|
Chapter 5: Soft Power and
American Foreign Policy - P5
|
Chương 5: Sức mạnh mềm và
chính sách đối ngoại Hoa Kỳ
|
Soft Power: The
Means to Success in World Politics by JOSEPH S. NYE, JR.
|
Quyền lực mềm: Phương
tiện để thành công trong chính trị thế giới của Joseph S. Nye JR.
|
JOSEPH S. NYE, JR.,
Sultan of Oman Professor of International Relations, is Dean of the John F. Kennedy
School of Government. Nye has been on the faculty at Harvard since 1964,
during which time he also served as Assistant Secretary of Defense for
International Security Affairs, Chair of the National Intelligence Council,
and Deputy Assistant Secretary of State for Security Assistance, Science and
Technology. He is the author of numerous books and articles on national
security policy.
|
Joseph S. Nye JR., giáo
sư Quốc vương Oman về quan hệ quốc tế, là Hiệu trưởng Trường Chính phủ học John
F. Kennedy. Nye là giảng viên tại Đại học Harvard từ năm 1964, trong thời
gian đó ông cũng là Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng các vấn đề an ninh quốc tế,
Chủ tịch Hội đồng tình báo quốc gia, và Phó Trợ lý Ngoại trưởng về hỗ trợ an
ninh, Khoa học và Công nghệ. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách và bài báo về
chính sách an ninh quốc gia.
|
Anti-Americanism has increased in the past few years.
Thomas Pickering, a seasoned diplomat, considered 2003 “as high a zenith of
anti-Americanism as we’ve seen for a long time.” [1] Polls show that our soft
power losses can be traced largely to our foreign policy. “A widespread and
fashionable view is that the United States is a classically imperialist power...That
mood has been expressed in different ways by different people, from the hockey
fans in Montreal who boo the American national anthem to the high school
students in Switzerland who do not want to go to the United States as exchange
students.” [2]
|
Chủ nghĩa bài Mỹ đã phổ biến hơn trong những năm vừa qua.
Thomas Pickering, một nhà ngoại giao kỳ cựu đã xem năm 2003 như là “đỉnh điểm
của chủ nghĩa chống Mỹ mà chúng ta từng thấy trong khoảng thời gian dài”.[1]
Những cuộc thăm dò cho thấy sự suy giảm sức mạnh mềm của chúng ta có nguyên
nhân lớn từ chính sách ngoại giao. “Một quan điểm phổ biến và thời thượng cho
rằng nước Mỹ là một thế lực đế quốc kiểu cổ điển… Cách đánh giá kiểu này thể
hiện nhiều cách bởi nhiều người khác nhau, từ việc các cổ động viên hockey ở
Montreal la ó khi quốc ca Mỹ cất lên đến việc những học sinh trung học Thụy
Sĩ không muốn đi Mỹ theo các chương trình trao đổi văn hóa”.[2]
|
An Australian observer concluded that “the lesson of Iraq is
that the US’s soft power is in decline. Bush went to war having failed to win
a broader military coalition or UN authorization. This had two direct consequences:
a rise in anti-American sentiment, lifting terrorist recruitment; and a higher
cost to the US for the war and reconstruction effort.” [3] A Gallup International
poll showed that pluralities in fifteen out of twenty-four countries around the
world said that American foreign policies had a negative effect on their attitudes
toward the United States.
|
Một nhà quan sát Úc kết luận rằng “bài học của cuộc chiến
Iraq là sự suy giảm sức mạnh mềm của Mỹ. Bush đã thực hiện cuộc chiến nhưng
không có được những ủng hộ quân sự rộng rãi cũng như sự chuẩn thuận của Liên
Hiệp Quốc. Việc này có hai hậu quả: Có sự gia tăng tâm lý chống Mỹ, thúc đẩy
việc gia nhập các tổ chức khủng bố; thứ hai, chi phí cho cuộc chiến và cho
những nỗ lực tái thiết tăng cao.” [3] Hầu hết 15 quốc gia trong số 24 quốc
gia có trả lời thăm dò của viện Gallup International cho rằng chính sách đối
ngoại của Mỹ đã tác động tiêu cực đối với thái độ của họ về nước Mỹ.
|
A Eurobarometer poll found that a majority of Europeans
believe that the United States tends to play a negative role in fighting
global poverty, protecting the environment, and maintaining peace in the
world.[4] When asked in a Pew poll to what extent they thought the United
States “takes your interests into account,” a majority in twenty out of
forty-two countries surveyed said “not too much” or “not at all.”[5] In many countries, unfavorable ratings were
highest among younger people. American pop culture may be widely admired
among young people, but the unpopularity of our foreign policies is causing
the next generation to question American power. [6]
|
Một cuộc thăm dò ở châu Âu cho thấy nhiều người dân Châu
Âu tin là nước Mỹ có khuynh hướng đóng vai trò tiêu cực trong cuộc chiến
chống đói nghèo toàn cầu, trong bảo vệ môi trường và trong việc duy trì hòa
bình thế giới.[4] Khi được hỏi trong một cuộc thăm dò của Pew rằng nước Mỹ
“quan tâm đến lợi ích của bạn đến mức nào”, đa số trả lời ở 20 quốc gia trong
số 44 quốc gia được thăm dò trả lời là “không nhiều” hoặc “chẳng chút nào
cả”.[5] Ở nhiều nước, đánh giá tiêu cực đối với Mỹ thường phổ biến nhất ở thành
phần trẻ tuổi. Văn hóa đại chúng của Mỹ có lẽ được ngưỡng mộ sâu rộng trong
thanh niên nhưng sự kém thân thiện của các chính sách ngoại giao kiểu Mỹ đã
làm cho các thế hệ tiếp theo nghi ngờ sức mạnh Mỹ.[6]
|
American music and films are more popular in Britain,
France, and Germany than they were twenty years ago, another period when
American policies were unpopular in Europe, but the attraction of our
policies is even lower than it was then.[7] There are also hints that unpopular foreign
policies might be spilling over and undercutting the attractiveness of some
aspects of American popular culture. A 2003 Roper study showed that “for the
first time since 1998, consumers in 30 countries signaled their
disenchantment with America by being less likely to buy Nike products or eat
at McDonalds. . . . At the same time, nine of the top 12 Asian and European
firms, including Sony, BMW and Panasonic, saw their scores rise.”[8]
|
Phim ảnh và âm nhạc Mỹ ngày nay thịnh hành ở các nước Anh,
Pháp và Đức hơn 20 năm trước, khoảng thời gian mà chính sách của Hoa Kỳ không
phổ biến lắm ở các nước châu Âu, ấy vậy mà sự thu hút của chính sách Hoa Kỳ
lúc đó còn khá hơn bây giờ.[7] Có thể thấy rằng các chính sách không mấy thân
thiện đã lan tỏa và làm giảm mạnh sự hấp dẫn của những khía cạnh khác của văn
hóa thân thiện Mỹ. Một nghiên cứu của Roper năm 2003 cho thấy rằng, “lần đầu
tiên kể từ 1998, người tiêu dùng ở 30 quốc gia cho thấy sự chán ghét của họ
với kiểu cách Mỹ qua việc không muốn mua các sản phâm của Nike hay ăn ở các nhà
hàng McDonald’s… Cùng lúc đó, 9 trong 12 các công ty châu Á và Âu bao gồm
Sony, BMW and Panasonic gia tăng điểm số.” [8]
|
The Costs of
Ignoring Soft Power
Soft power is the ability to get what you want through
attraction rather than coercion or payments. When you can get others to want
what you want, you do not have to spend as much on sticks and carrots to move
them in your direction. Hard power, the ability to coerce, grows out of a
country’s military and economic might. Soft power arises from the attractiveness
of a country’s culture, political ideals, and policies. When our policies are
seen as legitimate in the eyes of others, our soft power is enhanced. Skeptics
about soft power say not to worry. Popularity is ephemeral and should not be
a guide for foreign policy in any case. The United States can act without the
world’s applause. We are so strong we can do as we wish. We are the world’s
only superpower, and that fact is bound to engender envy and resentment.
Fouad Ajami has stated recently, “The United States need not worry about hearts
and minds in foreign lands.” [9] Columnist
Cal Thomas refers to “the fiction that our enemies can be made less
threatening by what America says and does.” [10] Hơn Moreover, the United
States has been unpopular in the past, yet managed to recover. We do not need
permanent allies and institutions. We can always pick up a coalition of the
willing when we need to. Donald Rumsfeld is wont to say that the issues should
determine the coalitions, not vice-versa.
|
Cái giá của việc bỏ
qua sức mạnh mềm
Những người hoài nghi về sức mạnh mềm bảo rằng đừng nên lo
lắng. Tính phổ biến (hay được lòng dân – NBT) thường không bền vững và không
nên được xem như là một chỉ dẫn đối với chính sách đối ngoại trong bất kỳ
hoàn cảnh nào. Nước Mỹ có thể hành động chẳng cần thế giới tán thưởng. Ta quá
mạnh nên có thể làm gì mình muốn. Chúng ta là siêu cường duy nhất trên thế
giới, và chính vì thế nảy sinh ghen ghét và tỵ hiềm từ nước khác. Fouad Ajami
mới đây có tuyên bố rằng: “Hoa Kỳ không cần phải lo lắng vế tâm tư tình cảm
của dân các nước khác.” [9] Nhà báo Cal Thomas đề cập đến “sự tưởng tượng cho
rằng kẻ thù của Hoa Kỳ có thể trở nên ít đe dọa hơn tùy vào lời nói hay hành
động của Mỹ.”[10] Hơn nữa, Hoa Kỳ vốn không được ưa chuộng trong thời gian
qua đã có những nỗ lực để cải thiện tình hình. Chúng ta không cần những thể
chế hay đồng minh vĩnh viễn. Chúng ta luôn có thể tìm kiếm những liên minh ý
chí một khi chúng ta muốn. Donald Rumsfeld cho rằng vấn đề sẽ quyết định đồng
minh chứ không phải ngược lại.
|
But it would be a mistake to dismiss the recent decline in
our attractiveness so lightly. It is true that the United States has
recovered from unpopular poli-
cies in the past, but that was against the backdrop of the
Cold War, in which other countries still feared the Soviet Union as the
greater evil. Moreover, while America’s size and association with disruptive modernity
are real and unavoidable, wise policies can soften the sharp edges of that
reality and reduce the resentments that they engender. That is what the
United States did after World War II. We used our soft power resources and
co-opted others into a set of alliances and institutions that lasted for
sixty years. We won the Cold War against the Soviet Union with a strategy of
containment that used our soft power as well as our hard power.
|
Nhưng thật là sai lầm nếu bỏ qua chuyện sức hút của nước
Mỹ đã sút giảm. Đúng là Hoa Kỳ đã phục hồi hình ảnh vốn đã bị xấu đi từ những
chính sách kém thân thiện trước đây, tuy nhiên đó là thời kỳ Chiến tranh Lạnh
khi mà các nước vẫn còn sợ Liên Xô như một thế lực xấu xa hơn. Hơn nữa, như ở
Chương 2 có đề cập, trong khi tầm cỡ và tính hiện đại liên tục của Hoa Kỳ là
có thực và không thể tránh khỏi, chính sách thông minh có thể giúp mềm hóa
những khía cạnh gai góc của sự thật đồng thời giảm thiểu những tị hiềm mà
chúng gây ra. Hoa Kỳ đã làm được như vậy sau Thế chiến II. Hoa Kỳ đã tận dụng
các nguồn lực của sức mạnh mềm, và những nguồn lực khác để tạo nên những liên
minh cũng như các thể chế tồn tại hơn 60 năm qua. Hoa Kỳ đã thắng Liên Xô
trong cuộc Chiến tranh Lạnh bằng một chiến lược gây áp lực sử dụng cả sức
mạnh mềm và sức mạnh cứng.
|
It is true that the new threat of transnational terrorism
increased American vulnerability, and some of our unilateralism after
September 11 was driven by fear. But the United States cannot meet the new
threat identified in the national security strategy without the cooperation
of other countries. They will cooperate, up to a point, out of mere
self-interest, but their degree of cooperation is also affected by the
attractiveness of the United States. Take Pakistan for example. President
Pervez Musharraf faces a complex game of cooperating with the United States
on terrorism while managing a large anti-American constituency at home. He
winds up balancing concessions and retractions. If the United States were
more attractive to the Pakistani populace, we would see more concessions in
the mix.
|
Sự thật là mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố xuyên quốc
gia đã làm tăng tính dễ tổn thương của Hoa Kỳ, và một vài quan hệ song phương
của Hoa Kỳ sau ngày 11 tháng 9 bị chi phối bởi nỗi sợ hãi. Nhưng Hoa Kỳ lại
không thể đối phó với mối đe dọa nêu trên vốn đã được nêu trong chiến lược an
ninh quốc gia mà không có sự hợp tác của các quốc gia khác. Họ chỉ đơn thuần
hợp tác dựa trên lợi ích của họ, nhưng mức độ hợp tác cũng tùy vào sự thu hút
của chính Hoa Kỳ. Lấy Pakistan làm ví dụ: Tổng thống Parvez Musharraf đang
phải chơi một trò chơi khó trong việc vừa phải hợp tác với Hoa Kỳ trong cuộc
chiến chống khủng bố vừa phải đương đầu với một bộ máy chống Mỹ khồng lồ ở
quê nhà. Ông phải giữ thăng bằng giữa chấp thuận, nhượng bộ và từ chối. Nếu
Hoa Kỳ tỏ ra thu hút hơn với người Pakistan, Hoa Kỳ có thể có được những sự
chấp nhận nhiều hơn từ họ.
|
It is not smart to discount soft power as just a question
of image, public relations, and ephemeral popularity. As I argued earlier, it
is a form of power—a means of obtaining desired outcomes. When we discount
the importance of our attractiveness to other countries, we pay a price. Most
important, if the United States is so unpopular in a country that being
pro-American is a kiss of death in their domestic politics, political leaders
are unlikely to make concessions to help us. Turkey, Mexico, and Chile were
prime examples in the run-up to the Iraq war in March 2003. When American
policies lose their legitimacy and credibility in the eyes of others,
attitudes of distrust tend to fester and further reduce our leverage. For
example, after September 11, there was an outpouring of sympathy from Germans
for the United States, and Germany joined a military campaign against the al
Qaeda network. But as the United States geared up for the unpopular Iraq war,
Germans expressed widespread disbelief about the reasons the United States
gave for going to war, such as the alleged connection of Iraq to al Qaeda and
the imminence of the threat of weapons of mass
destruction. German suspicions were reinforced by what
they saw as biased American media coverage during the war and by the failure
to find weapons or prove the connection to al Qaeda right after the war. The
combination fostered a climate in which conspiracy theories flourished. By
July 2003, one-third of Germans under the age of thirty said that they
thought the American government might even have staged the original September
11 attacks. [11]
|
Thật không khôn ngoan khi cho rằng sức mạnh mềm chỉ đơn
giản là vấn đề hình ảnh, quan hệ công chúng hay tính phổ biến sớm nở tối tàn.
Như chúng ta đã lập luận, sức mạnh mềm thực sự là một phương tiện để đạt được
những kết quả mong muốn. Một khi chúng ta hạ thấp sự thu hút của quốc gia
mình đối với các nước, chúng ta sẽ phải trả giá. Điều quan trọng nhất là, nếu
Hoa Kỳ không thân thiện tại một quốc gia đến nỗi việc thân Mỹ đồng nghĩa với
việc tự sát trong chính sách đối nội của quốc gia đó, thì chắc chắn là các
nhà lãnh đạo chính trị khó có thể chấp nhận nhượng bộ Hoa Kỳ. Thổ Nhĩ Kỳ,
Mexico và Chile là những ví dụ trong thời gian chuẩn bị diễn ra cuộc chiến
Iraq tháng 3/2003. Một khi các chính sách của Mỹ đánh mất tính chính danh
cũng như sự khả tín trong mắt người khác, sự nghi kỵ có khuynh hướng lan
nhanh và mau chóng làm suy yếu ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ví dụ, sau sự kiện 11/9,
sự thông cảm của nước Đức dành cho Hoa Kỳ tăng lên rất nhiều và nước Đức đã
gia nhập lực lượng chống hệ thống Al Qaeda. Nhưng khi Hoa Kỳ phát động cuộc
chiến Iraq, người Đức đã bày tỏ sự bất tín nhiệm sâu rộng đối với những lý do
mà Hoa Kỳ đưa ra để tiến hành chiến tranh, ví dụ như việc Hoa Kỳ gắn Iraq với
biến cố 11/9 cũng như sự liên hệ đến mối đe dọa của vũ khí hủy diệt hàng
loạt. Sự nghi ngờ của người Đức đã được củng cố bởi cái mà họ cho là đã có sự
thiên vị của truyền thông Hoa Kỳ trong suốt cuộc chiến cũng như bởi sự thất
bại trong việc tìm kiếm vũ khí hủy diệt hàng loạt nhằm gắn nó với sự cố 11/9.
Việc gắn kết này đã tạo điều kiện cho sự bùng nổ của các suy luận về thuyết
âm mưu. Vào tháng 7/2003, theo một cuộc thăm dò dư luận của Reuters, một phần
ba dân Đức tuổi dưới 30 cho rằng chính quyền Mỹ có thể đã dàn dựng cho những
cuộc tấn công ngày 11 tháng 9.[11]
|
Absurd views feed upon each other, and paranoia can be
contagious. American attitudes toward foreigners harden, and we begin to
believe that the rest of the world really does hate us. Some Americans begin
to hold grudges, to mistrust all Muslims, to boycott French wines and rename
french fries, to spread and believe false rumors. [12] In turn, foreigners
see Americans as uninformed and insensitive to anyone’s interests but their
own. They see our media wrapped in the American flag. Some Americans, in
turn, succumb to residual strands of isolationism, saying that if others
choose to see us that way, “to hell with ’em.” If foreigners are going to be
like that, who cares whether we are popular or not. But to the extent that we
allow ourselves to become isolated, we embolden enemies such as al Qaeda.
Such reactions undercut our soft power and are self-defeating in terms of the
outcomes we want.
|
Những quan điểm bất thường lại hỗ trợ nhau làm cho nỗi ám
ảnh càng nhân rộng. Thái độ của dân Mỹ đối với người nước ngoài trở nên cứng
rắn hơn và người Mỹ bắt đầu cho rằng phần còn lại của thế giới căm ghét mình.
Nhiều người Mỹ đã tỏ ra cay đắng, nghi ngờ tất cả mọi người Hồi giáo, tẩy
chay rượu Pháp và đặt tên lại cho các loại khoai tây chiên Pháp, tin vào và
phổ biến những tin đồn vô căn cứ.[12] Mặt khác, người nước ngoài thì nhìn
người Mỹ như những kẻ thiếu thông tin và vô cảm, chỉ nghĩ tới lợi ích của mình.
Họ cho rằng truyền thông Mỹ chỉ quan tâm đến lợi ích Mỹ. Nhiều người Mỹ lần
lượt rơi vào tình trạng cô lập và sẽ “tính sổ” với ai nếu bị đẩy vào tình
trạng như thế. Nếu những người nước khác đều như thế, liệu có ai quan tâm đến
việc Hoa Kỳ có được ưa chuộng hay không? Nhưng chừng nào Hoa Kỳ còn tự cô lập
mình thì người Mỹ còn làm những kẻ thù như Al Qaeda mạnh thêm. Những phản ứng
như thế làm giảm sức mạnh mềm của Mỹ và tự bắn vào chân mình trong việc đạt
những kết quả dự định.
|
Some hard-line skeptics might say that whatever the merits
of soft power, it has little role to play in the current war on terrorism.
Osama bin Laden and his followers are repelled, not attracted by American
culture, values, and policies. Military power was essential in defeating the
Taliban government in Afghanistan, and soft power will never convert
fanatics. Charles Krauthammer, for example, argued soon after the war in
Afghanistan that our swift military victory proved that “the new
unilateralism” worked. That is true up to a point, but the skeptics mistake
half the answer for the whole solution.
|
Những người hoài nghi có thể cho rằng cho dù sức mạnh mềm
có những thế mạnh của nó, bản thân nó có vai trò mờ nhạt trong cuộc chiến
chống khủng bố hiện thời. Osama bin Laden và thuộc hạ của mình chống trả lại
chứ không phải được thu hút bởi nền văn hóa, giá trị và những chính sách của
Hoa Kỳ. Sức mạnh quân sự thật cần thiết trong việc đánh bại chính quyền
Taliban ở Afghanistan, và sức mạnh mềm sẽ không bao giờ cải biến được những kẻ
cực đoan. Ngay sau chiến thắng quân sự nhanh chóng của Hoa Kỳ ở Afghanistan,
Charles Krauthammer cho rằng cuộc chiến đã cho thấy chủ nghĩa đơn cực mới có
hiệu quả. Trong một chừng mực thì điều này đúng, tuy vậy những người hoài
nghi đã nhầm tưởng rằng một nửa câu trả lời là một giải pháp trọn vẹn.
|
Look again at Afghanistan. Precision bombing and Special
Forces defeated the Taliban government, but U.S. forces in Afghanistan
wrapped up less than a quarter of al Qaeda, a transnational network with
cells in sixty countries. The United States cannot bomb al Qaeda cells in Hamburg,
Kuala Lumpur, or Detroit. Success against them depends on close civilian
cooperation, whether sharing intelligence, coordinating police work across
borders, or tracing global financial flows. America’s partners cooperate
partly out of self-interest, but the inherent attractiveness of U.S. policies
can and does influence the degree of cooperation.
|
Nhìn lại Afghanistan. Bom chính xác và lực lượng đặc nhiệm
đã đánh bại chính quyền Taliban, nhưng quân đội Mỹ ở Afghannistan chưa bằng
một phần tư thành viên Al Qaeda, một hệ thống xuyên quốc gia với các nhóm ở
hơn 60 quốc gia. Hoa Kỳ thật không thể dội bom những chi nhánh Al Qaeda ở
Hamburgh, Kuala Lumpur hay ở Detroit. Chiến thắng chúng phụ thuộc vào hợp tác
dân sự gần gũi, chia sẻ thông tin tình báo, điều phối hoạt đông an ninh biên
giới hay theo dõi lưu chuyển tài chính toàn cầu. Các bên tham gia với Mỹ phần
nào bởi lợi ích của họ, nhưng sự hấp dẫn của các chính sách của Hoa Kỳ mới có
thể và thật sự quyết định mức độ hợp tác của họ.
|
Equally important, the current struggle against Islamist
terrorism is not a clash of civilizations but a contest whose outcome is
closely tied to a civil war between moderates and extremists within Islamic
civilization. The United States and other advanced democracies will win only
if moderate Muslims win, and the ability to attract the moderates is critical
to victory. We need to adopt policies that appeal to moderates and to use
public diplomacy more effectively to explain our common interests. We need a
better strategy for wielding our soft power. We will have to learn better how
to combine hard and soft power if we wish to meet the new challenges.
|
Quan trọng nữa là, cuộc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố
Hồi giáo thật ra không phải là một sự va chạm giữa các nền văn mình mà là một
cuộc đua mà kết quả lại gắn chặt với cuộc chiến nội bộ giữa hai phe phái Hồi
giáo ôn hòa và cực đoan. Hoa Kỳ và các nước dân chủ phát triển chỉ có thể
chiến thắng khi những người Hồi giáo ôn hòa thắng, và khả năng thu hút thành
phần ôn hòa này quyết định đối với sự thắng thế của họ. Chúng ta cần sử dụng
những chính sách có thể thu hút thành phần Hồi giáo ôn hòa cũng như các chính
sách ngoại giao công chúng cần hiệu quả hơn nhằm làm rõ những lợi ích chung
của nhau. Chúng ta cần một chiến lược tốt hơn để triển khai sức mạnh mềm của
mình. Chúng ta sẽ phải học cách kết hợp sức mạnh mềm và sức mạnh cứng tốt hơn
nếu muốn đối phó thành công với những thử thách mới.
|
Beneath the surface structure, the world changed in
profound ways during the last decades of the twentieth century. September 11
was like a flash of light ning on a summer evening that displayed an altered
landscape, and we are still left groping in the dark wondering how to find
our way through it. George W. Bush entered office committed to a traditional
realist foreign policy that would focus on great powers like China and Russia
and eschew nation building in failed states of the less-developed world. But
in September 2002, his administration proclaimed a new national security strategy
that declared “we are menaced less by fleets and armies than by catastrophic
technologies falling into the hands of the embittered few.” Instead of
strategic rivalry, “today, the world’s great powers find ourselves on the
same side—united by common dangers of terrorist violence and chaos.” The
United States increased its development assistance and its efforts to combat
AIDS because “weak states, like Afghanistan, can pose as great a danger to
our national interest as strong states.”[13] The historian John Lewis Gaddis
compared the new strategy to the seminal days that
redefined American foreign policy in the 1940s.[14]
|
Như đã trình bày ở Chương 1, bên dưới bề mặt của hệ thống,
thế giới biến đổi sâu sắc suốt hai thập niên cuối cùng của thế kỉ 20. Sự kiện
11/9 chỉ giống như một tia chớp lóe lên trong đêm tối mùa hè, làm lộ ra một
quang cảnh mới rồi đẩy chúng ta trở lại bối rối trong đêm tối nhưng chưa biết
phải làm sao tìm đường vượt qua. George W. Bush nhậm chức với cam kết thực
thi chính sách đối ngoại hiện thực truyền thống, tập trung vào những siêu
cường như Trung Quốc, Nga và bỏ qua việc xây dựng quốc gia ở các nước kém
phát triển đã mất kiểm soát. Nhưng năm 2002, chính quyền của ông ta tuyên bố
chính sách an ninh quốc gia mới dựa trên sự công nhận mà như Bush phát biểu:
“Chúng ta không bị đe dọa bởi các quân đội chính quy mà bởi thảm họa mà theo
đó vũ khí rơi vào tay của các nhóm thiểu số thù địch.” Thay vì chấp nhận cạnh
tranh chiến lược, Bush tuyên bố: “Ngày nay, các nước lớn trên thế giới đứng
về một phía, đoàn kết với nhau nhờ những mối nguy hiểm chung của bạo lực và
rối loạn khủng bố. Hoa Kỳ gia tăng hỗ trợ phát triển với nỗ lực chống AIDS
bởi vì “những nhà nước yếu kém như Afghanistan, có thể trở thành một mối nguy
hiểm cho quyền lợi quốc gia của các nước mạnh.”[13] Nhà sử học John Lewis
Gaddis so sánh chiến lược mới này với việc tái xác định lại chính sách đối
ngoại của Mỹ trong những năm 1940 sau Thế chiến thứ hai.[14]
|
The new strategy attracted criticism at home and abroad
for its excessive rhetoric about preemptive military strikes and the
promotion of American primacy. Critics pointed out that the practice of
preemption is not new, but that turning it into a doctrine weakens
international norms and encourages other countries to engage in risky
actions. Similarly, American primacy is a fact, but there was no need for
rhetoric that rubbed other people’s noses in it. Notwithstanding such flaws,
the new strategy responded to the deep trends in world politics that were
illuminated by the events of September 11, 2001. The “privatization of war”
is a major historical change in world politics that must be addressed. This
is what the new Bush strategy gets right. What the United States has not yet
sorted out is how to go about implementing the new approach. We have done far
better on identifying the ends than the means. On that dimension, both the
administration and Congress were deeply divided.
|
Chiến lược mới này bị phê bình trong nước cũng như ở nước
ngoài vì sự cao giọng ủng hộ việc tấn công quân sự phủ đầu cùng với việc thúc
đẩy sự lấn lướt của Mỹ. Những nhà phê bình chỉ ra rằng chiến lược đánh phủ
đầu không phải mới, nhưng việc biến nó thành một học thuyết sẽ làm suy yếu
những quy chuẩn quốc tế và khuyến khích các quốc gia khác can dự vào những
hoạt động đầy bất trắc. Tương tư như vậy, sự lấn lướt của Mỹ là có thực, tuy
nhiên chẳng cần gì phải nêu lên luận điệu khiến các nước khác bất mãn. Tuy đã
có những sai lầm như thế, chiến lược mới của Mỹ là kết quả của việc phản ứng
lại những xu hướng chính trị thế giới mà biến cố 11/9 là một minh họa. “Tư
nhân hóa chiến tranh” bởi những tổ chức đa quốc gia như Al Qaeda là một ví dụ
cho sự thay đổi lớn mang tính lịch sử của chính trị thế giới rất cần xem xét.
Đây là điều mà chiến lược của Bush đã nhận thức đúng hướng. Vấn đề mà Hoa Kỳ
chưa giải quyết được nằm ở chỗ là thực hiện cách tiếp cận mới như thế nào.
Chúng ta đã thực hiện việc xác định mục đích tốt hơn nhiều việc xác định
phương tiện. Về vấn đề này, cả chính phủ và quốc hội đều bị chia rẽ trầm
trọng.
|
According to the National Security Strategy, the greatest
threats the American people face are transnational terrorism and weapons of
mass destruction, and particularly their combination. Yet, meeting the
challenge posed by transnational military organizations that could acquire
weapons of mass destruction requires the cooperation of other countries—and
cooperation is strengthened by soft power. Similarly, efforts to promote
democracy in Iraq and elsewhere will require the help of others. Reconstruction
in Iraq and peacekeeping in failed states are far more likely to succeed and
to be less costly if shared with others rather than appearing as American imperial
occupation. The fact that the United States squandered its soft power in the
way that it went to war meant that the aftermath turned out to be much more
costly than it need have been.
|
Theo chiến lược an ninh quốc gia mới này, những hiểm họa
to lớn nhất mà người Mỹ phải đương đầu là chủ nghĩa khủng bố xuyên quốc gia
và vũ khí hủy diệt, và đặc biệt là khi có sự kết hợp cả hai. Nhưng việc đối
phó với thử thách từ những tổ chức quân sự xuyên quốc gia có vũ khí hủy diệt
hàng loạt cần thiết phải có sự hợp tác từ các nước khác, và sự hợp tác được
củng cố bởi sức mạnh mềm. Tương tự, những nỗ lực thúc đẩy dân chủ tại Iraq và
các nơi khác đòi hỏi sự trợ giúp của các nước khác. Việc tái thiết Iraq và
công việc gìn giữ hòa bình ở các quốc gia thất bại sẽ có thể thành công và ít
tốn kém hơn nếu trách niệm được chia sẻ với các nước chứ không phải chỉ bởi
sự chiếm đóng của Hoa Kỳ. Thực tế rằng Hoa Kỳ đã lãng phí sức mạnh mềm của
mình trong cách tiến hành chiến tranh đã làm cho chi phí hậu chiến trở nên
tốn kém hơn nhiều.
|
Even after the war, in the hubris and glow of victory in
May 2003, the United States resisted a significant international role for the
UN and others in Iraq. But as casualties and costs mounted over the summer,
the United States found many other countries reluctant to share the burden
without a UN blessing. As the top American commander for Iraq, General John
Abizaid, reported, “You can’t underestimate the public perception both within
Iraq and within the Arab world about the percentage of the force being so
heavily American.” But, Abizaid continued, other countries “need to have
their internal political constituents satisfied that they’re playing a role
as an instrument of the international community and not as a pawn of the
United States.”[15] Before the Madrid conference of potential donors to Iraq
in October 2003, the New York Times reported that L. Paul Bremer, the chief
occupation administrator in Baghdad, said, “I need the money so bad we have
to move off our principled opposition to the international community being in
charge.”[16] Neoconservatives like Max Boot were urging conservatives not to
treat marginalizing the UN as a core principle, and Charles Krauthammer,
proud author of “the new unilateralism,” called for a new UN resolution
because Russia, India, and others “say they would contribute only under such
a resolution.” In his words, “the U.S. is not overstretched. But
psychologically we are up against our limits. The American people are simply
not prepared to undertake worldwide nation building.”[17]
|
Ngay cả sau cuộc chiến, trong niềm kiêu hãnh chiến thắng
tháng 5 năm 2003, Hoa Kỳ đã từ chối chuyển giao vai trò quan trọng cho Liên
Hiệp Quốc và các nước khác. Nhưng khi thương vong và chi phí gia tăng qua mùa
hè, Hoa Kỳ nhận thấy là các nước rất lưỡng lự chia sẻ gánh nặng khi không có
Liên Hiệp Quốc ủng hộ. Như một tư lệnh quân Mỹ ở Iraq, tướng John Abizaid báo
cáo: “Chúng ta không thể đánh giá thấp sự cảm nhận của công chúng Iraq và thế
giới Ả-rập về sự hiện diện áp đảo của quân đội Mỹ.” Tuy vậy, theo Abizaid các
nước khác “cũng còn cần phải làm hài lòng các thành phần chính trị nội bộ của
họ rằng họ giữ vai trò như một công cụ của Liên Hiệp Quốc chứ không phải là
một con tốt của Mỹ.” [15] Trước hội
nghị các nhà tài trợ cho Iraq tháng 10 năm 2003 tại Madrid, Thời báo New York
ghi nhận rằng Paul Bremer, người đứng đầu lực lượng chiếm đóng ở Baghdad đã
phát biểu: “Tôi cần tiền đến mức phải từ bỏ nguyên tắc phản đối việc cộng
đồng quốc tế đứng ra chịu trách nhiệm chính”. [16] Những bình luận gia thuộc
phái tân bảo thủ như Max Boot thúc giục những người bảo thủ đừng xem nhẹ vai
trò của Liên Hiệp Quốc và Charles Krauthammer, tác giả của “thuyết đơn phương
mới” kêu gọi một nghị quyết Liên Hiệp Quốc mới bởi vì ông nghĩ rằng Nga, Ấn
Độ và các quốc gia khác “cho rằng họ chỉ có thể đóng góp nếu có một nghị
quyết như thế… Hoa Kỳ sẽ không kiệt sức. Nhưng về mặt tâm lý, chúng ta đã
chịu đựng đến mức có thể. Người Mỹ chỉ đơn giản là không được chuẩn bị cho
việc thực hiện trọng trách kiến tạo quốc gia trên toàn thế giới.”[17]
|
In the global information age, the attractiveness of the
United States will be crucial to our ability to achieve the outcomes we want.
Rather than having to put together pick-up coalitions of the willing for each
new game, we will benefit if we are able to attract others into institutional
alliances and eschew weakening those we have already created. NATO, for
example, not only aggregates the capabilities of advanced nations, but its interminable
committees, procedures, and exercises also allow these nations to train
together and quickly become interoperable when a crisis occurs. As for
alliances, if the United States is an attractive source of security and
reassurance, other countries will set their expectations in directions that
are conducive to our interests. Initially, for example, the U.S.-Japan
security treaty was not very popular in Japan, but polls show that over the
decades, it became more attractive to the Japanese public. Once that
happened, Japanese politicians began to build it into their approaches to
foreign policy. The United States benefits when it is regarded as a constant
and trusted source of attraction so that other countries are not obliged continually
to re-examine their options in an atmosphere of uncertain coalitions. In the
Japan case, broad acceptance of the United States by the Japanese public
“contributed to the maintenance of US hegemony” and “served as political
constraints compelling the ruling elites to continue cooperation with the United
States.”[18] Popularity can contribute to stability.
|
Trong thời đại thông tin toàn cầu này, sự hấp dẫn của Hoa
Kỳ là cần thiết để chúng ta có thể đạt được những kết quả mong muốn. Thay vì
phải lượm lặt các liên minh cho từng trò chơi mới, sẽ tốt hơn nếu chúng ta có
thể thu hút những quốc gia khác vào các liên minh mang tính thể chế và tránh
làm yếu những liên minh chúng ta đã tạo dựng được. Ví dụ như NATO, không chỉ
tập hợp nguồn lực của các nước phát triển, mà chính những ủy ban, quy trình
và các cuộc tập trận liên tục sẽ giúp các nước trong khối huấn luyện lẫn nhau
và hoạt động hỗ trợ nhau nhanh chóng khi có khủng hoảng xảy ra. Đối với các
liên minh, nếu Hoa Kỳ là nguồn an ninh và bảo đảm hấp dẫn, các nước khác sẽ
thiết lập các kỳ vọng theo hướng thích hợp với lợi ích của chúng ta. Ví dụ,
Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật, ký năm 1951, ban đầu không được thiện cảm lắm ở
Nhật, nhưng sau vài thập kỷ, các cuộc thăm dò cho thấy nó càng trở nên hấp
dẫn đối với công chúng Nhật. Khi được như vậy, chính giới Nhật bắt đầu đưa nó
vào cách tiếp cận đối ngoại với các nước. Hoa Kỳ được lợi khi nó được xem như
một cơ sở lợi ích bền vững và đáng tin cậy, từ đó các nước khác sẽ không phải
liên tục xem lại những lựa chọn chính sách của mình trong một môi trường liên
minh không chắc chắn. Trong trường hợp nước Nhật, sự chấp nhận rộng rãi Hoa
Kỳ của công chúng Nhật đã “góp phần cho việc duy trì thế độc tôn của Mỹ” và
“phục vụ như những ràng buộc chính trị đối với các thành phần tinh hoa chính
trị, làm cho họ phải tiếp tục hợp tác với Hoa Kỳ.”[18] Sự ưa chuộng có thể
góp phần cho ổn định.
|
Finally, as the RAND Corporation’s John Arquila and David
Ronfeldt argue, power in an information age will come not only from strong
defenses but also from strong sharing. A traditional realpolitik mind-set
makes it difficult to share with others. But in an information age, such
sharing not only enhances the ability of others to cooperate with us but also
increases their inclination to do so.[19] As we share intelligence and
capabilities with others, we develop common outlooks and approaches that
improve our ability to deal with the new challenges. Power flows from that
attraction. Dismissing the importance of attraction as merely ephemeral
popularity ignores key insights from new theories of leadership as well as
the new realities of the information age. We cannot afford that.
|
Sau cùng, theo John Arquilla và David Ronfeldt của tập
đoàn RAND, sức mạnh của thời đại thông tin toàn cầu không chỉ được hình thành
từ phòng thủ chắc chắn mà còn từ chia sẻ mạnh mẽ. Cách tư duy chính trị hiện
thực truyền thống khiến cho việc chia sẻ với các nước khó khăn hơn. Còn trong
thời đại thông tin này, chia sẻ không chỉ gia tăng năng lực của các nước
trong hợp tác với chúng ta mà còn củng cố các khuynh hướng hợp tác đó.[19]
Khi chia sẻ thông tin tình báo và nguồn lực với các nước, chúng ta đồng thời
phát triển các viễn cảnh và cách tiếp cận chung từ đó gia tăng năng lực ứng
phó của chúng ta với các thử thách mới. Quyền lực lưu chuyển dựa trên sự hấp
dẫn như vậy. Nếu gạt bỏ sự quan trọng của tính hấp dẫn, coi nó chỉ như là sự
phổ biến tạm thời của công luận, thì chúng ta hẳn sẽ bỏ qua những quan điểm
sâu sắc quan trọng của các lý thuyết về quyền lãnh đạo mới cũng như những
thực tế của thời đại thông tin này. Nếu thế, chúng ta không thể thành công
được.
|
AMERICAN EMPIRE?
Not everyone agrees with this picture of the changing
nature of world politics, and, thus, they recommend a different approach to
American foreign policy. Many argue that our new vulnerability requires a
much higher degree of forceful control. Moreover, our unprecedented power now
makes it possible. As Robert Kaplan has argued, “it is a cliché
these days to observe that the United States now possesses
a global empire; the question now is how the American empire should operate
on a tactical level to manage an unruly world.”[20] William Kristol, editor
of the neoconservative magazine The Weekly Standard, says, “We need to err on
the side of being strong. And if people want to say we’re an imperialist
power, fine.” [21] Writing in the same journal in 2001, Max Boot agreed, in
the explicitly titled article “The Case for an American Empire.”[22]
|
ĐẾ QUỐC HOA KÌ?
Không phải ai cũng đồng tình với bức tranh miêu tả sự thay
đổi bản chất chính trị thế giới này, và vì thế họ đề nghị cách tiếp cận khác
đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Nhiều người lập luận rằng tính dễ
tổn thương của Hoa Kỳ đòi hỏi một mức độ kiểm soát mạnh mẽ hơn. Hơn nữa, sức
mạnh lấn lướt của Hoa Kỳ giúp thực hiện điều đó. Robert Kaplan lập luận rằng:
“Việc nói Hoa Kỳ đang sở hữu một đế quốc mang tính toàn cầu là một cách nói
sáo mòn. Giờ đây câu hỏi đặt ra là làm sao đế quốc Mỹ có thể sử dụng những
mức độ chiến thuật khác nhau để quản lý một thế giới bất ổn.”[20] William
Kristol, chủ biên tạp chí tân bảo thủ The Weekly Standard nói: “Chúng ta nên
là một kẻ mạnh giả điếc. Khi có người muốn nói chúng ta là thế lực đế quốc
–cũng tốt thôi”. [21] Viết trên cùng tạp chí, Max Boot đồng tình với quan
điểm trên rõ ràng qua cách đặt tựa cho bài của mình “Trường hợp Đế chế Hoa
Kỳ.” [22]
|
Three decades ago, the radical left used the term
“American empire” as an epithet. Now the phrase has come out of the closet
and is used by a number of analysts, on the left and the right alike, to
explain and guide American foreign policy. Andrew Bacevich, for example,
argues that the notion of an American empire is approaching mainstream
respectability, and we should not worry about the semantic details.[23] But
words matter. In Alice in Wonderland, the Red Queen tells Alice that she can
make words mean whatever she wants. But when we want to communicate clearly
with others, we have to take care in what we use our words to do. If America
is like no other empire in history, as Bacevich claims, then in what sense is
it an empire? And while the use of the term may point up some useful
analogies, it may also mislead us by obscuring important differences.
|
Ba thập kỷ trước, cánh tả cấp tiến đã sử dụng cụm từ “Đế
chế Hoa Kỳ” một cách lưỡng lự. Ngày nay thì thuật ngữ trên đã được giới phân
tích ở cả cánh hữu lẫn cánh tả dùng để giải thích và định hướng chính sách
đối ngoại Hoa Kỳ. Andrew Bacevich lập luận rằng ý niệm về một đế chế Mỹ đang
dần được chính thức hóa trên các diễn đàn và chúng ta chẳng nên lo ngại về
mặt chi tiết ngữ nghĩa – khía cạnh ngữ nghĩa mang tính tiêu cực của từ “đế
chế”. [23] Nhưng từ ngữ luôn có vấn đề. Trong Alice ở xứ sở diệu kỳ, Hoàng
hậu Đỏ bảo Alice là cô có thể gán cho các từ bất cứ nghĩa gì mà cô muốn.
Nhưng thế giới của thế kỷ 21 không phải thế giới trong Xứ sở diệu kỳ. Nếu ta
muốn giao tiếp rõ ràng với người khác, chúng ta phải để ý đến cách sử dụng từ
ngữ. Nếu Hoa Kỳ không giống một đế chế nào trong lịch sử, như quan điểm của
Bacevich, thì nó là đế chế theo kiểu gì? Cách dùng ngôn từ có thể sẽ cho thấy
một số cách so sánh hữu ích, tuy nhiên nó lại có thể đánh lạc hướng chúng ta
và người khác bởi nó làm mờ những khác biệt quan trọng.
|
In many ways, the metaphor of empire is seductive. The
American military has a global reach, with bases around the world, and its
regional commanders sometimes act like proconsuls. English is a lingua
franca, like Latin. The American economy is the largest in the world, and American
culture serves as a magnet. But it is a mistake to confuse the politics of
primacy with the politics of empire. Although unequal relationships certainly
exist between the United States and weaker powers and can be conducive to exploitation,
absent formal political control, the term “imperial” can be misleading. Its
acceptance would be a disastrous guide for American foreign policy because it
fails to take into account how the world has changed. The United States is
certainly not an empire in the way we think of the European overseas empires
of the nineteenth and twentieth centuries because the core feature of such
imperialism was direct political control.[24] The United States has more
power resources, compared to other countries, than Britain had at its
imperial peak. On the other hand, the United States has less power, in the
sense of control over the behavior that occurs inside other countries, than
Britain did when it ruled a quarter of the globe. For example, Kenya’s
schools, taxes, laws, and elections—not to mention external relations—were
controlled by British officials. Even where Britain used indirect rule
through local potentates, as in Uganda, it exercised far more control than
the United States does today. Others try to rescue the metaphor by referring
to “informal empire” or the “imperialism of free trade,” but this simply
obscures important differences in degrees of control suggested by comparisons
with real historical empires. Yes, the Americans have widespread influence,
but in 2003, the United States could not even get Mexico and Chile to vote
for a second resolution on Iraq in the UN Security Council. The British empire
did not have that kind of problem with Kenya or India.
|
Trong nhiều trường hợp, việc dùng từ “đế chế” có sức mê
hoặc. Quân lực Mỹ vươn ra toàn cầu bằng các căn cứ trên khắp thế giới và
những tư lệnh vùng của Hoa Kỳ hành xử như những ông quan toàn quyền
(proconsul) và thực sự đã được báo chí gọi là như vậy. Tiếng Anh đóng vai trò
như tiếng Latinh ngày xưa. Nền kinh tế Mỹ thì lớn nhất thế giới, và văn hóa
Mỹ thì như nam châm. Nhưng thật sai lầm nếu lẫn lộn chính trị đế chế và chính
trị lãnh đạo. Dù rằng các quan hệ bất bình đẳng chắc chắn tồn tại giữa Hoa Kỳ
và các nước yếu hơn, và điều đó có thể bị khai thác, nhưng khi không có sự
kiểm soát chính trị, thuật ngữ “đế quốc” có thể bị hiểu lệch lạc. Nếu chấp
nhận nó sẽ có thể dẫn đến định hướng tệ hại đối với chính sách đối ngoại Mỹ,
bởi vì như vậy là đã không xem xét thế giới đã chuyển biến như thế nào. Hoa
Kỳ chắn chắc không phải là một đế chế như cách chúng ta nghĩ đối với các nước
đế chế Châu Âu của thế kỷ 19, 20 bởi vì đặc điểm chủ yếu của chủ nghĩa đế
quốc thời đó là việc kiểm soát chính trị trực tiếp.[23] Hoa Kỳ ngày nay có
nhiều nguồn lực để thực thi uy quyền hơn so với nước Anh ngay cả khi đế quốc
Anh đang ở thời kỳ đỉnh điểm của nó. Tuy nhiên, so với Anh Quốc, Hoa Kỳ lại
kiểm soát ít hơn nhiều những vấn đề diễn ra bên trong các nước khác khi đế
quốc Anh cai trị một phần tư thế giới. Ví dụ, tất cả trường học, thuế khóa,
luật pháp và hệ thống bầu cử của Kenya – chưa kể quan hệ đối ngoại – đều do
các viên chức Anh Quốc kiểm soát. Ngay khi Anh Quốc kiểm soát gián tiếp thông
qua các quan chức địa phương, ví dụ như ở Uganda, thì Anh Quốc vẫn thực thi
quyền lực nhiều hơn so với Hoa Kỳ ngày nay. Một vài người cố cứu việc sử dụng
từ ngữ bằng cách đề cập “đế chế không chính thức” hoặc “chủ nghĩa đế quốc tự
do thương mại” nhưng điều này cũng chỉ đơn giản nhằm che đậy sự khác biệt
quan trọng trong mức độ kiểm soát khi so sánh với các đế chế thực sự trong
lịch sử. Vâng, người Mỹ có tầm ảnh hưởng rộng lớn, nhưng trong năm 2003, nước
Mỹ lại không thể khiến Mexico và Chile bỏ phiếu ủng hộ cho nghị quyết lần hai
về Iraq tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Đế chế Anh chưa từng gặp phải
chuyện tương tự như vậy đối với Kenya hay Ấn Độ.
|
Devotees of the new imperialism say not to be so literal.
“Empire” is merely a metaphor. But the problem with the metaphor is that it
implies a control from Washington that is unrealistic and reinforces the
prevailing strong temptations towards unilateralism that are present in Congress
and parts of the administration. The costs of occupation of other countries
has become prohibitive in a world of multiple nationalisms, and the
legitimacy of empire is broadly challenged.
|
Những người ủng hộ cho kiểu chủ nghĩa đế quốc mới cho
rằng: “Đừng nề hà ngôn từ. ‘Đế chế’ chỉ là cách nói biểu tượng.” Nhưng vấn đề
với cách nói này là nó lại ám chỉ sự kiểm soát không có thật từ Washington,
làm củng cố cái thèm muốn mạnh mẽ về một chủ nghĩa đơn cực phổ biến tại cả
Quốc hội và nhiều thành phần của bộ máy nhà nước. Như chúng ta có thể thấy ở
Chương 1, chi phí cho việc chiếm đóng các nước khác ngày càng khó kham nổi
trong một thế giới đầy rẫy chủ nghĩa dân tộc nảy sinh. Từ đó, tính chính danh
cho một đế chế sẽ bị thách thức.
|
Power depends on context, and the distribution of power
differs greatly in different domains. In the global information age, power is
distributed among countries in a pattern that resembles a complex
three-dimensional chess game. On the top chessboard of political-military
issues, military power is largely unipolar, but on the economic board, the
United States is not a hegemon or an empire, and it must bargain as an equal
when Europe acts in a unified way. And on the bottom chessboard of
transnational relations, power is chaotically dispersed, and it makes no
sense to use traditional terms such as unipolarity, hegemony, or American
empire. Those who recommend an imperial American foreign policy based on
traditional military descriptions of American power are relying on woefully
inadequate analysis. If you are in a three-dimensional game, you will lose if
you focus only on one board and fail to notice the other boards and the
vertical connections among them—witness the connections in the war on
terrorism between military actions on the top board, where we removed a dangerous
tyrant in Iraq, but simultaneously increased the ability of the al-Qaeda
network to gain new recruits on the bottom, transnational board.[25]
|
Chúng ta có thể thấy là quyền lực tùy thuộc vào hoàn cảnh,
và sự phân chia quyền lực thay đổi lớn trong các địa hạt khác nhau. Chúng ta
có thể nhận thấy, trong thời đại thông tin toàn cầu, quyền lực được phân phối
giữa các quốc gia cùng nhau trên một thế cờ ba chiều phức tạp. Phía trên cùng
của bàn cờ gồm các vấn đề quân sự – chính trị, quyền lực quân sự hầu như đơn
cực, nhưng trên phần giữa bàn –phần kinh tế, Hoa Kỳ chẳng phải độc bá hay đế
chế, mà nó phải mặc cả để ngang cơ phải lứa với Châu Âu khi Châu Âu hành xử thống
nhất. Còn phía bên dưới bàn cờ của các quan hệ đa quốc gia, quyền lực thật sự
phân bố hỗn loạn. Ở đây việc sử dụng ngôn từ truyền thống kiểu như “đơn cực”,
“bá quyền” hay “Đế chế Hoa Kỳ” thật chẳng có ý nghĩa gì. Những người đề cập
đến một kiểu chính sách đối ngoại Mỹ dựa trên việc mô tả sức mạnh truyền
thống quân sự Mỹ đang tin vào một kiểu phân tích khiếm khuyết đáng buồn. Nếu
bạn đang chơi trên một bàn cờ ba chiều, bạn sẽ thất bại nếu chỉ tập trung vào
một chiều mà sơ sẩy trong các chiều khác, hay bạn không lưu ý đến mối liên hệ
giữa các chiều với nhau. Hãy xem các mối liên hệ trong cuộc chiến chống khủng
bố – giữa thế cờ của các hành động quân sự bên trên, nơi chúng ta đã trừ khử
được một bạo chúa nguy hiểm ở Iraq, nhưng đồng thời lại làm tăng khả năng của
hệ thống Al Qaeda – gia tăng quân số đa quốc gia hệ thống này – trong bàn cờ
phía dưới.[25]
|
Because of its leading edge in the information revolution
and its past investment in military power, the United States will likely
remain the world’s single
most powerful country well into the twenty-first century.
French dreams of a multipolar military world are unlikely to be realized
anytime soon, and the German Foreign Minister, Joschka Fischer, has
explicitly eschewed such a goal.[26] But not all the important types of power
come out of the barrel of a gun. Hard power is relevant to getting the
outcomes we want on all three chessboards, but many of the transnational
issues, such as climate change, the spread of infectious diseases,
international crime, and terrorism, cannot be resolved by military force
alone. Representing the dark side of globalization, these issues are inherently
multilateral and require cooperation for their solution. Soft power is
particularly important in dealing with the issues that arise from the bottom chessboard
of transnational relations. To describe such a world as an American empire
fails to capture the real nature of the foreign policy tasks that we face.
|
Vì ở thế dẫn đầu trong cuộc cách mạng thông tin và đã có
quá trình đầu tư quân sự, Hoa Kỳ rất có thể vẫn duy trì được vị thế là quốc
gia mạnh nhất thế giới khi bước sang thế kỷ 21. Giấc mơ của người Pháp về một
thế giới đa cực quân sự hẳn khó có thể sớm thành hiện thực. Joschka Fischer,
ngoại trưởng Đức, đã rõ ràng từ bỏ mục tiêu này.[26] Nhưng không phải tất cả
các loại hình quyền lực quan trọng đều được sinh ra từ kho súng. Quyền lực
cứng hẳn cần thiết để có được những kết quả mong muốn trên cả ba bàn cờ,
nhưng nhiều vấn đề xuyên quốc gia như thay đổi khí hậu, lan truyền bệnh dịch,
tội phạm quốc tế và chủ nghĩa khủng bố không thể giải quyết chỉ bằng các lực
lượng quân sự. Như mặt trái của toàn cầu hóa, những vấn đề này là hệ quả mang
tính đa phương và đòi hỏi hợp tác để tìm giải pháp cho chúng. Sức mạnh mềm
đặc biệt quan trọng trong việc đối phó với những vấn đề như vậy ở phần dưới
của bàn cờ – phần các quan hệ đa quốc gia. Mô tả một thế giới ba chiều kích
như thế để thấy rằng một đế chế Mỹ đã thất bại trong việc nắm bắt bản chất
của chính sách đối ngoại.
|
Another problem for those who urge that we accept the idea
of an American empire is that they misunderstand the underlying nature of
American public opinion and institutions. Even if it were true that unilateral
occupation and transformation of undemocratic regimes in the Middle East and
elsewhere would reduce some of the sources of transnational terrorism, the
question is whether the American public would tolerate an imperial role for
its government. Neoconservative writers like Max Boot argue that the United
States should provide troubled countries with the sort of enlightened foreign
administration once provided by self-confident Englishmen in jodphurs and
pith helmets, but as the British historian Niall Ferguson points out, modern
America differs from nineteenth century Britain in our “chronically short
time frame.”[27] Although an advocate of empire, Ferguson worries that the
American political system is not up to the task, and for better or worse, he
is right.
|
Một vấn đề khác nữa của những ai thúc giục chúng ta đồng ý
với ý tưởng về một đế chế Mỹ là họ hiểu sai bản chất của các thể chế và công
luận Mỹ. Dù sự thật là việc đơn phương chiếm đóng và chuyển hóa các chế độ
phi dân chủ ở Trung Đông hay nơi khác có thể sẽ làm giảm bớt những cơ sở
khủng bố đa quốc gia, câu hỏi vẫn đặt ra là liệu công chúng Mỹ có chấp nhận
vai trò đế quốc của chính quyền mình hay không. Những tác giả tân bảo thủ như
Max Boot cho rằng Hoa Kỳ nên cung cấp cho các quốc gia có vấn đề một hệ thống
chính quyền ngoại bang được khai sáng như những gì mà các kỵ binh người Anh
tự tin đã từng làm trước đây. Nhưng như sử gia Anh Niall Ferguson đã chỉ ra,
nước Mỹ hiện đại này khác với nước Anh thế kỷ 19 bởi “khung thời gian ngắn
hạn” [27] của nó. Dù ủng hộ cho một đế chế Mỹ, Ferguson đã đúng khi lo ngại
rằng hệ thống chính trị Mỹ dù thế nào đi nữa, cũng chưa sẵn sàng cho sứ mạng
như vậy.
|
The United States has intervened in and governed countries
in Central America, the Caribbean, and the Philippines, and America was
briefly tempted into real imperialism when it emerged as a world power a
century ago, but the interlude of formal empire did not last.[28] Imperialism
has never been a comfortable experience for Americans, and only a small
portion of the cases of military occupation in our history have led directly
to the establishment of democracies. The establishment of democracy in
Germany and Japan after World War II remains the exception rather than the
rule, and in these countries it took nearly a decade. American empire is not
limited by “imperial overstretch,” in the sense of costing an impossible
portion of our gross domestic product. We devoted a much higher percentage of
the gross domestic product to the military budget during the Cold War than we
do today. The overstretch will come from having to police more peripheral
countries with nationally resistant publics than foreign or American public
opinion will accept. Polls show little taste for empire among Americans.
Instead, the American public continues to say that it favors multilateralism
and using the UN. Perhaps that is why Michael Ignatieff, a Canadian advocate
of accepting the empire metaphor, qualifies it by referring to the American
role in the world as “Empire Lite.”[29]
|
Hoa Kỳ đã can thiệp và kiểm soát các quốc gia ở Trung Mỹ,
các quốc gia vùng Caribbê và Philippines và trong giai đoạn ngắn đã tìm cách
chuyển mình trở thành một đế quốc thực thụ khi trở thành một cường quốc thế
giới cách đây một thế kỷ. Tuy nhiên, bước ngoặc chuyển biến đế quốc chính
thức đã không xảy ra.[27] Không giống như trường hợp Anh Quốc, với Hoa Kỳ,
chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ là kinh nghiệm dễ chịu, và chỉ một phần nhỏ
của các trường hợp chiếm đóng của Mỹ mang đến việc thiết lập được các nền dân
chủ. Việc thiết lập chế độ dân chủ ở Đức và Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai là
ngoại lệ hơn là quy luật, và ở hai quốc gia này, cũng phải mất gần một thập
kỷ. Đế chế Hoa Kỳ không bị giới hạn bởi “sự dàn trải quá sức của đế chế”
(imperial overstretch) theo nghĩa tiêu tốn một phần quá mức chịu đựng trong
GDP. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh chúng ta đã tiêu tốn một tỷ lệ phần trăm
GDP cho ngân sách quân sự lớn hơn bây giờ nhiều. Tình trạng dàn trải quá sức
chịu đựng có hậu quả từ việc phải bảo an ngày càng nhiều các quốc gia ngoại
vi với tính phản kháng dân tộc lớn hơn mức mà công chúng Mỹ hay các nước có
thể chấp nhận. Các cuộc thăm dò cho thấy dân Mỹ không mặn mà với khái niệm đế
chế. Sự thật là công chúng Mỹ vẫn tiếp tục bảo rằng họ thích chủ nghĩa đa
phương và làm việc với Liên Hiệp Quốc hơn. Có lẽ đó là lý do tại sao Michael
Ignatieff, một người Canada ủng hộ sử dụng khái niệm đế chế, đã hợp lý hóa nó
bằng cách gán cho vai trò của người Mỹ trên thế giới là “Đế quốc hạng
nhẹ.”[29]
|
In fact, the problem of creating an American empire might
better be termed “imperial understretch.” Neither the public nor Congress has
proven willing to
invest seriously in the instruments of nation building and
governance as opposed to military force. The entire budget for international
affairs (including the Agency for International Development) is only 1
percent of the federal budget. The United States spends nearly nineteen times
that amount on its military, and there is little indication that this is
about to change in an era of tax cuts and budget deficits. Moreover, our
military is designed for fighting, rather than for police work, and the
Rumsfeld Pentagon has cut back on training for peacekeeping operations. The
United States has designed a military that is bet-
ter suited to kick down the door, beat up a dictator, and
then go home rather than stay for the harder imperial work of building a
democratic polity. For a variety of reasons, in regard to both the world and
the United States, Americans should avoid the misleading metaphor of empire
as a guide for our foreign policy. Empire is not the narrative we need to
help us understand and cope with the global information age of the
twenty-first century.
|
Thực tế, vấn đề của việc kiến tạo một đế chế Mỹ có lẽ tốt
hơn nên gọi là việc “đầu tư dưới mức cho đế chế” (imperial understretch).
Ngược lại với giới quân sự, cả công chúng lẫn quốc hội đều cho thấy là họ
không sẵn sàng đầu tư vào các công cụ kiến tạo hay quản trị quốc gia. Toàn bộ
ngân sách cho Bộ Ngoại giao (tính cả AID – Cơ quan Phát triển Quốc tế) chỉ
bằng 1% ngân sách liên bang. Hoa Kỳ tiêu tốn cho các hoạt động quân sự nhiều
hơn cho các hoạt động ngoại giao đến 17 lần, và có ít dấu hiệu cho thấy điều
này thay đổi nay mai trong hoàn cảnh phải cắt giảm thuế và thâm hụt ngân
sách. Hơn nữa, quân đội của chúng ta được thiết kế cho chiến đấu hơn là cho
việc giám sát và Bộ Quốc phòng dưới thời Donald Rumsfeld đã cắt giảm việc
huấn luyện cho các hoạt động gìn giữ hòa bình. Hoa Kỳ đã đào tạo quân đội
thích hợp cho việc phá cửa, hạ bệ kẻ độc tài, rồi về nước hơn là cho công
việc nhọc nhằn của đế quốc, đó là thiết lập một nền dân chủ. Bởi nhiều lý do
từ phía quốc tế cũng như từ bản thân Hoa Kỳ, người Mỹ nên cố tránh khái niệm
lệch lạc “đế quốc” trong việc định hướng chính sách đối ngoại. Đế quốc không
phải là cách nói cần thiết để giúp chúng ta hiểu và bắt kịp với thời đại
thông tin toàn cầu của thế kỷ 21.
|
AMERICAN FOREIGN
POLICY TRADITIONS
The United States has a variety of foreign policy
traditions to draw upon that overlap, reinforce, and sometimes conflict with
each other. The writer Walter
Mead has used the device of identifying these traditions
with the names of past leaders as a helpful way to distinguish them.[30] The
realists who prudently pursue national interest and commerce are named after
Alexander Hamilton. Populists, who emphasize self-reliance and frequent use
of coercion, he names for Andrew Jackson. He calls “Jeffersonians” those who
pursue democracy by being a shining beacon to others rather than (in John
Quincy Adams’s words) “going forth in search of monsters to destroy.”
Finally, “Wilsonians” are the idealists who follow Woodrow Wilson in seeking
to make the world safe for democracy.
|
Truyền thống của
chính sách đối ngoại Hoa Kỳ
Như đã bàn ở Chương 2, Hoa Kỳ có nhiều truyền thống đối
ngoại để kế thừa. Những truyền thống này trùng lắp nhau, bổ sung cho nhau và
đôi khi trái ngược nhau. Tác giả Walter Mead đã dùng cách phân biệt cá c
truyền thống bằng cách gán cho chúng tên của những nhà lãnh đạo trong quá
khứ.[30] Những người theo trường phái hiện thực, thận trọng theo đuổi lợi ích
quốc gia và thương mại được cho là theo trường phái Alexander Hamilton. Những
người dân túy thường nhấn mạnh sự tự lực và sử dụng vũ lực thì được đặt tên
theo Andrew Jackson. Những người được xem là theo chủ nghĩa Jefferson thì ủng
hộ việc mưu cầu dân chủ với việc làm gương hơn là (theo cách nói của John
Quincy Adams) “áp đặt”. Sau cùng, người theo trường phái Wilson được dùng để
chỉ những người theo chủ nghĩa lý tưởng, nối gót Woodrow Wilson trong việc tìm
cách làm cho thế giới an toàn để phổ biến dân chủ.
|
Each approach has its virtues and faults. The Hamiltonians
are prudent, but their realism lacks a moral appeal to many at home and
abroad. The Jacksonians are robust and tough, but lack staying power and
allies. Both the Hamiltonians and Jacksonians are deficient in soft power.
The Jeffersonians, on the other hand, have plenty of soft power, but not
enough hard power. Being a shining city on a hill is attractive but often not
sufficient to achieve all foreign policy goals. The Wilsonians are also long
on soft power, but sometimes their idealism
leads them into unrealistic ambitions. Their danger is
that their foreign policy vehicles often have strong accelerators but weak
brakes and are thus prone to go off the road.
|
Mỗi cách tiếp cận có mặt hay và mặt dở. Những người theo
Hamilton thì thận trọng nhưng chủ nghĩa hiện thực của họ lại thiếu sức hút
đạo đức ở trong nước và hải ngoại. Những người theo trường phái Jackson thì
mạnh mẽ gai góc nhưng lại thiếu sức bền cũng như bạn bè cùng hội cùng thuyền.
Những người thuộc cả hai trường phái này đều không thể đủ tầm thực hiện sức mạnh
mềm. Ngược lại những người thuộc trường phái Jefferson thủ đắc sức mạnh
mềm nhưng lại thiếu sức mạnh cứng. Như đã đề cập ở Chương
1, là một thành phố lấp lánh mỹ lệ nằm trên đồi thì thật hấp dẫn nhưng không
đủ để thành công trong các mục tiêu đối ngoại. Những người theo trường phái
Wilson cũng thường sở hữu sức mạnh mềm, tuy nhiên đôi khi tính lý tưởng của
họ khiến họ phát triển những tham vọng không tưởng. Nguy hiểm là các công cụ
chính sách đối ngoại của họ thường có gia tốc mạnh nhưng lại gắn các phanh
rất yếu và điều đó thường làm họ chệch định hướng.
|
Whereas Hamiltonians and Jeffersonians tend toward prudent
and conservative foreign policies that do not rock the boat, Wilsonians seek
to transform the international situation. In the case of the Middle East, for
years, the United States followed a Hamiltonian policy that sought stability
through the support of autocrats but that, in the end, did not prevent the
rise of radical Islamist ideology and terrorism. The Wilsonians urge a
transformational rather than a conservative or status quo foreign policy. In their
view, without democratization, the Middle East (and other regions) will
continue to be a breeding ground for rogue states and terrorist threats. Much
of the debate inside the Bush administration over the Iraq war was between
traditional Hamiltonian realists (such as Secretary of State Colin Powell)
and a coalition of Jacksonians (such as Vice President Dick Cheney and
Secretary of Defense Donald Rumsfeld) plus neoconservative Wilsonians (such
as Deputy Defense Secretary Paul Wolfowitz). Part of the confusion over
American objectives in going to war was that the administration used
different arguments to appeal to different camps. The suggestion of a
connection to al Qaeda and September 11 was important to Jacksonians, who
sought revenge and deterrence; the argument that Saddam Hussein was
developing weapons of mass destruction in violation of UN resolutions
appealed to Hamiltonians and traditional Wilsonians in Congress; and the need
to remove a bloody dictator and transform Middle Eastern politics was important
to the new Wilsonians.
|
Trong khi những người theo hai trường phái Hamilton và
Jefferson có khuynh hướng chuộng các chính sách đối ngoại thận trọng và bảo
thủ để không phải làm tròng trành con tàu, thì những người theo trường phái
Wilson theo đuổi việc thay đổi trật tự thế giới. Trong trường hợp Trung Đông
đề cập ở Chương 4, Hoa Kỳ đã theo kiểu chính sách của Hamilton trong nhiều
năm nhằm tìm kiếm ổn định từ việc ủng hộ của các tầng lớp cai trị và thư ơng
mại, nhưng sau cùng thì chính sách đó không ngăn chặn được sự trỗi dậy của chủ
nghĩa Hồi giáo cực đoan và khủng bố. Những người theo trường phái Wilson thì
thúc giục thực hiện một chính sách đối ngoại nhằm thay đổi chứ không thể bảo
thủ hay giữ nguyên trạng. Theo họ, nếu không có tiến trình dân chủ hóa, Trung
Đông (và nhiều vùng khác) sẽ tiếp tục là căn cứ của các tổ chức cực đoan và
các mối đe dọa khủng bố. Nhiều cuộc tranh cãi bên trong chính quyền Bush về
cuộc chiến Iraq diễn ra giữa phe theo chủ nghĩa hiện thực kiểu Hamilton (như
Ngoại trưởng Colin Power) và liên minh của một nhóm thuộc trường phái Jackson
(như Phó Tổng thống Dick Cheney và bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld) và
những người tân bảo thủ kiểu Wilson (như Thứ trưởng Quốc phòng Paul
Wolfowitz). Một phần của sự rối rắm trong các mục tiêu của Mỹ trong cuộc
chiến có lý do từ việc chính quyền dùng nhiều kiểu lập luận trong nhiều chiến
dịch khác nhau. Đề nghị gắn Al Qaeda vào sự kiện 11/9 có ý nghĩa quan trọng
với những người thuộc phái Jackson, vì họ muốn theo đuổi việc trả thù và răn
đe; còn lập luận cho rằng Saddam Hussein đã phát triển vũ khí hủy diệt hàng
loạt vi phạm nghị quyết Liên Hiệp Quốc thể hiện sự hấp dẫn với những môn đệ
Hamilton cũng như phái theo Wilson truyền thống trong Quốc hội. Trong khi đó,
nhu cầu lật đổ một kẻ độc tài khát máu và thay đổi nền chính trị Trung Đông
có ý nghĩa quan trọng đối với những người theo phái Wilson mới.
|
In recent years, the Wilsonians have divided into two
camps. President Wilson, of course, was a Democrat, and traditional
Wilsonians continue to stress both the promotion of democracy and the role of
international institutions. The neoconservatives, many of whom split off from
the Democratic party, stress the importance of democracy, but have dropped
Wilson’s emphasis on international institutions. They do not want to be held
back by institutional constraints, and they see our legitimacy coming from
our focus on democracy. In that sense, the neoconservatives are advocates of
soft power, but they focus too simply on substance and not enough on process.
By downgrading the legitimacy that comes from institutional processes in
which others are consulted, they squander soft power.
|
Trong những năm gần đây, những người theo phái Wilson chia
thành hai nhóm. Tổng thống Woodrow Wilson đương nhiên là một người thuộc đảng
Dân chủ, và những người theo phái Wilson truyền thống đề cao việc thúc đẩy
dân chủ lẫn vai trò của các thể chế quốc tế. Còn thành phần tân bảo thủ, mà
hầu hết tách ra từ đảng Dân chủ sau chiến tranh Việt Nam, thì tuy nhấn mạnh
vai trò của dân chủ, nhưng lại bỏ qua việc đề cao các thể chế quốc tế của
Wilson. Họ không muốn bị ràng buộc bởi các thể chế và mong muốn rằng tính chính
danh của chúng ta đến từ việc chúng ta tập trung vào các giá trị dân chủ.
Theo cách như vậy, những người tân bảo thủ là những ủng hộ viên cho sức mạnh
mềm, nhưng họ chỉ đơn giản tập trung vào chất mà không tập trung đủ vào tiến
trình . Bởi việc coi nhẹ tính chính danh tạo lập từ các tiến trình mang tính
thể chế, nơi những quốc gia khác được tham vấn, họ đã hoang phí sức mạnh mềm.
|
Ironically, however, the only way to achieve the type of
transformation that the neoconservatives seek is by working with others and
avoiding the backlash that arises when the United States appears on the world
stage as an imperial power acting unilaterally. What is more, because
democracy cannot be imposed by force and requires a considerable time to take
root, the most likely way to obtain staying power from the American public is
through developing international legitimacy and burden sharing with allies
and institutions. For Jacksonians like Secretary of Defense Rumsfeld, this
may not matter. They would prefer to punish the dictator and come home rather
than engage in tedious nation building. For example, in September 2003, Rumsfeld
said of Iraq, “I don’t believe it’s our job to reconstruct the country.”[31] But
for serious neoconservatives, like Deputy Defense Secretary Paul Wolfowitz,
their impatience with institutions and allies may undercut their own objectives.
They understand the importance of soft power but fail to appreciate all its
dimensions and dynamics.
|
Tuy nhiên, điều trớ trêu là cách duy nhất để thành công
trong việc chuyển đổi mà những nghười tân bảo thủ theo đuổi là phải làm việc
với nước khác và tránh phản ứng ngược khi Hoa Kỳ hành xử trên trường quốc tế
đơn phương kiểu đế quốc. Hơn nữa, bởi vì dân chủ không thể được tạo dựng từ áp
đặt bằng sức mạnh và cần có thời gian để bén rễ, cách dễ đạt được sự ủng hộ thường
trực từ công chúng Mỹ là thông qua việc phát triển tính chính danh trên
trường quốc tế và chia sẻ bớt các gánh nặng với đồng minh và với các thể chế.
Đối với những người theo trường phái Jackson như Bộ trưởng Quốc phòng Donald
Rumsfeld, có thể đây không là vấn đề.
Họ thích trừng phạt kẻ độc tài rồi về nước hơn là dính vào
việc xây dựng quốc gi tẻ
nhạt. Tháng 9/2003, Rumsfeld phát biểu ở Iraq: “Tôi không tin là công việc
củachúng ta lại là việc tái xây dựng một đất nước.”[31] Nhưng với những người
tân bảo thủ nghiêm túc, ví dụ như Thứ trưởng Quốc phòng Paul Wolfowitz, việc
thiếu kiên nhẫn với đồng minh và các định chế quốc tế có thể làm hỏng các mục
tiêu của họ. Họ hiểu sự quan trọng của quyển lực mềm, nhưng lại không thấu
hiểu được các chiều kích và xung lực của nó.
|
SOFT POWER AND
POLICY
Soft power grows out of our culture, out of our domestic
values and policies, and out of our foreign policy. Many of the effects of
our culture, for better or worse, are outside the control of government. But
there is still a great deal that the government can do. Much more can be done
to improve our public diplomacy in all dimensions. We can greatly improve our
broadcast capabilities as well as our narrowcasting on the Internet. But both
should be based on better listening as well. Newt Gingrich has written that
“the impact and success of a new U.S. communication strategy should be
measured continually on a country-by-country basis. An independent public
affairs firm should report weekly on how U.S. messages are received in at
least the world’s 50 largest countries.”[32] Such an approach would help us
to select relevant themes as well as to finetune our short-term responses.
And we should greatly increase our investment in soft power. We could easily
afford to double the budget for public diplomacy as well as raise its profile
and direction from the White House.
|
Sức mạnh mềm và
chính sách
Chúng ta thấy rằng sức mạnh mềm khởi nguồn từ văn hóa, từ
các chính sách và các giá trị trong nước, cũng như từ chính sách ngoại giao
của chúng ta. Nhiều ảnh hưởng của văn hóa, tốt hay xấu, là ngoài tầm kiểm
soát của chính quyền. Nhưng có nhiều việc mà chính quyền có thể thực hiện.
Như chúng ta đã thấy ở Chương 4, có nhiều việc có thể làm để cải thiện chính
sách ngoại giao công chúng của chúng ta. Chúng ta có thể cải thiện được khả
năng truyền thông cũng như việc thông tin qua mạng điện tử. Cả hai nên được
dựa trên cơ sở lắng nghe tốt hơn. Newt Gingrich đã viết rằng “ảnh hưởng cũng
như thành công của chiến lược truyền thông mới của Mỹ nên được đo lường liên
tục trên cơ sở so sánh quốc gia. Một công ty quan hệ công chúng độc lập nên
báo cáo hàng tuần về việc những thông điệp Mỹ được thu nhận như thế nào ở ít
nhất là 50 nước lớn nhất.”[32] Cách tiếp cận như thế sẽ giúp chúng ta chọn
lọc được những chủ điểm thích hợp cũng như điều chỉnh những phản hồi mang
tính ngắn hạn. Và trên cơ sở đó, chúng ta nên gia tăng đầu tư cho sức mạnh mềm.
Chúng ta có thể dễ dàng kham nổi việc tăng gấp đôi ngân sách cho hoạt động
ngoại giao công chúng cùng lúc gia tăng sự hiện diện cũng như sự chỉ đạo từ Nhà
Trắng.
|
Equally important will be increasing the exchanges across
societies that allow our rich and diverse nongovernmental sectors to interact
with other countries. It was a great mistake for the Clinton administration
and Congress to cut the budget and staff for cultural diplomacy and exchanges
by nearly 30 percent after 1993.[33] And it is a mistake now to let visa
policies curtail such contacts. The most effective communication often occurs
not by distant broadcasts but in face-to-face contacts—what Edward R. Murrow
called “the last three feet.” Such programs were critical to winning the Cold
War. The best communicators are often not governments but civilian
surrogates, both from the United States and from other countries.
|
Quan trọng không kém là việc gia tăng sự giao lưu g
iữa các xã hội tạo điều kiện cho các khu vực phi chính phủ
đa dạng và phong phú của chúng ta tương tác với các nước khác. Chính quyền
Clinton và Quốc hội đã phạm một lỗi nghiêm trọng năm 1993 khi cắt giảm gần
30% ngân sách và nhân viên trong các chính sách ngoại giao văn hóa và trao đổi[33]
Và cũng là sai lầm ngày nay khi ngăn cản những cuộc trao đổi như thế bằng rào
cản thị thực. Cách giao tiếp hiệu quả nhất thường không phải bằng truyền
thông từ xa mà phải bằng những trao đổi mặt-đối-mặt, cách thức mà Edward R.
Murrow gọi là “mét cuối cùng”. Ở Chương 2, chúng ta đã biết các chương trình
trao đổi văn hóa quan trọng như thế nào để chúng ta có thể giành phần thắng
trong Chiến tranh Lạnh. Những người giao tiếp tốt nhất khôngphải là quan chức
chính quyền mà là các công dân của cả Hoa Kỳ và các nước.
|
We will need to be more inventive in this area, whether it
be through finding ways to improve the visa process for educational
exchanges, encouraging more American students to study abroad, rethinking the
role of the Peace Corps, inventing a major program for foreigners to teach
their languages in American schools, starting a corporation for public
diplomacy that will help tap into the resources of the private and nonprofit
sectors, or a myriad of other ways. As Michael Holtzman has observed about
the Middle East, our public diplomacy must acknowledge a world that is far
more skeptical of government messages than we have assumed. “To be credible
to the so-called Arab street, public diplomacy should be directed mainly at
spheres of everyday life. Washington should put its money into helping
American doctors, teachers, businesses, religious leaders, athletic teams,
and entertainers to go abroad and provide the sorts of services the people of
the Middle East are eager for.”[34]
|
Chúng ta cần phải sáng tạo hơn trong địa hạt này, cho dù
đó là việc phải tìm cách cải thiện thủ tục thị thực đối với việc trao đổi
giáo dục, khuyến khích sinh viên Mỹ đi nước ngoài học, xét lại vai trò của
Lực lượng gìn giữ Hòa bình, tạo ra một chương trình lớn cho người nước ngoài
dạy ngôn ngữ của họ trong các trường học Mỹ, thành lập một cục chuyên trách
ngoại giao công chúng nhằm sử dụng các nguồn lực từ khu vực tư nhân hay phi
lợi nhuận, hay
hàng loạt những cách khác. Như từ sự quan sát Trung Đông
của Michael Holtzman, nền ngoại giao công chúng phải thừa nhận rằng thế giới
nghi ngờ các thông điệp từ phía chính quyền hơn ta tưởng rất nhiều. “Để thu
phục được lòng tin của những người bình dân Ả-rập, ngoại giao công chúng nên
được định hướng chủ yếu vào những góc độ của đời sống thường nhật. Washington
nên đầu tư vào việc giúp các bác sĩ, thầy giáo, doanh nghiệp, lãnh đạo tôn
giáo, những vận động viên và những nhà hoạt động giải trí của Hoa Kỳ đi ra
nước ngoài cung cấp những dịch vụ mà dân chúng ở Trung Động rất muốn có.”[34]
|
While the United States has a number of social and
political problems at home, many of these are shared with other postmodern
societies, and thus invidious comparisons do not seriously undercut our soft
power. Moreover, we maintain strengths of openness, civil liberties, and
democracy that appeal to others. Problems arise for our soft power when we do
not live up to our own standards. As we try to find the right balance between
freedom and security in the struggle against terrorism, it is important to
remember that others are watching as well. The Bush administration deserves
credit for responding to human rights groups’ accusations that it was
torturing suspects by unequivocally rejecting the use of any techniques to
interrogate suspects that would constitute ‘cruel’ treatment prohibited by
the Constitution.[35]
|
Như chúng ta đã biết ở Chương 2, nhiều vấn đề chính trị xã
hội bên trong nước Mỹ chia sẻ với những xã hội hậu hiện đại khác. Những so
sánh khó khăn như thế không hẳn làm suy giảm sức mạnh mềm của chúng ta. Hơn
nữa, chúng ta duy trì thế mạnh của một xã hội cởi mở, sự tự do dân sự và dân
chủ vốn cũng hấp dẫn đối với người khác. Vấn đề sẽ nảy sinh đối với sức mạnh
mềm một khi chúng ta không đáp ứng đúng chính những tiêu chuẩn của bản thân
mình. Khi chúng ta chật vật tìm cách cân bằng giữa quyền tự do và an ninh
trong cuộc chiến chống khủng bố, cần thiết phải biết rằng các nước cũng đang
theo dõi chúng ta. Chính quyền Bush đáp lại những cáo buộc của các nhóm nhân
quyền về việc tra tấn các nghi phạm bằng việc tái khẳng định việc từ bỏ bất
cứ kỹ thuật lấy cung nghi phạm nào vốn bị cấm bởi Hiến pháp vì thuộc loại
hành xử “tàn bạo”.[35]
|
Some domestic policies, such as capital punishment and the
absence of gun controls, reduce the attractiveness of the United States to
other countries but are the results of differences in values that may persist
for some time. Other policies, such as the refusal to limit gas-guzzling
vehicles, damage the American reputation because they appear self-indulgent
and demonstrate an unwillingness to consider the effects we are having on
global climate change and othercountries. Similarly, domestic agricultural
subsidies that are structured in a way that protects wealthy farmers while we
preach the virtue of free markets to poor countries appear hypocritical in
the eyes of others. In a democracy, the “dog” of domestic politics is often
too large to be wagged by the tail of foreign policy, but when we ignore the
connections, our apparent hypocrisy is costly to our soft power.
|
Vài chính sách nội địa, như việc xử tử hình hay thiếu kiểm
soát vũ khí sẽ làm giảm tính hấp dẫn của nước Mỹ đối với nước khác, nhưng đó
là kết quả của những khác biệt về giá trị nên có thể tồn tại trong một thời
gian nào đó. Những chính sách khác, ví dụ như từ chối giảm bớt việc sản xuất
các loại phương tiện hao tốn nhiên liệu có thể làm hại uy tín Mỹ bởi vì nó
cho thấy sự buông thả cũng như không sẵn sàng xem xét hậu quả của những gì
chúng ta đang làm đối với sự thay đổi khí hậu toàn cầu và các nước khác.
Tương tự như vậy, sự trợ giá nông nghiệp nội địa nhằm bảo vệ các nông gia
giàu có, vi phạm những nguyên tắc thị trường tự do đối với các nước nghèo trở
nên đạo đức giả trong mắt các nước khác. Trong một nền dân chủ,“con chó”
chính sách đối nội thường quá to không thể vẫy theo “đuôi” của chính sách đối
ngoại, nhưng khi chúng ta bỏ qua mối quan
hệ của hai loại chính sách, tính hai mặt quá lộ liễu sẽ
khiến sức mạnh mềm chúng ta trả giá đắt.
|
The government can do most to recover the recent American
loss of soft power in the near term by adjusting the style and substance of
its foreign policy. Obviously there are times when foreign policies serve
fundamental American interests and cannot and should not be changed. But
tactics can often be adjusted without giving up basic interests. Style may be
the easiest part. For one thing, the administration could go back to the
wisdom about humility and warnings about arrogance that George W. Bush
expressed in his 2000 campaign. There is no need to take pleasure in
embarrassing allies or to have a secretary of defense insulting them while a
secretary of state is trying to woo them. As a British columnist wrote in the
Financial Times, “I have a soft spot for Donald Rumsfeld. But as an
ambassador for the American values so admired around the world, I can think
of no one worse.”[36] Prime Minister Tony Blair put it well in his 2003
address to the American Congress, when he said that the real challenge for
the United States now “is to show that this is a partnership built on persuasion,
not command.”[37]
|
Chỗ mà chính quyền có thể làm nhiều nhất trong ngắn hạn để
có thể bù đắp những thiệt hại sức mạnh mềm gần đây của Hoa Kỳ là việc điều
chỉnh cung cách và thực chất của chính sách đối ngoại của chúng ta. Hiển
nhiên là có nhiều lúc chính sách đối ngoại đã cứu những quyền lợi căn bản của
Hoa Kỳ và đo dó không thể hay không nên thay đổi. Cách thức có lẽ là cái dễ
thay đổi nhất. Thứ nhất, chính quyền Bush có thể quay lại với triết lý khiêm
tốn và cảnh giác với sự kiêu ngạo như Geogre Bush đề cập trong cuộc vận động
tranh cữ 2000. Chẳng có lý do gì lại vui sướng với việc làm xấu mặt đồng
minh, hay lại để cho bộ trưởng quốc phòng sỉ nhục họ trong khi bộ trưởng
ngoại giao thì cố lấy lòng họ. Như một nhà báo đã viết trên tờ Financial
Times: “Tôi thông cảm cho Donald Rumsfeld. Nhưng là một đại sứ cho các giá
trị Mỹ vốn được ưa chuộng trên thế giới , tôi không nghĩ là có ai tệ hơn.”[36]
Thủ tướng Anh đề cập khéo léo năm 2003 tại buổi nói chuyện tại Quốc hội Mỹ khi
đề cập đến thử thách mà Hoa Kỳ đối phó, “thử thách của Hoa Kỳ lúc này là thể hiện
rằng đây là hợp tác dựa trên thuyết phục chứ không phải mệnh lệnh.”[37]
|
On the substance of policy, the Bush administration
deserves credit for its efforts to align the United States with the long-term
aspirations of poor people in Africa and elsewhere through its Millenium
Challenge initiative, which promises to increase aid to countries willing to
make reforms, as well as for its efforts to increase resources to combat AIDS
and other infectious diseases. Success in implementing those programs will
represent a significant investment in American soft power. So also will be
the serious promotion of the peace process in the Middle East. As National
Security Advisor Condoleezza Rice said, “America is a country that really
does have to be committed to values and to making life better for people
around the world… It’s not just the sword, it’s the olive branch that speaks
to those intentions.”[38]
|
Về mặt thực chất của chính sách, chính quyền Bush đáng có
điểm cho những nỗ lực trong việc gắn kết Hoa Kỳ và những mong mỏi dài hơi của
người nghèo tại các quốc gia Châu Phi và các nơi khác thông qua sáng kiến Thử
thách Thiên niên kỷ nhằm hứa hẹn gia tăng việc trợ cho các nước chấp nhận cải
tổ, cũng như cho những nổ lực trong việc gia tăng nguồn lực để chống chọi với
AIDS và các bệnh truyền nhiễm khác. Thành công trong việc thực hiện những
chương trình như vậy sẽ thể hiện việc đầu tư mạnh mẽ cho sức mạnh mềm của Hoa
Kỳ. Việc thúc đẩy nghiêm túc tiến trình hòa bình Trung Đông cũng sẽ có vai
trò như vậy. Cố vấn An ninh Quốc gia Condoleezza Rice đã phát biểu: “Hoa Kỳ
là một quốc gia thật sự cam kết với những giá trị và với việc mang đến một
cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người trên thế giới...Không chỉ là thanh gươm,
mà còn là vòng nguyệt quế nói lên những mong ước trên.”[38]
|
As for the sword, the United States will continue to need
it from time to time in the struggle against terrorism and in our efforts to
create stability. Maintaining our hard power is essential to security. But we
will not succeed by the sword alone. Our doctrine of containment led to
success in the Cold War not just because of military deterrence but because,
as George Kennan designed the policy, our soft power would help to transform
the Soviet Bloc from within. Containment was not a static military doctrine
but a transformational strategy, albeit one that took decades to accomplish.
Indeed, Kennan frequently warned against what he regarded as the
over-militarization of containment and was a strong supporter of contacts and
exchanges. Those lessons about patience and the mixture of hard and soft
power still stand us in good stead today.
|
Đối với thanh gươm, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục cần tới nó nhiều
lần trong cuộc chiến chống khủng bố và trong nỗ lực tạo lập sự ổn định. Duy
trì sức mạnh cứng là rất cần thiết đối với an ninh của chúng ta. Tuy nhiên
không thể thành công chỉ bằng thanh gươm. Học thuyết ngăn chặn đã giúp chúng
ta thành công trong Chiến tranh Lạnh không chỉ vì khả năng ngăn chặn quân sự
mà còn vì, như nhà ngoại giao nổi tiếng George Kennan đã thiết kế chính sách,
sức mạnh mềm của chúng ta đã giúp chuyển đổi Liên Xô từ bên trong. Ngăn chặn
không phải là một học thuyết quân sự cứng nhắc mà là một chiến lược chuyển
đổi dù có thể mất hàng thập kỷ để hoàn thành. Thật vậy, Kennan thường xuyên
cảnh báo việc quân sự hóa quá đáng trong hoạt động ngăn chặn và bản thân ông
là người ủng hộ nhiệt thành đối với các cuộc tiếp xúc và trao đổi văn hóa. Những
bài học như vậy
về sự kiên
trì cũng như sự kết hợp của sức mạnh cứng và mềm vẫn có giá trị lâu bền với
chúng ta ngày nay.
|
When we do use our hard power, we will need to be more
attentive to ways to make it less costly to our soft power by creating broad
coalitions. Here, the model should be the patient and painstaking work of
George H. W. Bush in building the coalition for the first Gulf war. Those who
write off “old Europe” as so enthralled by Venus that it is hopelessly
opposed to the use of force should remember that 75 percent of the French and
63 percent of the German publics supported the use of military force to free
Kuwait before the Gulf war.[39] Similarly, both countries were active
participants in NATO’s use of military force against Serbia in the 1999
Kosovo war, despite the absence of a formal UN security council resolution.
The difference was that American policy appeared legitimate in the eyes of
their publics in those two cases. We had soft power and were able to attract
allies.
|
Một khi chúng ta sử dụng quyền lực cứng, chúng ta cần phải
chú tâm đến nhiều phương cách để chúng không làm hao tổn sức mạnh mềm của
chúng ta bằng cách thiết lập các liên minh rộng rãi. Ở đây là mô hình đòi hỏi
kiên nhẫn và gian khó mà George Bush đã thực hiện trong xây dựng liên minh
cho cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất. Những ai đòi xóa sổ “châu Âu già nua”
vì quá yếu đuối ẻo lả đến độ phản đối việc sử dụng vũ lực một cách tuyệt vọng
nên nhớ cho rằng 75% công chúng Pháp và 63% công chúng Đức đã ủng hộ việc sử dụng
vũ lực để giải phóng Kuwait trước cuộc chiến Vùng Vịnh.[39] Tương tự như vậy,
hai quốc gia là thành viên NATO này đã tích cực trong việc sử dụng lực lượng
quân sự để chống Serbia trong cuộc chiến Kosovo năm 1999, bất chấp việc không
có một nghị quyết chính thức của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Cái khác
nhau ở chỗ, trong hai trường hợp trên, chính sách Mỹ được xem là có tính
chính danh. Có sức mạnh mềm, chúng ta đã có thể thu hút đồng minh.
|
The UN is not the only source of legitimacy, but many
people concluded that the Kosovo campaign was legitimate (although not
formally legal) because it had the de facto support of a large majority of
Security Council members. The UN is often an unwieldy institution. The veto
power in the Security Council has meant that it has been able to authorize
the use of force for a true collective security operation only twice in half
a century: in Korea and Kuwait. But it was designed to be a concert of large
powers that would not work when they disagree. The veto is like a fuse box in
the electrical system of a house. Better that the fuse blows and the lights
go out than that the house burns down. Moreover, as Kofi Annan pointed out
after the Kosovo war, the UN is torn between the traditional strict
interpretation of state sovereignty and the rise of international humanitarian
and human rights law that sets limits on what leaders can do to their
citizens. Moreover, the politics of consensus have made the United Nations
Charter virtually impossible to amend. Nonetheless, for all its flaws, the UN
has proven useful in its humanitarian and peacekeeping roles where states agree,
and it remains an important source of legitimization in world politics.
|
Liên Hiệp Quốc không phải là nguồn duy nhất mang lại tính
chính danh, và nhiều người cho rằng chiến dịch Kosovo là chính danh (dù không
hợp pháp một cách chính thức) bởi vì nó được ủng hộ trên thực tế bởi đa số
thành viên Hội đồng Bảo an. Liên Hiệp Quốc đôi lúc là một thể chế vụng về.
Quyền phủ quyết của Hội đồng Bảo an cho thấy, trên thực tế, nó chỉ có thể q uyết
định việc sử dụng vũ lực cho một hoạt động an ninh tập thể hai lần trong một thế
kỷ: ở Triều Tiên và Kuwait. Nhưng nó được thiết kế cho một hệ thống hòa hợp
quyền lực giữa cá nước lớn nên chẳng hoạt động gì được khi các ông lớn bất
đồng nhau. Quyền phủ quyết giống như một cầu dao điện trong hệ thống điện của
một ngôi nhà. Cầu chì nổ và toàn bộ điện tắt còn hơn là cái nhà bị nổ và
thiêu trụi. Như Kofi Annan đã nhận xét sau cuộc chiến Kosovo, Liên Hiệp Quốc
đã bị chia rẽ giữa một bên là sự diễn dịch truyền thống chặt chẽ của chủ
quyền quốc gia và một bên là sự trỗi dậy của luật pháp về quyền con người và
nhân đạo quốc tế mà các luật và quyền này lại giới hạn những gì mà các lãnh
đạo muốn áp đặt lên dân chúng của họ. Hơn nữa, chính trị của sự đồng thuận đã
làm cho Hiến chương Liên Hiệp Quốc hầu như không thể sửa đổi được. Dù rằng có
nhiều lỗ hổng, Liên Hiệp Quốc cho thấy nó vẫn còn hữu dụng trong vai trò nhân
đạo và gìn giữ hòa bình khi các nước đồng ý với nhau, cũng như nó vẫn tồn tại
như một nguồn chính danh hóa các hoạt động trong chính trị thế giới.
|
The latter point is particularly galling to the new unilateralists,
who correctly point to the undemocratic nature of many of the regimes that
vote and chair committees. But their proposed solution of replacing the UN
with a new organization of democracies ignores the fact that the major
divisions over Iraq were among the democracies. Rather than engage in futile
efforts at ignoring the UN or changing its architecture, we should improve
our underlying bilateral diplomacy with the other major powers and use the UN
in the practical ways in which it can help with the new strategy. In addition
to the UN’s development and humanitarian agenda, the Security Council may
wind up playing a background role related to North Korea; the Committee on
Terrorism can help to prod states to improve their procedures; and UN
peacekeepers can save us from having to be the world’s lone policeman. Not
only can the UN be useful to us in a variety of practical ways if we work at
it, but unilateralist attacks on it will backfire in a way that undercuts our
soft power.
***
|
Điểm sau đã thật sự làm khó chịu những người ủng hộ chủ
nghĩa đơn phương vốn đã đúng khi chỉ ra bản chất phi dân chủ của nhiều cơ chế
bỏ phiếu và chủ trì các ủy ban. Tuy vậy, giải pháp của họ nhằm thay thế Liên
Hiệp Quốc bằng một tổ chức mới gồm nhiều nền dân chủ đã bỏ qua thực tế là
những chia rẽ chính trong cuộc chiến Iraq diễn ra giữa các nền dân chủ. Thay
vì theo đuổi những nỗ lực vô ích nhằm bỏ qua Liên Hiệp Quốc hay thay đổi cấu trúc
của nó, chúng ta nên cải thiện các quan hệ ngoại giao song phương với các
nước lớn và sử dụng Liên Hiệp Quốc một cách thực dụng hơn nhằm giúp cho chiến
lược mới của chúng ta. Cùng với các chương trình nhân đạo và phát triển của
Liên Hiệp Quốc, Hội đồng Bảo an có thể đóng vai trò nền tảng liên quan đến
vấn đề Bắc Triều Tiên, Ủy ban về Khủng bố có thể giúp thúc đẩy các nước cải
thiện các quy trình của họ; còn lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc có
thể giúp chúng ta khỏi phải làm cảnh sát quốc tế đơn độc. Liên Hiệp Quốc có
thể hữu ích đối với chún g ta khi chúng ta hoạt động cùng nó; những tấn công
theo chủ nghĩa đơn phương kiểu Mỹ sẽ phản tác dụng theo hướng làm suy yếu sức
mạnh mềm của chúng ta.
***
|
Americans are still working their way through the
aftermath of September 11. We are groping for a path through the strange new
landscape created by technology and globalization whose dark aspects were
vividly illuminated on that traumatic occasion. The Bush administration has
correctly identified the nature of the new challenges that the nation faces
and has reoriented American strategy accordingly. But the administration,
like Congress and the public, has been torn between different approaches to
the implementation of the new strategy. The result has been a mixture of both
successes and failures. We have been more successful in the domain of hard
power, where we have invested more, trained more, and have a clearer idea of
what we are doing. We have been less successful in the areas of soft power,
where our public diplomacy has been woefully inadequate and our neglect of
allies and institutions has created a sense of illegitimacy that has
squandered our attractiveness.
|
Người Mỹ vẫn đang tìm cách vượt qua hậu quả của sự kiện
11/9. Chúng ta đang dò đường xuyên qua một quang cảnh mới tạo nên bởi công nghệ
và toàn cầu hóa mà những khía cạnh đen tối của chúng đã được thể hiện rõ qua
biến cố đó. Chính quyền Bush đã xác định chính xác bản chất của những thử
thách mới mà đất nước phải đương đầu và cũng đã định hướng chiến lược tương
ứng. Nhưng chính quyền, giống như Quốc hội và công chúng, đã bị chia rẽ bởi
những cách tiếp cận khác nhau trong việc thực thi chiến lược. Kết quả là sự
pha trộn giữa những thành công và thất bại. Chúng ta đã thành công hơn trong
địa hạt sử dụng sức mạnh cứng, nơi mà chúng ta đầu tư lớn hơn, huấn luyện
nhiều hơn và có ý tưởng rõ ràng hơn về việc chúng ta đang làm. Chúng ta ít
thành công hơn trong lĩnh vực sử dụng sức mạnh mềm, nơi mà ngoại giao công
chúng của chúng ta què quặt thảm hại và việc lơ là các đồng minh cũng như các
định chế đã gây ra tình trạng thiếu chính danh, và tính thiếu chính danh đã
làm suy giảm sự hấp dẫn của chúng ta.
|
Yet this is ironic because the United States is the country
that is at the forefront of the information revolution as well as the country
that built some of the longest-lasting alliances and institutions that the
modern world has seen. We should know how to adapt and work with such
institutions, since they have been central to our power for more than half a
century. And the United States is a country with a vibrant social and
cultural life that provides an almost infinite number of points of contact
with other societies. What’s more, during the Cold War, we demonstrated that
we know how to use the soft power resources that our society produces.
|
Nhưng điều này thật trớ trêu vì Hoa Kỳ là một quốc gia
tiên phong trong cuộc cách mạng thông tin cũng như là một quốc gia đã xây
dựng một số những thể chế và đồng minh lâu đời nhất mà thế giới hiện đại từng
có. Chúng ta nên biết cách thích ứng và làm việc với các thể chế như vậy, bởi
vì các thể chế đó đã là trung tâm của sức mạnh của chúng ta trong suốt hơn
nửa thế kỷ qua. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn là một nước có một đời sống văn hóa xã
hội mạnh mẽ làm cơ sở gần như vô tận cho các giao tiếp với các xã hội khác.
Có thể thấy rõ hơn trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chúng ta đã chứng tỏ rằng
chúng ta biết cách sử dụng các nguồn lực mềm do bản thân xã hội mình sản
sinh.
|
It is time now for us to draw upon and combine our
traditions in a different way. We need more Jefferson and less Jackson. Our
Wilsonians are correct about the importance of the democratic transformation
of world politics over the long term, but they need to remember the role of
institutions and allies. They also need to temper their impatience with a
good mixture of Hamiltonian realism. In short, America’s success will depend
upon our developing a deeper understanding the role of soft power and
developing a better balance of hard and soft power in our foreign policy.
That will be smart power. We have done it before; we can do it again.
|
Bây giờ là lúc chúng ta chọn lọc và kết hợp những truyền
thống của mình theo một cách khác. Chúng ta cần nhiều Jefferson và ít Jackson
hơn. Những người
theo Wilson của chúng ta đúng về sự quan trọng của
chuyển hóa dân chủ trong chính trị thế giới trong dài hạn,
nhưng họ cần nhớ vai trò của đồng minh và các thể chế. Họ cũng cần phải kiên
nhẫn hơn bằng việc kết hơp với chủ nghĩa hiện thực của những người theo
trường phái Hamilton. Tóm lại, thành công của Hoa Kỳ sẽ tùy thuộc vào việc
chúng ta phát triển được những hiểu biết sâu sắc hơn về vai trò của sức mạnh
mềm cũng như việc kết hợp tốt hơn giữa hai loại sức mạnh mềm và cứng trong
chính sách đối ngoại của chúng ta. Đó sẽ là quyền lực thông minh. Chúng ta đã
từng vận dụng được trước đây; chúng ta vẫn có thể làm được như thế.
|
Translated by Lê Vĩnh Triển edited
by Giáp Văn Dương
P1 P2 P3 P4 P5
|
|
|
1 Interview, NPR, Weekend Edition
, 13 July 2003.
2 Richard Bernstein, “Foreign
Views of U.S. Darken After Sept 11,” New York Times, 11 September 2003.
3 Paul Kelly, “Power Pact,” The
Australian , 26 July 2003.
4 Eurobarometer #59, Spring 2003.
5 Pew Global Attitude Project,
What the World Thinks in 2002 (Washington, DC: Pew Research Center for the
People and the Press, 2002), T-49.
6 Gallup International, “Post War
Iraq 2003 Poll,” accessed at http://www.gallup-international.com; Pew Global
Attitudes Project, Views of a Changing World June 2003
(Washington, DC: Pew Research
Center for the People and the Press, 2003), T-132. Age demographics are
available from Pew on request.
7 Newsweek poll of 1983 compared
to Pew Global Attitudes Project.
8 Wendy Melillo, “Ad Industry
Doing Its Own Public Diplomacy,” Adweek, 21 July 2003.
9 Fouad Ajami, “The Falseness of
Anti-Americanism,” Foreign Policy (September/ October 2003): 61.
10 Cal Thomas, “Muzzling the Wrong
Dog,” Washington Times, 23 October 2003. Thomas was defending the
anti-Islamic statements of General William Boykin.
11 “Poll: One-third of Germans
believe US may have staged Sept 11 attacks,” Reuters, 23 July 2003
12 French Ambassador Levitte
complained about a series of false rumors circulating about French positions
in 2003. See Kim Housego, “France calls for fuller U.S. response to
allegations of disinformation campaign,” Associated Press, 16 May 2003
13 National Security Strategy of
the United States , accessed at http://www.whitehouse.gov/nsc/nss.html.
14 John Lewis Gaddis, “Bush’s
Security Strategy,”
Foreign Policy (November/December
2002): 50–57
15 Eric Schmitt quoting General
John Abizaid, “General in Iraq Says More G.I.s Are Not the Answer,” New York
Times, 9 August 2003.
16 Steven Weisman, “ U.S Set to
Cede Part of Control over Aid for Iraq,” New York Times, 20 October 2003.
17 Max Boot, “America and the UN,
Together Again?” New York Times, 3 August 2003; Charles Krauthammer, “Help
Wanted,” TIME, 1 September 2003, 72
18 Qingxin Ken Wang,
“Hegemony and Socialisation of the Mass Public: the Case of Postwar Japan’s
Cooperation with the United States on China policy,”
Review of
International Studies 29 (2003): 119.
19 John Arquilla and
David Ronfeldt, The Emergence of Noopolitik: Toward an American Information
Strategy (Santa Monica, CA: RAND Corp., 1999), 52.
20 Robert Kaplan,
interview in “Islam vs. the West,”
Rolling Stone , 7
August 2003, 38.
21 Quoted in “A
Classicist’s Legacy: Empire Builders,” New York Times, Week in Review, 4 May
2003.
22 Max Boot, “The
Case for an American Empire,” The Weekly Standard , 15 October 2001.
23 Andrew Bacevich,
American Empire: The Realities and Consequences of U.S. Diplomacy (Cambridge,
MA: Harvard University Press, 2002
24 David Abernethy,
The Dynamics of Global Dominance: European Overseas Empires 1415–1980 (New
Haven, CT: Yale University Press, 2000), 19.
25 “U.S. Officials See Signs of a
Revived Al Qaeda in Several Nations,” New York Times,17May 2003.
26 Joschka Fischer quoted in John
Vinocur, “German Official Says Europe Must Be U.S. Friend,
Not Rival,” New York Times, 19
July 2003.
27 Niall Ferguson, “The Empire
Slinks Back,” New York Times Magazine , 27 April 2003, 52
28 Ernest May, American
Imperialism: A Speculative Essay (Chicago, IL: Imprint Publications, 1991).
29 Michael Ignatieff, “American
Empire: The Burden,” New York Times Magazine, 5 January2003, 22
30 Walter Russell Mead, Special
Providence: American Foreign Policy and How It Changed the World (New York:
Alfred A. Knopf, 2001).
31 Eric Schmitt, “Rumsfeld Says
More G.I.s Would Not Help U.S. in Iraq,” New York Times,11 September 2003.
32 Newt Gingrich, “Rogue State
Department,” Foreign Policy (July 2003): 42
33 Juliette Antunes Sablosky,
“Recent Trends in Department of State Support for Cultural Diplomacy:
1993–2002,” accessed at the website of the Center for Arts and Culture at
http://www.culturalpolicy.org.
34 Michael Holtzman, “Washington’s
Sour Sales Pitch,” New York Times, 4 October 2003.
35 Peter Slevin, “U.S. Pledges Not
to Torture Terror Suspects,” Washington Post , 27 June 2003
36 Philip Stephens, “The World
Needs a Confident America, Not a Fearful One,” Financial Times, 12 December
2002, 21.
37 Cathy Newman, “Blair Tells
Congress ‘Don’t Give Up on Europe—Work With It,’ ” Financial Times, 18 July
2003, 1.
38 Richard Stevenson, “New Threats
and Opportunities Redefine U.S. Interests in Africa,” New
York Times, 7 July 2003
39 Gallup Poll, Ltd., “European
Attitudes Toward the Gulf Crisis,” October 1990
http://www.pols.boun.edu.tr/uploads%5Cfiles%5C1104.pdf
|
|
Chân thành cảm ơn tài liệu tuyệt vời của Blogger!
ReplyDeleteChúc Blogger thật nhiều sức khỏe và kiến thức!
Thank you for your comment.
Delete