|
Soft Power: The
Means to Succeed in World Politics - P2
|
Quyền lực mềm:
Phương tiện để thành công trong chính trị thế giới – P2
|
CHAPTER TWO: SOURCES OF AMERICAN SOFT POWER
|
CHƯƠNG 2: CÁC NGUỒN
SỨC MẠNH MỀM CỦA NƯỚC MỸ
|
THE UNITED STATES has many resources that can potentially
provide soft power, particularly when one considers the ways in which
economic prowess contributes not only to wealth but also to reputation and attractiveness.
Not only is America the world's largest economy, but nearly half of the top
500 global companies are American, five times as many as next-ranked Japan.[1]
Sixty-two of the top 100 global brands are American, as well as eight of the top
ten business schools.[2] Social indices show a similar pattern. Consider the
following:
|
Nước Mỹ có nhiều nguồn lực có tiềm năng mang lại sức mạnh
mềm, đặc biệt khi chúng ta xem xét những cách thức ưu thế về kinh tế dẫn tới
sự thịnh vượng cũng như danh tiếng và sức cuốn hút. Mỹ không chỉ là nền kinh
tế lớn nhất thế giới mà phân nửa 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới
cũng đến từ Mỹ, nhiều gấp năm lần quốc gia xếp thứ hai là Nhật.[1] Sáu mươi
hai trong số 100 thương hiệu toàn cầu là của các công ty Mỹ, và nước này cũng
có 8 trong số 10 trường kinh doanh hàng đầu thế giới.[2] Các chỉ số về mặt xã
hội cũng cho thấy điều tương tự. Ví dụ như:
|
● The United States attracts nearly six times the inflow
of foreign immigrants as second-ranked Germany.[3]
● The United States is far and away the world's number one
exporter of films and television programs, although India's
"Bollywood" actually produces more movies per year.[4]
● Of the 1.6 million students enrolled in universities
outside their own countries, 28 percent are in the United States, compared to
the 14 percent who study in Britain’.[5]
● More than 86,000 foreign scholars were in residence at
American educational institutions in 2002.[6]
|
-Mỹ thu hút số người nhập cư nước ngoài gấp gần sáu lần Đức,
quốc gia đứng thứ hai.[3]
-Mỹ là quốc gia hàng đầu vượt trội về xuất khẩu phim và
các chương trình truyền hình, mặc dù trên thực tế “Bollywood” của Ấn Độ hàng
năm sản xuất nhiều phim hơn.[4]
-Trong số1,6 triệu sinh viên trên thế giới du học nước
ngoài có tới 28% nhập học ở các trường đại học Mỹ, so với 14 % theo học ở Anh.[5]
-Hơn 86.000 học giả nước ngoài làm việc ở các cơ sở giáo
dục Mỹ vào năm 2002.[6]
|
Other measures show that the United States ...
●…publishes more books than any other country.
●…has more than twice as many music sales as next-ranked
Japan.
●…has more than 13 times as many Internet website hosts as
Japan.
●…ranks first in Nobel prizes for physics, chemistry, and
economics.
●…places a close second to France for Nobel prizes in
literature.
●…publishes nearly four times as many scientific and
journal articles as the next runner-up, Japan. [7]
|
Các thống kê khác cho thấy Mỹ:
-Xuất bản nhiều sách hơn bất cứ quốc gia nào khác.
-Có doanh số bán các sản phẩm âm nhạc cao hơn gấp hai lần
so với nước đứng kế tiếp là Nhật Bản.
-Có số máy chủ internet nhiều gấp 13 lần so với Nhật Bản
-Xếp số một về số giải Nobel vật lý, hóa học và kinh tế.
-Xếp thứ hai ngay sau Pháp về số giải Nobel văn học.
-Công bố số bài báo tạp chí và nghiên cứu khoa học nhiều
gấp gần 4 lần so với nước đứng thứ hai là Nhật Bản.[7]
|
Of course, the United States does not rank at the top in
all measures of potential attraction. According to the 2003 United Nations
Development Program's quality-of-life index (which takes into account not
only income but also education, health care, and life expectancy), Norway, Iceland,
Sweden, Australia, the Netherlands, and Belgium rank ahead of the United
States as the best countries in which to live.[8] Japan outranks the U.S. in the
number of patents granted to residents and the percentage of GNP it spends on
research and development. Britain and Germany rank ahead as havens for asylum
seekers. France and Spain attract more tourists than the United States (though
the U.S. ranks higher in revenues from tourism). When it comes to "unattractive
indicators," the United States ranks near the bottom of the list of rich
countries in the level of development assistance it gives, but at the top in the
percentage of its population that is incarcerated.[9]
|
Đương nhiên Mỹ không xếp hàng đầu trong tất cả các lĩnh
vực có thể tạo nên sự hấp dẫn đối với người dân. Theo chỉ số chất lượng sống
năm 2003 của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) (được tính dựa trên
không những thu nhập mà còn giáo dục, y tế và tuổi thọ), Na Uy, Iceland, Thụy
Điển, Australia, Hà Lan và Bỉ xếp trên Mỹ với tư cách là những quốc gia có
cuộc sống tốt nhất.[8] Nhật xếp trên Mỹ về số bằng sáng chế cấp cho người dân
sống ở Nhật và tỉ lệ GNP dành cho nghiên cứu và phát triển. Anh và Đức cũng
xếp hạng cao hơn Mỹ về tiếp nhận người tị nạn. Pháp và Tây Ban Nha cũng thu
hút nhiều khách du lịch hơn Mỹ (dù Mỹ xếp cao hơn về doanh thu từ du lịch).
Còn nếu xét về các “chỉ số kém hấp dẫn” thì Mỹ lại đứng ở những hàng cuối
trong danh sách các nước giàu cung cấp viện trợ phát triển, nhưng lại xếp
hàng cao nhất về tỉ lệ dân số bị bỏ tù.[9]
|
Even more important for power than some high unattractiveness
ratings is the fact that, as we saw in the previous chapter, potential power
resources do not always translate into realized power in the sense of achieving
desired outcomes. For that to happen, the objective measure of potential soft
power has to be attractive in the eyes of specific audiences, and that
attraction must influence policy
outcomes. In this chapter we shall look at several
examples of how such attraction has affected important policy outcomes. But
first, let's look at some causes of change in the attractiveness of the
United States and how that can affect policy outcomes.
|
Đối với quyền lực, chuyện một vài chỉ số kém hấp dẫn cao
cũng không quan trọng bằng thực tế là, như chúng ta đã thấy ở chương trước,
các tài nguyên quyền lực tiềm tàng không phải luôn có thể chuyển hóa được
thành quyền lực thực tế xét trên phương diện đạt được mục tiêu mong muốn.Để đạt
được mục tiêu mong muốn, các chỉ số khách quan về sức mạnh mềm tiềm năng phải
hấp dẫn trong mắt công chúng và sự hấp dẫn đó phải ảnh hưởng tới các kết quả của
chính sách. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét một số ví dụ về cách thức sự
hấp dẫn như vậy đã tác động tới các kết quả chính sách quan trọng như thế nào.
Nhưng trước tiên chúng ta hãy xem xét một số nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi
trong sự hấp dẫn của nước Mỹ và việc điều này đã tác động tới các kết quả chính
sách như thế nào.
|
THE RISE AND FALL OF
ANTI-AMERICANISM
Despite its impressive resources, the attractiveness of
the United States declined quite sharply in 2003. In the run-up to the Iraq
War, polls showed that the United States lost an average of 30 points of
support in most European countries. Levels of support were even lower in Islamic
countries. After the war, majorities of the people held unfavorable images of
the United States in nearly two-thirds of 19 countries surveyed. Most of
those who held negative views said they blamed the policies of the Bush administration
rather than America in general.[10]
|
SỰ THĂNG TRẦM CỦA
CHỦ NGHĨA BÀI MỸ
Bất chấp những nguồn lực ấn tượng, sự hấp dẫn của nước Mỹ
đã giảm sút khá mạnh vào năm 2003. Trong giai đoạn chuẩn bị cho cuộc chiến
tranh Iraq, các thăm dò dư luận cho thấy Mỹ mất trung bình 30 điểm ủng hộ ở các
nước Châu Âu. Mức độ ủng hộ thậm chí còn thấp hơn ở các nước Hồi giáo. Sau
chiến tranh, phần lớn người dân có ấn tượng không tốt về Mỹ ở gần hai phần ba
trong số 19 quốc gia được điều tra. Phần lớn những người có quan điểm tiêu
cực về Mỹ nói rằng thực tế này bắt nguồn từ các chính sách của chính quyền
Bush hơn là do nước Mỹ nói chung.[10]
|
Opposition to American policies is not the same as general
opposition to the United States. Reactions to policies are more volatile than
underlying reactions to culture and values. The image or attractiveness of a country
is composed of foreigners' attitudes on a variety of levels and types, of
which reactions to American policy constitute only one.
|
Sự chống đối các chính sách của Mỹ không giống với sự chống
đối nước Mỹ nói chung. Các phản ứng đối với các chính sách thường dễ thay đổi
hơn so với các phản ứng ngấm ngầm đối với văn hóa và các giá trị. Hình ảnh
hay sự hấp dẫn của một quốc gia bao gồm thái độ của người nước ngoài trên
nhiều cấp độ và dưới nhiều dạng thức, trong đó các phản ứng đối với chính
sách của Mỹ chỉ à một trong số các yếu tố đó.
|
Figure 2.1, which is based on the results of a 2002 poll
of 43 countries, indicates the extent to which the United States is admired
for its technological and scientific advances as well as its music, movies,
and television. At the same time, majorities in 34 of those 43 countries said
they disliked the growing influence of America in their country.[11]
|
Hình 2.1 dựa trên kết quả của các cuộc thăm dò dư luận năm
2002 ở 43 quốc gia cho thấy mức độ nước Mỹ được ngưỡng mộ về các tiến bộ khoa
học và công nghệ cũng như về âm nhạc, điện ảnh và truyền hình. Cùng lúcđó,
phần lớn người được khảo sát ở 34 trong số 43 quốc gia nói rằng họ không
thích sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ ở đất nước họ.[11]
|
Admire U.S.
for tech., sci.
advances
|
Like American
music,
movies, TV
|
Like American
ideas about
democracy
|
Like American
way of doing
business
|
Good that
American ideas/
customs spread
|
Ngưỡng mộ tiến bộ KHKT của Mỹ
|
Thích nhạc,điện ảnh, truyền hình
Mỹ
|
Thích các ý tưởng Mỹ về dân chủ
|
Thích cách làm kinh doanh của Mỹ
|
Thích phổbiến các lýtưởng, tập
quán Mỹ
|
|
Figure 2.1 Dimensions of American Attractiveness
Source: Pew Global
Attitudes Project, What the World Thinks in 2002. Median measures of 43
countries surveyed
|
Hình 2.1. Các khía
cạnh hấp dẫn của Mỹ
Nguồn: Pew Global
Attitudes Project, What the World Thinks in 2002 (Mức trung bìnhở 43 quốc gia
được khảo sát)
|
|
The Iraq War was not the first time that a controversial
security policy reduced the attractiveness of the American image in other
countries. There have been four prior periods when U.S. attractiveness was reduced
in Europe: after the 1956 Suez Canal crisis; during the "ban the bomb"
movement of the late fifties and early sixties (though this was primarily in
Britain and France, not in Germany and Italy); during the Vietnam War era in
the late sixties and early seventies; and during the deployment of intermediate-range
nuclear weapons in Germany in the early eighties.
|
Chiến tranh Iraq không phải là lần đầu tiên một chính sách
an ninh gây tranh cãi làm giảm sự hấp dẫn của hình ảnh nước Mỹ ở các quốc gia
khác. Có bốn thời kỳ trước đây sức hấp dẫn của Mỹ đã bị giảm sút ở Châu Âu: sau
vụ khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956; trong suốt phong trào “chống bom
nguyên tử” những năm cuối thập kỷ 1950 và đầu những năm 1960 (dù chủ yếu ở Anh
và Pháp chứ không phải ở Đức và Italia); trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam
những năm cuối thập kỷ 1960 và đầu những năm 1970; và trong thời kỳ triển
khai cácvũ khí hạt nhân tầm trung ở Đức những năm đầu thập kỷ 1980.
|
The Vietnam War was broadly opposed in Britain, France,
Germany, and Italy. Although there was a decline in the overall popularity of
the United States from 1965 to 1972 (by about 23 points in Britain, 32 in
Germany, 19 in Italy, 7 in France), majorities in all but France continued to
express positive opinions of the United States throughout the major
operations of the war and right up to the Paris Peace Talks of 1972.12
Nevertheless, the slide in popularity did have effects on the ability of the
American government to achieve its desired policy outcomes. Loss of
attractiveness hindered President Lyndon Johnson's efforts to obtain support
from other countries for the war in Vietnam, and the drop in soft power hurt
other policies as well. In France, for example, Vietnam "contributed to the
popular support that sustained de Gaulle's increasingly anti-NATO and anti U.S.
stance."[13]
|
Chiến tranh Việt Nam bị phản đối rộng rãi ở Anh, Pháp, Đức
và Italia. Mặc dù có sự giảm sút về mực độ hấp dẫn nói chung của Mỹ từ năm
1965 đến 1972 (với mức khoảng 23 điểm ở Anh, 32 điểm ở Đức, 19 điểm ở Italia
và 7 điểm ở Pháp), phần lớn người dân ở tất cả các quốc gia trừ Pháp đều tiếp
tục thể hiện quan điểm tích cực về Mỹ trong suốt các chiến dịch lớn của cuộc
chiến cho tới vòng đàm phán hòa bình Paris năm 1972.[12] Tuy nhiên sự giảm
sút về mức độ ủng hộ đã có những tác động đối với khả năng của chính phủ Mỹ trong
việc đạt được các kết quả chính sách mong muốn. Sự giảm sút tính hấp dẫn đã
cản trở nỗ lực của Tổng thống Lyndon Johnson trong việc giành được sự ủng hộ từ
các quốc gia khác đối với cuộc chiến ở Việt Nam và sự giảm sút sức mạnh mềm
cũng đã gây ảnh hưởng tới các chính sách khác. Ví dụ, ở Pháp Việt Nam “góp
phần làm tăng sự ủng hộ giúp duy trì lập trường ngày càng chống NATO và chống
Mỹ của De Gaulle.”[13]
|
|
|
|
Figure 2.2 Percentage
of Western Europeans Who Say They Have a Very or Somewhat Favorable Opinion of
the United States, 1982 to 2003
|
Hình 2.2 Tỷ lệ người
Tây Âu có ý kiến ủng hộ Mỹ, giai đoạn 1982 đến 2003
|
|
In the early 1980s, the nuclear weapons policies of the
first Reagan Administration aroused considerable concern. In a 1983 Newsweek
poll, pluralities of around 40 percent of the people polled in France,
Britain, Germany, and Japan disapproved of American policies. At the same
time, majorities in all those countries approved of the American people,[14]
President Reagan was able to get European agreement for deployment of intermediate-range
nuclear forces, but there was considerable European resistance to his policy
efforts to isolate the Soviet Union economically. Figure 2.2 indicates how
over the years the attractiveness of the United States has varied. Unpopular
policies are the most volatile element of the overall image, and there seems
to be more stability in the reservoir of goodwill that rests on culture and
values.
|
Vào đầu thập kỷ 1980, chính sách vũ khí hạt nhân của chính
quyền Reagan nhiệm kỳ đầu đã làm dấy lên nhiều mối quan ngại. Trong một cuộc
thăm dò dư luận của tạp chí Newsweek năm 1983, khoảng 40% số người được hỏi
tại Pháp, Anh, Đức và Nhật phản đối chính sách của Mỹ. Cùng lúc đó, đa số người
dân ở những nước này lại có cảm tình với người dân Mỹ.[14] Tổng thống Reagan đáng
ra đã có thể nhận được sự đồng ý của Châu Âu trong việc triển khai các lực
lượng hạt nhân tầm trung nhưng Châu Âu cuối cùng đã chống đối ra mặt các
chính sách của Reagan nhằm cô lập Liên Xô về mặt kinh tế. Hình 2.2 cho thấy
mức độ hấp dẫn của Mỹ đã biến đổi như thế nào qua từng năm. Những chính sách
không phù hợp là yếu tố biến đổi nhiều nhất trong bức tranh chung, và yếu tố ổn
định hơn dường như là thiện chí dành cho văn hóa và các giá trị Mỹ.
|
Nonetheless, there has also been anti-Americanism in the
sense of a deeper rejection of American society, values, and culture. It has
long been a minor but persistent strand in the image, and it goes back to the
earliest days of the republic, when Europeans turned America into a symbol in
their own internal culture wars. Already in the eighteenth century, some
Europeans were absurdly arguing that the excessive humidity in the New World
led to degenerate forms of life.[15] Although some nineteenth-century
Europeans saw America as a symbol of freedom, others, such as the author
Charles Dickens, saw only "a clamorous gang of fakes, fools, and tricksters."[16]
In the early twentieth century, even as sensitive a writer as Virginia Woolf
treated America with a mixture of disdain and disinterest. For many on the
European Left, America was a symbol of capitalist exploitation of the working
class, while those on the right saw it as degenerate because of its racial
impurity.[17]
|
Tuy nhiên chủ nghĩa bài Mỹ vẫn tồn tại theo nghĩa chối bỏ mạnh
mẽ xã hội, các giá trị và văn hóa Mỹ. Đó là một xu hướng không mạnh nhưng tồn
tại dai dẳng trong bức tranh chung, và điều này bắt nguồn từ những ngày đầu
tiên của nước Mỹ khi người Châu Âu đã biến Mỹ thành một biểu tượng trong các
cuộc chiến tranh văn hóa nội bộ của mình. Ngay từ thế kỷ18, một số người Châu
Âu đã lập luận một cách kỳ cục rằng độ ẩm quá cao ở Tân Thế giới đã khiến cho
cuộc sống ở đó tồi tệ và khó khăn.[15] Mặc dù một số người Châu Âu ở thếkỷ 18
coi Mỹ là biểu tượng của tự do nhưng nhiều người khác như nhà văn Charles
Dickens lại chỉ coi Mỹ là nơi tập trung “một lũ ồn ào bát nháo, những kẻ giả dối,
xuẩn ngốc và đầy mánh khóe.”[16] Vào đầu thế kỷ 20, ngay cả những nhà văn
nhạy cảm như Virginia Woolf cũng coi Mỹ là nơi pha trộn của những gì đáng
khinh và nhàm chán. Đối với nhiều người cánh tả Châu Âu, Mỹ là biểu tượng bóc
lột giai cấp lao động của chủ nghĩa tư bản, trong khi cánh hữu thì coi Mỹ là
nơi xấu xa do sự không thuần khiết về chủng tộc.[17]
|
Some conservatives disliked the egalitarian nature of
American popular culture. In 1931, a former viceroy of India complained to
Conservative MPs that Hollywood had helped to shatter "the white man's prestige
in the East," and Belgium banned Africans in its colony the Congo from attending
American films.[18] Even today, as the London-based Economist points out,
anti-Americanism is partly a class issue: "Poorer and less-educated
Britons like America a lot more than their richer compatriots .... Upper
class anti-Americanism may be surrogate snobbery."[19] Intellectual snobbery
should be added to the list. European elites have always grumbled about
America's lack of sophistication, but polls show that America's pop culture
resonates widely with the majority of the people across the continent.
|
Một số người theo quan điểm bảo thủ không thích tính bình
đẳng của văn hóa đại chúng Mỹ. Năm 1931, một vị toàn quyền ở Ấn Độ đã phàn
nàn với các nghị sĩ phe bảo thủ rằng Hollywood góp phần phá nát “hình ảnh của
người da trắng ở phương Đông,” và Bỉ đã cấm người dân Châu Phi ở xứ thuộc địa
Congo của mình không được xem phim Mỹ.[18] Tờ tạp chí The Economist có trụ sở
đặt ở Luân Đôn thậm chí còn chỉ ra rằng ngày nay chủ nghĩa bài Mỹ là một phần
của vấn đề giai cấp: “Những người Anh nghèo và ít học yêu thích nước Mỹ hơn
so với những người Anh giàu có… Chủ nghĩa bài Mỹ của giới thượng lưu cũng
giống như thói trưởng giả học làm sang.”[19] Thói trưởng giả của giới trí
thức cũng có thể được thêm vào danh sách này. Giới tinh hoa của Châu Âu luôn
chê bai nước Mỹ vì thiếu chiều sâu và sự tinh tế, tuy nhiên các thăm dò dư
luận cho thấy nền văn hóa đại chúng của Mỹ lại được đông đảo người dân trên
khắp thế giới đón nhận.
|
Another source of anti-Americanism is structural. The
United States is the big kid on the block and the disproportion in power engenders
a mixture of admiration, envy, and resentment. Indeed, as the United States
emerged as a global power at the beginning of the twentieth century, a
British author, W T Stead, had already written a book called The
Americanization of the World, published in 1902. Similarly, in the mid-1970s
majorities across Western Europe told pollsters they preferred an equal
distribution of power between the United States and the USSR rather than U.S.
dominance.[20] But those who dismiss the recent rise of anti-Americanism as simply
the inevitable result of size are mistaken in thinking nothing can be done
about it.
|
Chủ nghĩa bài Mỹ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân mang tính
cấu trúc. Mỹ là một siêu cường và sự chênh lệch về sức mạnh của Mỹ với các
nước khác tạo ra một tình cảm pha trộn giữa sự ngưỡng mộ, ghen tị và giận dữ.
Thực tế khi Mỹ nổi lên thành một siêu cường toàn cầu vào đầu thế kỷ 20, nhà
văn Anh W. T. Stead đã viết một cuốn sách có tựa đề “Sự Mỹ hóa của thế giới”
xuất bản năm 1902. Tương tự, vào giữa những năm 1970, đa số người dân ở Tây
Âu cho rằng họ muốn thấy sự phân bổ quyền lực cân bằng giữa Mỹ và Liên Xô hơn
là sự áp đảo hoàn toàn của Mỹ.[20] Nhưng những người coi sự trỗi dậy của chủ
nghĩa bài Mỹ thời gian gần đây là điều không thể tránh khỏi đơn giản vì Mỹ
quá mạnh đã sai lầm khi cho rằng Mỹ không thể làm được gì để khắc phục tình
trạng này.
|
Policies can soften or sharpen hard structural edges, and they
can affect the ratio of love to hate in complex love-hate relationships. The
United States was even more preeminent than now at the end of World War II,
when it represented more than a third of the world economy and was the only
country with nuclear weapons, but it pursued policies that were acclaimed by
allied countries. Similarly, American leadership was welcome to many even
when the end of the Cold War meant there was no longer any country that could
balance American power. For example, the Yugoslav intellectual Milovan Djilas
argued in 1992 that if the power of the U.S. weakened, "then the way is open
to everything bad." And on the other side of the world, in 1990, Naohiro
Amaya, a high official in a then-buoyant Japan, said, "Whether we like it
or not, there will be no free world and no free trading system if the U.S.
does not preserve them for us. The best Japan can aspire to is 'vice
president.’”[21] Size may create a love-hate relationship, but since in
recent decades size is a constant, it cannot explain why anti-Americanism is higher
or lower at some times than at others.
|
Các chính sách có thể làm mềm hoặc mài sắc các góc cạnh
của cấu trúc quyền lực và chúng cũng có thể tác động tới tỉ lệ yêu và ghét
trong mối quan hệ phức tạp yêu-ghét. Mỹ giờ đây thậm chí còn mạnh hơn so với
lúc kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi mà Mỹ chiếm tới hơn một
phần ba sản lượng kinh tế thế giới và là nước duy nhất sở hữu vũ khí hạt nhân
nhưng theo đuổi các chính sách được các nước đồng minh hoan nghênh. Tương tự,
việc vai trò lãnh đạo của Mỹ được nhiều nước chào đón ngay cả sau khi Chiến
tranh lạnh kết thúc cho thấy không còn nước nào có thể cân bằng lại quyền lực
của Mỹ. Ví dụ, một nhà trí thức người Nam Tư tên là Milovan Djilas đã lập
luận vào năm 1992 rằng nếu quyền lực của Mỹ suy yếu “thì sẽ mở lối cho những
điều tồi tệ bắt đầu.” Năm 1990, Naohiro Amaya, một quan chức cấp cao của Nhật
thời kỳ Nhật đang nổi lên đã nói rằng “Dù chúng ta có thích hay không thì sẽ
không tồn tại một thế giới tự do và một hệ thống thương mại tự do nếu như Mỹ
không giúp bảo tồn chúng cho chúng ta. Vị trí tốt nhất mà Nhật có thể hướng
tới là vai trò ‘phó tổng thống’ cho Mỹ.”[21] Sức mạnh quá lớn của Mỹ có thể
tạo ra tình cảm yêu ghét lẫn lộn nhưng trong những thập kỷ vừa qua sức mạnh
của Mỹ hầu như không đổi, vì vậy khó có thể giải thích tại sao chủ nghĩa bài
Mỹ lại tăng hay giảm vào lúc này hay lúc khác.
|
In addition to its size, the United States has long stood for
modernity, which some people regard as threatening to their cultures. In the
nineteenth century, Europeans on the Right who resisted industrial society
and those on the Left who wanted to reshape it pointed with fear or scorn at
America. A similar phenomenon is true today with the growth of globalization.
In some areas, there is not only a resentment of American cultural imports,
but also of American culture itself. Polls in 2002 found that majorities in 34
of 43 countries agreed with the statement "It's bad that American ideas
and customs are spreading here."[22]
|
Bên cạnh quyền lực vượt trội, Mỹ từ lâu còn đồng nghĩa với
sự hiện đại, điều mà nhiều người thường coi là mối đe dọa đối với nền văn hóa
của họ. Vào thế kỷ 19, những người Châu Âu cánh tả chống đối xã hội công
nghiệp và những người phái hữu muốn định hình lại xã hội đó đã nhìn nước Mỹ
với ánh mắt sợ hãi hoặc khinh miệt. Một hiện tượng tương tự ngày nay vẫn diễn
ra trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa đang gia tăng. Ở một số khu vực
không những chỉ tồn tại sự giận dữ đối với các ảnh hưởng văn hóa nhập khẩu từ
Mỹ mà còn đối với ngay chính cả nền văn hóa Mỹ. Các cuộc thăm dò dư luận năm
2002 cho thấy đa số người dân ở 34 trong tổng số 43 quốc gia đồng ý với nhận
định cho rằng “Các tư tưởng và tập quán của Mỹ được phổ biến ở nước họ là
điều không tốt.”[22]
|
It is probably inevitable that those who resent American
power and the cultural impact of economic globalization confuse the two and
use nationalism to resist both. Jose Bove, a French sheep farmer, earned fame
by destroying a McDonald's restaurant in his local region in France.[23] No
one forces people to eat at McDonald's, but Boves ability to attract global
media attention reflects the cultural ambivalence toward things American. As
Iran's president complained in 1999, "The new world order and globalization
that certain powers are trying to make us accept, in which the culture of the
entire world is ignored, looks like a kind of neocolonialism."[24] A
writer for the German magazine Der Spiegel commented that it is time to fight
back "before the entire world wears a Made in USA label."[25]
|
Một điều hầu như rõ ràng là những người bất bình trước sức
mạnh của Mỹ và tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối với văn hóa đã lẫn lộn
giữa hai vấn đề và đã vận dụng chủ nghĩa dân tộc để chống đối lại cả hai.
Jose Bové, một nông dân nuôi cừu người Pháp, đã trở nên nổi tiếng sau khi phá
hủy một nhà hàng McDonald’s ở một vùng nước Pháp nơi anh ta sinh sống.[23]
Không ai ép ai dùng bữa tại McDonald’s nhưng khả năng thu hút sự chú ý của
làng báo chí toàn cầu mà hành động của Bové có được cho thấy những dao động
văn hóa đối với những gì thuộc về nước Mỹ. Như tổng thống Iran đã phàn nàn
vào năm 1999 rằng “Trật tự thế giới mới và toàn cầu hóa mà một số cường quốc
đang buộc chúng ta phải chấp nhận giống như một thứ chủ nghĩa thực dân mới,
trong đó nền văn hóa của toàn thế giới đã không được đếm xỉa đến.”[24] Một
nhà văn viết cho tờ Der Spiegel của Đức đã bình luận rằng đã đến lúc phải
chống trả “trước khi toàn bộ thế giới được dán mác ‘Made in USA.’”[25]
|
It is much too simple to equate globalization with
Americanization. Other cultures contribute mightily to global connections. English,
the lingua franca of modern commerce, was originally spread by Britain, not
the United States.[26] As we will see in the next chapter, the globally
significant ties between French, Spanish-, and Portuguese-speaking countries,
respectively, have nothing to do with the United States. AIDS originated in
Africa and SARS in Asia. Soccer is far more popular internationally than
American football. The most popular sports team in the world is not American:
it is Britain's soccer behemoth, Manchester United, with 200 fan clubs in 24
countries. The global stardom of the player David Beckham was such that he
was able to carry it with him after he was traded to the Madrid club. The
Beatles and Rolling Stones were imports to America. Three of the leading
"American" music labels have British, German, and Japanese owners.
Japan leads in the creation of animation and the most popular video games
around the world,[27] The rise of reality programming in television entertainment
in recent years spread from Europe to the United States, not vice versa. Even
Mc-Donald's is drawing lessons from France for the redesign of some of its
American restaurants.[28] Globalization's contours are not solely American, though
quite naturally its current effects reflect what happens in the world's largest
economy. To equate globalization with Americanization is to oversimplify a
complex reality.
|
Nhưng thật quá thiển cận nếu đồng nhất hóa toàn cầu hóa
với quá trình Mỹ hóa. Những nền văn hóa khác đều đóng góp mạnh mẽ cho các mối
liên kết toàn cầu. Tiếng Anh, thứ ngôn ngữ phổ thông trong thương mại hiện
đại, đã được truyền bá bởi nước Anh chứ không phải Mỹ.[26] Như chúng ta sẽ
thấy trong chương sau, những mối quan hệ có tầm quan trọng toàn cầu giữa các
nước nói tiếng Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không liên quan gì tới người
Mỹ. Bệnh AIDS bắt nguồn từ Châu Phi và bệnh SARS bắt nguồn từ Châu Á. Bóng đá
phổ biến trên phạm vi thế giới hơn nhiều so với môn bóng bầu dục Mỹ. Câu lạc
bộ thể thao nổi tiếng nhất thế giới không phải đến từ Mỹ mà là câu lạc bộ
Manchester United, ông vua của làng bóng đá Anh, với 200 câu lạc bộ người hâm
mộ ở 24 quốc gia trên thế giới. Vị thế ngôi sao toàn cầu của danh thủ David
Beckham lớn đến nỗi anh ta vẫn được tận hưởng danh tiếng đó sau khi được bán
cho câu lạc bộ Real Madrid. Các ban nhạc The Beatles và Rolling Stones đều là
những ban nhạc ngoài nước Mỹ. Ba trong số các hãng đĩa “Mỹ” hàng đầu thuộc sở
hữu của các công ty Anh, Đức và Nhật. Nhật Bản là quốc gia đứng đầu về sản
xuất phim hoạt hình và các trò chơi điện tử phổ biến nhất thế giới.[27] Sự ra
đời của các chương trình truyền hình thực tế những năm gần đây lan từ Châu Âu
sang Mỹ chứ không phải theo chiều ngược lại. Ngay cả McDonald’s cũng đang rút
ra bài học từ nước Pháp để áp dụng vào việc thiết kế lại một số nhà hàng của
mình tại Mỹ.[28] Dòng chảy toàn cầu hóa không hoàn toàn bắt nguồn từ Mỹ mặc
dù những tác động của dòng chảy này phản ánh một cách khá tự nhiên những gì
đang diễn ra trong nền kinh tế lớn nhất thế giới. Đồng nhất toàn cầu hóa với
quá trình Mỹ hóa là đang đơn giản hóa quá mức một thực tế phức tạp.
|
Nonetheless, several characteristics of the United States
make it a center of globalization. America has always been a land of immigration,
and its culture and multi ethnic society reflect many different parts of the
world. America has borrowed freely from a variety of traditions and
immigration keeps it open to the rest of the world. This makes the United
States a laboratory for cultural experimentation where different traditions
are recombined and exported. In addition, because of the size of the American
economy, the United States is the largest marketplace in which to test
whether a film or song or game will attract large and diverse audiences.
Ideas and products flow into the United States freely, and flow out with
equal ease-often in commercialized form. Pizza in Asia seems American.[29]
|
Tuy nhiên, một vài đặc điểm của Mỹ khiến nước này trở
thành trung tâm của toàn cầu hóa. Mỹ vẫn luôn là miền đất hứa của những người
nhập cư và nền văn hóa cũng như xã hội đa sắc tộc của nước này đã phản chiếu
hình ảnh nhiều vùng đất khác nhau của thế giới. Mỹ từ lâu đã vay mượn một
cách tự do các truyền thống khác nhau và dòng chảy di cư tiếp tục khiến cho
Mỹ cởi mở với phần còn lại của thế giới. Điều này biến Mỹ trở thành một phòng
thí nghiệm văn hóa nơi mà các truyền thống văn hóa khác nhau được pha trộn và
xuất khẩu. Ngoài ra, do quy mô của nền kinh tế, Mỹ là thị trường lớn nhất để
kiểm tra độ ăn khách của các bộ phim, bài hát hoặc trò chơi điện tử. Các ý
tưởng và sản phẩm đều chảy vào Mỹ một cách tự do và cũng chảy ra khỏi nước Mỹ
dễ dàng không kém, nhưng thường dưới dạng đã được thương mại hóa. Bánh pizza
ở Châu Á dường như mang hương vị của Mỹ.[29]
|
The effects of globalization, however, depend upon the
receiver as well as the sender. Already a half century ago, Hannah Arendt
wrote that "in reality, the process which Europeans dread as 'Americanization'
is the emergence of the modern world with all its perplexities and implications."
She speculated that the modernization process that appeared to be American
would be accelerated, not halted, by European integration.[30] In Nigeria,
where American programs provided more than half the content on television in 1997,
"The heavy direct and indirect presence in virtually every key area of
Nigerian life assures continued Americanization, not just of television, but
of other facets of Nigerian culture. "31 The experience in Japan, however,
was very different. "On the surface, the Japanese may appear to be
tireless and indiscriminate cultural consumers. But the foreignness of imported
culture, and particularly American culture, is filtered through the careful
hands of cultural brokers... American culture is deconstructed and re-contextualized
into the everyday experience of the people. American popular culture is not
the monopoly of Americans: it is a medium through which people around the
world constantly reorganize their individual and collective identities."[32]
|
Tuy nhiên tác động của toàn cầu hóa phụ thuộc không chỉ
vào người gửi mà còn cả người nhận. Một nửa thế kỷ trước, Hannah Arendt đã
viết rằng “trên thực tế, quá trình Mỹ hóa mà người Châu Âu lo sợ là sự xuất
hiện của một thế giới hiện đại với tất cả những sự phức tạp và hệ quả của
nó.” Bà đã phán đoán rằng quá trình hiện đại hóa mang tính chất dường như của
Mỹ đó sẽ được tăng tốc chứ không phải bị kìm hãm bởi chính sự nhất thể hóa
của Châu Âu.[30] Ở Nigeria, nơi các chương trình truyền hình Mỹ chiến phân
nửa thời lượng phát sóng truyền hình vào năm 1997, “sự hiện diện quá nhiều
dưới dạng trực tiếp và gián tiếp ở hầu hết mọi lĩnh vực chủ chốt của đời sống
người dân Nigeria giúp đảm bảo quá trình Mỹ hóa vẫn được tiếp tục, không chỉ
trong lĩnh vực truyền hình mà còn trong cách khía cạnh khác của nền văn hóa
Nigeria.”[31] Câu chuyện ở Nhật lại hoàn toàn khác. “Vẻ bề ngoài thì người
Nhật có vẻ là những người tiếp thu văn hóa nhiệt tình và không phân biệt. Thế
nhưng những yếu tố ngoại lai của văn hóa nhập khẩu, đặc biệt là văn hóa Mỹ,
đều được sàng lọc bởi bàn tay cẩn thận của các nhà môi giới văn hóa…. Văn hóa
Mỹ được “gỡ” ra và “tháo lắp lại” để phù hợp với bối cảnh văn hóa trong đời
sống thường nhật của người dân. Văn hóa đại chúng Mỹ không phải là độc quyền
của người Mỹ: đó là phương tiện trung gian mà qua đó người dân khắp thế giới
thường xuyên sử dụng để cấu trúc lại bản sắc cá nhân và tập thể của
mình.”[32]
|
Many of the mechanisms driving globalization are
characteristic features of the U.S. culture and economy. Much of the
information revolution originated in the American economy, and a large part
of the content of global information networks is currently created in the
United States. American standards are sometimes hard to avoid, as in
Microsoft's Windows or in the rules governing the Internet (though the World
Wide Web was invented in Europe). On the other hand, some U.S. standards and
practices-from the measurement system of pounds and feet (rather than the
metric system) to capital punishment-have encountered puzzlement or even
outright hostility. Globalization is more than Americanization, but for those
in the antiglobalization movement who want to resist or reshape
globalization, anti-Americanism is often a useful weapon and thus its
conflation with globalization is to some extent inevitable.
|
Nhiều cơ chế thúc đẩy toàn cầu hóa đều là các đặc tính của
nền kinh tế và văn hóa Mỹ. Phần lớn cuộc cách mạng thông tin bắt nguồn từ nền
kinh tế Mỹ, và một lượng lớn nội dung của các mạng lưới thông tin toàn cầu
được tạo ra tại Mỹ. Các tiêu chuẩn Mỹ cũng ít khi tìm được tiêu chuẩn thay
thế, như trong hệ điều hành Windows của Microsoft hay trong các quy định áp
dụng cho mạng internet (mặc dù internet được phát minh tại Châu Âu). Mặt
khác, một số các tiêu chuẩn và thông lệ của Mỹ – từ hệ thống đo lường bằng pounds
và foot (chứ không phải là hệ mét) cho tới các hình phạt tử hình – đều gây
nên sự bối rối và thậm chí là sự ghét bỏ thẳng thừng. Toàn cầu hóa có tính
chất rộng lớn hơn so với quá trình Mỹ hóa, nhưng đối với những người tham gia
các phong trào chống toàn cầu hóa muốn chống lại hoặc định hình lại quá trình
toàn cầu hóa thì chủ nghĩa bài Mỹ thường là một vũ khí hữu ích, chính vì vậy
việc chủ nghĩa bài Mỹ đi kèm với toàn cầu hóa dường như, ở một mức độ nào đó,
là một điều khó tránh khỏi.
|
Admire U.S.
for tech., sci.
advances
|
Like American
music,
movies, TV
|
Like American
ideas about
democracy
|
Like American
way of doing
business
|
Good that
American ideas/
customs spread
|
Ngưỡng mộ tiến bộ KHKT của Mỹ
|
Thích nhạc,điện ảnh, truyền hình
Mỹ
|
Thích các ý tưởng Mỹ về dân chủ
|
Thích cách làm kinh doanh của Mỹ
|
Thích phổbiến các lýtưởng, tập
quán Mỹ
|
|
Figure 2.3 Dimensions
of American Attractiveness in the Islamic World
Source: Pew Global
Attitudes Project, What the World Thinks in 2002. Median measures in seven
countries with majority Muslim populations
|
Hình 2.3 Các khía
cạnh hấp dẫn của Mỹ ở thế giới Hồi giáo
Nguồn: Pew Attitudes
Project, What the World Thinks in 2002 (Mức trung bình ở 7 quốc gia Hồi giáo
với đa số dân theo đạo Hồi
|
|
Of particular concern is the role of anti-Americanism in
the Islamic world. Compare figure 2.3 with figure 2.1 and you will see that
the dimensions of American attraction are different in the Muslim world. A
bipartisan panel report issued in October 2003 stated, "Hostility toward
America has reached shocking levels. What is required is not merely tactical adaptation,
but strategic and radical transformation."[33]
|
Gây quan ngại đặc biệt chính là vai trò của chủ nghĩa bài
Mỹ trong thế giới Hồi giáo. So sánh hình 2.3 với hình 2.1 chúng ta sẽ thấy
các khía cạnh thể hiện sự hấp dẫn của Mỹ ở các nước Hồi giáo không giống các
nơi khác. Một báo cáo do một ủy ban lưỡng đảng đưa ra vào tháng 10/2003 đã
nhận định “sự thù địch đối với nước Mỹ đã đạt tới mức gây sốc. Điều cần làm
không chỉ là sự điều chỉnh về mặt sách lược mà còn phải là những thay đổi
chiến lược mạnh mẽ.”[33]
|
Moreover, the image of the United States has declined there
more than elsewhere. In 2003, less than IS percent of the public in Turkey,
Indonesia, Pakistan, and Jordan, and less than 27 percent in Lebanon and
Morocco, had a favorable opinion of the United States.[34]
|
Hơn nữa, hình ảnh của nước Mỹ trong con mắt người Hồi giáo
đã xấu đi nhanh hơn rất nhiều so với các nơi khác. Năm 2003, dưới 15% công
chúng ở Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia, Pakistan, Jordan, và dưới 27% công chúng ở
Libăng và Marốc có thiện cảm với nước Mỹ.[34]
|
This is a matter of particular concern because some
Islamist extremists are willing to use terror to force a return to what they
portray as a purer, premodern version of their religion. In some areas, such
as the Arab countries, anti-Americanism may be a cover for a more general inability
to respond to modernity-witness the slow progress of economic growth and
democratization as described in a recent report of the United Nations
Development Programme, "Arab Human Development Report 2003."35 Fouad
Ajami, an American academic of Lebanese origin, is correct in saying that
America will be resented because our burden is "to come bearing
modernism to those who want it but who rail against it at the same time, to
represent and embody so much of what the world yearns for and fears." But
he is wrong to conclude from this that "Americans need not worry about
hearts and minds in foreign lands."[36] The situation he describes has been
constant for a number of years, and thus cannot explain the recent downward trajectory
of America's reputation in economically successful Muslim countries like
Malaysia. The failure of Arab countries to adjust to modernity cannot fully explain
the changes in U.S. attractiveness. They are also related to unpopular U.S. policies
regarding Iraq and the Israel Palestine conflict.
|
Đây là một điều đặc biệt gây quan ngại vì một số phần tử
Hồi giáo cực đoan sẵn sàng sử dụng khủng bố để buộc người dân Hồi giáo quay
lại thứ tôn giáo tiền hiện đại mà theo quan điểm của họ là thuần khiết hơn. Ở
một số khu vực, như các nước Ảrập chẳng hạn, chủ nghĩa bài Mỹ có thể là vỏ bọc
cho sự bất lực chung của các nước này trong việc thích ứng với sự hiện đại,
vốn có thể dễ dàng nhận ra qua sự phát triển kinh tế và quá trình dân chủ hóa
chậm chạp ở đây như “Báo cáo Phát triển Con người các nước Ảrập năm 2003” mà
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc đã đưa ra gần đây.[35] Fouad Ajami, một
học giả Mỹ gốc Libăng, đã đúng khi nói rằng nước Mỹ bị căm ghét bởi gánh nặng
của nước Mỹ là “mang sự hiện đại tới cho những người mong muốn được hiện đại
nhưng đồng thời lại phản đối chính điều đó, nước Mỹ là hiện thân cho những gì
mà thế giới vừa thèm khát vừa sợ hãi.” Tuy nhiên Ajami đã sai khi kết luận
rằng “Người Mỹ không cần phải lo lắng về việc giành được thiện cảm của người
dân ở nước ngoài.”[36] Tình huống mà Ajami miêu tả đã thường xuyên diễn ra
nhiều năm nay nên nó không thể lý giải tại sao danh tiếng của Mỹ lại xấu đi ở
ngay cả những quốc gia Hồi giáo thành công về mặt kinh tế như Malaysia. Việc
các nước Ảrập không thích nghi được với sự hiện đại cũng không thể lý giải
được một cách đầy đủ cho việc nước Mỹ trở nên kém hấp dẫn hơn. Hơn nữa điều
này cũng liên quan tới những chính sách gây bất bình của Mỹ đối với các cuộc
xung đột ở Iraq và Israel.
|
The effects of the Iraq War should not be exaggerated. "Dire
predictions notwithstanding, Arabs did not rise up to destroy American interests
in the Middle East ... because many of them knew Saddam Hussein's record."[37]
As mentioned earlier, images of a country are composed of several elements,
and respondents to polls showed a greater dislike of American policies than
of American people.[38] Nonetheless, there have been boycotts of American
products, and the American share of merchandise exported to the Middle East
had already dropped from 18 to 13 percent from the late 1990S to 2001 partly
in response to America's "perceived loss of foreign policy
legitimacy."[39] Extreme Islamists had already opposed the American campaign
against the Taliban in Afghanistan, and Iraq merely increased their
opportunities to whip up hatred. But such hatred is increasingly important in
a world where small groups can use the Internet to find, recruit, and mobilize
like-minded people who previously had greater difficulty in locating each
other. As the author Robert Wright has observed, Osama bin Laden's recruiting
videos are very effective, "and they'll reach their targeted audience
much more efficiently via broadband."[40]
|
Tác động của cuộc Chiến tranh Iraq không nên bị thổi
phồng. “Các dự báo tiêu cực đã không thành hiện thực, người dân Ảrập không
nổi dậy để phá hủy các lợi ích của Mỹ ở Trung Đông… bởi nhiều người trong số
đó cũng đã biết tới bảng thành tích không mấy tốt đẹp của Saddam
Hussein.”[37] Như đã đề cập ở phần trước, hình ảnh của một quốc gia bao gồm
một số yếu tố, và những người tham gia các cuộc thăm dò dư luận cho thấy họ
ghét các chính sách của Mỹ chứ không phải người dân Mỹ.[38] Tuy nhiên cũng đã
diễn ra các phong trào tẩy chay hàng hóa Mỹ và tỉ lệ hàng hóa Mỹ trong tổng
hàng hóa nhập khẩu của Trung Đông cũng đã giảm từ mức 18% vào cuối thập kỷ
1990 xuống còn 13% vào năm 2001 một phần bởi phản ứng trước “các chính sách
đối ngoại được cho là thiếu tính hợp pháp của nước Mỹ.”[39] Những phần tử Hồi
giáo cực đoan cũng đã từng chống đối chiến dịch của Mỹ chống lại chính quyền
Taliban ở Afghanistan, nên Iraq chỉ làm gia tăng cơ hội cho sự căm ghét nước
Mỹ nảy nở thêm. Nhưng sự căm ghét như vậy càng ngày càng có vai trò quan
trọng trong một thế giới nơi các nhóm nhỏ có thể sử dụng internet để tìm
kiếm, tuyển mộ và huy động những người có cùng suy nghĩ vốn trước đây gặp khó
khăn trong việc liên lạc với nhau. Như nhà văn Robert Wright đã nhìn nhận,
các băng hình video tuyển mộ chiến binh của Osama bin Laden rất hữu hiệu, “và
chúng càng vươn tới được các đối tượng mong muốn một cách hiệu quả hơn nữa
thông qua con đường internet.”[40]
|
The recent decline in the reported attractiveness of the
United States illustrates the point I made in the previous chapter: It is not
enough just to have visible power resources. In the case of soft power, the
question is what messages are sent and received by whom under which
circumstances, and how that affects our ability to obtain the outcomes we
want. Messages and images are conveyed partly by government policies at home and
abroad, and partly by popular and higher culture. But the same messages are "down-loaded"
and interpreted with different effects by different receivers in different
settings. Soft power is not a constant, but something that varies by time and
place.
|
Sự suy giảm hình ảnh hấp dẫn gần đây của Mỹ đã minh họa
cho một điểm mà tôi đã nêu lên trong chương trước: Có các nguồn tài nguyên
quyền lực hữu hình thôi chưa đủ. Đối với sức mạnh mềm, câu hỏi đặt ra là
thông điệp nào được gửi đi và được ai tiếp nhận trong những hoàn cảnh nào, và
thông điệp đó ảnh hưởng như thế nào tới khả năng đạt được những kết quả mà ta
mong muốn. Các thông điệp và hình ảnh được truyền tải một phần thông qua các
chính sách của chính phủ ở trong nước cũng như ngoài nước, đồng thời một phần
khác thông qua văn hóa đại chúng và văn hóa chính thống. Nhưng những thông
điệp giống nhau được những đối tượng tiếp nhận khác nhau “download” và diễn
dịch và gây ra những tác động khác nhau trong những bối cảnh cũng không giống
nhau. Sức mạnh mềm không chỉ là một hằng số không đổi mà là một biến số thay
đổi theo thời gian và không gian.
|
CULTURE AS A SOURCE
OF SOFT POWER
As we know, cultural critics often distinguish between
high culture and popular culture. Many observers would agree that American high
culture produces significant soft power for the United States. For example,
Secretary of State Colin Powell has said, "I can think of no more
valuable asset to our country than the friendship of future world leaders who
have been educated here."[41] International students usually return home
with a greater appreciation of American values and institutions, and, as expressed
in a report by an international education group, "The millions of people
who have studied in the United States over the years constitute a remarkable
reservoir of goodwill for our country."[42] Many of these former
students eventually wind up in positions where they can affect policy
outcomes that are important to Americans.
|
VĂN HÓA VỚI VAI TRÒ
MỘT NGUỒN SỨC MẠNH MỀM
Như chúng ta đã biết, các nhà phê bình về văn hóa thường
phân biệt giữa văn hóa chính thống và văn hóa đại chúng. Nhiều nhà quan sát
đồng ý cho rằng văn hóa chính thống đã mang lại đáng kể sức mạnh mềm cho nước
Mỹ. Ví dụ như Ngoại trưởng Colin Powell đã từng nói “Tôi nghĩ tài sản quý giá
nhất đối với đất nước chúng ta chính là tình hữu nghị của các nhà lãnh đạo
thế giới tương lai, những người được giáo dục ngay tại nước Mỹ.”[41] Sinh
viên quốc tế thường quay về nước với sự ngưỡng mộ trước các giá trị và thể
chế của người Mỹ, đồng thời, như một báo cáo do một tổ chức giáo dục quốc tế
biên soạn nhận định, “hàng triệu người học tập ở Mỹ trong nhiều năm qua đã
tạo nên một nguồn tình cảm thiện chí đáng kể cho nước Mỹ.”[42] Nhiều người
trong số các cựu sinh viên sau này đứng ở những vị trí có thể tác động tới
các kết quả chính sách có ý nghĩa quan trọng đối với người Mỹ.
|
The distinguished American diplomat and writer George
Kennan is a traditional realist in his concern with balance-of-power politics,
but he placed great importance on "cultural contact as a means of
combating negative impressions about this country that mark so much of world
opinion." Kennan said he would "willingly trade the entire remaining
inventory of political propaganda for the results that could be achieved by
such means alone." And President Dwight Eisenhower argued for the need
"to work out not one method but thousands of methods by which people can
gradually learn a little bit more about each other." Indeed, high
cultural contacts often produced soft power for the United States during the
Cold War. Scores of nongovernmental institutions such as theaters, museums, and
opera companies performed in the Soviet Union. One Soviet musician observed that
they had been trained to believe in the decadent West, yet year after year great
symphony orchestras came from Boston, Philadelphia, New York, Cleveland, and San
Francisco. "How could the decadent West produce such great
orchestras?"[43]
|
Nhà ngoại giao và nhà văn nổi tiếng George Kennan của Mỹ
là một người theo chủ nghĩa hiện thực truyền thống trong cách nhìn về vấn đề
cân bằng quyền lực nhưng ông đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò của “các giao
tiếp văn hóa như là một phương tiện để chống lại các ấn tượng tiêu cực về
nước Mỹ, những ấn tượng vốn ảnh hưởng rất nhiều tới công luận thế giới.”
Kennan nói rằng ông sẽ “sẵn lòng đánh đổi toàn bộ những biện pháp tuyên
truyền chính trị còn lại để có được những kết quả mà chỉ cần mỗi phương tiện
văn hóa kia cũng có thể đạt được.” Và Tổng thống Dwight Eisenhower cũng lập
luận rằng cần phải tìm ra không chỉ một phương pháp mà là hàng ngàn phương
pháp nhằm giúp con người từng bước hiểu biết về nhau nhiều hơn.” Thực tế, các
cuộc tiếp xúc văn hóa chính thức thường mang lại thêm sức mạnh mềm cho nước
Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hàng chục các cơ quan phi chính phủ như
các nhà hát, viện bảo tàng và các đoàn hợp xướng opera đã biểu diễn ở Liên
Xô. Một nhạc sĩ Liên Xô từng nhận xét rằng người Liên Xô từ lâu đã được giáo
dục để tin vào sự thối nát của phương Tây, nhưng năm này qua năm khác những
dàn nhạc giao hưởng xuất sắc đến từ Boston, Philadelphia, New York, Cleveland
và San Francisco đã sang Liên Xô biểu diễn. “Làm sao mà phương Tây thối nát
lại có thể sản sinh ra những dàn nhạc tuyệt vời như vậy?”[43]
|
Academic and scientific exchanges played a significant
role in enhancing American soft power. Even while some American skeptics at the
time feared that visiting Soviet scientists and KGB agents would "steal us
blind," they failed to notice that the visitors vacuumed up political ideas
along with scientific secrets. Many such scientists became leading proponents
of human rights and liberalization inside the Soviet Union. Starting in the
1950S, the Ford Foundation, the Council of Learned Societies, and the Social Science
Research Council worked with eventually 110 American colleges and
universities in student and faculty exchanges. Though the Soviet Union
demanded a governmental agreement to limit the scope of such exchanges, some 50,000
Soviets visited the United States between 1958 and 1988 as writers, journalists,
officials, musicians, dancers, athletes, and academics. An even larger number
of Americans went to the Soviet Union.
|
Các trao đổi về mặt học thuật và khoa học cũng đóng một
vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức mạnh mềm của Mỹ. Ngay cả khi những
người Mỹ hoài nghi thời bấy giờ lo sợ rằng những nhà khoa học Liên Xô sang
viếng thăm và các điệp viên KGB sẽ “ăn cắp mà chúng ta không hay biết”, họ đã
không nhận ra rằng các vị khách viếng thăm này tiếp thu không chỉ các bí mật
khoa học mà còn cả các lý tưởng chính trị. Nhiều nhà khoa học như vậy đã trở
thành những nhà đối lập hàng đầu ủng hộ nhân quyền và tự do hóa trong lòng
Liên Xô. Từ những năm 1950, quỹ Ford Foundation, Hội đồng Xã hội học thuật và
Hội đồng Nghiên cứu Khoa học xã hội đã phối hợp với 110 trường đại học Mỹ
tiến hành trao đổi sinh viên và cán bộ giảng dạy. Mặc dù Liên Xô đòi phải có
một hiệp định cấp chính phủ nhằm giới hạn phạm vi các trao đổi như vậy nhưng
đã có khoảng 50.000 người Liên Xô, gồm các nhà văn, nhà báo, quan chức, nhạc
sĩ, vũ công, vận động viên thể thao và các học giả, sang thăm Mỹ từ năm 1958
đến 1988. Số lượng người Mỹ sang thăm Liên Xô thậm chí còn nhiều hơn con số
trên.
|
In the 1950s, only 40 to 50 college and graduate students from
each country participated in exchanges, but over time, powerful policy
effects can be traced back to even those small numbers. Because cultural
exchanges affect elites, one or two key contacts may have a major political
effect. For example, Aleksandr Yakovlev was strongly influenced by his
studies with the political scientist David Truman at Columbia University in 1958.
Yakovlev eventually went on to become the head of an important institute, a
Politburo member, and a key liberalizing influence on the Soviet leader
Mikhail Gorbachev. A fellow student, Oleg Kalugin, who became a high official
in the KGB, said in looking back from the vantage point of 1997, "Exchanges
were a Trojan Horse for the Soviet Union. They played a tremendous role in
the erosion of the Soviet system... They kept infecting more and more people over
the years."[44] The attraction and soft power that grew out of cultural
contacts among elites made important contributions to American policy
objectives.
|
Vào những năm 1950, chỉ có khoảng 40 đến 50 sinh viên bậc
đại học và sau đại học từ mỗi nước tham gia các chuyến trao đổi, nhưng dần
dần những con số nhỏ nhoi đó vẫn tạo ra những kết quả chính sách mạnh mẽ. Do
các trao đổi văn hóa thường liên quan đến những cá nhân xuất sắc nhất, một
hoặc hai mối liên hệ chủ chốt cũng đã có thể mang lại những tác động chính
trị quan trọng. Ví dụ như Aleksandr Yakovlev bị ảnh hưởng mạnh bởi quá trình
học tập của mình cùng với nhà khoa học chính trị David Truman tại Đại học Columbia
năm 1958. Yakovlev cuối cùng đã trở thành người đứng đầu của một học viện
quan trọng, một ủy viên Bộ chính trị và có những tác động quan trọng theo
hướng tự do hóa đối với nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev. Một nghiên
cứu sinh khác là Oleg Kalugin đã trở thành một quan chức cấp cao của KGB khi
nhìn lại vào năm 1997 đã nói rằng “Các chương trình trao đổi là một con ngựa
Trojan đối với Liên Xô. Qua thời gian chúng thường xuyên tác động tới càng
ngày càng nhiều người.”[44] Sự hấp dẫn và sức mạnh mềm xuất phát từ các giao
tiếp văn hóa giữa những cá nhân xuất sắc đã có những đóng góp quan trọng cho
các mục tiêu chính sách của Mỹ.
|
It is easier to trace specific political effects of high-cultural
contacts than to demonstrate the political importance of popular culture.
Alexis de Toqueville pointed out in the nineteenth century that in a
democracy there are no restrictions of class or guild on artisans and their
products. Popular taste prevails. In addition, commercial interests in a
capitalist economy seek broad markets that often result in cultural lowest
common denominators. Some believe that American popular culture seduces through
sheer force of marketing and promise of pleasure.45 Many intellectuals and
critics disdain popular culture because of its crude commercialism. They
regard it as providing mass entertainment rather than information and thus
having little political effect. They view popular culture as an anesthetizing
and apolitical opiate for the masses.
|
Chứng minh các tác động chính trị cụ thể của các mối giao
lưu văn hóa chính thức luôn dễ hơn việc chứng minh tầm quan trọng về chính
trị của văn hóa đại chúng. Alexis de Toqueville vào thế kỷ 19 đã chỉ ra rằng
trong một nền dân chủ không tồn tại các hạn chế về giai cấp hay khuôn mẫu dành
cho các nghệ sĩ và các tác phẩm của họ. Thị hiếu đại chúng luôn áp đảo. Hơn
nữa, các nhà sản xuất thương mại trong một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn
tìm kiếm các thị trường rộng lớn và dẫn tới các mẫu số chung bé nhất về văn
hóa. Một số người tin rằng văn hóa đại chúng của Mỹ thu hút nhờ có công nghệ
marketing và hứa hẹn tính giải trí cao.[45] Nhiều nhà trí thức và các nhà phê
bình xem thường văn hóa đại chúng vì tính thương mại tầm thường. Họ coi văn
hóa đại chúng là cách mang lại sự giải trí cho số đông chứ không phải là
thông tin, chính vì vậy có ít hiệu quả về mặt chính trị. Họ coi văn hóa đại
chúng là một thứ thuốc phiện gây mê không có tính chất chính trị dành cho số
đông quần chúng.
|
Such disdain is misplaced, however, because popular
entertainment often contains subliminal images and messages about individualism,
consumer choice, and other values that have important political effects. As the
author Ben Wattenberg has argued, American culture includes glitz, sex,
violence, vapidity and materialism, but that is not the whole story. It also
portrays American values that are open, mobile, individualistic, anti-establishment,
pluralistic, voluntaristic, populist, and free. "It is that content,
whether reflected favorably or unfavorably, that brings people to the box
office. That content is more powerful than politics or economics. It drives
politics and economics."[46] Or as the poet Carl Sandburg put it in I96I:
"What, Hollywood's more important than Harvard? The answer is, not as
clean as Harvard, but nevertheless, further reaching."[47]
|
Tuy nhiên sự coi thường này đã được đặt nhầm chỗ vì văn
hóa đại chúng thường chứa đựng các hình ảnh và thông điệp ngầm về chủ nghĩa
cá nhân, lựa chọn của người tiêu dùng và các giá trị khác vốn có thể mang lại
các tác động chính trị quan trọng. Như nhà văn Ben Wattenberg đã lập luận,
văn hóa Mỹ chứa đựng sự hào nhoáng, tình dục, bạo lực, những nội dung tầm
thường và chủ nghĩa vật chất, nhưng đó không phải là toàn bộ câu chuyện. Văn
hóa đại chúng còn khắc họa các giá trị Mỹ như sự cởi mở, linh động, tôn trọng
cá nhân, chống lại sự cứng nhắc, đa nguyên, tự nguyện, tôn trọng những cá
nhân bình thường và sự tự do. “Cho dù được phản ánh một cách tích cực hay
tiêu cực, chính nội dung này cuốn hút khán giả tới rạp. Nội dung đó còn mạnh
hơn cả các biện pháp chính trị hay kinh tế. Chúng góp phần đẩy mạnh chính trị
và kinh tế.”[46] Hay như nhà thơ Carl Sandburg đã nói vào năm 1961 rằng “Cái
gì? Hollywood quan trọng hơn Havard ư? Câu trả lời là, dù không sạch sẽ như
Havard nhưng Hollywood lại lan tỏa đến được số đông nhiều hơn.”[47]
|
Even popular sports can play a role in communicating
values. "An America is created that is neither military hegemon nor
corporate leviathan-a looser place, less rigid and more free, where anyone
who works hard shooting a ball or handling a puck can become famous and (yes)
rich."48 And the numbers are large. National Basketball games are
broadcast to 750 million households in 2I2 countries and 42 languages. Major league
baseball games flow to 224 countries in II languages. The National Football
League's Super Bowl attracted an estimated 800 million viewers in 2003. The
number of sports viewers rivals the 7.3 billion viewers worldwide who went to
see American movies in 2002.
|
Ngay cả các môn thể thao đại chúng cũng có thể giúp truyền
tải các giá trị. “Một nước Mỹ được tạo ra mà không phải là một kẻ bá quyền về
quân sự, cũng không phải là một người đứng đầu về kinh tế, chỉ là một nơi
thật thoải mái, ít cứng nhắc và tự do, nơi bất cứ ai đổ mồ hôi ném bóng hay
khống chế cây gậy chơi hockey đều có thể trở nên nổi tiếng và (vâng) giàu có
nữa.”[48] Và số người này không nhỏ. Các trận đấu trong giải bóng rổ quốc gia
được truyền hình tới 750 triệu hộ gia đình ở 212 quốc gia bằng 42 thứ tiếng.
Các trận đấu của các giải bóng bầu dục chính được phát sóng bằng 11 thứ ngôn
ngữ ở 224 quốc gia. Giải Super Bowl của Liên đoàn bóng đá quốc gia thu hút
tới khoảng 800 triệu người xem vào năm 2003. Số lượng khán giả xem thể thao
là đối thủ đáng gờm của 7,3 tỉ lượt người xem các bộ phim Mỹ trên toàn thế
giới vào năm 2002.
|
The line between information and entertainment has never
been as sharp as some intellectuals imagine, and it is becoming increasingly
blurred in a world of mass media. Some lyrics of popular music can have political
effects. For example, in the 1990s, the dissident radio station B-92 in
Belgrade played over and over the American rap group Public Enemy's lyric
"Our freedom of speech is freedom or death-we got. to fight the powers that
be. "49 Political messages can also be conveyed by the way sports teams
or stars conduct themselves, or in the multiple images portrayed by
television or cinema. Pictures often convey values more powerfully than
words, and Hollywood is the world's greatest promoter and exporter of visual
symbols.[50] Even the consumption of fast food can make an implicit statement
about rejecting traditional ways. One Indian family described their visit to
McDonald's as stepping out for "a slice of America."[51] On the negative
side, in the aftermath of the Iraq War a number of Muslims boycotted
Coca-Cola and turned to imitations such as Mecca Cola or Muslim Up as "an
alternative for all who boycott Zionist products and big American
brands."[52]
|
Đường ranh phân biệt giữa thông tin và giải trí chưa bao
giờ thực sự rõ ràng như các nhà trí thức tưởng tượng, và nó đang ngày càng bị
mờ đi trong một thế giới truyền thông đại chúng. Một số ca từ của các bài hát
có thể mang hiệu quả chính trị. Ví dụ, trong những năm 1990, đài phát thanh
đối lập B-92 ở Belgrade đã phát đi phát lại bài hát của ban nhạc rap Mỹ
Public Enemy có đoạn: “Quyền tự do ngôn luận của chúng ta, tự do hay là chết
– chúng ta phải chiến đấu chống lại các thế lực cản ngăn.”[49] Các thông điệp
chính trị cũng có thể được truyền tải thông qua ứng xử của các đội tuyển thể
thao hoặc các ngôi sao, hay qua vô số những hình ảnh được chuyển tải qua sóng
truyền hình và các bộ phim. Hình ảnh thường truyền tải các giá trị một cách
mạnh mẽ hơn so với lời nói, và Hollywood chính là cỗ máy thúc đẩy và xuất
khẩu các biểu tượng hình ảnh vĩ đại nhất của thế giới.[50] Ngay cả việc dùng
đồ ăn nhanh cũng có thể chuyển tải một thông điệp ngầm về việc chối bỏ các
phương thức truyền thống. Một gia đình người Ấn Độ miêu tả lần đi ăn của họ ở
nhà hàng McDonald’s là một chuyến đi ra ngoài thưởng thức “một miếng hương vị
Mỹ.”[51] Còn về mặt tiêu cực, sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh Iraq, một số
người Hồi giáo đã tẩy chay Coca Cola và quay lại dùng các thức uống như Mecca
Cola hay Muslim Up như “một lựa chọn thay thế dành cho những ai tẩy chay các
sản phẩm của những kẻ phục quốc Do Thái và các thương hiệu lớn của Mỹ.”[52]
|
The political effects of popular culture are not entirely
new. The Dutch historian Rob Kroes points out that posters produced for
shipping lines and emigration societies in nineteenth-century Europe created
an image of the American West as a symbol of freedom long before the twentieth-century
consumption revolution. Young Europeans "grew up constructing meaningful
worlds that drew upon American ingredients and symbols." American
commercial advertisements in 1944 referred to and expanded upon Franklin Roosevelt's
four freedoms, thereby reinforcing the official civics lesson.
"Generation upon generation of youngsters, growing up in a variety of
European settings, West and East of the Iron Curtain, have vicariously enjoyed
the pleasures of cultural alternatives... Simple items like blue jeans, Coca-Cola,
or a cigarette brand acquired an added value that helped these younger
generations to give expression to an identity all their own."[53]
|
Tác động của văn hóa đại chúng không phải hoàn toàn mới.
Nhà sử học Hà Lan Rob Kroes đã chỉ ra rằng các poster quảng cáo cho các tuyến
vận tải biển và các xã hội nhập cư vào thế kỷ 19 ở Châu Âu đã tạo nên hình
ảnh về miền Tây nước Mỹ như là một biểu tượng tự do trước khi cuộc cách mạng
tiêu dùng thế kỷ 20 bắt đầu. Những người Châu Âu trẻ tuổi “lớn lên và xây
dựng những thế giới ý nghĩa của mình dựa trên các thành phần và biểu tượng từ
Mỹ.” Các quảng cáo thương mại Mỹ năm 1944 đề cập đến và phát triển ý tưởng về
bốn quyền tự do của Franklin Roosevelt, qua đó củng cố các bài học giáo dục
công dân chính thức. “Từ thế hệ thanh niên này tới thế hệ thanh niên khác lớn
lên trong các bối cảnh khác nhau của Châu Âu, ở phía Đông lẫn phía Tây bức
mành sắt, đã thưởng thức qua trí tưởng tượng những niềm vui mang lại bởi các
lựa chọn văn hóa khác…. Những thứ đơn giản như chiếc quần jean xanh, Coca
Cola, hay một nhãn hiệu thuốc lá đều có được một giá trị bổ sung giúp những
thế hệ trẻ này thể hiện bản sắc của riêng mình.”[53]
|
This popular-cultural attraction helped the United States to
achieve important foreign policy goals. One example was the democratic
reconstruction of Europe after World War H. The Marshall Plan and NATO were
crucial instruments of economic and military power aimed at achieving that
outcome. But popular culture also contributed. For example, the Austrian
historian Reinhold Wagnleitner argues that "the fast adaptation of
American popular culture by many Europeans after the Second World War
certainly contributed positively to the democratization of these societies.
It rejuvenated and revitalized European postwar cultures with its elementary
connotations of freedom, casualness, vitality, liberality, modernity and
youthfulness... Submission to the dictates of the market and business also contained
an element of liberation from the straitjackets of traditional customs and
mores."[54] The dollars invested by the Marshall Plan were important in
achieving American objectives in the reconstruction of Europe, but so also
were the ideas transmitted by American popular culture.
|
Sự cuốn hút của văn hóa đại chúng này đã giúp nước Mỹ đạt
được các mục tiêu đối ngoại quan trọng. Một ví dụ là việc tái thiết dân chủ ở
Châu Âu thời kỳ hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Kế hoạch Marshall và
NATO là những công cụ cốt yếu về sức mạnh kinh tế và quân sự giúp đạt được
các mục tiêu này. Nhưng văn hóa đại chúng cũng góp phần quan trọng không kém.
Ví dụ, nhà sử học người Áo Reinhold Wagnleitner cho rằng “sự thích ứng nhanh
với văn hóa đại chúng Mỹ của nhiều người Châu Âu thời kỳ sau Chiến tranh thế
giới lần thứ hai rõ ràng đóng góp tích cực cho quá trình dân chủ hóa của các
xã hội này. Nó giúp làm trẻ lại và hồi sinh các nền văn hóa hậu chiến của
Châu Âu với những thông điệp căn bản về tự do, sự bình dị, sức sống, tính
hiện đại và trẻ trung… Việc chấp nhận tuân theo chỉ dẫn của thị trường và thế
giới kinh doanh cũng chứa đựng những yếu tố thể hiện sự giải phóng khỏi các
ràng buộc của các lế thói, tập tục cổ truyền.”[54] Những đồng đô la được đầu
tư thông qua Kế hoạch Marshall đóng vai trò quan trọng giúp Mỹ đạt được các
mục tiêu về tái thiết Châu Âu, nhưng trong thành công này các lý tưởng được
truyền tải bởi văn hóa đại chúng Mỹ cũng đóng vai trò quan trọng không kém.
|
Popular cultural attraction also contributed to another
major American foreign policy objective-victory in the Cold War. The Soviet
Union had impressive military capabilities poised to threaten Western Europe,
and in the early postwar period it also possessed important soft-power
resources from the appeal of Communist ideology and its record of standing up
to Nazi Germany. However, it squandered much of this soft power through its repression
at home and in Eastern Europe,[55] and its inept economic performance in its later
years (even as its military power increased). Soviet state-run propaganda and
culture programs could not keep pace with the influence of America's
commercial popular culture in flexibility or attraction. Long before the
Berlin Wall fell in 1989, it had been pierced by television and movies. The
hammers and bulldozers would not have worked without the years-long
transmission of images of the popular culture of the West that breached the
Wall before it fell.
|
Sự hấp dẫn của văn hóa đại chúng cũng góp phần vào một mục
tiêu lớn khác của chính sách đối ngoại Mỹ – đó là chiến thắng cuộc Chiến
tranh lạnh. Liên Xô sở hữu sức mạnh quân sự ấn tượng đe dọa Tây Âu, và trong
giai đoạn đầu thời kỳ hậu chiến Liên Xô cũng sở hữu những nguồn tài nguyên
sức mạnh mềm quan trọng nhờ vào sức hấp dẫn của hệ tư tưởng cộng sản chủ
nghĩa và lịch sử cuộc đấu tranh chống lại phát xít Đức. Tuy nhiên Liên Xô đã
lãng phí phần lớn nguồn sức mạnh mềm này qua các chính sách đàn áp ở trong nước
và ở Đông Âu,[55] cũng như thành tích kinh tế kém cỏi giai đoạn sau này (cho
dù sức mạnh quân sự tăng lên). Các chương trình văn hóa và tuyên truyền do
nhà nước điều khiển không thể cạnh tranh nổi với ảnh hưởng của văn hóa đại
chúng mang tính thương mại của Mỹ về tính linh hoạt cũng như sự hấp dẫn. Rất
lâu trước khi sụp đổ vào năm 1989, bức tường Berlin đã bị xuyên thủng bởi các
chương trình truyền hình và điện ảnh. Búa và máy ủi sẽ không thể thành công
nếu không có sự trợ giúp của các hình ảnh văn hóa đại chúng của phương Tây
được truyền tải hàng năm trời giúp xuyên thủng bức tường trước khi nó sụp đổ.
|
Even though the Soviet Union restricted and censored
Western films, those that made it through the filters were still capable of
having devastating political effects. Sometimes the political effects were
direct, although unintended. One Soviet journalist commented after a
restricted showing of On the Beach and Dr. Strangelove (both films were critical
of American nuclear weapons policies), "They absolutely shocked us... We
began to understand that the same thing would happen to us as to them in a
nuclear war." Other unintended political effects were conveyed
indirectly. Soviet audiences watching films with apolitical themes
nonetheless learned that people in the West did not have to stand in long
lines to purchase food, did not live in communal apartments, and owned their
own cars. All this invalidated the negative views promulgated by the Soviet
media.
|
Cho dù Liên Xô hạn chế và kiểm duyệt các bộ phim phương
Tây, những bộ phim đã được sàng lọc vẫn có thể mang lại những tác động chính
trị mạnh mẽ. Đôi khi các tác động chính trị này là trực tiếp, mặc dù ngoài
mong đợi. Một nhà báo Liên Xô đã bình luận sau suất chiếu đã được kiểm duyệt
của bộ phim “On the Beach” và “Dr. Strangelove” (cả hai bộ phim đều phê phán
chính sách vũ khí hạt nhân của Mỹ) rằng “Những bộ phim này đã làm chúng tôi
sốc… Chúng tôi bắt đầu hiểu rằng điều tương tự sẽ diễn ra đối với chúng tôi
giống như đối với họ trong một cuộc chiến tranh hạt nhân.” Những tác động bất
ngờ khác được truyền tải một cách gián tiếp. Khán giả Liên Xô xem các bộ phim
mang chủ đề chính trị thường nhận ra rằng người phương Tây không phải xếp
hàng dài để mua thực phẩm, không phải sống trong các khu căn hộ chung, và được
sở hữu những chiếc xe hơi riêng. Tất cả những điều này đều vô hiệu hóa cách
nhìn tiêu cực được tuyên truyền bởi báo chí Liên Xô.
|
Even rock-and-roll music played a part despite Soviet
efforts to discourage it. As one of Gorbachev's aides later testified,
"The Beatles were our quiet way of rejecting 'the system' while
conforming to most of its demands." Georgi Shaknazarov, a high Communist
official, summarized the political effects well: "Gorbachev, me, all of us
were double-thinkers. We had to balance truth and propaganda in our minds all
the time." The corrosive effects on Soviet self-confidence and ideology
became clear in their actions when that generation finally came to power in
the mid-1980s.[56]
|
Ngay cả nhạc rock and roll cũng đóng vai trò quan trọng
bất chấp nỗ lực ngăn ngừa của Liên Xô. Như một phụ tá của Gorbachev sau này
đã nói “Ban nhạc Beatles là cách phủ nhận “hệ thống” một cách thầm lặng cho
dù vẫn tuân theo phần lớn các đòi hỏi của nó.” Georgi Shaknazarov, một quan
chức cao cấp của Đảng Cộng sản đã tổng kết các tác động chính trị một cách
rất hay rằng “Gorbachev, tôi, tất cả chúng tôi đều là những người suy nghĩ
nước đôi. Chúng tôi thường xuyên phải cân bằng sự thật và tuyên truyền trong
tâm trí mình.” Tác động mài mòn đối với sự tự tin và ý thức hệ của người Liên
Xô trở nên rõ ràng qua hành động của họ khi thế hệ đó cuối cùng đã lên nắm
quyền vào giữa những năm 1980.[56]
|
Similarly, Czech Communist officials sentenced a group of
young people to prison in the 1950S for playing tapes of "decadent
American music," but their efforts turned out to be counterproductive.
Milos Forman described how, in the 1960s, "You are listening, you know, to
Bill Haley and Elvis Presley and you love it, and then a stern face on the
Czech television tells you, 'These apes escaping from the jungle-they are representing
the pride of humanity?' ... Finally you lost total, total, you know, respect."
In 1980, after John Lennon was assassinated, a monument to him spontaneously
appeared in Prague, and the anniversary of his death was marked by an annual
procession for peace and democracy. In 1988, the organizers founded a Lennon
Peace Club whose members demanded the removal of Soviet troops.[57] With the
passage of time, Lennon trumped Lenin.
|
Tương tự, các quan chức Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã tống
giam một nhóm thanh niên vào những năm 1950 vì đã chơi một “băng nhạc Mỹ phản
động” nhưng nỗ lực này hóa ra đã phản tác dụng. Milos Forman kể lại rằng vào
những năm 1960 “khi bạn đang nghe nhạc của Bill Haley và Elvis Presley và cảm
thấy thật yêu thích thì bỗng nhiên một gương mặt lạnh lùng trên truyền hình
Tiệp Khắc nói với bạn rằng ‘Những con vượn này vừa trốn thoát khỏi rừng xanh
– Liệu chúng đại diện cho lòng tự hào của nhân loại được không?’… Cuối cùng
bạn đánh mất toàn bộ sự tôn trọng.” Vào năm 1980, sau khi John Lennon bị ám
sát, một tượng đài của anh đã xuất hiện một cách tự phát ở Praha, và lễ kỉ
niệm ngày mất người ca sĩ đã được đánh dấu bằng một lễ tuần hành thường niên
vì hòa bình và dân chủ. Năm 1988, những người tổ chức đã thành lập Câu lạc bộ
Hòa bình Lennon và các thành viên của câu lạc bộ này đã đòi rút quân đội Liên
Xô khỏi lãnh thổ Tiệp Khắc.[57] Dần dần theo thời gian, Lennon đã vượt qua
Lenin.
|
As one historian summarized the situation, "However
important the military power and political promise of the United States were for
setting the foundation for the American successes in Cold War Europe, it was the
American economic and cultural attraction that really won over the hearts and
minds of the majorities of young people for Western democracy.... Whenever real
consumption climbed into the ring, chances were high that real socialism had to
be counted out."[58] The Cold War was won by a mixture of hard and soft
power. Hard power created the stand-off of military containment, but soft
power eroded the Soviet system from within. Not all the soft power resources
were American-witness the role of the BBC and the Beatles. But it would be a
mistake to ignore the role that the attraction of American popular culture
played in contributing to the soft part of the equation.
|
Một nhà sử học đã tóm tắt tình hình rằng “Cho dù sức mạnh
quân sự và các hứa hẹn chính trị của Mỹ có quan trọng đến đâu trong việc
thiết lập nền tảng cho thành công của Mỹ ở Châu Âu thời kỳ Chiến tranh lạnh
thì chính sự hấp dẫn về văn hóa và kinh tế của nước này mới thực sự giúp
giành được sự ủng hộ của đa số thanh niên dành cho mô hình dân chủ phương
Tây. Bất cứ khi nào sự tiêu dùng thực sự xuất hiện thì nhiều khả năng chủ
nghĩa xã hội sẽ mất giá trị ảnh hưởng.”[58] Mỹ đã thắng cuộc Chiến tranh lạnh
bằng một thứ vũ khí kết hợp cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm. Sức mạnh cứng
tạo nên sự thành công của chiến lược ngăn chặn quân sự, còn sức mạnh mềm giúp
làm xói mòn hệ thống Xô Viết từ bên trong. Không phải mọi tài nguyên sức mạnh
mềm đều thuộc về Mỹ – minh chứng chính là vai trò của BBC và ban nhạc
Beatles. Nhưng sẽ thật là sai lầm nếu bỏ qua vai trò của sức hấp dẫn đến từ
văn hóa đại chúng Mỹ đóng góp cho vế sức mạnh mềm trong phương trình kể trên.
|
Not only was popular culture relevant to the achievement
of American policy goals in Western Europe but it also has been important for
a number of other policy goals, including the undercutting of the apartheid regime
in South Africa, the increase in the number of democratic governments in
Latin America and parts of East Asia, the overthrow of the .Milosevic regime
in Serbia, pressure for liberalization in Iran, and the consolidation of an
open international economic system, to name just a few. Indeed, when South Africa
in 1971 was debating whether to allow television into the country, Albert
Hertzog, a conservative former minister of Posts and Telegraphs, rejected it
as a symbol of Western degeneracy that "would lead to the demoralization
of South African civilization and the destruction of apartheid."[59] He
turned out to be right.
|
Văn hóa đại chúng không chỉ đóng góp cho việc đạt được các
mục tiêu chính sách Mỹ ở Tây Âu mà còn là một yếu tố quan trọng đối với một
số các mục tiêu chính sách khác, bao gồm việc xóa bỏ chế độ phân biệt chủng
tộc apacthai ở Nam Phi, gia tăng số lượng các nền dân chủ ở Nam Mỹ và một
phần Đông Á, việc lật đổ chế độ Milosevic ở Serbia, áp lực đối với quá trình
tự do hóa ở Iran và việc củng cố một hệ thống kinh tế quốc tế mở, vv… Thực
tế, khi Nam Phi tranh luận về việc có cho phép phát sóng truyền hình ở nước
này không vào năm 1971, một cựu bộ trưởng Bộ Bưu chính và Điện tín thuộc phái
bảo thủ đã phản đối vì cho rằng truyền hình là biểu tượng của sự đồi bại của
phương Tây và nó “sẽ dẫn tới sự tha hóa nền văn minh Nam Phi và phá hủy chế
độ apacthai.”[59] Cuối cùng những gì ông này tiên đoán đã thành sự thật.
|
Similarly, in I994 Iran's highest-ranking cleric issued a fatwa
against satellite television dishes because they would introduce a cheap
alien culture and spread the moral diseases of the West.[60] He also turned
out to be correct. A decade later, mass demonstrations in Teheran followed the
spread of private American TV broadcasts. The stations got their start
broadcasting in the Farsi language to the Iranian diaspora in Los Angeles, but
they later turned to covering Iran's politics 24 hours a day, and broadcast
information to Iran that was not otherwise available there.[61] It was not
merely a reactionary minority that was infected by Western ideas. As one
professor reported, "In less than a decade after Ayatollah Khomeini's death,
these illuminated revolutionaries-the former young veterans of war and revolution-were
demanding more freedoms and political rights."[62]
|
Tương tự, vào năm 1994, giáo sĩ cấp cao nhất của Iran đã
ban hành một lệnh cấm các đĩa thu sóng truyền hình vệ tinh vì chúng chỉ mang
lại một nền văn hóa ngoại nhập rẻ tiền và sự lây lan những căn bệnh đạo đức
của phương Tây.[60] Và điều này cũng đã chính xác. Một thập kỷ sau, các cuộc
biểu tình của công chúng ở Teheran đã nổ ra sau khi các kênh truyền hình Mỹ
của tư nhân trở nên phổ biến. Các đài truyền hình này được cấp phép phát sóng
bằng tiếng Farsi cho cộng đồng kiều dân Iran ở Los Angeles, nhưng cuối cùng
các kênh này lại đưa tin về tình hình chính trị Iran suốt ngày đêm, đồng thời
đưa các tin tức bị cấm vào Iran.[61] Đó không chỉ là một nhóm phản động nhỏ
bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của phương Tây. Như một vị giáo sư nọ đã nhận xét
“Chưa đầy một thập kỷ sau cái chết của Giáo chủ Ayatollah Khomeini, những
điều này đã minh chứng rằng những nhà cách mạng – những cựu thành viên tham
gia chiến tranh và cách mạng thời còn trẻ – đã đòi hỏi được hưởng nhiều tự do
và quyền về chính trị hơn.” [62]
|
In China, despite censorship, American news seeps across the
border to Chinese elites through the Internet, other media, and educational exchanges.
In I989, student protesters in Tiananmen Square constructed a replica of the
Statue of Liberty. One dissident told a foreign reporter that when she was forced
to listen to local Communist Party leaders rage about America, she would hum
Bob Dylan tunes in her head as her own silent revolution. Another reporter
observed that "many believe that the recent trickle of Hollywood films into
Chinese theatres, along with those illegal DVDs, has played a role in spurring
yearnings for accelerated change among ordinary Chinese citizens."[63]
|
Ở Trung Quốc, bất chấp sự kiểm duyệt gắt gao, các tin tức
từ Mỹ vẫn thâm nhập qua biên giới đến với giới tinh hoa Trung Quốc thông qua
mạng internet cũng như các phương tiện truyền thông khác và các giao lưu về
giáo dục. Vào năm 1989, các sinh viên biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn
đã dựng một bức tượng mô phỏng tượng Nữ thần Tự do. Một người bất đồng chính
kiến đã nói với một phóng viên nước ngoài rằng khi bị buộc nghe các nhà lãnh đạo
Đảng ở địa phương chỉ trích nước Mỹ cô luôn luôn ngâm nga những giai điệu của
Bob Dylan trong đầu như cách tiến hành một cuộc cách mạng thầm lặng của riêng
cô. Một nhà báo khác thì ghi nhận rằng “nhiều người tin dòng chảy của các bộ
phim Hollywood gần đây vào các rạp chiếu phim Trung Quốc cùng với các phiên
bản đĩa DVD bất hợp pháp của chúng đã góp phần thúc đẩy những người dân Trung
Quốc bình thường mong muốn thay đổi tăng tốc nhanh hơn nữa.”[63]
|
As we learned in chapter I, popular culture, because it is
not under direct control of government, does not always produce the exact
policy outcomes that the government might desire. For example, during the
Vietnam War, the American government had multiple policy objectives that
included both military victory over Communism in Vietnam and political
victory over Communism in Central Europe. Popular culture did not help to
produce the desired outcomes with regard to the former objective, but it did
help to achieve the latter. For example, Reinhold Wagnleitner describes student
demonstrations in Austria against the Vietnam War: "We demonstrated in
blue jeans and T-shirts and attended sit-ins and teach-ins. What's more,
quite a few of us understood what it meant to be able to demonstrate against
a war in wartime without being courtartialed. Some of us were also aware that
we had learned our peaceful tactics of democratic protest and opposition from
the American civil rights movement and the anti-nuclear armament movement.
After all, we did not intone the 'Internationale' but instead sang 'We Shall
Overcome."'[64] Protest movements are a part of popular culture that can
attract some foreigners to the openness of the United States at the same time
that official policies are repelling them.
|
Như chúng ta đã thấy trong Chương 1, văn hóa đại chúng do
không chịu sự quản lý trực tiếp của chính phủ nên không luôn luôn tạo ra các
kết quả chính trị chính xác như các chính phủ mong muốn. Ví dụ như trong
Chiến tranh Việt Nam, chính phủ Mỹ đã có nhiều mục tiêu chính sách khác nhau,
bao gồm chiến thắng về mặt quân sự đối với chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và
chiến thắng về mặt chính trị đối với chủ nghĩa cộng sản ở Trung Âu. Văn hóa
đại chúng không góp phần mang lại những kết mong muốn đối với mục tiêu thứ
nhất, nhưng đã giúp đạt được mục tiêu thứ hai. Ví dụ, Reinhold Wagnleitner đã
miêu tả các cuộc biểu tình của sinh viên ở Áo chống Chiến tranh Việt Nam như
sau: “Chúng tôi với quần jeans màu xanh và áo thun tham gia các cuộc biểu
tình ngồi và các bài phát biểu dài của các diễn giả. Thế nhưng rất ít người
trong số chúng tôi có thể hiểu được ý nghĩa của việc có thể tham gia biểu
tình chống lại một cuộc chiến tranh trong lúc nó đang diễn ra mà không bị tòa
án binh xét xử. Một số người cũng nhận ra rằng chúng tôi đã học được cách
biểu tình và chống đối dân chủ một cách hòa bình từ phong trào đòi quyền công
dân ở Mỹ và phong trào chống trang bị vũ khí hạt nhân. Rốt cuộc chúng tôi
không ca vang bài ‘Quốc tế ca’ mà chúng tôi chỉ hát bài ‘We Shall
Overcome.’”[64] Các phong trào biểu tình là một phần của văn hóa đại chúng có
thể thu hút một số người nước ngoài nhờ sự cởi mở của nước Mỹ trong khi các
chính sách chính thức cố gắng đẩy lùi chúng.
|
Popular culture can have contradictory effects on different
groups within the same country. It does not provide a uniform soft-power resource.
The videos that attract Iranian teenagers offend Iranian mullahs. Thus the repulsion
of American popular culture may make it more difficult for the United States
to obtain its preferred policy outcomes from the ruling group in the short
term, while the attraction of popular culture encourages desired change among
younger people in the long term. And sometimes the effects can undercut
longer-term American objectives. In Turkey, according to a Turkish journalist,
"The spread of American popular culture, primarily among the upper-middle-class
and peripherally among the lower-class Turkish population has created in its
wake an opposition to the ideology behind it. The resurgence of fundamentalism
in recent years which poses a serious threat to secularism, is responsible for
creating the rift that has opened up between the Americanized privileged class,
the lower middle class, and poor."[65] Yet even in the tense period
after 9h I, and despite visa restrictions, a survey conducted by the British
Council among 5,000 students in nine Muslim countries showed that the United
States was still the first choice for youngsters in Egypt, Turkey, and Saudi
Arabia as a location for pursuing education abroad.[66] Ambivalence is a common
reaction to the United States, and where there is ambivalence there is scope for
policy to try to improve the ratio of the positive to the negative
dimensions.
|
Văn hóa đại chúng cũng có thể có những tác động trái ngược
nhau đối với các nhóm khác nhau trong cùng một quốc gia. Nó không mang lại
một nguồn sức mạnh mềm thống nhất. Những đoạn video thu hút giới trẻ Iran lại
làm các giáo sĩ nước này nổi giận. Vì vậy việc bài trừ văn hóa đại chúng Mỹ
sẽ khiến Mỹ khó khăn hơn trong việc đạt được các kết quả chính sách mong muốn
từ nhóm lãnh đạo trong ngắn hạn, nhưng về dài hạn sự hấp dẫn của văn hóa đại
chúng lại khuyến khích giới trẻ khao khát thay đổi. Đôi khi các tác động có
thể làm suy yếu các mục tiêu dài hạn của Mỹ. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, theo một nhà báo
Thổ Nhĩ Kỳ thì “sự phổ biến của văn hóa đại chúng Mỹ chủ yếu ở tầng lớp
thượng trung lưu và một phần ở tầng lớp hạ lưu đã tạo ra sự chống đối đối với
các tư tưởng mà văn hóa đại chúng Mỹ truyền tải. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa
Hồi giáo cực đoan những năm gần đây vốn đe dọa nghiêm trọng các chính quyền
thế tục là nguyên nhân gây nên sự chia rẽ giữa tầng lớp thượng lưu bị Mỹ hóa,
tầng lớp hạ trung lưu và người nghèo.”[65] Nhưng ngay trong thời kỳ căng
thẳng sau sự kiện 11/9, bất chấp lệnh hạn chế thị thực, một cuộc khảo sát do
Hội đồng Anh tiến hành đối với 5.000 sinh viên ở 9 quốc gia Hồi giáo cho thấy
Mỹ vẫn là lựa chọn số một đối với thanh niên ở Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Ảrập Xêut
nhằm theo đuổi việc du học nước ngoài.[66] Sự không nhất quán là một phản ứng
phổ biến đối với nước Mỹ, và nơi nào tồn tại sự không nhất quán thì ở đó vẫn
còn chỗ cho các chính sách nhằm cải thiện tỉ lệ giữa các phản ứng tích cực so
với các phản ứng tiêu cực.
|
Finally, the instruments of popular culture are not static.
Whether the influence of American culture will increase or decrease in the future
is uncertain. In part the outcome will depend on whether unpopular policies eventually
spill over and make general reactions to American culture more negative. It
will also depend on independent market changes that have nothing to do with
politics. For example, American films continue to rake in nearly 80 percent
of the film industry's worldwide revenues, but American TV has seen a decline
in its international market share in recent years. Television appeals to a
more segmented market and local content has proved to be more important in reaching
national audiences than the peek into U.S. culture provided by the typical
American product.[67] Nielson Media Research has found that 71 percent of the
top ten programs in 60 surveyed countries were locally produced, representing
a steady increase over the preceding years. The causes seem related more to
market changes and economies of scale in satisfying local tastes than to
political reactions.[68]
|
Cuối cùng, các công cụ của văn hóa đại chúng không cố
định. Khó có thể biết chắc ảnh hưởng của văn hóa Mỹ sẽ tăng hay giảm trong
tương lai. Một phần kết quả sẽ phụ thuộc vào việc các chính sách xa lạ của Mỹ
có gây hiệu ứng tức nước vỡ bờ dẫn tới việc các phản ứng chung đối với văn
hóa Mỹ trở nên tiêu cực hơn hay không. Hơn nữa điều này còn phụ thuộc vào các
thay đổi thị trường độc lập mà hầu như không liên quan gì tới chính trị. Ví
dụ, các bộ phim Mỹ tiếp tục chiếm tới 80% doanh thu thị trường ngành công nghiệp
điện ảnh toàn cầu, nhưng các chương trình truyền hình Mỹ gần đây đã bị giảm
thị phần. Truyền hình có thể vươn tới nhiều thị trường đơn lẻ hơn và các nội
dung bản địa tỏ ra quan trọng hơn trong việc tiếp cận khản giả địa phương hơn
là các chương trình liên quan tới văn hóa Mỹ được cung cấp bởi các sản phẩm
văn hóa điển hình của nước này.[67] Viện Nghiên cứu Truyền thông Nielson đã
phát hiện ra rằng 71% trong số 10 chương trình được yêu thích nhất ở 60 quốc
gia mà họ khảo sát được sản xuất ở các nước đó, cho thấy mức tăng ổn định so
với các năm trước. Các nguyên nhân của hiện tượng này dường như liên quan tới
các thay đổi trên thị trường cũng như tính hiệu quả của quy mô trong việc đáp
ứng thị hiếu của khán hơn là các phản ứng mang tính chất chính trị.[68]
|
Moreover, the absorption of American popular culture by
foreign audiences may make it appear less exotic over time, and thus less
fascinating to them. Something similar happened with the European reception
of American Wild West shows in the nineteenth century, and already American
MTV has lost ground to local imitators. One expert speculates that
"globalization of American popular culture, as we know and debate it
today, may well prove to be a temporary phenomenon, an issue internationally
only so long as it takes to generate a local response that tests which
premises can be successfully adapted to local circumstances and expectations."[69]
Whether the loss of exoticism will be serious in terms of soft-power
resources or not is difficult to predict.
|
Hơn nữa, qua thời gian, việc tiếp thu văn hóa đại chúng Mỹ
của khán giả nước ngoài dần dần khiến cho nó trở nên kém mới mẻ, và vì vậy
kém hấp dẫn hơn đối với họ. Điều tương tự cũng xảy ra đối với sự tiếp nhận
của người Châu Âu đối với các show diễn về miền Tây hoang dã của nước Mỹ thời
thế kỷ 19, và kênh MTV của Mỹ cũng đã bị lép vế so với các kênh địa phương
học theo phong cách tương tự. Một chuyên gia dự đoán rằng “quá trình toàn cầu
hóa của văn hóa đại chúng Mỹ, như chúng ta đã được biết và đang tranh luận
hiện nay, có thể sẽ chỉ là một hiện tượng nhất thời, một vấn đề mang tính
quốc tế chỉ chừng nào nó còn có thể tạo ra các phản ứng ở các quốc gia sở tại
giúp kiểm tra các khía cạnh văn hóa nào có thể thích nghi được một cách thành
công với các điều kiện và mong muốn của người dân sở tại.”[69] Liệu việc mất
đi tính hấp dẫn mới mẻ ngoại nhập có phải là một vấn đề nghiêm trọng đối với
các tài nguyên sức mạnh mềm hay không là một điều khó có thể dự báo được.
|
In television news, however, there has been a clear
political change. During the Gulf War, CNN and BBC had the field largely to
themselves as they framed the issues. For example, Iraq's invasion of Kuwait
in August 1991 was described in terms of Iraqi aggression rather than
recovering the lost province of Kuwait, which is how the Iraqis saw it. (India
framed its invasion of its ancient province of Goa the same way, and there
was little significant international reaction.) By the time of the Iraq War,
AI Jazeera and others were active competitors in framing the issues. For
instance, the same image of moving forces could accurately be described by
CNN as "coalition forces advance" or by AI Jazeera as "invading
forces advance." The net effect was a reduction in American soft power
in the region when 2003 is compared with 1991.
|
Tuy nhiên đối với tin tức truyền hình thì rõ ràng đã có sự
thay đổi mang tính chất chính trị. Trong thời gian diễn ra Chiến tranh vùng
Vịnh, CNN và BBC đã áp đảo tin tức chiến trường và chính các đài này định
hướng các vấn đề. Ví dụ như việc Iraq đưa quân vào Kuwait tháng 8/1991 được
miêu tả là hành động xâm lược hơn là việc thu hồi lại tỉnh Kuwait bị mất như
cách nhìn của người Iraq. (Ấn Độ cũng dùng lập luận tương tự khi xâm chiếm
tỉnh Goa nhưng hầu như không có phản ứng quốc tế nào đáng kể.) Cho tới cuộc
Chiến tranh Iraq, kênh Al Jazeera và các kênh truyền hình khác là những đối
thủ cạnh tranh tích cực với CNN và BBC trong việc dẫn dắt vấn đề. Ví dụ, cùng
một hình ảnh các lực lượng quân sự di chuyển có thể được CNN miêu tả là “các
lực lượng linh minh tiến quân” hoặc được Al Jazeera gọi là “các lực lượng xâm
lược tiến quân.” Hiệu ứng cuối cùng là sự suy giảm sức mạnh mềm của Mỹ ở khu
vực này vào năm 2003 so với năm 1991.
|
Now France has decided to create its own multilingual
television news channel. It concluded that "AI Jazeera is proof that
this monopoly can be broken and that there is a real demand for news that is
not Anglo-American."[70] Some analysts believe that "the American
dominance in the global communication flow is less powerful than it was in the
past. On the contrary, a growing concern is not the old complaint of
excessive American cultural influence around the world, but the astonishing
speed with which the United States is selling off its popular culture
industries to foreign buyers."[71]
|
Hiện nay Pháp đã quyết định thành lập kênh truyền hình tin
tức đa ngôn ngữ cho riêng mình. Pháp kết luận rằng “Al Jazeera là bằng chứng
cho thấy thế độc quyền có thể bị phá vỡ và thực sự tồn tại nhu cầu được tiếp
nhận các tin tức không phải qua nguồn Anh – Mỹ.”[70] Một số nhà phân tích tin
rằng “sự áp đảo của Mỹ trong dòng chảy truyền thông toàn cầu hiện nay yếu hơn
so với trong quá khứ. Mặt khác, mối quan ngại mới hiện nay không phải là
những lời phàn nàn từ lâu về ảnh hưởng quá mức của văn hóa Mỹ khắp thế giới
mà là tốc độ nhanh đáng kinh ngạc mà Mỹ đang bán tháo các ngành công nghiệp
văn hóa đại chúng của mình cho các ông chủ nước ngoài.”[71]
|
It is worth noting that while American companies still
dominate in terms of global brands, market changes have produced an increased
fragmentation of brands. A decade ago it was assumed that as barriers to
trade came down, brands with global scale would drive out local brands. In
fact, as concerns about local autonomy have intersected with technologies that
allow economies of scale to be achieved in production of discrete specialized
products, the standardization of brands has come under challenge. Coca-Cola
owns more than 200 brands (often not openly linked to the parent company),
McDonald's varies its menus by regions, and MTV has responded with different
programs for different countries.[72] Even before the political boycotts that
followed the Iraq War, market trends were reducing the dominance of American
brands. The popular cultural resources that can produce American soft power
are important, but they are far from static.
|
Cũng cần lưu ý rằng trong khi các công ty Mỹ vẫn chiếm ưu
thế về các thương hiệu toàn cầu thì các thay đổi của thị trường đã tạo ra
tình trạng phân mảnh ngày càng tăng của các thương hiệu. Một thập kỷ trước
đây người ta cho rằng khi các rào cản thương mại được tháo bỏ, các thương
hiệu quy mô toàn cầu sẽ xóa sổ các thương hiệu địa phương. Trên thực tế công
nghệ đã hỗ trợ các quốc gia vốn quan ngại về tính tự chủ của mình đạt được
tính hiệu quả của quy mô trong việc sản xuất các sản phẩm chuyên biệt hóa, điều
này dẫn tới việc chuẩn mực hóa các thương hiệu gặp nhiều khó khăn. Coca Cola
hiện sở hữu hơn 200 nhãn hiệu (thường không thể hiện sự liên hệ rõ ràng với
công ty mẹ), McDonald’s phải điều chỉnh thực đơn của mình theo từng khu vực,
và MTV phải xây dựng các chương trình khác nhau cho các nước khác nhau.[72]
Ngay cả trước khi xảy ra các cuộc tẩy chay về mặt chính trị sau sự kiện chiến
tranh Iraq, các xu hướng của thị trường đã khiến cho các thương hiệu Mỹ bị
sụt giảm vị thế. Các tài nguyên văn hóa đại chúng giúp mang lại sức mạnh mềm
cho Mỹ có thể quan trọng nhưng không cố định mà luôn vận động, biến đổi.
|
DOMESTIC VALUES AND
POLICIES
The United States, like other countries, expresses its
values in what it does as well as what it says. Political values like democracy
and human rights can be powerful sources of attraction, but it is not enough just
to proclaim them. During the Cold War, President Eisenhower worried that the
practice of racial segregation in the American South was alienating the newly
independent countries in Africa. Others watch how Americans implement our
values at home as well as abroad. A Swedish diplomat recently told me, "All
countries want to promote the values we believe in. I think the most criticized
part of the U.S.'s (and possibly most rich countries') soft-power 'packaging'
is the perceived double standard and inconsistencies."[73] Perceived
hypocrisy is particularly corrosive of power that is based on proclaimed
values. Those who scorn or despise us for hypocrisy are less likely to want to
help us achieve our policy objectives.
|
CÁC CHÍNH SÁCH VÀ
GIÁ TRỊ TRONG NƯỚC
Mỹ cũng như các quốc gia khác thể hiện các giá trị của
mình qua các lời nói và hành động. Các giá trị về chính trị nhưdân chủ và
nhân quyền có thể là những yếu tố mang lại sự hấp dẫn cao, nhưng đưa ra những
tuyên bố về các giá trị này thôi vẫn chưa đủ. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh,
Tổng thống Eisenhower đã lo ngại rằng tình trạng phân biệt chủng tộc ở miền
Nam nước Mỹ có thể đẩy các quốc gia mới giành được độc lập ở Châu Phi trở nên
xa cách với Mỹ. Những người khác quan sát cách người Mỹ thực thi các giá trị trong
nước cũng như ngoài nước. Một nhà ngoại giao Thụy Điển gần đâyđã nói với tôi
rằng “Tất cả các nước muốn phát triển các giá trị mà chúng tôi tin. Tôi nghĩ vấn
đề bị chỉ trích nhiều nhất trong “gói” sức mạnh mềm của Mỹ (và có thể của đa
số các nước giàu) là sự thiếu nhất quán và hệ tiêu chuẩn kép.”[73] Cảm nhận
về sự đạo đức giả đặc biệt có tác dụng tiêu cực đối với thứ quyền lực dựa
trên những giá trị được đề cao một cách công khai. Những người khinh thường sự
đạo đức giả của nước Mỹ sẽ ít sẵn lòng giúp nước Mỹ đạt được các mục tiêu
chính sách của mình.
|
Even when honestly applied, American values can repel some
people at the same time that they attract others. Individualism and liberties
are attractive to many people, but repulsive to some, particularly
fundamentalists. For example, American feminism, open sexuality, and individual
choices are profoundly subversive in patriarchal societies. One of the terrorist
pilots who spent time in the United States before the attack on September I I
is reported to have said he did not like the United States because it is "too
lax. I can go anywhere I want and they can't stop me."[74] Some religious
fundamentalists hate the United States precisely because of our values of
openness, tolerance, and opportunity. More typical, however, is the reaction
of a Chinese writer who disagreed with his government's criticism of the
United States in 2003: "Amid this fog of nationalist emotion, it is all
the more remarkable that so many Chinese have managed to keep their faith in
American-style democracy. They yearn for a deeper change in their own country's
political system."[75]
|
Ngay cả khi được áp dụng một cách không sai lệch thì các
giá trị Mỹcũng có thể vừa cuốn hút người này lại vừa gây nên sự khó chịu cho
những người khác. Chủ nghĩa cá nhân và sự tự do luôn hấp dẫn đối với nhiều
người nhưng lại bị nhiều người khác căm ghét, đặc biệt là những tín đồ tôn
giáo cực đoan. Ví dụ như chủ nghĩa vị nữ kiểu Mỹ, tình dục thoáng và tôn trọng
các lựa chọn cá nhân được coi là vô cùng phản động ởcác xã hội theo chế độ phụ
quyền. Một trong những kẻ lái máy bay khủng bố sống ở Mỹ thời gian trước khi
xảy ra sự kiện 11/9 được cho là đã nói rằng hắn ta không thích nước Mỹ vì xã
hội ở đây “quá thoáng. Tôi có thể đi bất cứ đâu tôi muốn và không ai có thể ngăn
cản được tôi.”[74] Một số tín đồ tôn giáo cực đoan căm ghét nước Mỹ vì chính
sự cởi mở, khoan dung và giàu cơ hội dành cho các cá nhân của nước này. Tuy
nhiên, điển hình hơn chính là phản ứng của một nhà văn Trung Quốc vốn bất
bình với chỉ trích của chính phủ Trung Quốc đối với Mỹ vào năm 2003 “Trong đám
mây mù của tình cảm dân tộc chủ nghĩa này, thật đáng ghi nhận khi nhiều người
Trung Quốc vẫn có thể giữ vững lòng tin của mình vào nền dân chủ kiểu Mỹ. Họ khát
khao có được những thay đổi sâu sắc hơn trong hệ thống chính trị của nước
mình.”[75]
|
Admiration for American values does not mean that others
want to imitate all the ways by which Americans implement them. Despite admiration
for the American practice of freedom of speech, countries like Germany and South
Mrica have histories that make them wish to prohibit hate crimes that could
not be punished under the American First Amendment. And while many Europeans
admire America's devotion to freedom, they prefer policies at home that
temper neoliberal economic principles and individualism with a greater
concern for society and community. In 1991, two out of three Czechs, Poles, Hungarians,
and Bulgarians thought the United States was a good influence on their
respective countries, but fewer than one in four in each country wanted to
import the American economic model.[76] If anything, the Iraq War sharpened
the perceived contrast in values between the United States and Europe. A poll
conducted by the German Marshall Fund in June 2003 found agreement on both
sides of the Atlantic that Europeans and Americans have different social and
cultural values.[77]
|
Sựngưỡng mộđối với các giá trị Mỹ không có nghĩa là các
nước khác muốn bắt chước hoàn toàn cách mà người Mỹ thực hiện các giá trị đó.
Dù yêu thích thực tiễn tự do ngôn luận ở Mỹ, các quốc gia như Đức và Nam Phi
do vấn đề lịch sử nên muốn cấm các định kiến hay phát ngôn mang tính thù ghét
tôn giáo, chủng tộc... trong khi ở Mỹ hành vi này không bị trừng phạt theo Tu
chính án thứ nhất của Hiến pháp Mỹ. Và mặc dù ngưỡng mộ cam kết của Mỹ đối
với các quyền tự do nhưng người Châu Âu trong đối nội lại ưa thích các chính
sách theo nguyên tắc tân tự do có sự can thiệp chừng mực của nhà nước và đặt
chủ nghĩa cá nhân trong khuôn khổ mối quan tâm đối với xã hội và cộng đồng.
Vào năm 1991, cứ ba người Séc, Ba Lan, Hungary và Bungary thì có hai người
nghĩ rằng Mỹ có ảnh hưởng tố đối với đất nước của họ, nhưng cứ bốn người thì
có chưa tới một người ở mỗi nước muốn nhập khẩu mô hình kinh tế Mỹvào nước
mình.[76] Nếu có vấn đề nào đó làm sâu sắc hơn sự tương phản về giá trị giữa
Mỹ và Châu Âu thì đó chính là cuộc chiến tranh Iraq. Một cuộc thăm dò dư luận
do Quỹ Marshall Đức tiến hành vào tháng 6/2003 đã cho thấy người dân ở cả hai
bờ Đại Tây Dương đều cho rằng người Châu Âu và người Mỹ có các giá trị văn
hóa và xã hội khác nhau.[77]
|
As Figure 2.1 showed, half of the populations of the
countries polled in 2002 liked American ideas about democracy, but only a
third thought it good if American ideas and customs spread in their country.
Although two-thirds of Americans liked American ideas about democracy, only
one-third of the populations of Muslim countries like them,[78] This is not
entirely new. In the 1980s, public opinion in four major European countries
rated the United States as performing well in economic opportunities, rule of
law, religious freedom, and artistic diversity. But fewer than half of
British, German, and Spanish respondents felt the United States was a
desirable model for other countries,[79] How America behaves at home can enhance
its image and perceived legitimacy, and that in turn can help advance its foreign
policy objectives. It does not mean that others need or want to become
American clones.
|
Như Hình 2.1 cho thấy, một nửa người dân các nước được
thăm dò vào năm 2001 yêu thích các lý tưởng của người Mỹ về dân chủ, nhưng
chỉ một phần ba cho rằng nên áp dụng các lý tưởng và tập tục của người Mỹ vào
đất nước họ. Mặc dù chỉ hai phần ba người Châu Phi thích các lý tưởng của
người Mỹ về dân chủ, chỉ có một phần ba dân số các quốc gia Hồi giáo yêu
thích các lý tưởng này.[78] Điều này không hoàn toàn mới mẻ. Vào những năm
1980 dư luận công chúng ở bốn quốc gia Châu Âu chủ chốt đều đánh giá Mỹ tích
cực về khía cạnh thành tích phát triển kinh tế, chế độ pháp quyền, tự do tôn
giáo và sự đa dạng về nghệ thuật. Nhưng chưa tới một nửa người dân Anh, Đức
và Tây Ban Nha cảm thấy Mỹ là một mô hình mong muốn đối với các nước khác.[79]
Cách Mỹ cư xử trong nước có thể giúp nâng cao hìnhảnh và cảm nhận về tính chính
danh của nước này, và điều này ngược lại có thể giúp thúc đẩy các mục tiêu
chính sách đối ngoại của Mỹ. Điều này không có nghĩa là các nước khác cần hay
muốn trở thành một bản sao của nước Mỹ.
|
American performance on implementing our political values at
home is mixed. As noted earlier, the United States ranks at or near the top in
health expenditure, higher education, books published, computer and Internet
usage, acceptance of immigrants, and employment. But America is not at the top
in life expectancy, primary education, job security, access to health care, or
income equality. And high rankings in areas like the incidence of homicide and
the percentage of the population in jail reduce attractiveness. On the other
hand, there is little evidence for the cultural decline that some pessimists proclaim,
and many American domestic problems are shared by other postmodern societies.
|
Thành tích của Mỹ trong việc thực hiện các giá trị về chính
trị trong nước không đồng nhất. Như đã đề cập ở phần trước, Mỹ xếp hàng đầu
hoặc ở nhóm đầu các nước về chi tiêu y tế, giáo dụcđ ại học, sốl ượng sách
xuất bản, máy tính và sử dụng internet, đón nhận người di cư và việc làm.
Nhưng Mỹ không được xếp hàng đầu về tuổi thọ người dân, giáo dục tiểu học, an
ninh việc làm, tiếp cận đối với các dịch vụ y tế, hay bình đẳng về thu nhập. Đồng
thời việc được xếp hạng cao trong các vấn đề như số vụ giết người và tỉ lệd ân
số phải ở tù đã giảm sự hấp dẫn của Mỹ. Mặt khác, có rất ít bằng chứng cho
thấy sự suy thoái về văn hóa mà một số người bi quan đã nêu, và nhiều vấn đề nội
bộ của Mỹ cũng tồn tại ở các xã hội hậu hiện đại khác.
|
Crime, divorce rates, and teenage pregnancy are worse today
than in the 1950S, but all three measures improved considerably in the 1990S,
and, writes a former president of Harvard University, "There is no
reliable evidence that American students are learning less in school, or that
the American Dream is vanishing, or that the environment is more
polluted."[80] Health, environment, and safety conditions have improved.[81]
Most children still live with both natural parents, and the divorce rate has
stabilized.
|
Vấn đề tội phạm, tỉ lệ ly hôn và trẻ vị thành niên mang
thai ngày nay tồi tệ hơn so với thời kỳ những năm 1950, nhưng cả ba vấn đề này
đã có những bước cải thiện đáng kể vào những năm 1990, và như một cựu chủ tịch
Đại học Havard đã viết “Không có bằng chứng đáng tin cậy nào cho thấy các
sinh viên Mỹ ngày nay sao nhãng học hành hơn, Giấc mơ Mỹ đang biến mất, hay
môi trường đang trở nên ô nhiễm hơn.”[80] Y tế, môi trường và các điều kiện
an toàn đã được cải thiện.[81] Hầu hết trẻ em vẫn đang sống với cha mẹ đẻ và
tỉ lệ ly hôn đã trở nên ổn định.
|
Trust in government has declined over recent decades, and that
has led some observers to worry about American democracy. But the polling
evidence is not matched in all behaviors. For example, the Internal Revenue
Service reports no increase in cheating on taxes.[82] By many accounts,
government officials and legislators have become less corrupt than they were a
few decades ago.[83] Voluntary mail return of census forms increased to 67
percent in 2000, reversing a 30-year decline in return rates since 1970.[84]
Voting rates have declined from 62 percent to 50 percent over the past 40
years, but the decline stopped in 2000, and the current rate is not as low as
it was in the 1920s. Moreover, polls show that nonvoters are no more
alienated or mistrustful of government than voters are.[85]
|
Lòng tin vào chính phủ đã sụt giảm trong những thập kỷ gần
đây, và điều này đã khiến một số nhà quan sát lo ngại về nền dân chủ của Mỹ.
Nhưng bằng chứng từ các cuộc thăm dò không trùng khớp trong mọi hành vi. Ví
dụ như Cục Ngân sách Đối nội cho biết tỉ lệgian lận thuế không tăng.[82] Vì
nhiều lý do, các quan chức chính phủ và các nhà lập pháp đã trở nên ít tham
nhũng hơn so với một vài thập kỷ trước đây.[83] Sốlượng các phiếu điều tra
dân số được tự nguyện gửi lại qua đường bưu điện đã tăng lên mức 67% vào năm
2000, chấm dứt thời kỳ suy giảm suốt 30 năm từ năm 1970.[84] Tỉ lệ cử tri đi
bầu cử đã giảm từ mức 62% xuống 50% trong vòng 40 năm qua nhưng đà suy giảm
này đã ngừng lại vào năm 2000, và tỉl ệ hiện tại không thấp bằng thời kỳ những
năm 1920. Hơn nữa các cuộc thăm dò cho thấy những người khôngđi bỏ phiếu
không còn cảm thấy xa lánh hay mất lòng tin hơn vào chính phủ so với những người
đi bỏ phiếu.[85]
|
Despite predictions of institutional crisis expressed in
the aftermath of the tightly contested 2000 presidential election, constitutional
procedures were widely accepted and the incoming Bush administration was able
to govern effectively. Nor does the decline of trust in government seem to
have greatly diminished American soft power, if only because most other
developed countries seem to be experiencing a similar phenomenon. Canada,
Britain, France, Sweden, and Japan have experienced a loss of confidence in
institutions that seems to be rooted in the greater individualism and
diminished deference to authority that are characteristic of postmodern
societies.[86]
|
Bất chấp các dự báo về khủng hoảng thể chế sau cuộc bầu cử
tổng thống nghẹt thở và gây tranh cãi năm 2000, các quy trình thể chế vẫn được
chấp nhận rộng rãi và chính quyền Bush lên cầm quyền vẫn có thể vận hành một
cách hiệu quả. Và sự suy giảm lòng tin đối với chính phủ cũng không có vẻ làm
suy yếu sức mạnh mềm của Mỹ, và phần lớn các quốc gia phát triển khác dường
như cũng gặp phải hiện tượng tương tự. Canađa, Anh, Pháp, Thụy Điển và Nhật đều
gặp phải vấn đề mất lòng tin đối với các thể chế bắt nguồn từ sự gia tăng chủ
nghĩa cá nhân và giảm tôn trọng chính quyền vốn là những đặc trưng của các xã
hội hậu hiệnđại.[86]
|
Similarly, while there have been changes in participation
in voluntary organizations, changes in social participation do not seem to
have eroded American soft power. For one thing, the absolute levels of engagement
remain remarkably high on many indicators. Three-quarters of Americans feel connected
to their communities, and say the quality of life here is excellent or good.
According to a 2001 poll, over 100 million Americans volunteered their time to
help solve problems in their communities, and 60 million volunteer on a regular
basis.[87] Americans remain more likely than citizens of most other countries,
with the exception of a few small nations of Northern Europe, to be involved
in voluntary organizations.[88]
|
Tương tự, cho dù đã có những thay đổi trong vấn đề tham
gia vào các tổ chức tự nguyện, các thay đổi liên quan đến sự tham gia vào các
hoạt động xã hội dường như không làm suy suyển sức mạnh mềm của Mỹ. Một mặt,
nhiều chỉ số cho thấy mức độ tuyệt đối về sự tham gia vẫn còn đặc biệt cao.
Ba phần tư người dân Mỹ cảm thấy có mối liên hệ gắn kết với cộng đồng của
mình và cho rằng chất lượng sống ở đó tuyệt vời hay rất tốt. Theo một cuộc
thăm dò năm 2001, hơn 100 triệu người Mỹ tự nguyện giành thời gian để giúp
giải quyết các vấn đề của cộng đồng và 60 triệu người tự nguyện làm việc này
một cách thường xuyên.[87] Người Mỹ vẫn sẵn sàng tham gia các tổ chức tự nguyện
hơn so với công dân của đa số các nước khác, ngoại trừ một số quốc gia nhỏ ở Bắc
Âu.[88]
|
Even after 9/11, America remains a country of immigration.
People want to come to America, and they often do well here. By 1998, Chinese
and Indian engineers were running one-quarter of Silicon Valley's
high-technology businesses,[89] and such upward mobility makes America a
magnet. Foreigners can envisage themselves as Americans, and many successful
Americans "look like" them. Moreover, connections of individuals in
the diasporas such as the Indian and Chinese with their countries of origin
help to convey accurate and positive information about the United States.
|
Ngay cả sau sự kiện 11/9 Mỹ vẫn là một miền đất hứa của
người nhập cư. Nhiều người vẫn muốn tới Mỹ và họ thường thu được thành công ở
đây. Cho tới năm 1998, các kỹ sư gốc Trung Quốc và Ấn Độ sở hữu một phần tư số
doanh nghiệp công nghệ cao ở Thung lũng Silicon,[89] và xu hướng phát triển
nghề nghiệp tốt như vậy đã biến Mỹ trở thành một thỏi nam châm. Người nước
ngoài có thể tự coi mình là người Mỹ, và nhiều người Mỹ thành đạt “trông giống”
như vậy. Hơn nữa, các mối liên hệ giữa các cá nhân trong các cộng đồng kiều
dân như người Ấn và người Hoa với quê cha đất tổ giúp chuyển tải những thông tin
chính xác và tích cực về nước Mỹ.
|
Certainly a decline in the quality of American society or
unattractive policies at home could reduce our attractiveness and that could
damage our soft power. But when other countries share similar problems, comparisons
are less invidious and less damaging to our soft power. As a Population
Council report pointed out, "Trends like unwed motherhood, rising
divorce rates, smaller household and the feminization of poverty are not
unique to America, but are occurring worldwide."[90] Similarly, respect
for authority and institutions has declined since 1960 throughout the Western
world, and American levels are not much different than those of other
advanced Western societies. In fact, American levels of charitable giving and
community service are generally higher.[91] Problems that are shared with other
societies are less likely to cut into our soft-power resources.
|
Đương nhiên sự suy giảm chất lượng của xã hội Mỹ hay các
chính sách thiếu hấp dẫn trong nước có thể khiến cho mức độ hấp dẫn của Mỹ bị
suy giảm, dẫn tới sức mạnh mềm cũng bị ảnh hưởng. Nhưng khi các quốc gia khác
có chung vấn đề, sự so sánh sẽ công bằng hơn và ít gây thiệt hại hơn cho sức
mạnh mềm của Mỹ. Như báo cáo của Hội đồng Dân số đã chỉ ra “Các xu hướng như làm
mẹ đơn thân, tỉ lệ ly dị tăng cao, hộ gia đình ngày càng ít người và phụ nữ là
đối tượng chính chịu tác động của nghèo khổ không phải chỉ duy nhất Mỹ mới có
mà diễn ra trên toàn thếgiới.”[90] Tương tự, sự tôn trọng chính quyền và các
thể chế đã giảm xuống từ năm 1960 ở khắp các nước phương Tây và mức độ ở Mỹ không
khác nhiều so với các quốc gia phương Tây tiên tiến khác. Trong thực tế, mức độ
đóng góp từ thiện và phục vụ cộng đồng của người Mỹ nhìn chung còn cao hơn
các nước phương Tây khác.[91] Các vấn đề mà nước Mỹ cùng chia sẻ với các xã
hội khác sẽ ít có khả năng làm giảm các nguồn tài nguyên sức mạnh mềm của Mỹ.
|
American soft power is eroded more by policies like
capital punishment or the absence of gun control, where we are the deviants
in opinion among advanced countries. American support for the death penalty, for
example, meets disapproval from two-thirds of the public in Great Britain, France,
Germany, and Italy.[92] Similarly, the American domestic response to
terrorism after 9/11 runs some risk of reducing our soft-power resources.
Attitudes toward immigration have hardened, and new visa procedures have
discouraged some foreign students. A decline in religious tolerance toward
Muslims hurts the image of the United States in Muslim countries such as
Pakistan and Indonesia as well as in the Arab world.
|
Sức mạnh mềm của Mỹ bị xói mòn bởi các chính sách như án
tử hình hay thả lỏng kiểm soát súng đạn, những vấn đề mà Mỹ có quan điểm khác
biệt với các nước tiên tiến khác. Ví dụ như việc Mỹ ủng hộ án tử hình đã vấp
phải sự phản đối của hai phần ba công chúng ở các nước Anh, Pháp, Đức và Ý.[92]
Tương tự, phản ứng trong nước của Mỹ đối với chủ nghĩa khủng bố sau sự kiện
11/9 có nguy cơ làm suy giảm các nguồn tài nguyên sức mạnh mềm của nước này.
Thái độ đối với đối với người nhập cư đã cứng rắn hơn và các quy trình cấp
thị thực mới đã gây trở ngại cho một số sinh viên nước ngoài. Việc giảm khoan
dung tôn giáo đối với người Hồi giáo cũng làm tổn thương hình ảnh nước Mỹ ở các
quốc gia Hồi giáo như Pakistan, Indonesia cũng như thế giới Ả rập.
|
Although President Bush wisely included Muslim clerics in the
mourning ceremony at the National Cathedral and invited them to the White
House after 91r1, the Pentagon chose Franklin Graham, a Christian evangelist who
branded Islam a "very wicked and evil religion," to conduct its
Good Friday service in 2003.93 Some Americans have cast Islam in the role
that was once played by Communism and the Soviet Union. The past president of
the Southern Baptist Convention described Muhammad as "a demon-possessed
pedophile." Such fringe views are often magnified abroad, particularly
when they appear to have official sanction. The result, in the experience of
Dr. Clive Calver of World Relief, is that such comments are "used to indict
all Americans and used to indict all Christians. It obviously puts lives and
livelihoods of people overseas at risk."[94] Religion is a double-edged sword
as an American soft-power resource, and how it cuts depends on who is
wielding it.
|
Mặc dù Tổng thống Bush đã khôn ngoan đưa các tu sĩ Hồi
giáo vào tham dự lễ tang tại Nhà thờ Quốc gia và mời họ tới Nhà Trắng sau
ngày 11/9 nhưng Lầu Năm Góc lại chọn Franklin Graham, một nhà truyền đạo Công
giáo từng gọi Hồi giáo là “một tôn giáo rất tồi tệ xấu xa” cử hành nghi lễ Ngày
thứ sáu tốt lành vào năm 2003.[93] Một số người Mỹ đã gán cho đạo Hồi vai trò
tương tự như vai trò của Chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô trướcđây. Chủ tịch của
Liên hiệp Báp-tít Nam phương trước đây đã gọi nhà tiên tri Muhammad là “kẻ ấu
dâm của quỷ.” Các quan điểm tiêu cực như vậy thường được phóng đại ở nước
ngoài, đặc biệt là khi những quan điểm đó có vẻ như được ủng hộ một cách
chính thức. Kết quả là, như lời Tiến sĩ Clive Calver của tổ chức World
Relief, các bình luận như vậy “được các phần tử nước ngoài sử dụng nhằm buộc
tội tất cả người Mỹ và tất cả những người theo Công giáo. Rõ ràng chúng gián
tiếp đe dọa sinh mạng và cuộc sống của nhiều người dân nước ngoài.”[94] Tôn
giáo là một nguồn tài nguyên sức mạnh mềm của Mỹ và là một con dao hai lưỡi,
nó cắt ra sao còn phụ thuộc vào ai là người nắm trong tay con dao đó.
|
Also damaging to American attractiveness is the perception
that the United States has not lived up to its own profession of values in
its response to terrorism. It is perhaps predictable when Amnesty International
referred to the Guantanamo Bay detentions as a "human rights
scandal," and Human Rights Watch charged the United States with
hypocrisy that undercuts its own policies and puts itself in "a weak
position to insist on compliance from others."[95] Even more damaging
perhaps is when such criticism came from conservative pro-American sources.
The Financial Times worried that "the very character of American democracy
has been altered. Most countries have chosen to adjust the balance between
liberty and security since September 11. But in America, the adjustment has
gone beyond mere tinkering to the point where fundamental values may be
jeopardised." Meanwhile The Economist argued that President Bush
"is setting up a shadow court system outside the reach of either
Congress or America's judiciary, and answerable only to himself... Mr. Bush
rightly noted that American ideals have been a beacon of hope to others around
the world. In compromising those ideals in this matter, Mr. Bush is not only
dismaying America's friends, but also blunting one of America's most powerful
weapons against terrorism."[96] Pictures of prisoner abuse at Iraq's Abu
Ghraib prison achieved iconic status after being published around the world.
It remains to be seen how lasting such damage will be to America's ability to
obtain the outcomes it wants from other countries. At a minimum, it tends to
make our preaching on human rights policies appear hypocritical to some
people.
|
Cũng gây hại không kém cho sức hấp dẫn của Mỹ chính là cảm
nhận rằng Mỹ không thực hiện được như tuyên bố về các giá trị của mình trong
việc đáp trả chủ nghĩa khủng bố. Không có gì bất ngờ khi tổ chức Ân xá Quốc
tế gọi trại giam ở vịnh Guantanamo là một “vụ bê bối nhân quyền” và Tổ chức
Giám sát Nhân quyền (Human Rights Watch) buộc tội Mỹ đạo đức giả khi đi ngược
lại chính sách của chính mình và tự đặt mình vào “thế yếu và không thể đòi các
quốc gia khác phải tuân thủ các tiêu chuẩn về nhân quyền.”[95] Thậm chí nguy
hại hơn chính là khi các nước chỉ trích như vậy đến từ các nguồn thân Mỹ theo
tư tưởng bảo thủ. Tờ Financial Times lo ngại rằng “Đặc điểm cốt lõi của nền
dân chủ Mỹ đã bị biến đổi. Hầu hết các nước đã chọn cách điều chỉnh sự cân
bằng giữa quyền tự do và an ninh sau sự kiện 11/9. Nhưng ở Mỹ sự điều chỉnh
này đã vượt quá giới hạn đến mức các giá trị cơ bản cũng bị đe dọa.” Trong
khi đó tờ The Economist lại lập luận rằng Tổng thống Bush “đang dựng lên một hệ
thống tòa án chìm bên ngoài tầm kiểm soát của Quốc hội lẫn hệ thống tư pháp
Mỹ và chỉ chịu trách nhiệm trước mỗi một mình tổng thống mà thôi... Ông Bush đã
lưu ý một cách chính xác rằng các lý tưởng của Mỹ có thể là một chỉ dẫn hy
vọng đối với các nước khác trên thế giới. Bằng cách thỏa hiệp các lý tưởng đó
trong vấn đề này, ông Bush không những làm thất vọng các quốc gia bạn bè của
Mỹ mà còn làm cùn đi một trong những vũ khí chống khủng bố mạnh mẽ nhất của
nước Mỹ.”[96] Những hình ảnh ngược đãi tù nhân ở nhà tù Abu Ghraib ởIraq đã
gây chấn động sau khi được phát tán khắp thế giới. Vẫn còn quá sớm để biết được
những tổn hại này đối với khả năng của Mỹ trong việc đạt được các mục tiêu
mong muốn từ các quốc gia khác sẽ kéo dài trong bao lâu. Nhưng ít nhất thì sự
cố này cũng khiến cho nhiều người cho rằng sự rao giảng của Mỹ về các chính
sách nhân quyền dường như chỉ là một thứ đạo đức giả mà thôi.
|
FOREIGN POLICY
SUBSTANCE AND STYLE
The attractiveness of the United States also depends very
much upon the values we express through the substance and style of our
foreign policy. All countries pursue their national interest in foreign
policy, but there are choices to be made about how broadly or narrowly we
define our national interest, as well as the means by which we pursue it.
After all, soft power is about mobilizing cooperation from others without threats
or payments. Since it depends on the currency of attraction rather than force
or payoffs, soft power depends in part on how we frame our own objectives.
Policies based on broadly inclusive and far-sighted definitions of the national
interest are easier to make attractive to others than policies that take a
narrow and myopic perspective.
|
NỘI DUNG VÀ PHONG
CÁCH CHÍNH SÁCHĐỐI NGOẠI
Sự hấp dẫn của nước Mỹ còn phụ thuộc rất nhiều vào các giá
trị được thể hiện thông qua nội dung và phong cách chính sách đối ngoại của
Mỹ. Tất cả các quốc gia đều theo đuổi lợi ích quốc gia thông qua chính sách đối
ngoại, nhưng họ có thể lựa chọn lợi ích quốc gia theo định nghĩa rộng hoặc
hẹp, cũng nhưcác phương tiện để theo đuổi các lợi ích đó. Rốt cuộc, sức mạnh
mềm chính là khả năng huy động sự hợp tác từ những người khác mà không cần
dùng đến đe dọa hay mua chuộc. Vì điều này liên quan tới mức độ hấp dẫn nhiều
hơn là vũ lực hay chi phí mua chuộc nên sức mạnh mềm phụ thuộc một phần vào
cách nước Mỹ xác định mục tiêu của mình. Các chính sách dựa vào các định
nghĩa chính sách đối ngoại rộng lớn và có tầm nhìn xa thường dễ hấp dẫn
hơnđối với các quốc gia khác so với các chính sách dựa trên tầm nhìn hạn hẹp
và thiển cận.
|
Similarly, policies that express important values are more
likely to be attractive when the values are shared. The Norwegian author Geir
Lundestad has referred to America's success in Europe in the atter half of the
twentieth century as an empire by invitation. "On the value side, federalism,
democracy and open markets represented core American values. This is what
America exported."97 And because of far-sighted policies like the
Marshall Plan, Europeans were happy to accept. But the resulting soft power
depended in part on the considerable overlap of culture and values between the
United States and Europe.
|
Tương tự như vậy, các chính sách thể hiện các giá trị quan
trọng nhiều khả năng hấp dẫn hơn nhờvào các giá trị được chia sẻ. Nhà văn Na
Uy Geir Lundestad đã gọi thành công của Mỹ ở Châu Âu vào nửa cuối thếkỷ 20 là
một đế chế được mời gọi can dự. “Xét về mặt giá trị, chủ nghĩa liên bang, dân
chủ và thị trường mở chính là những giá trị cốt lõi của Mỹ. Đây là những thứ mà
Mỹ đã xuất khẩu.”[97] Và nhờ vào các chính sách có tầm nhìn xa như Kếhoạch Marshall,
người Châu Âu đã vui vẻ đón nhận các giá trị này. Nhưng sức mạnh mềm nảy sinh
từ các giá trị này còn phụ thuộc một phần vào sự tương đồng đáng kể về văn
hóa và giá trị giữa Mỹ và Châu Âu.
|
|
|
In the twenty-first century the United States has an interest
in maintaining a degree of international order. It needs to influence distant
governments and organizations on a variety of issues such as proliferation of
weapons of mass destruction, terrorism, drugs, trade, resources, and
ecological damage that affect Americans as well as others. The United States,
like nineteenth-century Britain, also has an interest in keeping international
markets and global commons, such as the oceans, open to all. To a large
extent, international order is a public good-something everyone can consume
without diminishing its availability to others.98 Of course, pure public
goods are rare. And sometimes things that look good to Americans may not look
good to everyone else, and that is why consultation is important.
|
Trong thế kỷ21, Mỹ có lợi ích trong việc duy trì một mức độ
trật tự thế giới nhất định. Vì vậy Mỹ cần tác động tới các chính phủ và các
tổ chức trên thế giới liên quan tới các vấn đề khác nhau như phổ biến vũ khí
giết người hàng loạt, chủ nghĩa khủng bố, ma túy, thương mại, tài nguyên và
các tổn hại sinh thái vốn tác động tới nước Mỹ lẫn các nước khác. Nước Mỹ,
cũng giống như nước Anh vào thếkỷ 19, cũng có lợi ích trong việc giữ cho thị trường
quốc tế cũng như các tài nguyên chung của nhân loại như đại dương có thể tiếp
cậnđược bởi tất cả các quốc gia. Nói một cách rộng ra thì trật tự quốc tế chính
là một thứ hàng hóa công – một thứmà tất cả các quốc gia đều có thể hưởng thụ
mà không ảnh hưởng tới phần của các quốc gia khác.[98] Đương nhiên hàng hóa
công thuần khiết rất hiếm có. Và đôi khi những gì tốt cho nước Mỹ thì chưa
chắc đã tốt đối với những người khác, chính vì vậy tham vấn lẫn nhau rất quan
trọng.
|
A large country like the United States gains doubly when
it promotes public goods: from the goods themselves, and from the way that
being a major provider legitimizes and increases its soft power. Thus when the
Bush administration announced that it would increase its development
assistance and take the lead in combating RIV/AIDS, it meant the United
States would not only benefit from the markets and stability that might be
produced, but also by enhancing its attractiveness or soft-power resources. International
development is also an important global public good. Nonetheless, American foreign
aid was .1 percent of GDP, roughly one-third of the European levels, and
protectionist trade measures, particularly in agriculture and textiles, hurt
poor countries more than the value of the aid provided. According to one index
that tries to evaluate how well rich countries help the poor by including trade,
environment, investment, migration, and peacekeeping along with actual aid, the
United States ranks twentieth out of 21 Gust ahead of Japan).[99] Despite the
Bush administration's efforts, the United States has a distance to go to gain
soft-power resources in the development area.
|
Khi thúc đẩy phát triển các hàng hóa công, một đất nước
rộng lớn như Mỹ được hưởng lợi nhiều hơn từ bản thân các hàng hóa đó lẫn sự hợp
pháp hóa và gia tăng sức mạnh mềm thông qua vai trò là một trong những quốc
gia chủ chốt cung cấp các hàng hóa công đó. Chính vì vậy khi chính quyền Bush
thông báo sẽ cung cấp hỗ trợ phát triển và đi đầu trong cuộc chiến chống đại
dịch HIV/AIDS thì điều này có nghĩa là nước Mỹ sẽ không những được hưởng lợi từ
các thị trường và sự ổn định mà hàn hđộng trên có thể mang lại, mà còn được
hưởng lợi nhờ vào việc gia tăng sức hấp dẫn lẫn các nguồn tài nguyên sức mạnh
mềm của mình. Phát triển quốc tế cũng là một hàng hóa công toàn cầu quan
trọng. Tuy nhiên, viện trợ nước ngoài của Mỹ mới chỉ chiếm 0.1% GDP, khoảng
bằng một phần ba mức viện trợ của Châu Âu, và các biện pháp bảo hộ thương
mại, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và dệt may, đã làm thiệt hại cho
các nước nghèo nhiều hơn giá trị viện trợ mà họ nhận được từ Mỹ. Theo một chỉ
số đánh giá mức độ các nước giàu giúp đỡ các nước nghèo thông qua các biện
pháp khác nhau bao gồm thương mại, môi trường, đầu tư, di cư và gìn giữ hòa
bình cùng với viện trợ thực tế, Mỹ xếp hạng 20 trong số 21 quốc gia (chỉ đứng
trên Nhật Bản).[99] Bất chấp các nỗ lực của chính quyền Bush, Mỹ vẫn còn phải
đi một chặng đường khá xa nữa mới có thể giành được các nguồn tài nguyên sức
mạnh mềm trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển.
|
Foreign policies also produce soft power when they promote
broadly shared values such as democracy and human rights. Americans have
wrestled with how to integrate our values with other interests since the
early days of the republic, and the main views cut across party lines.
Realists like John Quincy Adams warned that the United States "goes not
abroad in search of monsters to destroy," and we should not involve
ourselves "beyond the power of extrication in all the wars of interest
and intrigue."[100] Others follow the tradition of Wood row Wilson and
emphasize democracy and human rights as foreign policy objectives. As we
shall see in chapter 5, today's neoconservatives are, in effect, right-wing
Wilsonians, and they are interested in the soft power that can be generated
by the promotion of democracy.
|
Chính sách đối ngoại cũng giúp mang lại sức mạnh mềm khi
thúc đẩy các giá trị được chia sẻ rộng rãi như dân chủ và nhân quyền. Người
Mỹ đã vật lộn tìm cách kết hợp các giá trị với các lợi ích của mình từ ngay
những ngày đầu lập quốc, và quan điểm chính được chia sẻ bởi cả hai đảng.
Những người theo chủn ghĩa hiện thực như John Quincy Adams cảnh báo rằng nước
Mỹ “không được đi ra nước ngoài để tìm diệt các hung thần,” và Mỹ không nên
can dự“ vượt quá sức mình trong tất cả các cuộc chiến tranh về lợi ích và vì
các tính toán của mình.”[100] Các chính trị gia khác theo truyền thống của
Woodrow Wilson đã nhấn mạnh dân chủ và nhân quyền là những mục tiêu chính của
chính sách đối ngoại. Như chúng ta sẽ thấy trong Chương 5, những người theo
trường phái tân bảo thủ hiện nay trên thực tế chính là những người theo tư tưởng
của Wilson có thiên hướng tả khuynh và họ mong muốn có được sức mạnh mềm
thông qua việc thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài.
|
During the 2000 election campaign, when George W Bush
frequently expressed traditional realist warnings that the United States
should not become overextended, leading neoconservatives urged him to make
human rights, religious freedom, and democracy priorities for American
foreign policy and "not to adopt a narrow view of U.S. national
interests."[101] After 9/11, Bush's policy changed and he spoke of the
need to use American power to bring democracy to the Middle East. As Lawrence
Kaplan and William Kristol put it, "When it comes to dealing with tyrannical
regimes like Iraq, Iran and, yes, North Korea, the U.S. should seek
transformation, not coexistence, as a primary aim of U.S. foreign policy. As such,
it commits the U.S. to the task of maintaining and enforcing a decent world
order."[102]
|
Trong suốt chiến dịch bầu cửnăm 2000, khi George W. Bush
thường xuyên thểhiện các cảnh báo dựa vào chủ nghĩa hiện thực truyền thống
rằng Mỹ không nên dàn trải sức mạnh của mình quá mức, những chính trị gia tân
bảo thủ hàng đầu đã thúc giục ông Bush đưa nhân quyền, tự do tôn giáo và dân
chủ thành những ưu tiên trong chính sách đối ngoại Mỹ và không “lựa chọn một
cách nhìn hạn hẹp về lợi ích quốc gia của Mỹ.”[101] Sau sự kiện 11/9, chính
sách của Bush đã thay đổi và ông đã đề cập tới sự cần thiết sử dụng sức mạnh
của Mỹ để mang dân chủ tới cho Trung Đông. Như Lawrence Kaplan và William
Kristol đã nhận xét, “Khi phải xử lý các chế độ độc tài như Iraq, Iran hay
Bắc Triều Tiên, Mỹ nên tìm cách chuyển hóa hơn là cùng tồn tại với các nước
này và coi đây là mục tiêu hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình. Bằng
cách đó Mỹ sẽ cam kết thực hiện nhiệm vụ duy trì và thực thi một trật tự thế giới
tốtđẹp.”[102]
|
The neoconservatives are correct that such a world order
could be a global public good, but they are mistaken to assume that their
vision will be shared by all those affected by it. Whether the neoconservative
approach creates rather than consumes American soft power depends not only on
the results but also on who is consulted and who decides. The neoconservatives
pay less heed than traditional Wilsonians to consultation through
international institutions. But because the currency of soft power is
attraction, it is often easier to generate and wield in a multilateral
context.
|
Những người thuộc phái tân bảo thủ đã đúng khi cho rằng
một trật tự thế giới như vậy có thể là một hàng hóa công toàn cầu, nhưng họ đã
nhầm khi cho rằng quan điểm của họ cũng được chia sẻ bởi tất cả các nước bị tácđộng
bởi quan điểm đó. Việc cách tiếp cận của phái tân bảo thủ tạo ra thêm hay làm
suy giảm sức mạnh mềm của Mỹ phụ thuộc vào không chỉ kết quả mà còn đối tượng
được tham vấn và người ra quyết định. Phái tân bảo thủ đã ít quan tâm tới việc
tham vấn thông qua các thể chế quốc tế hơn so với những người theo tư tưởng
của Wilson. Nhưng do yếu tố quan trọng nhất của sức mạnh mềm chính là sự hấp
dẫn nên tạo lập và chế ngự sức mạnh mềm trong bối cảnh đa phương thường là
một nhiệm vụ dễ dàng hơn.
|
In recent years, other countries have increasingly
complained about the unilateralism of American foreign policy. Of course such
differences are a matter of degree, and there are few countries that
are pure unilateralists or multilateralists. International
concerns about unilateralism began well before George W. Bush became
president, and involved Congress as well as the executive branch. The
president has disclaimed the label but most observers describe his administration
as divided between traditional pragmatists and a more ideological school that
the columnist Charles Krauthammer celebrated as "the new
unilateralism."[103]
|
Trong những năm gần đây các nước ngày càng phàn nàn về chủ
nghĩa đơn phương trong chính sách đối ngoại Mỹ. Đương nhiên những khác biệt
như vậy chủ yếu liên quan đến vấn đề mức độ, và hiếm có quốc gia nào hành động
hoàn toàn đơn phương hay đa phương. Các mối quan ngại của quốc tế về chủ nghĩa
đơn phương bắt đầu từ lâu, trước khi George W. Bush lên làm tổng thống, và
liên quan tới cả Quốc hội lẫn nhánh hành pháp. Tổng thống đã phủ nhận cáo
buộc trên nhưng đa phần các nhà quan sát cho rằng chính quyền Bush đã bị chia
rẽ giữa phái thực dụng truyền thống và một phái mang tính ý thức hệ hơn mà
nhà báo Charles Krauthammer đã tung hô là “chủ nghĩa đơn phương mới.”[103]
|
The "new unilateralists" advocate an assertive
approach to promoting American values. They worry about a flagging of internal
will and a reluctance to turn a unipolar moment into a unipolar era,[104]
American intentions are good, American hegemony is benevolent, and that
should end the discussion. To them, multilateralism means "submerging
American will in a mush of collective decision-making-you have sentenced
yourself to reacting to events or passing the buck to multilingual committees
with fancy acronyms."[105] They deny that American "arrogance"
is a problem. Rather, the problem is "the inescapable reality of
American power in its many forms."[106] Policy is legitimized by its
origins in a democracy and by the outcome-whether it results in an advance of
freedom and democracy. That post hoc legitimization will more than compensate
for any loss of legitimacy through unilateralism.
|
Những người theo chủ nghĩa đơn phương mới ủng hộ cách tiếp
cận mạnh đối với việc thúc đẩy các giá trị Mỹ. Họ lo ngại rằng sự suy yếu ý
chí trong nước và sự miễn cưỡng có thể ngăn cản nước Mỹ biến “khoảnh khắc đơn
cực” thành “kỷ nguyên đơn cực.”[104] Ýđịnh của người Mỹ là tốt, chủ nghĩa bá
quyền của Mỹ là có lợi cho thế giới và cuộc tranh luận nên chấm dứt bằng
những lập luận như vậy. Đối với họ chủ nghĩa đa phương có nghĩa là “nhấn chìm
ý chí của nước Mỹ vào một hố các quyết định tập thể - bạn tự buộc mình phải
phản ứng trước sự việc hay chuyền quả bóng sang các ủy ban quốc tế với những
tên gọi viết tắt mỹmiều.”[105] Họ không cho rằng thái độ “ngạo mạn” của nước
Mỹ là một vấn đề, mà vấn đề nằm ở chỗ “sự thực không thể thoát ly về quyền
lực của nước Mỹ tồn tại dưới nhiều dạng khácnhau.”[106] Các chính sách được
hợp pháp hóa nhờ được đưa ra bởi một nền dân chủ và nhờ vào kết quả cuối cùng
- cho dù kết quả đó có giúp thúc đẩy tự do và dân chủ hay không. Tính hợp
pháp đó cho dù đến muộn màng cũng có thể bù đắp được cho sự mất mát uy tín
diễn ra trong quá trình theo đuổi chủ nghĩa đơn phương.
|
Unfortunately, the approach of the new unilateralists is
not very convincing to other countries whose citizens observe that Americans are
not immune from hubris and self-interest. Americans do not always have all the
answers. As one realist put it, "If we were truly acting in the interests
of others as well as our own, we would presumably accord to others a
substantive role and, by doing so, end up embracing some form of
multilateralism. Others, after all, must be supposed to know their interests
better than we can know them."[107] Since the currency of soft power is
attraction based on shared values and the justness and duty of others to
contribute to policies consistent with those shared values, multilateral
consultations are more likely to generate soft power than mere unilateral assertion
of the values.
|
Tuy nhiên thật không may là cách tiếp cận của những người
theo chủ nghĩa đơn phương mới không thực sự thuyết phục đối với các nước
khác. Công dân các nước này nhận thấy rằng người Mỹ cũng không miễn nhiễm
trước lòng tự cao và ích kỷ. Người Mỹ không phải luôn luôn tìm được tất cả các
câu trả lời. Như một người theo chủ nghĩa hiện thực đã nói “Nếu chúng ta thực
sự hành động vì lợi ích của người khác cũng như lợi ích của chính chúng ta, chúng
ta sẽ chấp thuận trao cho những người khác một vai trò quan trọng, và như vậy
cuối cùng chúng ta sẽ theo đuổi một hình thức chủ nghĩa đa phương nhất định
nào đó. Rốt cuộc, những người khác luôn biết rõ lợi ích của họ hơn chúng ta.”[107]
Bản chất của sức mạnh mềm chính là sự hấp dẫn người khác dựa trên các giá trị
được chia sẻ, sự công bằng cũng như tráchnhiệm của những nước khác đóng góp
cho các chính sách phù hợp với những giá trị chung đó, vậy nên sự tham vấn đa
phương thường nhiều khả năng tạo ra sức mạnh mềm hơn so vớicác hành độngđơn
phương áp đặt các giá trị.
|
There is increasing evidence that the policies and tone of
the new unilateralists were directly responsible for the decline of America's
attractiveness abroad. A survey conducted a month before September II, 2001, found
that Western Europeans already described the Bush administration's approach
to foreign policy as unilateralist. Nearly two years later, the Iraq War hardened
these perceptions: pluralities of respondents said that American foreign policy
had a negative effect on their views of the United States.[108] In a dramatic
turnabout from the Cold War, strong majorities in Europe now see U.S.
unilateralism as an important international threat to Europe in the next ten
years. Nearly nine in ten French and Germans share this point of view, perceiving
the threat of U.S. unilateralism as comparable to the threats represented by
North Korea's or Iran's developing weapons of mass destruction. Even among
the Iraq coalition allies, Britain and Poland, two-thirds of these countries'
populations agree that U.S. unilateralism is an important threat. [109]
|
Ngày càng có thêm các bằng chứng cho thấy các chính sách
và luận điệu của những người theo chủ nghĩa đơn phương mới phải chịu trách
nhiệm trực tiếp đối với sự suy giảm sức hấp dẫn của Mỹ ở nước ngoài. Một cuộc
khảo sát tiến hành một tháng trước sự kiện 11/9/2001 cho thấy người dân Tây
Âu từ trước đã coi cách tiếp cận của chính quyền Bush mang màu sắc chủ nghĩa đơn
phương. Gần hai năm sau, cuộc chiến tranh Iraq càng củng cố hơn nữa cảm nhận
này: đa phần người trả lời nói rằng chính sách đối ngoại Mỹ có tác động tiêu
cực đối với cách nhìn nhận của họ đối với nước Mỹ.[108] Với một thay đổi đầy
kịch tính từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, giờ đây phần lớn người dân
Châu Âu lại coi chủ nghĩa đơn phương của Mỹ là một mối đe dọa quốc tế quan
trọng đối với Châu Âu trong vòng 10 năm tới. Gần 90% người Pháp và người Đức
chia sẻ quan điểm này, cho rằng mối đe dọa đến từ chủ nghĩa đơn phương Mỹ có
thể sánh với các mối đe dọađ ến từ việc Iran hay Bắc Triều Tiên phát triển vũ
khí hủy diệt hàng loạt. Ngay cả trong nhóm đồng minh tiến hành cuộc chiến
tranh Iraq, hai phần ba người dân ở Anh và Ba Lan đều đồng ý với quan điểm
cho rằng chủ nghĩa đơn phương Mỹ là một mối đe dọa quan trọng.[109]
|
The struggle between multilateralists and unilateralists in
the Congress created a schizophrenic American foreign policy even before the current
administration. The United States negotiated multilateral projects such as the
Law of the Seas Treaty, the Comprehensive Test Ban Treaty, the Land Mines Treaty,
the International Criminal Court, and the Kyoto Protocol on climate change,
but Congress failed to ratify them. In some cases, such as the Kyoto
Protocol, President Bush simply pronounced it "dead" without offering
any alternatives. Whatever the flaws of the Kyoto Protocol, the way Bush's
policy toward it was handled resulted in foreign reactions that undermined
American soft power. And in the run-up to the Iraq War, many other countries felt
that although the pragmatists prevailed in seeking Security Council
resolution 1441 aimed at removing Iraq's weapons of mass destruction in the
fall of 2002, the unilateralists had already decided on going to war. The
result was a stalemated diplomacy that turned into a dispute about American
power.
|
Cuộcđấu tranh giữa những người theo chủ nghĩa đa phương và
những người ủng hộ chủ nghĩa đơn phương trong Quốc hội Mỹ đã tạo nên tình
trạng phân lập trong chính sách đối ngoại Mỹ ngay cả trước khi chính quyền
hiện tại lên nắm quyền. Nước Mỹ đã tham gia đàm phán các hiệp ước đa phương
như Côngước Luật Biển, Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện, Hiệp ước
chống mìn sát thương cá nhân, Tòa án Hình sự Quốc tế và Nghị định thư Kyoto
về biến đổi khí hậu, nhưng Quốc hội đã từ chối phê chuẩn các hiệp ước này.
Trong một số trường hợp như Nghị định thư Kyoto, Tổng thống Bush chỉ tuyên bố
rằng Nghị định thưnày “đã chết” mà không đưa ra một giải pháp thay thế nào.
Bất chấp việc Nghị định thư Kyoto có khiếm khuyết gì đi nữa thì cách xử lý
trong chính sách của chính quyền Bush cũng đã dẫn tới các phản ứng làm xói
mòn sức mạnh mềm của Mỹ. Và trong thời gian trước khi diễn ra cuộc Chiến tranh
Iraq nhiều nước khác đã cho rằng mặc dù những người theo trường phái thực
dụng áp đảo trong việc thông qua nghị quyết số1441 của Hội đồng Bảo an nhằm loại
trừvũ khí giết người hàng loạt của Iraq vào mùa thu năm 2002 thì từ trước
những người theo chủ nghĩa đơn phương đã quyết định tiến hành chiến tranh.
Kết quả là tình trạng bế tắc trong ngoại giao và sau đó trở thành một cuộc
tranh cãi về sức mạnh của nước Mỹ.
|
Ever since Athens transformed the Delian League into an empire
in the fifth century B.C., smaller allies have been torn between anxieties
over abandonment or entrapment. The fact that American
allies have been able to voice their concerns helps to explain
why American alliances persisted so long after Cold War threats receded.
Membership in a web of multilateral institutions ranging from the UN to NATO
has been called a constitutional bargain.[110] Seen in the light of a
constitutional bargain, the multilateralism of American preeminence was a key
to its longevity, because it reduced the incentives for constructing
countervailing alliances.
|
Ngay từ thời Hi Lạp cổ đại khi Athens biến Liên minh Delia
thành một đế chế vào thếkỷ 5t rước Công nguyên, các quốc gia đồng minh nhỏ hơn
đã luôn bị giằng xé giữa việc từ bỏ hay nhắm mắt đi theo liên minh. Việc các đồng
minh của Mỹ có thể nêu lên các quan ngại của mình đã giúp giải thích tại sao
các liên minh của Mỹ lại có thể tồn tại lâu đến vậy sau khi các mối đe dọa
thời Chiến tranh lạnh đã thoái lui. Việc tham gia vào một mạng lưới các thể chế
đa phương từ Liên Hợp Quốc tới NATO được gọi là đàm phán trong khuôn khổ thể chế.[110]
Xét từ góc độ đàm phán trong khuôn khổ thể chế thì có thể thấy tính chấ tđa
phương gắn liền với sức mạnh vượt trội của Mỹ là một yếu tố giúp duy trì dài
lâu sức mạnh của nước này vì chủ nghĩa đa phương làm các nước giảm động lực
xây dựng các liên minh đối địch với nước Mỹ.
|
But giving others a voice also tempered American
objectives and made them more acceptable to others. Former Secretary of
Defense Robert McNamara, one of the architects of the Vietnam War, subsequently
concluded, "If we can't persuade nations with comparable values of the
merit of our cause, we'd better re-examine our reasoning. If we'd followed that
rule in Vietnam, we wouldn't have been there. None of our allies supported
US."[111] Multilateralism helps to legitimate American power, but paying
attention to allies also shapes our policies, and the new unilateralists felt
that those costs outweighed the soft-power benefits. Vice President Dick Cheney
warned, "Strength, and resolve and decisive action defeat attacks before
they can arrive on our shore." It is dangerous to rely too heavily on
reaching international consensus, asserted Cheney, because that approach
"amounts to a policy of doing exactly nothing." [112]
|
Nhưng cho phép người khác được quyền nêu quan điểm cũng
làm cho các mục tiêu của Mỹ biến đổi và dễ chấp nhận hơn đối với người khác.
Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, một trong những kiến trúc sư của
cuộc Chiến tranh Việt Nam, sau này đã kết luận rằng “Nếu chúng ta không thể thuyết
phục các quốc gia bằng những giá trị mà sứ mạng của chúng ta mang lại thì
chúng ta nên xem xét lại động cơ hành động của mình. Nếu chúng ta tuân thủ nguyên
tắc đó thì có lẽchúng ta đã không sa lầy ở Việt Nam. Không một quốc gia đồng
minh nào ủng hộ chúng ta.”[111] Chủ nghĩa đa phương giúp hợp pháp hóa quyền
lực của Mỹ nhưng việc lưu tâm tới các bạn bè đồng minh cũng giúp định hình
các chính sách của nước này, và những người theo chủ nghĩa đơn phương mới cảm
thấy rằng những chi phí đó lớn hơn các lợi ích về sức mạnh mềm mà Mỹ có thể thu
được. Phó Tổng thống Dick Cheney đã cảnh báo “Sức mạnh, lòng quyết tâm và các
hành động quyết đoán sẽ đánh bại các cuộc tấn công trước khi chúng tới được đất
nước chúng ta.” Ông Cheney cho rằng việc tìm mọi cách đạt được sự đồng thuận
quốc tế là nguy hiểm, vì chính sách đó “đồng nghĩa với một chính sách không
làm gì.”[112]
|
By and large, the American public has supported US.
involvement in multilateral institutions and appreciated the legitimacy that participation
has conferred on U.S. foreign policy. As we will see in chapter 3, support
for the United Nations has had its ups and downs over the past 50 years, but
in the aftermath of the Iraq War, two-thirds of Americans still voiced favorable
opinions of the United Nations.[113] Before the war, polls consistently
showed that public support for military action was strongest if the U.S. acted
with the backing of the Security Council. There is further evidence that unilateralism
makes a majority of Americans uncomfortable: after the war, two-thirds (67
percent) said that the tendency to go it alone was an important threat to the
United States over the next ten years.[114]
|
Nhìn chung, công chúng Mỹ đã ủng hộ sự tham gia của Mỹ vào
các thể chế đa phương và đánh giá cao tính hợp pháp mà việc tham gia này đã
mang lại cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Như chúng ta sẽ thấy trong Chương
3, sự ủng hộ đối với Liên Hợp Quố cđã có lúc tăng lúc giảm suốt hơn 50 năm
qua, nhưng sau cuộc chiến tranh Iraq hai phần ba người Mỹ vẫn có quan điểm ủng
hộ vai trò của Liên Hợp Quốc.[113] Trước khi cuộc chiến tranh bắt đầu, các cuộc
thăm dò dư luận chỉ ra một cách nhất quán rằng sự ủng hộ của công luận đối
với các hành động quân sự đạt mức cao nhất nếu Mỹ nhận được sự hậu thuẫn của
Hội đồng Bảo an. Ngoài ra cũng có các bằng chứng khác cho thấy chủ nghĩa đơn
phương khiến cho phần lớn người dân Mỹ không hài lòng: Sau cuộc chiến tranh
Iraq, hai phần ba (67%) nói rằng xu hướng hành xử đơn phương là một mối đe
dọa quan trọng đối với nước Mỹ trong vòng 10 năm tới.[114]
|
Of course, not all multilateral arrangements are good, and
a general presumption in favor of multilateralism need not be a straitjacket.
When the United States occasionally goes it alone in pursuit of public goods,
the nature of the broadly shared value of the ends can sometimes compensate
for the means in legitimizing the action and preserving soft power. But the
new unilateralists' efforts in recent years to elevate unilateralism from an
occasional tactic to a full-fledged strategy has been costly to American soft
power. That loss of soft power can be costly for hard power. For example, in
July 2003, when the United States encountered more resistance in Iraq than it
had planned for, it had half the Army's 33 active-duty combat brigades tied down
there. It sought peacekeeping and policing forces from India, Pakistan,
France, and other countries, but India, France, Germany, and others responded
that they would send forces only under UN auspices.[115]
|
Đương nhiên không phải mọi dàn xếp đa phương đều tốt, và
xu hướng chung ủng hộ chủ nghĩa đa phương không nhất thiết phải là một hạn
chế đối với hành động của Mỹ. Khi Mỹ đôi lần hành động đơn phương theo đuổi
các hàng hóa công thì bản chất các giá trị chung được chia sẻ rộng rãi của
mục đích đôi khi giúp biện minh cho phương tiện trong việc hợp pháp hóa hành
vi của Mỹ cũng như bảo tồn sức mạnh mềm của nước này. Nhưng các nỗ lực của những
người theo chủ nghĩa đơn phương mới trong những năm gần đây nhằm đưa chủ nghĩa
đơn phương từ chỗ là một sách lược nhất thời trở thành một chiến lược đầy đủ đã
gây nên những tổn thất lớn cho sức mạnh mềm của Mỹ. Sự mất mát về sức mạnh
mềm này cũng gây ảnh hưởng tới sức mạnh cứng của nước này. Ví dụ như vào
tháng 7/2003, khi Mỹ gặp phải nhiều sự kháng cự hơn ở Iraq so với dự kiến, Mỹ
đã buộc phải để một nửa trong số 33 sư đoàn lục quân thường trực nằm lại
chiến trường này. Mỹ cũng tìm kiếm sự đóng góp các lựclượng cảnh sát và gìn
giữ hòa bình từ Ấn Độ, Pakistan, Pháp và các nước khác nhưng ẤnĐộ, Pháp, Đức
và các nước khác trả lời rằng họ chỉ cử lực lượng của mình dưới màu cờ của
Liên Hợp Quốc mà thôi.[115]
|
Regardless of what tactics are used, style also matters, and
humility is an important aspect of foreign-policy style. During the 2000 political
campaign, George W. Bush described American power well: "Our nation stands
alone right now in the world in terms of power. And that's why we've got to
be humble and yet project strength in a way that promotes freedom .... If we
are an arrogant nation, they'll view us that way, but if we're a humble
nation, they'll respect US."[116] His statement was perceptive, yet
polls show that foreign nations consider his administration arrogant. Within
a few months of Bush's address, for the first time America's European allies joined other countries in
refusing to reelect the United States to the UN Human Rights Commission. One
observer noted that at the start of his administration, President Bush "contrived
to prove his own theory that arrogance provokes resentment for a country
that, long before his arrival, was already the world's most conspicuous and
convenient target."[117]
|
Bất kể sách lược nào được sử dụng thì phong cách cũng là
một vấn đề quan trọng, và thể diện là một trong những khía cạnh chính của phong
cách chính sách đối ngoại. Trong chiến dịch tranh cử năm 2000, George W. Bush
đã miêu tả quyền lực nước Mỹ rất hay rằng “Xét về quyền lực, đất nước chúng
ta hiện nay đang đứng một mình, vượt trội trên thế giới. Và đó là lý do tại
sao chúng ta phải khiêm nhường và sử dụng sức mạnh đó để thúc đẩy tự do...
Nếu chúng ta là một quốc gia ngạo mạn thì họ sẽ coi chúng ta như vậy, nhưng
nếu chúng ta là một quốc gia khiêm nhường, họ sẽ kính trọng chúng ta.”[116] Phát
biểu của ông Bush có vẻ dễ được tiếp nhận nhưng thực tế các cuộc thăm dò cho
thấy các quốc gia khác coi chính quyền Bush là một chính quyền ngạo mạn. Chỉ trong
vòng vài tháng sau phát biểu của Bush, lần đầu tiên các đồng minh Châu Âu của
Mỹ đã cùng các quốc gia khác từ chối bầu Mỹ vào Ủy ban Nhân quyền của Liên
Hợp Quốc. Một nhà quan sát cho rằng vào giai đoạn đầu cầm quyền, Tổng thống
Bush “đã cố gắng ‘sáng tạo’ nhằm chứng minh ý tưởng của riêng ông ta rằng
hành xử ngạo mạn sẽ khơi dậy sự bất bình đối với một đất nước mà từ trước khi
ông lên nắm quyền rất lâu đã là một mục tiêu tiện lợi và được chú ý của kẻ thù.”[117]
|
A sampling of public opinion in I I countries by the BBC in
2003 found that many people saw the United States as an arrogant superpower that
poses a greater danger to world peace than North Korea does. Sixty-five percent
overall-and a majority in every country, including the United States-said
that America was arrogant.[118] Writing in Britain's Financial Times, Philip
Stephens stated, "This shift in world opinion has much to do with rhetoric
and tone of voice. Time after time the quiet diplomacy of Colin Powell's
State Department and the cautious deliberations of George W Bush himself have
been undercut by the bellicose statements of Mr. Rumsfeld and of Dick Cheney,
the Vice President. The loud-hailer rhetoric often turns out to be at odds
with the pragmatic policy choices."[119]
|
Một cuộc thăm dò dư luận ở 11 nước do BBC tiến hành vào
năm 2003 đã cho thấy nhiều người coi nước Mỹ là một siêu cường ngang ngược và
gây nên các mối đe dọa đối với hòa bình thế giới thậm chí còn lớn hơn những
gì Bắc Triều Tiên đã làm. 65% tổng số người trả lời và đa sốngười được phỏng
vấn ở tất cả các quốc gia kể cả Mỹ đều nói rằng Mỹ rất kiêu ngạo.[118]Viết
trên tờ Financial Times của Anh, cây bút Philip Stephens đã cho rằng “Sự thay
đổi này trong công luận thế giới liên quan nhiều đến luận điệu và ngữ điệu.
Dần dần chính sách ngoại giao thầm lặng của Colin Powel và Bộ Ngoại giao cũng
như sự thận trọng của chính ông Bush đã bị lấn lướt bởi những tuyên bố đầy hiếu
chiến của Bộ trưởng Quốc phòng Rumsfeld và Phó Tổng thống Dick Cheney. Những
luận điệu to giọng cuối cùng lại không ăn khớp với các lựa chọn chính sách
mang tính chất thực dụng của chính quyền Bush”[119]
|
After the Iraq War, Irwin Stelzer, an American
conservative living in London, reported "an erosion of support for the
US from British friends who cannot by any stretch of the imagination be considered
anti-American. The swagger of the US Defence Department inclines them to give
credence to charges that unconstrained American power exists, and is likely
to be deployed in a manner that threatens the security of America's
allies."[120] One reporter observed about a meeting with Europeans that
Undersecretary of State John Bolton seemed to enjoy unnecessarily insulting
other countries.[121] Yet former President George H. W Bush had advised after
the Iraq War, "You've got to reach out to the other person. You've got to
convince them that long-term friendship should trump short-term
adversity." Brent Scowcroft, his national security adviser, warned that
"ad hoc coalitions of the willing can give us the image of arrogance,
and if you get to the point where everyone hopes that the US gets a black eye
because we're so obnoxious, then we'll be totally hamstrung."[122] A
century ago Teddy Roosevelt noted, when you have a big stick, it is wise to speak
softly. Otherwise you undercut your soft power. In short, though it is true
that America's size creates a necessity to lead and makes it a target for
resentment as well as admiration, both the substance and style of our foreign
policy can make a difference to our image of legitimacy, and thus to our soft
power.
|
Sau khi cuộc Chiến tranh Iraq kết thúc, Irwin Stelzer, một
người Mỹ theo tưtưởng bảo thủ sống tại Luân Đônđã nói về “sự ủng hộ bị xói
mòn đối với Mỹ của những người bạn Anh vốn trong tưởng tượng cũng không bao
giờcó thể được coi là những người chống Mỹ. Sự ngạo mạn của Bộ Quốc phòng Mỹ đã
khiến người Anh đi từ niềm tin đơn thuần tới cáo buộc cho rằng quyền lực của
Mỹ đã thực sự không được kiểm soát tốt, và thứ quyền lực đó có thể được triển
khai theo cách có thể đe dọa an ninh các đồng minh của Mỹ.”[120] Một nhà báo đã
kể về một cuộc gặp với các quan chức Châu Âu mà ở đó Thứ trưởng Ngoại giao
MỹJohn Bolton dường như thích mắng chửi các nước khác.[121] Thế nhưng cựu
tổng thống George W.H. Bush vẫn phát biểu sau Chiến tranh Iraq rằng “Bạn phải
gặp gỡ những người khác và thuyết phục họ rằng tình hữu nghị trong dài hạn sẽ
vượt qua sự bất đồng trong ngắn hạn. ”Brent Scowcroft, cố vấn an ninh quốc
gia của ông Bush, cũng cảnh báo rằng “các liên minh ý chí tạm thời có thể khiến
chúng ta phải mang hình ảnh của một kẻ ngạo mạn, nhưng nếu chúng ta hành xử tới
mức ai cũng muốn Mỹ bị trừng phạt vì sự khó chịu của chúng ta thì lúc đó
chúng ta sẽ hoàn toàn gặp tai họa.”[122] Một thế kỷ trước đây Teddy Roosevelt
đã nói rằng khi bạn có một cây gậy to bạn nên ăn nói nhẹ nhàng, lịch thiệp.
Nếu không bạn sẽ làm suy giảm hình ảnh và sức mạnh mềm của mình. Nói tóm lại,
cho dù thực tế sức mạnh của Mỹ khiến Mỹ cần đảm đương vai trò lãnh đạo và có
thể trở thành một đối tượng bị căm ghét cũng nhưđược ngưỡng mộ thì cả nội
dung lẫn phong cách chính sách đối ngoại Mỹ cũng có thể tạo ra sự khác biệt đối
với hình ảnh và uy tín, và vì vậy tác động tới sức mạnh mềm của nước Mỹ.
|
THE IMAGE OF THE UNITED STATES and its attractiveness to
others is a composite of many different ideas and attitudes. It depends in
part on culture, in part on domestic policies and values, and in part on the
substance, tactics, and style of our foreign policies. Over the years, these three
resources have often produced soft power-the ability to get the outcomes
America wanted by attracting rather than coercing others. All three are important,
but policy substance and style are both the most volatile and the most
susceptible to government control. In any event, we have seen that soft power
is not static. Resources change with the changing context. They have varied
in the past and will continue to do so in the future. Historical trends from the
Cold War era may not prove reliable guides when forecasting the ebb and flow
of American soft power in the war on terrorism. In chapter 4 we will discuss the
extent to which policies of public diplomacy can enhance that soft power. But
first, we should look at the soft power of others besides the United States.
|
Hình ảnh và sức hấp dẫn của nước Mỹ đối với các quốc gia
khác pha trộn nhiều ý tưởng và thái độ khác nhau. Chúng phụ thuộc một phần
vào văn hóa, một phần vào các giá trị và chính sách trong nước và một phần
vào nội dung, sách lược và phong cách chính sách đối ngoại Mỹ. Qua thời gian,
cả ba nguồn này đều tạo ra sức mạnh mềm – khả năng đạt được những kết quả mà
nước Mỹ mong muốn bằng cách cuốn hút hơn là cưỡng ép các quốc gia khác. Cả ba
khía cạnh trên đều rất quan trọng nhưng nội dung và phong cách chính sách đều
là những yếu tố rất dễ thay đổi và bị tác động bởi sự điều khiển của chính
phủ. Chúng ta đã thấy rằng trong mọi trường hợp sức mạnh mềm không nằm ở trạng
thái tĩnh mà luôn vận động. Các nguồn lực luôn thay đổi cùng với sự biến đổi
của bối cảnh. Quá khứ đã như vậy và tương lai vẫn thế. Các xu hướng lịch sử từ
thời kỳ Chiến tranh lạnh có thể không phải là những cơ sở đáng tin cậy để có
thể dự báo sự thăng trầm về sức mạnh mềm của nước Mỹ trong cuộc chiến chống chủ
nghĩa khủng bố của nước Mỹ. Ở Chương 4 chúng ta sẽ thảo luận mức độ các chính
sách ngoại giao công chúng có thể giúp tăng cường sức mạnh mềm của Mỹ tới đâu.
Nhưng trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu về sức mạnh mềm của một vài quốc gia
khác bên ngoài nước Mỹ.
|
APPENDIX PHỤ LỤC
Admire U.S.
for tech., sci.
advances
|
Like American
music,
movies, TV
|
Like American
ideas about
democracy
|
Like American
way of doing
business
|
Good that
American ideas/
customs spread
|
Ngưỡng mộ tiến bộ KHKT của Mỹ
|
Thích nhạc,điện ảnh, truyền hình
Mỹ
|
Thích các ý tưởng Mỹ về dân chủ
|
Thích cách làm kinh doanh của Mỹ
|
Thích phổbiến các lýtưởng, tập
quán Mỹ
|
|
Figure 2.4 Dimensions
of American Attractiveness in Europe
Source: Pew Global
Attitudes Project, What the World Thinks in 2002. Median measures in ten
European countries
|
Hình 2.4 Các khía
cạnh hấp dẫn của Mỹ ở Châu Âu: Nguồn: Pew Attitudes Project, What the World
Thinks in 2002 (Mức trung bình ở 10 quốc gia Châu Âu)
|
|
Admire U.S.
for tech., sci.
advances
|
Like American
music,
movies, TV
|
Like American
ideas about
democracy
|
Like American
way of doing
business
|
Good that
American ideas/
customs spread
|
Ngưỡng mộ tiến bộ KHKT của Mỹ
|
Thích nhạc,điện ảnh, truyền hình
Mỹ
|
Thích các ý tưởng Mỹ về dân chủ
|
Thích cách làm kinh doanh của Mỹ
|
Thích phổbiến các lýtưởng, tập
quán Mỹ
|
|
Figure 2.5 Dimensions
of U.S. Attractiveness in Southeast Asia
Source: Pew Global
Attitudes Project, What the World Thinks in 2002. Median measures in 6 Asian
countries (non-muslim majority populations)
|
Hình 2.5: Các khía
cạnh hấp dẫn của Mỹ ở Đông Nam Á
Nguồn: Pew Attitudes
Project, What the World Thinks in 2002 (Mức trung bình ở sáu quốc gia Châu Á
với đa số dân số không theo đạo Hồi)
|
|
Admire U.S.
for tech., sci.
advances
|
Like American
music,
movies, TV
|
Like American
ideas about
democracy
|
Like American
way of doing
business
|
Good that
American ideas/
customs spread
|
Ngưỡng mộ tiến bộ KHKT của Mỹ
|
Thích nhạc,điện ảnh, truyền hình
Mỹ
|
Thích các ý tưởng Mỹ về dân chủ
|
Thích cách làm kinh doanh của Mỹ
|
Thích phổbiến các lýtưởng, tập
quán Mỹ
|
|
Figure 2.6 Dimensions
of U.S. Attractiveness in Africa
Source: Pew Global
Attitudes Project, What the World Thinks in 2002. Median measures in 10 African
countries
|
Hình 2.6: Các khía
cạnh hấp dẫn của Mỹ ở Châu Phi:
Nguồn: Pew Attitudes
Project, What the World Thinks in 2002 (Mức trung bình ở 10 quốc gia Châu Phi
|
|
Admire U.S.
for tech., sci.
advances
|
Like American
music,
movies, TV
|
Like American
ideas about
democracy
|
Like American
way of doing
business
|
Good that
American ideas/
customs spread
|
Ngưỡng mộ tiến bộ KHKT của Mỹ
|
Thích nhạc,điện ảnh, truyền hình
Mỹ
|
Thích các ý tưởng Mỹ về dân chủ
|
Thích cách làm kinh doanh của Mỹ
|
Thích phổbiến các lýtưởng, tập
quán Mỹ
|
|
Figure 2.7 Dimensions
of U.S. Attractiveness in the Americas
Source: Pew Global
Attitudes Project, What the World Thinks in 2002. Median measures in nine
North and South American countries (excluding the U.S.)
|
Hình 2.7: Các khía
cạnh hấp dẫn của Mỹ ở Châu Mỹ
Nguồn: Pew Attitudes
Project, What the World Thinks in 2002 Mức trung bình ở chín quốc gia Châu Mỹ
(không kể Hoa Kỳ)
|
|
|
Translated by Lê Hồng Hiệp
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn