesses and also to comment to the jury about the credibility of the
evidence that is presented; in other states the judge is constrained from
such activity. Still, the American legal tradition has room for a variety of
judicial styles that depend on the personality, training, and wisdom of
individual judges.
|
Vai trò của thẩm
phán trong quá trình xét xử
Vai trò của thẩm phán trong việc xét xử, mặc dù rất quan
trọng, nhưng lại là một vai trò tương đối thụ động. Thẩm phán không đưa ra
bất kỳ bằng chứng nào hay chủ động tham gia vào việc thẩm vấn nhân chứng.
Thẩm phán được nhờ tới để giám sát trên cơ sở kiến nghị của công tố và luật
sư bào chữa về loại bằng chứng được đưa ra và loại câu hỏi được dùng để hỏi
nhân chứng. Trong một số khu vực tài phán, thẩm phán được phép đặt những câu
hỏi thực chất cho nhân chứng và cũng bình luận trước bồi thẩm đoàn về mức độ
tin cậy của bằng chứng đưa ra; ở những bang khác, thẩm phán bị hạn chế khỏi
những hoạt động đó. Mặc dù vậy, truyền thống pháp lý của Mỹ cũng dành chỗ cho
rất nhiều phong cách xét xử tư pháp tùy theo tư cách cá nhân, trình độ đào
tạo và sự khôn ngoan của từng cá nhân thẩm phán.
|
First and foremost, the judge is expected to
play the part of a disinterested party whose primary job is to see to it that
both sides are allowed to present their cases as fully as possible within the
confines of the law. If judges depart from the appearance or practice of
being fair and neutral parties, they run counter to fundamental tenets of
American jurisprudence and risk having their decisions overturned by an
appellate court.
|
Đầu tiên và trước hết, thẩm phán được kỳ vọng sẽ đóng vai
trò một bên tham gia không vụ lợi mà công việc chủ yếu là bảo đảm rằng cả hai
bên được phép trình bày vụ án của mình càng đầy đủ càng tốt trong phạm vi
luật định. Nếu các thẩm phán không còn dáng vẻ thực hiện nhiệm vụ một cách
công bằng và trung lập thì họ sẽ đi ngược lại với những nguyên lý căn bản của
pháp luật Mỹ và phán quyết của họ có nguy cơ bị tòa phúc thẩm bác bỏ.
|
Although judges do for the most part play such
a role, the backgrounds and values of the jurists also affect their decisions
in the close calls -- when they are called upon to rule on a motion for which
the arguments are about equally strong or on a point of law that is open to a
variety of interpretations.
|
Mặc dù các thẩm phán phần lớn đóng một vai trò như vậy,
nhưng những nền tảng và giá trị của các nhà luật học cũng tác động đến phán
quyết của họ trong những vụ không rõ ràng – tức là khi họ phải đưa ra phán
quyết về một yêu cầu trong đó lý lẽ của hai bên đều có lý hoặc khi luật pháp
có thể được giải thích theo nhiều cách khác nhau.
|
Role of
the Jury During the Trial
The jurors' role during the trial is passive.
Their job is to listen attentively to the cases presented by the opposing
attorneys and then come to a decision based solely on the evidence that is
set forth. They are ordinarily not permitted to ask questions either of the
witnesses or of the judge, nor are they allowed to take notes of the
proceedings. This is not because of constitutional or statutory prohibitions but
primarily because it has been the traditional practice of courts in America.
|
Vai trò của bồi thẩm
đoàn trong quá trình xét xử
Vai trò của các thành viên bồi thẩm đoàn trong quá trình
xét xử là rất thụ động. Công việc của họ là lắng nghe các vụ án do các bên
luật sư đệ trình và sau đó đi đến phán quyết chỉ dựa trên bằng chứng được đưa
ra. Thông thường, các thành viên bồi thẩm đoàn không được phép đặt những câu
hỏi cho nhân chứng hay thẩm phán, và họ cũng không được phép ghi chép về vụ
kiện. Đây không phải do những điều cấm theo hiến pháp hay luật định mà chủ
yếu vì đây là tập quán truyền thống của các tòa án ở Mỹ.
|
In recent years, however, many judges have
allowed jurors to become more involved in the judicial arena. Chicago's chief
U.S. district court judge John F. Grady has for over a decade permitted
jurors in his courtroom to take notes. At least four U.S. appellate courts
have given tacit approval to the practice of juror participation in
questioning witnesses, as long as jurors are not permitted to blurt out
queries in the midst of trial and attorneys are given a chance to object to
specific questions before they are posed to witnesses. In some states a few
trial judges have allowed jurors to take fairly active roles in the trial.
Still, at both state and federal levels the role of the jury remains
basically passive.
|
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều thẩm phán đã cho
phép các thành viên bồi thẩm đoàn được tham gia nhiều hơn vào công việc xét
xử. John F. Grady, Chánh án Tòa án hạt liên bang tại Chicago, trong hơn một
thập kỷ đã cho phép các thành viên bồi thẩm đoàn ở phòng xử án của mình được
ghi chép. Ít nhất bốn tòa phúc thẩm Mỹ đã ngầm chấp thuận việc thành viên bồi
thẩm đoàn tham gia thẩm vấn nhân chứng chừng nào những thành viên này vẫn
không được phép đặt câu hỏi giữa lúc xử án và các luật sư được trao cơ hội phản
đối những câu hỏi cụ thể trước khi được đặt ra cho nhân chứng. Ở một số bang,
có một số ít thẩm phán xử án đã cho phép các thành viên bồi thẩm đoàn đóng
vai trò tương đối tích cực trong việc xét xử. Mặc dù vậy, ở cả cấp độ bang và
liên bang, vai trò của bồi thẩm đoàn về cơ bản vẫn còn rất thụ động.
|
Instructions
to the Jury
Although the jury's job is to weigh and assess
the facts of the case, the judge must instruct the jurors about the meaning
of the law and how the law is to be applied. Because many cases are
overturned on appeal as a result of faulty jury instructions, judges tend to
take great care that the wording be technically and legally correct.
|
Chỉ dẫn cho bồi thẩm
đoàn
Mặc dù công việc của bồi thẩm đoàn là xem xét và đánh giá
các dữ kiện của vụ án, nhưng thẩm phán phải chỉ dẫn cho các thành viên bồi
thẩm đoàn về ý nghĩa của luật pháp và luật pháp được áp dụng như thế nào. Do
nhiều vụ án bị đảo ngược khi phúc thẩm do những chỉ dẫn sai cho bồi thẩm đoàn
nên các thẩm phán có xu hướng rất chú trọng đến việc từ ngữ chuẩn mực về mặt
chuyên môn và pháp lý.
|
All jury instructions must have some basic
elements. One is to define for the jurors the crime with which the accused is
charged. This may involve giving the jurors a variety of options about what
kind of verdict to bring. For example, if one person has taken the life of
another, the state may be trying the accused for first-degree murder.
Nevertheless, the judge may be obliged to acquaint the jury with the legal
definition of second-degree murder or manslaughter if it should determine
that the defendant was the killer but did not act with malice aforethought.
|
Tất cả những chỉ dẫn cho bồi thẩm đoàn phải có một số yếu
tố cơ bản. Một yếu tố trong số đó là định nghĩa cho các thành viên tội danh
mà bị cáo bị buộc tội. Điều này có thể liên quan đến việc dành cho các thành
viên bồi thẩm đoàn rất nhiều lựa chọn về loại phán quyết đưa ra. Chẳng hạn,
nếu một người lấy đi mạng sống của người khác thì bang có thể xử bị cáo tội
giết người cấp độ 1. Tuy nhiên, thẩm phán cần giúp bồi thẩm đoàn hiểu định
nghĩa pháp lý của giết người cấp độ 2 hay ngộ sát nếu thẩm phán xác định rằng
bị đơn là thủ phạm nhưng không hành động có chủ định trước một cách độc ác.
|
The judge must also remind the jury that the
burden of proof is on the state and that the accused is presumed to be
innocent. If, after considering all the evidence, the jury still has a
reasonable doubt as to the guilt of the accused, it must bring in a not
guilty verdict.
|
Thẩm phán cũng phải nhắc nhở bồi thẩm đoàn rằng gánh nặng
bằng chứng là dành cho bang và rằng bị cáo được giả định là vô tội. Nếu sau
khi xem xét tất cả bằng chứng mà bồi thẩm đoàn vẫn có sự nghi ngờ hợp lý đối
với tội danh của bị cáo thì bồi thẩm đoàn phải đưa ra một phán quyết không có
tội.
|
Finally, the judge usually acquaints the
jurors with a variety of procedural matters: how to contact the judge if they
have questions, the order in which they must consider the charges if there
are more than one, who must sign the official documents that express the
verdict of the jury. After the instructions are read to the jury (and the
attorneys for each side have been given an opportunity to offer objections),
the jurors retreat into a deliberation room to decide the fate of the
accused.
|
Cuối cùng, thẩm phán thường giúp các thành viên bồi thẩm
đoàn hiểu rất nhiều vấn đề về thủ tục, làm thế nào để liên lạc với thẩm phán
khi họ có câu hỏi, trật tự mà theo đó họ phải xem xét lời buộc tội nếu có
nhiều hơn một lời buộc tội, ai phải ký những giấy tờ chính thức thể hiện phán
quyết của bồi thẩm đoàn. Sau khi những chỉ dẫn được đọc cho bồi thẩm đoàn (và
luật sư bào chữa cho mỗi bên đã được dành cơ hội đưa ra lời phản biện), các
thành viên bồi thẩm đoàn rút vào phòng nghị án để quyết định số phận của bị
cáo.
|
The
Jury's Decision
The jury deliberates in complete privacy; no
outsiders observe or participate in its debate. During their deliberation
jurors may request the clarification of legal questions from the judge, and
they may look at items of evidence or selected segments of the case
transcript, but they may consult nothing else -- no law dictionaries, no
legal writings, no opinions from experts. When it has reached a decision by a
vote of its members, the jury returns to the courtroom to announce its
verdict. If it has not reached a decision by nightfall, the jurors are sent
home with firm instructions neither to discuss the case with others nor read
about the case in the newspapers. In very important or notorious cases, the
jury may be sequestered by the judge, which means that its members will spend
the night in a local hotel away from the public eye.
|
Phán quyết của bồi
thẩm đoàn
Bồi thẩm đoàn bàn bạc hoàn toàn kín đáo; không một người
ngoài nào được quan sát hay tham gia vào việc bàn bạc này. Trong quá trình
bàn bạc, các thành viên bồi thẩm đoàn có thể yêu cầu làm rõ những câu hỏi
pháp lý từ thẩm phán, và họ có thể xem từng bằng chứng hay những phần chọn
lọc trong bản ghi vụ án, nhưng họ không được tham khảo thêm bất cứ một thứ gì
khác - không từ điển luật, sách pháp luật, không ý kiến từ các chuyên gia.
Khi đã đạt được một quyết định bằng việc bỏ phiếu của các thành viên, bồi
thẩm đoàn quay lại phòng xử án để công bố phán quyết đó. Nếu đến chập tối mà
không đạt được quyết định thì các thành viên bồi thẩm đoàn được đưa về nhà
với những chỉ dẫn kiên quyết không được trao đổi vụ án với người khác hay đọc
về vụ án trên báo. Trong những vụ án cực kỳ quan trọng hoặc tai tiếng, bồi
thẩm đoàn có thể bị thẩm phán tách riêng ra, nghĩa là các thành viên của bồi
thẩm đoàn sẽ ở một khách sạn địa phương suốt đêm để tránh sự soi mói của công
chúng.
|
If the jury becomes deadlocked and cannot
reach a verdict, it may report that fact to the judge. In such an event the
judge may insist that the jury continue its effort to reach a verdict. Or, if
the judge is convinced that the jury is in fact hopelessly deadlocked, he or
she may dismiss the jury and call for a new trial.
|
Nếu bồi thẩm đoàn bị bế tắc và không thể đi đến một phán
quyết thì có thể báo cáo sự việc lên thẩm phán. Trong trường hợp như vậy,
thẩm phán có thể yêu cầu bồi thẩm đoàn vẫn tiếp tục nỗ lực để đạt được phán
quyết. Hoặc, nếu bị thuyết phục rằng bồi thẩm đoàn trên thực tế bị bế tắc một
cách vô vọng, thì thẩm phán có thể giải tán bồi thẩm đoàn và triệu tập một
phiên tòa xét xử mới.
|
Research studies indicate that most juries
dealing with criminal cases make their decisions fairly quickly. Almost all
juries take a vote soon after they retire to their chambers in order to see
how divided, or united, they are. In 30 percent of the cases it takes only
one vote to reach a unanimous decision. In 90 percent of the remainder, the
majority on the first ballot eventually wins out. Hung juries -- those in
which no verdict can be reached -- tend to occur only when a large minority
existed on the first ballot.
|
Những tài liệu nghiên cứu chỉ ra rằng hầu hết bồi thẩm
đoàn làm việc với những vụ án hình sự đều đưa ra phán quyết một cách tương
đối nhanh chóng. Gần như tất cả bồi thẩm đoàn đều tiến hành bỏ phiếu ngay sau
khi họ lui về phòng của mình để xem họ bỏ phiếu chia rẽ hay thống nhất thế
nào. Trong 30% số vụ án bồi thẩm đoàn chỉ phải tiến hành bỏ phiếu một lần là
đã đạt được một phán quyết đồng thuận. Trong 90% số vụ án còn lại, kết quả đa
số phiếu trong cuộc bỏ phiếu kín đầu tiên sẽ trở thành phán quyết. Những bồi
thẩm đoàn bị bế tắc - những bồi thẩm đoàn không đạt được một phán quyết nào -
thường chỉ xảy ra khi có tỷ lệ thiểu số khá lớn trong cuộc bỏ phiếu kín đầu
tiên.
|
Scholars have also learned that juries often
reach the same verdict that the judge would have, had he or she been solely
responsible for the decision. One large jury study asked judges to state how
they would have decided jury cases over which they presided. The judge and
jury agreed in 81 percent of the criminal cases (about the same as in civil
cases). In 19 percent of the criminal cases the judge and jury disagreed,
with the judge showing a marked tendency to convict where the juries had
acquitted.
|
Các học giả cũng nhận thấy các bồi thẩm đoàn thường đạt
được phán quyết mà thẩm phán muốn có, nếu thẩm phán là người duy nhất chịu
trách nhiệm về phán quyết đó. Một nghiên cứu lớn về bồi thẩm đoàn yêu cầu các
thẩm phán trả lời về việc họ ra phán quyết cho các vụ án có bồi thẩm đoàn mà
họ chủ trì như thế nào. Thẩm phán và bồi thẩm đoàn đồng ý trong 81% các vụ án
hình sự (tỷ lệ tương tự đối với các vụ án dân sự). Thẩm phán và bồi thẩm đoàn
không thống nhất trong 19% số vụ án hình sự, với việc thẩm phán thể hiện một
xu thế rõ rệt là kết án những gì bồi thẩm đoàn xử trắng án.
|
When the members of the jury do finally reach
a decision, they return to the courtroom and their verdict is announced in
open court, often by the jury foreman. At this time either the prosecutor or
the defense attorney often asks that the jury be polled -- that is, that each
juror be asked individually if the general verdict actually reflects his or
her own opinion. The purpose is to determine whether each juror supports the
overall verdict or whether he or she is just caving in to group pressure. If
the polling procedure reveals that the jury is indeed not of one mind, it may
be sent back to the jury room to continue deliberations; in some
jurisdictions a mistrial may be declared. If a mistrial is declared, the case
may be tried again before another jury. There is no double jeopardy because
the original jury did not agree on a verdict. If the jury's verdict is not
guilty, the defendant is discharged on the spot and is free to leave the courtroom.
|
Khi những thành viên của bồi thẩm đoàn cuối cùng cũng đi
đến quyết định, họ quay trở lại phòng xử án và phán quyết của họ được công bố
công khai, thường là do chủ tịch bồi thẩm đoàn công bố. Khi đó công tố hoặc
luật sư bào chữa thường yêu cầu được thăm dò ý kiến - nghĩa là mỗi thành viên
bồi thẩm đoàn được hỏi độc lập rằng phán quyết đó thực tế có phản ánh ý kiến
của riêng họ hay không. Mục đích của việc làm này là để xác định liệu mỗi
thành viên có ủng hộ phán quyết chung hay đơn giản là họ chịu sức ép của cả
nhóm. Nếu thủ tục thăm dò ý kiến cho thấy bồi thẩm đoàn thực sự không thống
nhất với nhau thì bồi thẩm đoàn sẽ được yêu cầu trở lại phòng hội thẩm để
tiếp tục cân nhắc; ở một số khu vực tài phán, có thể có lời tuyên bố về việc
xét xử sai. Nếu bị tuyên bố là xét xử sai thì vụ án có thể bị xét xử lại
trước một bồi thẩm đoàn mới. Ở đây không có nguy cơ tái hình vì bồi thẩm đoàn
ban đầu không thống nhất đối với phán quyết. Nếu phán quyết của bồi thẩm đoàn
là vô tội thì bị cáo được tuyên bố tha tại chỗ và được tự do rời khỏi phòng
xử án.
|
PROCEDURES
AFTER A CRIMINAL TRIAL
At the close of the criminal trial, generally
two stages remain for the defendant if he or she has been found guilty:
sentencing and an appeal.
|
NHỮNG THỦ TỤC SAU
MỘT PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
Khi kết thúc phiên tòa hình sự, thông thường vẫn còn hai
khâu đối với bị đơn nếu bị tuyên có tội: quyết định hình phạt và kháng án.
|
Sentencing
Sentencing is the court's formal pronouncement
of judgment upon the defendant at which time the punishment or penalty is set
forth.
|
Quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là lời công bố chính thức của tòa án
về việc xét xử bị đơn mà vào thời điểm đó sự trừng phạt hay hình phạt được
đưa ra.
|
At the federal level and in most states,
sentences are imposed by the judge only. However, in several states the
defendant may elect to be sentenced by either a judge or a jury, and in
capital cases states generally require that no death sentence shall be
imposed unless it is the determination of 12 unanimous jurors. In some states
after a jury finds someone guilty, the jury deliberates a second time to
determine the sentence. In several states a new jury is empaneled expressly
for sentencing. At this time the rules of evidence are more relaxed, and the
jury may be permitted to hear evidence that was excluded during the actual
trial (for example, the previous criminal record of the accused).
|
Ở cấp độ liên bang và ở hầu hết các bang, quyết định hình
phạt chỉ do thẩm phán đưa ra. Tuy nhiên, ở một số bang bị đơn có thể lựa chọn
được thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn quyết định hình phạt, và trong các vụ án tử
hình các bang thường yêu cầu rằng không được áp dụng hình phạt tử hình nếu
không có quyết định đồng thuận của 12 thành viên bồi thẩm đoàn. Tại một số
bang, sau khi bồi thẩm đoàn xác minh và tuyên bố một ai đó là có tội thì bồi
thẩm đoàn sẽ thảo luận kỹ lưỡng lần thứ hai để xác định bản án. Ở một vài
bang, một bồi thẩm đoàn mới sẽ được đưa vào danh sách cốt để tuyên án. Khi đó
những quy tắc về bằng chứng sẽ được nới lỏng hơn, và bồi thẩm đoàn có thể
được phép nghe bằng chứng đã bị loại trừ trong thời gian xét xử thực tế
(chẳng hạn, hồ sơ tội phạm trước đó của bị cáo).
|
After the judge pronounces the sentence,
several weeks customarily elapse between the time the defendant is found
guilty and the time when the penalty is imposed. This interval permits the
judge to hear and consider any posttrial motions that the defense attorney
might make (such as a motion for a new trial) and to allow a probation
officer to conduct a presentence investigation. The probation officer is a
professional with a background in criminology, psychology, or social work,
who makes a recommendation to the judge about the length of the sentence to
be imposed. The probation officer customarily examines factors such as the
background of the criminal, the seriousness of the crime committed, and the
likelihood that the criminal will continue to engage in illegal activity.
Judges are not required to follow the probation officer's recommendation, but
it is still a major factor in the judge's calculus as to what the sentence
shall be. Judges are presented with a variety of alternatives and a range of
sentences when it comes to punishment for the criminal. Many of these
alternatives involve the concept of rehabilitation and call for the
assistance of professionals in the fields of criminology and social science.
|
Sau khi thẩm phán công bố bản án, theo tập quán sẽ có một
vài tuần tính từ lúc bị đơn bị xác minh và tuyên bố là có tội đến khi hình
phạt được đưa ra. Khoảng thời gian này cho phép thẩm phán nghe và xem xét
những kiến nghị sau phiên tòa mà luật sư bào chữa có thể nêu ra (như kiến
nghị một phiên tòa mới) và cho phép một người quản chế tiến hành điều tra
trước khi kết án. Người quản chế này là một chuyên gia về tội phạm học, tâm
lý học hay xã hội học - người sẽ gợi ý cho thẩm phán về độ dài thời gian áp
đặt hình phạt. Người quản chế thông thường xem xét những yếu tố như lai lịch
của tội phạm, mức độ nghiêm trọng của tội danh phạm phải, và khả năng tội
phạm tiếp tục tham gia vào những hoạt động phi pháp. Các thẩm phán không buộc
phải tuân theo khuyến nghị của người quản chế, nhưng khuyến nghị này vẫn là
một yếu tố quan trọng trong đánh giá của thẩm phán về việc sẽ đưa ra bản án
nào. Các thẩm phán được giới thiệu rất nhiều biện pháp thay thế và hàng loạt
những bản án khi trừng phạt tội phạm. Nhiều biện pháp thay thế trong số này
liên quan đến khái niệm cải tạo và đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của các chuyên
gia trong các lĩnh vực tội phạm học và khoa học xã hội.
|
The lightest punishment that a judge can hand
down is that of probation. This is often the penalty if the crime is regarded
as minor or if the judge believes that the guilty person is not likely to
engage in additional criminal activity. If a probated sentence is handed
down, the criminal may not spend any time in prison as long as the conditions
of the probation are maintained. Such conditions might include staying away
from convicted criminals, not committing other crimes, or with increasing
frequency, performing some type of community service. If a criminal serves
out his or her probation without incident, the criminal record is usually
wiped clean and in the eyes of the law it is as if no crime had ever been
committed.
|
Hình phạt nhẹ nhất mà một thẩm phán có thể đưa ra là án
treo. Đây thường là hình phạt mà tội phạm được coi là rất nhẹ hoặc nếu thẩm
phán tin rằng người phạm tội sẽ không tiếp tục tham gia vào những hoạt động
phi pháp. Nếu án treo được đưa ra thì người phạm tội có thể không phải ngồi
tù một tí nào chừng nào những điều kiện của án treo vẫn được duy trì. Những
điều kiện như vậy có thể gồm tránh xa những tên tội phạm đã bị kết án, không
phạm những tội danh khác, hay thực hiện một số hoạt động cộng đồng một cách
thường xuyên hơn. Nếu một người phạm tội trải qua thời gian án treo mà không
có vi phạm gì thì hồ sơ tội phạm của người đó thường được xóa sạch và trong
con mắt của pháp luật thì dường như người đó chưa hề phạm tội gì.
|
If the judge is not disposed toward probation
and feels that jail time is in order, he or she must impose a prison sentence
that is within a range prescribed by law. The reason for a range of years
instead of an automatically assigned number is that the law recognizes that
not all crimes and criminals are alike and that in principle the punishment
should fit the crime.
|
Nếu thẩm phán không mấy ngả về quyết định án treo và thấy
rằng thời gian trong nhà lao là cần thiết thì thẩm phán có thể đưa ra một án
tù trong phạm vi quy định của luật pháp. Lý do phải có một dãy số năm tù thay
vì tự động áp dụng số năm tù là ở chỗ luật pháp nhận thấy không phải mọi tội
danh và kẻ phạm tội là đồng nhất với nhau và trên nguyên tắc hình phạt phải
phù hợp với tội danh.
|
In an effort to eliminate gross disparities in
sentencing, the federal government and many states have attempted to develop
sets of precise guidelines to create greater consistency among judges. At the
national level this effort was manifested by the enactment of the Sentencing
Reform Act of 1987, which established guidelines to structure the sentencing
process.
|
Trong nỗ lực xóa bỏ những chênh lệch lớn trong việc kết
án, chính quyền liên bang và nhiều bang đã cố gắng đưa ra những bộ hướng dẫn
chuẩn mực để tạo sự nhất quán cao hơn giữa các thẩm phán. Ở cấp độ quốc gia,
nỗ lực này được thể hiện bằng việc ban hành Đạo luật cải cách việc quyết định
hình phạt năm 1987 - là đạo luật xây dựng những hướng dẫn cơ cấu thủ tục kết
án.
|
Congress provided that judges may depart from
the guidelines only if they find an aggravating or mitigating circumstance
that the commission did not adequately consider. Although the congressional
guidelines do not specify the kinds of factors that could constitute grounds
for departure from the sentencing guidelines, Congress did state that such
grounds could not include race, gender, national origin, creed, religion,
socioeconomic status, drug dependence, or alcohol abuse.
|
Quốc hội quy định rằng các thẩm phán chỉ có thể đi trệch
khỏi những hướng dẫn nếu họ tìm ra một tình tiết trầm trọng hơn hoặc giảm nhẹ
đi mà tội danh phạm phải không được xem xét một cách thỏa đáng. Mặc dù những
hướng dẫn của Quốc hội không chỉ ra cụ thể những loại yếu tố có thể cấu thành
nên cơ sở cho việc đi trệch khỏi những hướng dẫn kết án, nhưng Quốc hội nêu
rõ rằng những cơ sở như vậy không thể bao gồm chủng tộc, giới tính, xuất xứ,
tín ngưỡng, tôn giáo, tình trạng kinh tế xã hội, sự lệ thuộc vào ma tuý, hay
lạm dụng rượu.
|
The states, too, have a variety of programs
for avoiding vast disparities in judges' sentences. By 1995, 22 states had
created commissions to establish sentencing guidelines for their judges, and
as of late 1997 such guidelines were in effect in 17 states. Likewise, almost
all of the states have now enacted mandatory sentencing laws that require an
automatic, specific sentence upon conviction of certain crimes --
particularly violent crimes, crimes in which a gun was used, or crimes
perpetrated by habitual offenders.
|
Các bang cũng có rất nhiều chương trình để tránh những
chênh lệch lớn trong bản án của thẩm phán. Đến năm 1995, 22 bang đã thành lập
các ủy ban để xây dựng những hướng dẫn kết án cho các thẩm phán của mình, và
đến cuối năm 1997, những hướng dẫn đó đã có hiệu lực ở 17 bang. Tương tự như
vậy, gần như hầu hết các bang giờ đây đã ban hành những đạo luật kết án bắt
buộc đòi hỏi sự kết án tự động, cụ thể đối với việc phạm phải một số tội danh
- đặc biệt là những tội có bạo lực, những tội có sử dụng súng, hoặc những tội
do tội phạm thường xuyên phạm phải.
|
Despite the enormous impact that judges have
on the sentence, they do not necessarily have the final say on the matter.
Whenever a prison term is set by the judge, it is still subject to the parole
laws of the federal government and of the states. Thus parole boards (and
sometimes the president and governors who may grant pardons or commute
sentences) have the final say about how long an inmate actually stays in
prison.
|
Bất chấp việc có tác động to lớn đối với việc kết án, các
thẩm phán không nhất thiết phải có tiếng nói cuối cùng về bản án. Bất cứ khi
nào một thời hạn ngồi tù được thẩm phán đặt ra thì nó vẫn phục thuộc vào
những luật tạm tha của chính quyền liên bang và của các bang. Do vậy các ủy
ban về tạm tha (và đôi khi là tổng thống và các thống đốc, những người có
quyền đưa ra lệnh tha hay những bản án giảm nhẹ) có tiếng nói cuối cùng về
việc một người thực tế phải ngồi tù bao lâu.
|
An
Appeal
At both the state and federal levels everyone
has the right to at least one appeal upon conviction of a felony, but in
reality few criminals avail themselves of this privilege. An appeal is based
on the contention that an error of law was made during the trial process.
Such an error must be reversible as opposed to harmless. An error is
considered harmless if its occurrence had no effect on the outcome of the
trial. A reversible error, however, is a serious one that might have affected
the verdict of the judge or jury. For example, a successful appeal might be
based on the argument that evidence was improperly admitted at trial, that
the judge's instructions to the jury were flawed, or that a guilty plea was
not voluntarily made. However, appeals must be based on questions of
procedure and legal interpretations, not on factual determinations of the
defendant's guilt or innocence as such. Furthermore, under most circumstances
one cannot appeal the length of one's sentence in the United States (as long
as it was in the range prescribed by law).
|
Kháng án
Ở cả cấp độ bang và liên bang, mọi người đều có quyền ít
nhất một lần kháng án đối với việc bị kết án phạm trọng tội, nhưng trên thực
tế rất ít tội phạm hình sự sử dụng đặc quyền này. Việc kháng án dựa trên lý
lẽ cho rằng đã có sai phạm về luật trong quá trình xử án. Một sai phạm như
vậy phải là có thể đảo ngược chứ không phải là vô hại. Một sai phạm được coi
là vô hại nếu việc xảy ra vi phạm không ảnh hưởng lên kết quả của việc xét
xử. Tuy nhiên, một sai phạm có thể đảo ngược là một sai phạm nghiêm trọng mà
có thể tác động lên phán quyết của thẩm phán hay bồi thẩm đoàn. Chẳng hạn,
một sự kháng án thành công có thể dựa trên lập luận rằng bằng chứng được chấp
nhận một cách không hợp lý tại phiên tòa, rằng chỉ dẫn của thẩm phán cho bồi
thẩm đoàn bị bỏ sót, hoặc rằng lời bào chữa có tội không được thực hiện một
cách tự nguyện. Tuy nhiên, việc kháng án phải dựa trên những câu hỏi về thủ
tục và giải thích pháp lý, chứ không dựa trên những phán quyết căn cứ theo sự
thực về sự phạm tội hay vô tội của bị đơn. Hơn nữa, trong hầu hết các trường
hợp, một người không thể kháng cáo thời hạn bản án của mình ở Mỹ (chừng nào
thời hạn đó vẫn nằm trong phạm vi quy định theo pháp luật).
|
Criminal defendants do have some degree of
success on appeal about 20 percent of the time, but this does not mean that
the defendant goes free. The usual practice is for the appellate court to
remand the case (send it back down) to the lower court for a new trial. At
that point the prosecution must determine whether the procedural errors in the
original trial can be overcome in a second trial and whether it is worth the
time and effort to do so. A second trial is not considered double jeopardy,
since the defendant has chosen to appeal the original conviction.
|
Những bị đơn hình sự có mức độ thành công nhất định trong
việc kháng án, khoảng 20%, nhưng điều đó không có nghĩa là bị cáo được thoát
tội. Tập quán thông thường đối với tòa phúc thẩm là gửi trả vụ án (gửi lại vụ
án xuống cấp dưới) cho tòa án cấp thấp hơn để xét xử lại. Khi đó công tố phải
xác định liệu những sai phạm về thủ tục trong lần xét xử đầu tiên có vượt qua
được lần xét xử thứ hai không và liệu có đáng mất thời gian và công sức để
làm điều đó không. Một phiên tòa thứ hai không được coi là tái hình vì bị đơn
đã chọn kháng cáo sự kết tội đầu tiên.
|
The media and others concerned with the law
often call attention to appellate courts that turn loose seemingly guilty
criminals and to convictions that are reversed on technicalities. Surely this
does happen, and one might argue that this is inevitable in a democratic
country whose legal system is based on fair play and the presumption of the
innocence of the accused. However, about 90 percent of all defendants plead
guilty, and this plea virtually excludes the possibility of an appeal. Of the
remaining group, two-thirds are found guilty at trial, and only a small
percentage of these appeal. Of those who do appeal, only about 20 percent
have any measurable degree of success. Of those whose convictions are reversed,
many are found guilty at a subsequent trial. Thus the number of persons
convicted of crimes who are subsequently freed because of reversible court
errors is a small fraction of 1 percent.
|
Truyền thông và các phương tiện thông tin khác liên quan đến
luật pháp thường hướng sự chú ý của công chúng đến các tòa phúc thẩm mà dường
như thả lỏng những tội phạm đã bị kết tội và đến những lời kết án được đảo
ngược về tính chất chuyên môn. Chắc chắn là điều đó sẽ xảy ra, và ta có thể
lập luận rằng điều này là không thể tránh khỏi trong một đất nước dân chủ có
hệ thống pháp luật dựa trên nền tảng hành xử công bằng và giả định về sự vô
tội của bị cáo. Tuy nhiên, khỏa ng 90% số bị đơn bào chữa có tội, và sự bào
chữa này thực sự đã loại trừ khả năng kháng cáo. Trong số những bị đơn còn
lại thì hai phần ba bị kết luận có tội tại phiên tòa xét xử và chỉ một phần
rất nhỏ trong số họ kháng cáo. Trong số những người kháng cáo thì chỉ có 20%
có được một mức độ thà nh công vừa phả i. Trong số những người mà lời kết án dành
cho họ được đảo ngược, có nhiều người bị kết luận có tội tại phiên tòa tiếp
theo. Do đó, số người bị kết án phạm tội mà sau đó được tha tội do những sai
phạm có thể đảo ngược của tòa án chỉ dừng lại ở tỷ lệ nhỏ bé 1% mà thôi.
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn