Special Rapporteur in
the field of cultural rights
|
Báo cáo viên Đặc
biệt về các quyền văn hoá
|
Visit to Viet Nam,
18 - 29 November, 2013 Preliminary conclusions and recommendations
|
Chuyến thăm và làm
việc tại Việt Nam, ngày 18-29/11/2013 Các kết luận và khuyến nghị sơ bộ
|
Farida Shaheed
|
Bà Farida Shaheed
|
|
Hanoi, 29 November 2013.
Members of the press, ladies and gentlemen,
I am very pleased to share with you my preliminary
observations at the end of my 12-day official visit as the UN Special
Rapporteur in the field of cultural rights.
|
Hà Nội, ngày 29 tháng 11 năm 2013.
Thưa báo giới, thưa các quý bà quý ông,
Tôi rất vui mừng được chia sẻ với quý vị kết quả quan sát
sơ bộ của tôi khi kết thúc chuyến thăm chính thức trong 12 ngày với tư cách
là Báo cáo viên Đặc biệt về các quyền văn hoá.
|
Let me begin by warmly thanking the Government of Viet Nam
for inviting me and for their extensive work in facilitating a comprehensive and
interesting programme of work.
|
Tôi xin được bắt đầu bằng lời cảm ơn trân trọng gửi tới
Chính phủ Việt Nam đã mời tôi tới thăm và làm việc chính thức, và cũng cảm ơn
Chính phủ đã nỗ lực rất nhiều trong việc hỗ trợ sắp xếp chương trình làm việc
cũng như bố trí các cuộc họp toàn diện và lý thú.
|
I wish to stress how important this invitation is.
Ensuring the enjoyment of cultural rights by all is a complex issue and not
an easy task to accomplish. This was demonstrated by various topics I have
addressed during my visit: the right to enjoy the arts and to freedom of
artistic expression and creativity, the right of people to manifest their
cultural identity and to access and enjoy their own cultural heritage as well
as that of others, history teaching in schools, and the impact of tourism on
the enjoyment of cultural rights.
|
Tôi xin được nhấn mạnh tầm quan trọng của lời mời này.
Việc đảm bảo quyền thụ hưởng văn hoá của tất cả mọi người là một vấn đề phức
tạp và để hoàn thành nhiệm vụ này là việc không hề dễ dàng. Điều này đã được
minh chứng qua các chủ đề cụ thể tôi đã đề cập đến trong suốt chuyến thăm của
mình, đó là: quyền được thụ hưởng nghệ thuật, tự do sáng tạo và biểuđạt nghệ
thuật, quyền của người dân trong việc thể hiện bản dạng văn hoá của họ, và
quyền tiếp cận và thụ hưởng di sản văn hoá của chính họ cũng như của người
khác, vấn đề về dạy lịch sử trong nhà trường, và tác động của du lịch đối với
việc thụ hưởng các quyền văn hoá.
|
During my stay in Viet Nam, I visited Hanoi, Ho Chi Minh
City, Hoi An and Sa Pa, as well as a few villages in the Da Nang, Quang Nam
and Lao Cai Provinces. I had the opportunity to hold meetings with numerous
Government officials at the national and local levels, responsible in the
areas of culture and tourism, education, information and communication,
ethnic minorities, as well as various officials of People’s committees, the
Central Commission for Propaganda and Education of the Party’s Central
Committee, representatives of the National Assembly and Unions. I also met
with artists, academics, directors and staff working in research institutes
or cultural institutions, representatives of civil society, members of ethnic
communities, people involved in the tourism industry and UN agencies. I would
like to thank them all for their time, warm hospitality, and, above all, the
wealth of information they shared with me.
|
Trong suốt chuyến thăm và làm việc của tôi tại Việt Nam,
tôi đã đi thăm Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hội An, Sa Pa, cũng như một số
làng bản ở Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam và Lào Cai. Tôi đã có cơ hội gặp mặt và
làm việc với nhiều quan chức Chính phủ ở cấp quốc gia và địa phương, phụ
trách các lĩnh vực văn hoá, du lịch, giáo dục, thông tin truyền thông, công
tác dân tộc thiểu số, cũng như rất nhiều quan chức khác của Uỷ ban nhân dân
các cấp, Ban Tuyên Giáo Trung Ương của Uỷ ban Trung ương Đảng, đại biểu quốc
hội và đại diện các hội và hiệp hội. Tôi cũng đã gặp gỡ với các nghệ sĩ, giới
học giả, giám đốc và cán bộ công tác tại các viên nghiên cứu hoặc các thiết
chế văn hoá, đại diện của xã hội dân sự, thành viên của các cộng đồng dân
tộc, những người tham gia trực tiếp vào lĩnh vực du lịch, và các cơ quan của
Liên Hợp Quốc. Tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả các cá nhân và tổ chức đã
dành thời gian gặp mặt, tiếp đón nồng nhiệt, và trên hết là đã nhiệt tình
chia sẻ với tôi rất nhiều thông tin.
|
I wish to clarify that I am an independent expert who
reports to the UN General Assembly and the UN Human Rights Council, to which
Viet Nam was elected this month. Although appointed by the Human Rights
Council, I am not employed by the United Nations and the position I hold is
honorary. My independent status is crucial and enables me to fulfil my
functions impartially.
|
Tôi xin được làm rõ rằng tôi là chuyên gia độc lập thực
hiện báo cáo cho Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc và Hội Đồng Nhân Quyền của Liên
Hợp Quốc mà Việt Nam vừa trúng cử thành viên của Hội đồng ngay trong tháng
này. Mặc dù được Hội Đồng Nhân Quyền bổ nhiệm, nhưng tôi không phải nhân viên
chính thức của Liên Hợp Quốc và vị trí hiện tại của tôi là vị trí danh dự. Tư
cách độc lập của tôi có vai trò rất quan trọng và nó cho phép tôi thực hiện
các chức năng nhiệm vụ của mình một cách trung lập.
|
Today, I will confine myself to a few preliminary remarks
and considerations. I will develop my assessment in a written report, in
which I will also formulate recommendations. I will present this report at
the 25th session of the Human Rights Council in March 2014 in Geneva.
|
Ngày hôm nay, tôi sẽ chỉ đưa ra một số ý kiến ban đầu của
mình. Ngoài ra, tôi sẽ tiếp tục phát triển các ý kiến đánh giá của mình trong
báo cáo chính thức, khi đó tôi mới đưa ra các khuyến nghị cụ thể. Tôi sẽ
trình bày báo cáo này tại kỳ họp lần thứ 25 của Hội Đồng Nhân Quyền vào tháng
3 năm 2014 tại Geneva.
|
Ladies and gentlemen,
At present, Viet Nam finds itself at an important
juncture. Enormous progress has been achieved in the area of economic development,
the reduction of poverty including in remote and rural areas, and the efforts
towards the fulfilment of the Millennium Development Goals have been
impressive. I can testify that in the rural villages I visited, roads had
been or were being built, schools established, and housing facilitated or
repaired.
|
Thưa quý vị,
Việt Nam hiện đang ở một thời khắc quan trọng, tại đó các
bạn đạt được những tiến bộ to lớn về phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo ở
các khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa, và đã có nhiều nỗ lực hướng tới
việc hoàn thành các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Những tiến bộ này là vô cùng ấn
tượng. Tôi có thể lấy dẫn chứng là ở các bản làng nông thôn mà tôi đã đến
thăm, đường xá đã được xây dựng nhiều, trường học được thành lập và nhiều nhà
cửa đã được hỗ trợ hoặc tu sửa.
|
I believe that such programmes would have been even more
efficient had the participation of local communities and the use of their
knowledge, including their traditional knowledge, been ensured. Rigidity in
programming and implementation and top-down approaches negatively impact
effectiveness. For example, in villages regularly flooded by water,
traditional houses are more appropriate than those promoted under
governmental schemes. I appreciate that traditional architecture has been
promoted in building communal houses in the Central Highlands. However, I
encourage the Government, when extending support for housing, to offer people
real choices regarding the architecture, whether traditional or modern, they
want for their own individual houses. More generally, I encourage the
Government to ensure greater flexibility in policies and meaningful
consultations with concerned communities when developing programmes. A
practice needs to be developed whereby people have the space to contribute to
the design of programmes that significantly impact their way of life.
|
Tôi tin rằng các chương trình như vậy sẽ trở nên hiệu quả
hơn nữa nếu sự tham gia của các cộng đồng địa phương và việc sử dụng tri thức
của họ, trong đó có cả tri thức truyền thống, được đảm bảo. Sự cứng nhắc
trong quá trình thiết kế và thực hiện các chương trình, cùng với hướng tiếp
cận từ trên xuống đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của các chương trình
này. Ví dụ, ở các làng, bản thường xuyên bị lũ lụt thì các mô hình nhà truyền
thống của người dân thích hợp với đối phó lũ hơn rất nhiều so với mô hình nhà
mà các chương trình hỗ trợ của chính phủ đang khuyến khích.Tôi đánh giá cao
việc phát huy kiến trúc truyền thống trong việc xây các nhà văn hoá ở khu vực
Tây Nguyên. Tuy nhiên, tôi khuyến khích Chính
phủ nên cho người dân được thực sự lựa chọn mô hình kiến trúc mà họ
muốn, dù là truyền thống hay hiện đại, đối với ngôi nhà riêng của họ, khi
Chính phủ mở rộng các chương trình hỗ trợ về nhà ở. Nói tổng quát hơn, tôi
khuyến khích Chính phủ cần đảm bảo có nhiều sự linh hoạt hơn trong chính sách
và tham vấn thực sự với các cộng đồng có liên quan khi phát triển các chương trình.
Cần xây dựng một mô hình thực hành mới trong đó người dân có được không gian
để đóng góp vào việc thiết kế các chương trình có ảnh hưởng to lớn tới lối
sống của họ.
|
I believe that the Government, as well as multiple actors
in the Vietnamese society, have taken note of possible detrimental impacts of
development programmes on the people’s cultural rights, in particular the
rights of ethnic minorities. The Government should significantly increase its
efforts to map and to mitigate such negative effects so that the country can
fully benefit from the strength of the varied cultures of its peoples to
promote sustainable development.
|
Tôi tin rằng Chính phủ cũng như nhiều bên liên quan khác
trong xã hội Việt Nam đã để ý thấy các chương trình phát triển có thể có tác
động tiêu cực đối với các quyền văn hoá của con người, đặc biệt là các quyền
của các dân tộc thiểu số. Chính phủ cần nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc xác
định và giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực này để cho đất nước được hưởng lợi
đầy đủ từ chính sức mạnh của các nền văn hoá đa dạng của các dân tộc nhằm
thúc đẩy phát triển bền vững.
|
This is particularly relevant with respect to tourism. By
using culture as a resource for development, Viet Nam attracts a steadily
rising number of international visitors as well as internal tourists.
Multiple programmes have been developed to help people of ethnic communities
to sell their crafts and access the markets, as well as to showcase their
traditional cultures through various festivals and performances. This has
allowed communities to participate in the economic development of their
region, and has also enabled the Government to promote a more multi-cultural
image of the country.
|
Điều này có liên quan mật thiết đối với lĩnh vực du lịch.
Với việc sử dụng văn hoá như một nguồn lực để phát triển, Việt Nam đang hấp
dẫn một số lượng ngày càng nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế. Rất
nhiều chương trình đã được phát triển nhằm giúp người dân của các cộng đồng
dân tộc bán được sản phẩm nghề thủ công của họ và tiếp cận được với thị
trường, cũng như biểu diễn minh hoạ văn hoá truyền thống của họ thông qua
nhiều lễ hội và chương trình biểu diễn khác nhau. Điều này đã cho phép các
cộng đồng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế ở khu vực họ sinh sống,
và cũng giúp Chính phủ thúc đẩy hình ảnh về một đất nước đa văn hoá.
|
Many challenges remain, however. As you know, I visited Sa
Pa and its surrounding villages. And there, I could note that, although
tourism has provided a supplementary source of livelihood to local people,
unfortunately they are not the primary beneficiaries of the revenue
generated. Measures are needed to ensure that the people whose cultural
heritage is being used to promote tourism are empowered to manage these
activities to their best advantage.
|
Tuy vậy, nhiều thách thức vẫn còn đó. Như quý vị đã biết,
tôi đã đi thăm Sa Pa và các làng bản xung quanh. Ở đó, tôi có thể thấy rằng,
mặc dù du lịch đã mang lại nguồn sinh kế phụ trợ cho người dân địa phương,
nhưng họ lại không phải là đối tượng hưởng lợi chủ yếu từ nguồn doanh thu
này. Cần có các biện pháp đảm bảo rằng những người dân mà di sản của họ được
đem ra sử dụng để thúc đẩy du lịch, phải được trao quyền để quản lý các hoạt
động này theo hướng có lợi nhất cho họ.
|
In addition, I am particularly, concerned by situations
where people are asked to perform rather than live their own cultures, either
to retain artificially specific aspects of their culture to satisfy the
tourists’ demands, or, conversely, to modify certain aspects of their culture
to satisfy those demands such as modifications of food or accommodation
patterns, or the foreshortening of customs or having tickets for
participation. I am talking for example of the Khmer’s traditional sport of
Bay Nui bull race, in some provinces of Southern Vietnam.
|
Ngoài ra, tôi cũng đặc biệt quan ngại đối với những tình
huống trong đó con người ta được yêu cầu trình diễn chứ không phải thực sống
đời sống văn hoá riêng của họ, hoặc là để lưu giữ một cách mô phỏng một số
khía cạnh cụ thể trong văn hoá của họ để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch,
hoặc, ngược lại, thay đổi một số khía cạnh cụ thể trong văn hoá của họ nhằm
thoả mãn các nhu cầu đó ví dụ như thay đổi truyền thống ăn ở, hay rút ngắn
việc thực hiện một số tập quán, hoặc bán vé cho những người muốn tham gia.
Tôi muốn nói đến ví dụ lễ hội đua bò Bảy Núi truyền thống của người Khmer ở
một số tỉnh miền nam Việt Nam.
|
Another example relates to the Cong drum, which is played
by many communities in the central highlands and is included in the UNESCO
list of intangible cultural heritage. The Cong is considered as a sacred and
precious musical instrument, to be used only on very specific occasions.
However, today it is also being played on demand for tourists in some places,
thus clearly losing its original cultural significance. I strongly believe
that in all such cases, the concerned communities must be consulted on
whether, how, when and where to perform and share aspects of their cultural
heritage.
|
Một ví dụ khác là về Cồng chiêng. Nhiều cộng đồng ở khu
vực miền Trung và Tây Nguyên vẫn đang chơi Cồng chiêng và đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hoá phi vật thể. Cồng chiêng được coi là một nhạc cụ linh
thiêng và quý giá, chỉ được đem ra chơi vào những dịp đặc biệt. Tuy nhiên
ngày nay Cồng chiêng còn được đem ra biểu diễn theo yêu cầu của khách du lịch
ở một số nơi, và rõ ràng điều này đã làm mất đi tầm quan trọng văn hoá ban
đầu của sinh hoạt này. Tôi thực sự thấy rằng trong những trường hợp như vậy,
các cộng đồng có liên quan phải được tham vấn là có nên trình diễn hay không,
như thế nào, bao giờ và ở đâu, và được chia sẻ các khía cạnh có liên quan đến
di sản văn hoá của họ.
|
Of course, it is not possible, or desirable, to prevent
the evolution of cultural practices that inevitably occurs when groups
interact with each other. This can also be quite positive. However, it is the
responsibility of the Government to ensure that tourism does not lead to the
mere folklorization of its peoples’ cultures, meaning reducing people to
certain manifestations of their culture and not acknowledging their humanity.
|
Tất nhiên, khó có thể ngăn cản hoặc thậm chí dù chỉ mong
muốn ngăn cản sự tiến hóa của những thực hành văn hóa đang diễn ra hàng ngày
sống động khi các nhóm có sự giao lưu tương tác với nhau. Điều này có thể là
rất tích cực. Tuy nhiên, Chính phủ có trách nhiệm đảm bảo rằng du lịch không
dẫn đến chỉ còn sân khấu hóa những thực hành văn hóa, còn chủ nhân của văn
hóa chỉ đóng vai văn hóa của mình, hay vắn tắt hóa con người xuống thành một
số hình thức thể hiện văn hóa của họ mà không thừa nhận tính nhân văn trong
đó.
|
It is therefore particularly important to enable
communities to freely develop their cultures, including outside of touristic
areas. The Government should not only support cultural performances and
crafts for tourists, but also develop programmes in cooperation with the
concerned communities including for continuing cultural practices should this
be their wish.
|
Vì thế, rất cần phải để cho các cộng đồng tự do phát triển
văn hóa của họ, ở cả bên ngoài các khu vực phát triển du lịch. Chính phủ nên
hỗ trợ không chỉ các hoạt động biểu diễn văn hóa hay sản phẩm truyền thống
dành cho du khách mà cũng cần cùng với cộng đồng có liên quan, trên cơ sở
nguyện vọng của họ, xây dựng những chương trình để tiếp tục thực hành văn hóa
của họ nếu đó là nguyện vọng của họ.
|
I am also concerned by cases of local or minority
communities whose ways of life and culture have been completely disrupted by
development programmes. For instance, I was informed that the people of the
Con Dau Parish near Da Nang underwent, and are still undergoing, forced
evictions from the land they had traditionally tilled to make way for the
development of a mega private housing scheme. I hope the Government will
intervene in a timely manner to resolve this particular case. More generally,
I encourage the Government to ensure that the collective ownership of land is
recognized for communities wishing to retain and develop their traditional
ways of life, most often based on agriculture, forest husbandry or fishing.
|
Tôi cũng quan ngại trước những trường hợp đời sống và văn hóa
của cộng đồng địa phương hoặc cộng đồng thiểu số đã bị các chương trình phát
triển phá vỡ hoàn toàn. Ví dụ, tôi được biết rằng người dân ở giáo phận Cồn
Dầu ở Đà Nẵng đã và vẫn đang tiếp tục bị cưỡng chế khỏi mảnh đất họ đã sống
lâu đời để dọn đường cho một dự án nhà ở tư nhân lớn. Tôi hy vọng rằng chính
phủ sẽ kịp thời can thiệp để giải quyết trường hợp cụ thể này. Nhìn chung
hơn, tôi khuyến nghị Chính phủ đảm bảo việc công nhận sở hữu tập thể đối với
đất đai cho những cộng đồng có ước muốn giữ và phát triển nếp sống truyền
thống của họ, thường là dựa vào nông nghiệp, vào rừng, chăn nuôi hay đánh cá.
|
Another issue I have discussed at length with governmental
officials relates to the definition of what constitutes bad practices or
customs as well as “superstition”. My understanding is that such terms need
to be clarified as practices contradicting human rights or undermining human
dignity. I also encourage the authorities to identify such practices through
discussions with the concerned communities.
|
Tôi cũng đã thảo luận một vấn đề nữa liên quan đến định
nghĩa thế nào là hủ tục hay tập quán không tốt cũng như “mê tín dị đoan”.
Theo tôi hiểu, những khái niệm này cần được làm rõ như là những thực hành mâu
thuẫn với các quyền con người hay hạ thấp nhân phẩm. Tôi cũng khuyến khích
chính quyền xác định những thực hành này thông qua các cuộc thảo luận với
những cộng đồng liên quan.
|
I would like to welcome positive initiatives put in place
by the Government. These include the work of the Institute of Linguistic to
document and preserve ethnic languages and develop scripts, as well as the
pilot research project conducted with UNICEF to promote bilingual education
for the Hmong, J’rai and Khmer, three of the largest minority groups, at the
pre-school and primary school levels. As research demonstrates, students
benefiting from such programmes have done very well. I strongly encourage the
Government to support the bilingual education project and extend this to
other groups, regions and grades. At the same time, some of my interlocutors
expressed concern regarding the script that is being used for some groups.
Here, again, a positive way forward to address such concerns is to include in
the decision-making process researchers and academics belonging to these
communities.
|
Tôi hoan nghênh những sáng kiến tích cực đã được Chính phủ
thực hiện. Những sáng kiến này bao gồm công việc của Viện Ngôn ngữ học trong
việc tài liệu hóa và bảo tồn các ngôn ngữ dân tộc thiểu số và xây dựng các bộ
chữ viết, cũng như dự án nghiên cứu thí điểm tiến hành cùng UNICEF để thúc
đẩy giáo dục song ngữ cho người H’mong, J’rai và Khmer, ba trong số những
nhóm thiểu số lớn, ở cấp mầm non và tiểu học. Nghiên cứu đã chứng minh, học
sinh được thụ hưởng những chương trình này có kết quả học tập tốt, và tôi
khuyến nghị mạnh mẽ với Chính phủ tiếp tục hỗ trợ dự án giáo dục song ngữ, mở
rộng phạm vi đến các nhóm khác, các khu vực khác và các cấp học khác. Đồng
thời, một số người đã thông tin cho tôi, qua đó bày tỏ quan ngại đối với bộ
chữ đang được áp dụng cho một số nhóm. Ở đây, một lần nữa, cách thức tích cực
để giải quyết những quan ngại đó là mời các nhà nghiên cứu và giới học thuật
của chính những cộng đồng dân cư liên quan tham gia vào quá trình ra quyết
định.
|
Ladies and gentlemen,
One of the key issues for Viet Nam today is the space
available for debate and the expression of a plurality of voices. One
striking example of this, which is of concern to me, relates to history
teaching, as only one history textbook is in use in schools. As stated in my
thematic report on the writing and teaching of history submitted this year the
General Assembly (A/68/296), history teaching should promote critical
thought, analytic learning and debate, enabling a comparative and
multi-perspective approach rather than moulding children into a
unidimensional perspective. This entails in particular the use of a wide
array of teaching materials, including textbooks from a range of publishers.
I encourage relevant actors in Viet Nam to look at my report.
|
Thưa quý bà, quý ông,
Một trong những vấn đề then chốt với Việt Nam ngày nay là
có một không gian cho các cuộc tranh luận và biểu đạt những quan điểm đa
nguyên. Một ví dụ rõ ràng liên quan đến vấn đề này, mà tôi rất quan tâm, là
việc dạy môn lịch sử với chỉ một bộ sách giáo khoa trong các nhà trường. Như
đã đề cập trong báo cáo chuyên đề của tôi về viết sách sử và dạy sử trước Đại
Hội Đồng Liên Hợp Quốc năm nay (A/68/296), việc dạy sử nên khuyến khích tư
duy phê phán, học tập từ phân tích và tranh luận, và tạo cách tiếp cận so
sánh và đa chiều hơn là ấn trẻ em vào quan điểm đơn chiều. Cách tiếp cận này
đặc biệt cần sử dụng rộng rãi nhiều loại học liệu, bao gồm nhiều loại sách
giáo khoa của nhiều nhà xuất bản. Tôi khuyến khích nhiều bên liên quan ở Việt
Nam tham khảo báo cáo này của tôi.
|
I am encouraged that the Government and civil society are
currently trying to re-define the contours of the space available for a
diversity of voices to be articulated. I strongly encourage the Government to
widen that space, in accordance with its own constitution and international
standards. The political and governmental structure in Viet Nam, together
with various Unions, which act mainly as vehicles for transmitting the
government’s decisions, currently leaves little space for civil society to
express itself, in particular when it comes to academics, artists and others
who may be critical of the Government’s policies.
|
Tôi có ấn tượng tích cực rằng Chính phủ và xã hội dân sự
hiện nay đang nỗ lực định nghĩa lại biên độ không gian cho những tiếng nói đa
dạng có thể cất lên. Tôi khuyến nghị mạnh mẽ với Chính phủ mở rộng hơn không
gian ấy, trên cơ sở Hiến pháp của các bạn cũng như các tiêu chuẩn quốc tế. Cơ
chế chính trị và cấu trúc của chính quyền hiện nay ở Việt Nam, cùng với rất
nhiều các hội đoàn đang hoạt động chủ yếu như các phương tiện truyền đạt
những quyết định của chính phủ, để lại không gian rất nhỏ bé cho xã hội dân
sự tự biểu đạt mình, đặc biệt với những người làm công tác nghiên cứu hay các
nghệ sỹ và những người khác có thể có tư duy phê phán đối với những chính
sách của Chính phủ.
|
It is time for Viet Nam to ensure greater freedom of
artistic expression as well as academic freedoms, and to allow a multi voice
narrative to find its place. The absence of private publishing houses greatly
reduces the scope for independent voices to be heard. The constitution provides for fundamental rights but it is often very
difficult to enjoy these due to multiple regulations and the lack of clearly
defined specifications of what is acceptable or not acceptable. It is
unfortunate that judicial processes have not helped to clarify the parameters
of specific laws.
|
Đã đến lúc Việt Nam đảm bảo tự do nhiều hơn cho các biểu
đạt nghệ thuật cũng như cho các tự do học thuật, và cho phép những tiếng nói
đa dạng tìm được chỗ đứng của mình. Sự thiếu vắng các nhà xuất bản tư nhân đã
làm giảm đáng kể phạm vi cất lên của những tiếng nói độc lập có thể được nghe
thấy. Hiến pháp quy định những quyền
cơ bản, nhưng thường rất khó có thể thụ hưởng những quyền này do rất nhiều
các quy định và sự thiếu rõ ràng cụ thể trong quy định việc nào là chấp nhận
được, việc nào là không. Không may
là các quy trình tư pháp vẫn chưa giúp làm rõ những thước đo rõ ràng của các
luật cụ thể.
|
Ladies and gentlemen,
Artists may entertain people, but they also contribute to
social debates, sometimes bringing counter-discourses. While I am happy to
note that a number of interlocutors stated they had noticed an increased
space for self-expression, I am deeply concerned that a number of artists
have been under surveillance, harassed, or detained. In my discussions with
the authorities for example, I have raised the case of some artists who have
been convicted under article 88 of the Criminal Code for “conducting propaganda
against the Socialist Republic of Viet Nam”. I would like to emphasize that
artistic expressions are an integral part of cultural life and are at the
heart of vibrant cultures and the functioning of democratic societies.
Therefore, I sincerely hope that the Government will review its policy to
ensure greater freedom of artistic expression and creativity, in accordance
with international standards.
|
Thưa các quý bà và quý ông,
Các nghệ sỹ có thể giải trí cho người dân, nhưng họ cũng
có thể đóng góp vào những tranh luận xã hội, đôi khi đưa ra những diễn ngôn
đối lập. Trong lúc tôi rất vui vì một số người cung cấp thông tin cho tôi nói
rằng họ đã thấy một không gian mở hơn để tự biểu đạt, tôi cũng quan ngại sâu
sắc trước tình trạng một số nghệ sỹ đã bị tầm soát, sách nhiễu, hoặc bị giam
giữ. Trong các cuộc thảo luận của tôi với chính quyền, ví dụ, tôi đã nêu ra
những trường hợp bị kết tội theo điều 88 Bộ luật Hình sự do “tiến hành tuyên
truyền chống lại Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Tôi muốn nhấn
mạnh rằng những biểu đạt nghệ thuật là một phần không thể tách rời của đời
sống văn hóa và là trái tim của những nền văn hóa sinh động cũng như trong
hoạt động của một xã hội dân chủ. Vì thế, tôi chân thành hy vọng rằng Chính
phủ sẽ xem xét lại chính sách của mình để đảm bảo tự do hơn cho các biểu đạt
nghệ thuật và sáng tạo, tuân theo những tiêu chuẩn quốc tế.
|
I am extremely grateful to the Government of Viet Nam for
inviting me to visit, enabling me to deepen my understanding of these very
sensitive but important issues. The Government’s invitation confirms how
seriously it is taking issues relating to the enjoyment of cultural rights. I
know how difficult this is, in particular when the challenge is for the
Government to ensure that the “unity” it promotes is based on the diverse
opinions, expressions and cultures of the people.
|
Tôi vô cùng biết ơn Chính phủ Việt Nam đã mời tôi tiến
hành chuyến thăm này, cho phép tôi được hiểu sâu thêm những vấn đề hết sức
nhạy cảm mà quan trọng. Lời mời của Chính phủ đã khẳng định việc Chính phủ
thực sự coi trọng những vấn đề liên quan đến thụ hưởng các quyền văn hóa. Tôi
hiểu rằng điều này thật sự rất khó khăn, đặc biệt thách thức với Chính phủ để
đảm bảo “sự đồng thuận” mà Chính phủ khuyến khích dựa trên những quan điểm,
biểu đạt và văn hóa đa dạng của người dân.
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn