|
Soft Power: The
Means to Succeed in World Politics – P1
|
Quyền lực mềm:
Phương tiện để thành công trong chính trị thế giới – P1
|
by Joseph Nye
|
Joseph Nye
|
CHAPTER 1: THE
CHANGING NATURE OF POWER
|
Chương 1: Bản chất
đang thay đổi của quyền lực
|
MORE THAN FOUR CENTURIES AGO, Niccolo Machiavelli advised
princes in Italy that it was more important to be feared than to be loved. But
in today's world, it is best to be both. Winning hearts and minds has always been
important, but it is even more so in a global information age. Information is
power, and modern information technology is spreading information more widely
than ever before in history. Yet political leaders have spent little time
thinking about how the nature of power has changed and, more specifically, about
how to incorporate the soft dimensions into their strategies for wielding
power.
|
Hơn bốn thế kỷ về trước, Nicolo Machiavelli khuyên răn các
quân vương nước Ý rằng thà để thiên hạ sợ mình hơn là yêu mình. Nhưng trong
thế giới ngày nay, có được cả hai điều này là hay hơn cả. Giành được trái tim
và khối óc của quần chúng lúc nào cũng là điều thiết yếu, và trong thế giới
thông tin toàn cầu ngày nay, nó còn quan trọng hơn bao giờ hết. Thông tin là
sức mạnh, và công nghệ thông tin ngày nay quảng bá tin tức đến đại chúng một
cách rộng rãi hơn bao giờ hết. Tuy vậy, các nhà lãnh đạo hầu như chỉ bỏ ra
rất ít thời gian để suy nghiệm bản chất của quyền lực đã thay đổi ra sao, và
cụ thể hơn, là làm sao hội nhập các khía cạnh “mềm” vào sách lược sử dụng
quyền lực của họ.
|
WHAT IS POWER?
Power is like the weather. Everyone depends on it and
talks about it, but few understand it. Just as farmers and meteorologists try
to forecast the weather, political leaders and analysts try to describe and
predict changes in power relationships. Power is also like love, easier to experience
than to define or measure, but no less real for that. The dictionary tells us
that power is the capacity to do things. At this most general level, power
means the ability to get the outcomes one wants. The dictionary also tells us
that power means having the capabilities to affect the behavior of others to
make those things happen. So more specifically, power is the ability to influence
the behavior of others to get the outcomes one wants. But there are several
ways to affect the behavior of others. You can coerce them with threats; you
can induce them with payments; or you can attract and co-opt them to want
what you want.
|
Quyền lực là gì?
Quyền lực cũng như thời tiết. Ai cũng phụ thuộc vào nó,
bàn về nó nhưng chẳng mấy ai hiểu được nó. Cũng như nông gia và các nhà khí
tượng học tìm mọi cách để dự báo thời tiết, các lãnh tụ và nhà phân tích
chính trị cố gắng miêu tả và dự đoán thay đổi trong các mối quan hệ quyền
lực. Quyền lực cũng như tình yêu, khó định nghĩa hay đo lường hơn là cảm
nhận, nhưng không có nghĩa là nó không tồn tại. Theo định nghĩa trong từ
điển, quyền lực là khả năng làm được việc gì đó. Ở mức định nghĩa tổng quan
này, quyền lực có nghĩa là khả năng đạt được kết quả mà mình mong muốn. Định
nghĩa trong từ điển cũng cho rằng quyền lực là khả năng tác động hành vi của
người khác để cho những điều này xảy ra. Hợp nhất các định nghĩa này một cách
cụ thể hơn, quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng lên hành vi cuả người khác để
đạt được kết quả mình mong muốn. Có nhiều cách khác nhau tác động lên hành vi
con người. Có thể đe doạ cưỡng ép, có thể dụ dỗ mua chuộc, hay cũng có thể
khuyến dụ họ hợp tác vì cả hai bên cùng chung mục đích.
|
Some people think of power narrowly, in terms of command
and coercion. You experience it when you can make others do what they would
otherwise not do.! You say "Jump!" and they jump. This appears to
be a simple test of power, but things are not as straightforward as they
first appear. Suppose those whom you command, like my granddaughters, already
love to jump? When we measure power in terms of the changed behavior of
others, we have first to know their preferences. Otherwise we may be as mistaken
about our power as a rooster who thinks his crowing makes the sun rise. And
the power may evaporate when the context changes. The playground bully who
terrorizes other children and makes them jump at his command loses his power
as soon as the class returns from recess to a strict classroom. A cruel
dictator can lock up or execute a dissident, but that may not prove his power
if the dissenter was really seeking martyrdom. Power always depends on the
context in which the relationship exists.[2]
|
Có người nhận thức một cách hạn hẹp về quyền lực; theo họ,
chỉ có quyền chỉ huy hay quyền cưỡng chế. Điều này xảy ra khi bạn buộc người
ta thực hiện những hành vi mà trong hoàn cảnh bình thường họ không thường làm
như vậy.[1] Bạn hô “Nhảy!” là họ nhảy. Đây có vẻ như là một trắc nghiệm hết
sức đơn giản về quyền lực, nhưng thực ra sự việc không đơn giản chút nào. Ví
dụ nếu những người dưới quyền chỉ huy của bạn vốn đã thích nhảy nhót như đám
con nít cháu tôi thì sao? Khi chúng ta đo lường quyền lực dựa trên những biến
đổi trong hành vi của người khác, trước hết ta phải biết sở thích của họ. Nếu
không, chúng ta sẽ phạm sai lầm khi đánh giá quyền lực, tựa như chú gà trống
tưởng rằng tiếng gáy của mình làm mặt trời mọc. Quyền lực có thể tan biến dễ
dàng khi hoàn cảnh thay đổi. Đứa bé bắt nạn bạn bè mình ngoài sân chơi, buộc
chúng phải nhảy nhót theo ý mình, sẽ nhanh chóng mất quyền lực khi hết giờ ra
chơi, và cả lớp trở lại môi trường có kỷ luật chặt chẽ. Một nhà độc tài tàn
bạo có thể giam cầm hoặc hành hình một nhà bất đồng chính kiến, nhưng điều đó
không chứng tỏ là nhà độc tài có nhiều quyền lực, đặc biệt khi người bất đồng
chính kiến sẵn sàng tử vì đạo. Quyền lực luôn luôn phụ thuộc vào bối cảnh
trong đó các mối quan hệ tồn tại với nhau.[2]
|
Knowing in advance how others would behave in the absence
of our commands is often difficult. What is more, as we shall see, sometimes
we can get the outcomes we want by affecting behavior without commanding it. If
you believe that my objectives are legitimate, I may be able to persuade you
to do something for me without using threats or inducements. It is possible
to get many desired outcomes without having much tangible power over others.
For example, some loyal Catholics may follow the pope's teaching on capital
punishment not because of a threat of excommunication but out of respect for
his moral authority. Or some radical Muslim fundamentalists may be attracted to
support Osama bin Laden's actions not because of payments or threats, but because
they believe in the legitimacy of his objectives.
|
Thường rất khó khăn để có thể tiên liệu hành vi người khác
khi ta không hiện diện để chỉ huy họ. Nhưng hơn thế nữa, như chúng ta sẽ thấy
sau đây, có khi chúng ta đạt được ước nguyện của mình qua ảnh hưởng hành vi
của họ mà không cần chỉ huy họ. Nếu bạn tin rằng mục đích của tôi là chính
đáng, tôi có thể thuyết phục bạn ủng hộ tôi mà tôi không cần đe doạ hoặc mua
chuộc bạn. Ta có thể đạt được những hệ quả mình mong muốn mà không cần có
quyền lực rõ ràng đối với họ. Ví dụ một số tín đồ Thiên Chúa Giáo tuân thủ
theo lời răn dạy của Đức Giáo Hoàng về án tử hình không phải vì họ sợ rút
phép thông công mà vì tôn trọng thẩm quyền đạo đức của ngài. Hoặc một số
người theo Hồi giáo chính thống có khuynh hướng đồng tình với các hoạt động
của Osama bin Laden không phải vì bị đe dọa hay mua chuộc mà vì họ tin các
mục đích đấy là chính đáng.
|
Practical politicians and ordinary people often find these
questions of behavior and motivation too complicated. Thus they turn to a
second definition of power and simply define it as the possession of
capabilities or resources that can influence outcomes. Consequently they
consider a country powerful if it has a relatively large population and territory,
extensive natural resources, economic strength, military force, and social
stability. The virtue of this second definition is that it makes power appear
more concrete, measurable, and predictable. But this definition also has
problems. When people define power as synonymous with the resources that
produce it, they sometimes encounter the paradox that those best endowed with
power do not always get the outcomes they want.
|
Các chính trị gia thực dụng và người thường cho rằng những
vấn đề về hành xử và động lực là quá phức tạp. Vì vậy, họ dùng một định nghĩa
thứ hai về quyền lực và xem nó đơn giản là sự sở hữu khả năng hoặc nguồn lực
có thể tác động đến hệ quả mong muốn. Do đó, họ cho một quốc gia là hùng mạnh
nếu nó có khá đông dân số và nhiều đất đai, tài nguyên thiên nhiên phong phú,
kinh tế phồn vinh, quân đội hùng hậu, và xã hội ổn định. Tác dụng của định
nghĩa thứ hai này là làm cho khái niệm quyền lực trở nên cụ thể hơn, dễ đo
lường và dự đoán hơn. Nhưng định nghĩa này có một số vấn đề. Khi quyền lực
được xem là đồng nghĩa với nguồn lực tạo ra nó, sẽ xuất hiện nghịch lý là
người có nhiều quyền lực không phải lúc nào cũng đạt được hệ quả mong muốn.
|
Power resources are not as fungible as money. What wins in
one game may not help at all in another. Holding a winning poker hand does
not help if the game is bridge) Even if the game is poker, if you play your
high hand poorly, you can still lose. Having power resources does not
guarantee that you will always get the outcome you want. For example, in
terms of resources the United States was far more powerful than Vietnam, yet
we lost the Vietnam War. And America was the world's only superpower in 2001,
but we failed to prevent September 11.
|
Nguồn lực của quyền lực không dễ chuyển hóa thành kết quả
mong muốn giống như tiền bạc. Sức mạnh để chiến thắng trong một trò chơi này
có thể chẳng có tác dụng gì trong một trò chơi khác. Cầm trong tay những lá
bài tốt theo kiểu chơi poker trong khi bạn lại đang chơi trò bridge thì chẳng
giúp được gì.3 Ngay cả khi bạn đang chơi poker, nếu bạn có bài tốt nhưng
không biết chơi đúng cách thì bạn vẫn thua như thường. Có sẵn nguồn lực để
tạo ra quyền lực không hề bảo đảm là lúc nào bạn cũng đạt được ý nguyện của
mình. Một ví dụ khác là cuộc chiến Việt Nam. Xét về tài nguyên, Hoa Kỳ vượt
xa Việt Nam, nhưng rốt cuộc họ thất bại trong cuộc chiến này. Và Hoa Kỳ là
siêu cường duy nhất trên thế giới vào năm 2001, thế nhưng họ đã không thể
ngăn chặn thảm hoạ ngày 11 tháng 9.
|
Converting resources into realized power in the sense of
obtaining desired outcomes requires well-designed strategies and skillful
leadership. Yet strategies are often inadequate and leaders frequently
misjudge-witness Japan and Germany in 1941 or Saddam Hussein in 1990. As a
first approximation in any game, it always helps to start by figuring out who
is holding the high cards. But it is equally important to understand what
game you are playing. Which resources provide the best basis for power behavior
in a particular context? Oil was not an impressive power resource before the
industrial age nor was uranium significant before the nuclear age.
|
Biến đồi nguồn lực thành quyền lực theo nghĩa đạt đuợc ước
nguyện của mình đòi hỏi phải có chiến lược bài bản và tài lãnh đạo khéo léo.
Tuy nhiên, chiến lược thường không thoả đáng và lãnh đạo hay sai lầm – ví dụ
điển hình là các nước Nhật Bản và nước Đức vào năm 1941, hay Saddam Hussein
năm 1990. Trong bất cứ trò chơi nào, đánh giá được ai có tay bài tốt thường
là bước đi đầu tiên. Quan trọng không kém là hiểu được trò chơi đó. Nguồn lực
nào tạo ra hành vi quyền lực trong một bối cảnh cụ thể? Dầu hoả không phải là
một nguồn lực đáng kể trước khi có công nghiệp hoá; uranium cũng chẳng hề
quan trọng khi thời đại hạt nhân chưa ra đời.
|
In earlier periods, international power resources may have
been easier to assess. A traditional test of a Great Power in international
politics was "strength for war."[4] But over the centuries, as technologies
evolved, the sources of strength for war often changed. For example, in
eighteenth-century Europe, population was a critical power resource because
it provided a base for taxes and the recruitment of infantry. At the end of the
Napoleonic Wars in r 8 r 5, Prussia presented its fellow victors at the
Congress of Vienna with a precise plan for its own reconstruction with
territories and populations to be transferred to maintain a balance of power
against France. In the prenationalist period, it did not matter that many of
the people in those transferred provinces did not speak German. However,
within half a century popular sentiments of nationalism had grown greatly,
and Germany's seizure of Alsace and Lorraine from France in 1870 became one
of the underlying causes of World War I. Instead of being assets, the
transferred provinces became liabilities in the changed context of
nationalism. In short, power resources cannot be judged without knowing the
context. Before you judge who is holding the high cards, you need to
understand what game you are playing and how the value of the cards may be
changing.
|
Trong những giai đoạn trước đây, chúng ta dễ dàng đánh giá
nguồn lực tạo nên quyền lực trên trường quốc tế. Phép kiểm chứng kinh điển
đối với một siêu cường trên chính trường quốc tế là “sức mạnh tham chiến.”[4]
Trải qua nhiều thế kỷ, với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nguồn lực tạo ra
sức mạnh tham chiến cũng đã thay đổi. Ví dụ như vào thế kỷ 18 ở châu Âu, dân
số là một nguồn lực quan trọng vì đó là cơ sở để thu thuế và tuyển mộ binh
sĩ. Vào năm 1815 khi kết thúc các cuộc Chiến tranh Napoleon, nước Phổ đưa ra
trước các đồng minh thắng trận tai Hội nghị Viên một kế hoạch tỉ mỉ về việc
tái thiết cùng với việc chuyển giao lại lãnh thổ và dân số để duy trì cán cân
quyền lực với nước Pháp. Vào giai đoạn tiền dân tộc chủ nghĩa, họ chẳng cần
quan tâm những người phải di dân không hề nói tiếng Đức. Tuy nhiên, trong
vòng năm mươi năm sau, chủ nghĩa dân tộc phát triển nhanh chóng, và việc nước
Đức chiếm đóng Alsace và Lorraine của Pháp năm 1870 trở thành một trong những
lý do gây ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Các tỉnh bị chia cắt, trước
đây được xem là tài sản, thì nay đã trở thành món nợ trong bối cảnh chủ nghĩa
dân tộc lên cao. Nói tóm lại, không thể đánh giá nguồn lực tạo quyền lực mà
không xem xét đến bối cảnh. Trước khi bạn xét đoán ai có bài tốt, bạn cần
phải hiểu bạn đang chơi trò chơi nào và giá trị của các lá bài thay đổi ra
sao.
|
For example, the distribution of power resources in the
contemporary information age varies greatly on different issues. We are told that
the United States is the only superpower in a "unipolar" world. But
the context is far more complex than first meets the eye. The agenda of world
politics has become like a three-dimensional chess game in which one can win
only by playing vertically as well as horizontally. On the top board of
classic interstate military issues, the United States is indeed the only
superpower with global military reach, and it makes sense to speak in
traditional terms of unipolarity or hegemony. However, on the middle board of
interstate economic issues, the distribution of power is multipolar. The
United States cannot obtain the outcomes it wants on trade, antitrust, or
financial regulation issues without the agreement of the European Union,
Japan, China, and others. It makes little sense to call this American
hegemony. And on the bottom board of transnational issues like terrorism,
international crime, climate change, and the spread of infectious diseases,
power is widely distributed and chaotically organized among state and
nonstate actors. It makes no sense at all to call this a unipolar world or an
American empire-despite the claims of propagandists on the right and left.
And this is the set of issues that is now intruding into the world of grand
strategy. Yet many political leaders still focus almost entirely on military
assets and classic military solutions-the top board. They mistake the
necessary for the sufficient. They are one-dimensional players in a
three-dimensional game. In the long term, that is the way to lose, since
obtaining favorable outcomes on the bottom transnational board often requires
the use of soft power assets.
|
Ví dụ sự phân phối nguồn lực tạo quyền lực trong thời đại
thông tin ngày nay biến đổi rất nhiều tuỳ theo từng vấn đề. Chúng ta thường
nghe nói là Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất trong một thế giới “đơn cực”. Nhưng
bối cảnh ngày nay phức tạp hơn ta tưởng nhiều. Nghị trình trên chính trường
quốc tế trở nên giống như ván cờ vua ba chiều; để thắng được ván cờ này phải
đi quân trên cả hàng dọc và hàng ngang. Trên bàn cờ thứ nhất là các vấn đề
quân sự kinh điển giữa các quốc gia; Hoa Kỳ quả thực vẫn là siêu cường duy
nhất với tầm hoạt động quân sự toàn cầu, và trên bình diện này ta có thể dùng
những khái niệm truyền thống như đơn cực và bá chủ. Tuy nhiên trên bàn cờ thứ
hai về các vấn đề kinh tế giữa các quốc gia, sự phân phối quyền lực trở nên
đa cực. Hoa Kỳ không thể đạt được kết quả mong muốn về mậu dịch, chống độc
quyền, hoặc điều tiết tài chính nếu không có sự thoả thuận với Liên minh Châu
Âu, Nhật, Trung Quốc và các nước khác. Vì vậy không thể xem Hoa Kỳ là bá chủ.
Trên bàn cờ thứ ba liên quan đến các vấn đề liên quốc gia như khủng bố, tội
phạm quốc tế, biến đổi khí hậu, và sự lây lan các căn bệnh truyền nhiễm,
quyền lực đuợc phân phối rộng rãi và tổ chức khá hỗn độn giữa các thành tố
quốc gia và phi quốc gia. Trên bình diện này thì càng không thể nói rằng đây
là một thế giới đơn cực hay Hoa Kỳ là một đế chế – cho dù có sự tuyên truyền
từ cả hai phiá tả và hữu. Và đây là phạm trù những vấn đề đang xâm nhập vào
thế giới đại chiến lược. Thế nhưng nhiều lãnh đạo chính trị vẫn còn đang tập
trung hoàn toàn vào các nguồn lực quân sự và các giải pháp quân sự kinh điển
– vốn nằm trên bàn cờ thứ nhất. Họ lầm lẫn điều kiện cần với điều kiện đủ. Họ
vẫn chỉ là những đấu thủ một chiều trong cuộc chơi ba chiều. Xét về lâu dài,
đó là con đường dẫn đến thất bại, vì để đạt được thắng lợi trên bàn cờ liên
quốc gia thứ ba đòi hỏi phải dùng đến quyền lực mềm.
|
SOFT POWER
Everyone is familiar with hard power. We know that
military and economic might often get others to change their position. Hard
power can rest on inducements ("carrots") or threats ("sticks").
But sometimes you can get the outcomes you want without tangible threats or
payoffs. The indirect way to get what you want has sometimes been called
"the second face of power." A country may obtain the outcomes it
wants in world politics because other countries-admiring its values,
emulating its example, aspiring to its level of prosperity and openness-want to
follow it. In this sense, it is also important to set the agenda and attract
others in world politics, and not only to force them to change by threatening
military force or economic sanctions. This soft power-getting others to want the
outcomes that you want-co-opts people rather than coerces them.[5]
|
Quyền lực mềm
Ai cũng đã quen thuộc với quyền lực cứng. Chúng ta hiểu
rằng sức mạnh về kinh tế và quân sự có thể khiến đối tác thay đổi lập trường
của họ. Quyền lực cứng dựa trên sự khuyến dụ (“củ cà rốt”) hay đe dọa (“cây
gậy”). Nhưng đôi khi bạn có thể đạt được ước nguyện mà không cần đe doạ hay
dụ dỗ. Cách gián tiếp để để đạt được ước nguyện có khi còn được gọi là “bộ
mặt thứ hai của quyền lực.” Một quốc gia có thể đạt được ước nguyện của mình
trên trường quốc tế bởi vì các quốc gia khác – vốn ngưỡng mộ các giá trị của
nó, noi theo tấm gương của quốc gia này, ước muốn có được sự phồn vinh và cởi
mở như vậy – muốn đi theo bước chân của quốc gia đó. Hiểu theo nghĩa này,
chúng ta thấy được tầm quan trọng về việc sắp đặt các nghị trình và thuyết
phục các quốc gia khác trên chính trường quốc tế, chứ không phải buộc họ phải
thay đổi bằng cách đe dọa sử dụng sức mạnh quân sự hoặc cấm vận kinh tế.
Quyền lực mềm, vốn lôi cuốn các đối tác mong muốn đạt được điều mà bạn cũng
muốn, tạo điều kiện để hợp tác hơn là cưỡng chế.[5]
|
Soft power rests on the ability to shape the preferences
of others. At the personal level, we are all familiar with the power of attraction
and seduction. In a relationship or a marriage, power does not necessarily
reside with the larger partner, but in the mysterious chemistry of attraction.
And in the business world, smart executives know that leadership is not just
a matter of issuing commands, but also involves leading by example and
attracting others to do what you want. It is difficult to run a large
organization by commands alone. You also need to get others to buy in to your
values. Similarly, contemporary practices of community-based policing rely on
making the police sufficiently friendly and attractive that a community wants
to help them achieve shared objectives.[6]
|
Nền tảng của quyền lực mềm là khả năng định hình ý muốn
của đối tác. Ở mức độ cá nhân, chúng ta ai cũng quen thuộc với sức mạnh của
sự quyến rũ và cám dỗ. Trong quan hệ lứa đôi hay hôn nhân, quyền lực không
nhất thiết nằm trong tay người có sức mạnh hơn, mà trái lại phụ thuộc vào sự
quyến rũ huyền bí. Trong thế giới thương trường, các quản trị gia khôn ngoan
hiểu rằng tài lãnh đạo không chỉ đơn thuần là phát ra mệnh lệnh mà còn đòi
hỏi họ phải làm gương và cuốn hút nhân viên để cho họ cũng mong muốn đạt được
thành quả như các nhà lãnh đạo đã muốn. Rất khó có thể điều hành một tổ chức
thuần túy thông qua mệnh lệnh. Bạn cũng cần các thành viên tin vào các giá
trị của bạn. Tương tự như thế, các biện pháp cảnh sát dựa vào cộng đồng ngày
nay phụ thuộc vào việc lực lượng cảnh sát có tỏ ra thân thiện và dễ mến nhằm
khuyến khích cộng đồng giúp họ đạt được các mục tiêu chung hay không.[6]
|
Political leaders have long understood the power that
comes from attraction. If I can get you to want to do what I want, then I do
not have to use carrots or sticks to make you do it. Whereas leaders in
authoritarian countries can use coercion and issue commands, politicians in
democracies have to rely more on a combination of inducement and attraction. Soft
power is a staple of daily democratic politics. The ability to establish
preferences tends to be associated with intangible assets such as an attractive
personality, culture, political values and institutions, and policies that
are seen as legitimate or having moral authority. If a leader represents
values that others want to follow, it will cost less to lead.
|
Các lãnh đạo chính trị từ lâu đã hiểu được sức mạnh phát
xuất từ sự quyến rũ. Nếu tôi có thể khiến bạn muốn làm điều tôi muốn, tôi không
cần dùng đến củ cà rốt hay cây gậy để bạn phải làm theo ý tôi. Trong khi lãnh
đạo tại các quốc gia theo chính thể độc đoán thường hay cưỡng chế hay phát
hành mệnh lệnh, chính trị gia tại các quốc gia dân chủ phải dựa vào sự kết
hợp giữa khích lệ và thu hút. Quyền lực mềm là thành tố không thể thiếu được
trong chính trị thường ngày trong xã hội dân chủ. Để có thể định hình được ý
muốn, người ta cho rằng phải tồn tại các kỹ năng trừu tượng như cá tính thu
hút, văn hoá, các giá trị và thể chế chính trị, các chính sách được xem là
hợp lệ hay có thẩm quyền đạo đức. Nếu nhà lãnh đạo đại diện các giá trị mà
những người khác cũng muốn tuân theo, ông ta không phải tốn nhiều công sức để
lãnh đạo họ.
|
Soft power is not merely the same as influence. After all,
influence can also rest on the hard power of threats or payments. And soft
power is more than just persuasion or the ability to move people by argument,
though that is an important part of it. It is also the ability to attract, and
attraction often leads to acquiescence. Simply put, in behavioral terms soft
power is attractive power. In terms of resources, soft-power resources are the
assets that produce such attraction. Whether a particular asset is a
soft-power resource that produces attraction can be measured by asking people
through polls or focus groups. Whether that attraction in turn produces desired
policy outcomes has to be judged in particular cases. Attraction does not
always determine others' preferences, but this gap between power measured as resources
and power judged as the outcomes of behavior is not unique to soft power. It
occurs with all forms of power. Before the fall of France in 1940, Britain
and France had more tanks than Germany, but that advantage in military power
resources did not accurately predict the outcome of the battle.
|
Quyền lực mềm không đơn thuần đồng nghĩa với ảnh hưởng.
Bởi vì dù sao ảnh hưởng cũng có thể xuất phát từ quyền lực cứng bằng răn đe
hay mua chuộc. Quyền lực mềm cũng hàm chứa nhiều hơn là tính thuyết phục hay
khả năng tranh biện, mặc dù đây là một trong những thành tố quan trọng. Nó
cũng là năng lực thu hút, và sự thu hút thường dẫn đến chấp thuận. Nói một
cách đơn giản, xét về ứng xử, quyền lực mềm là quyền lực quyến rũ. Xét về
nguồn lực thì nguồn lực tạo ra quyền lực mềm là những tài sản giúp gây được
sự quyến rũ nói trên. Việc đánh giá xem một tài sản có phải là nguồn lực của
quyền lực mềm vốn có khả năng quyến rũ có thể được thực hiện thông khảo sát ý
kiến hoặc phỏng vấn các nhóm đại diện. Sự quyến rũ đó có tạo ra được hiệu quả
chính sách mong muốn hay không phải được xét đoán riêng. Sự quyến rũ không
nhất thiết sẽ định hình được ý muốn của người khác, nhưng việc các nguồn lực
của quyền lực không thể chuyển hóa được thành quyền lực thực tế thể hiện ở
kết quả cụ thể không phải chỉ xảy ra đối với quyền lực mềm. Trước ngày nước
Pháp thất thủ vào năm 1940, hai quốc gia Anh và Pháp có nhiều xe tăng hơn
Đức, nhưng ưu thế sức mạnh quân sự đó không thể tiên liệu đúng kết quả trận
đánh.
|
One way to think about the difference between hard and soft
power is to consider the variety of ways you can obtain the outcomes you
want. You can command me to change my preferences and do what you want by
threatening me with force or economic sanctions. You can induce me to do what
you want by using your economic power to pay me. You can restrict my
preferences by setting the agenda in such a way that my more extravagant
wishes seem too unrealistic to pursue. Or you can appeal to a sense of
attraction, love, or duty in our relationship and appeal to our shared values
about the justness of contributing to those shared values and purposes.[7] If
I am persuaded to go along with your purposes without any explicit threat or
exchange taking place-in short, if my behavior is determined by an observable
but intangible attraction-soft power is at work. Soft power uses a different type
of currency (not force, not money) to engender cooperation-an attraction to
shared values and the justness and duty of contributing to the achievement of
those values. Much as Adam Smith observed that people are led by an invisible
hand when making decisions in a free market, our decisions in the marketplace
for ideas are often shaped by soft power-an intangible attraction that
persuades us to go along with others' purposes without any explicit threat or
exchange taking place.
|
Một cách hiểu khác về sự khác biệt giữa quyền lực cứng và
quyền lực mềm là xem xét tất cả các phương cách được dùng để đạt được kết quả
mong muốn. Bạn có thể ra lệnh cho tôi thay đổi ý muốn của tôi và làm theo ý
muốn của bạn bằng vũ lực hoặc trừng phạt kinh tế. Bạn có thể dụ dỗ tôi làm
theo ý bạn bằng cách dùng sức mạnh kinh tế của bạn để mua chuộc tôi. Bạn có
thể hạn chế các ước nguyện của tôi bằng cách sắp xếp lịch trình sao cho những
nguyện vọng này có vẻ như quá ngông cuồng và trở nên không thực tế nữa. Hay
bạn cũng có thể kêu gọi ý thức về tính quyến rũ, tình yêu, hay bổn phận trong
quan hệ đôi bên và ý thức về giá trị chung mà hai bên cùng chia xẻ, về sự
công bằng khi cả hai bên cùng đóng góp cho những mục đích và giá trị chung
này.7 Nếu bạn thuyết phục được tôi cùng chia xẻ các mục đích của bạn mà không
hăm doạ hay đổi chác – nói tóm lại, hành vi của tôi chịu tác động của sự
quyến rũ tuy không nắm bắt được nhưng quan sát được – đó là lúc quyền lực mềm
đang được vận hành. Quyền lực mềm sử dụng một loại tiền tệ khác (không phải
sức mạnh, cũng không phải tiền bạc) để sản sinh ra sự hợp tác – sự quyến rũ
của các giá trị hai bên cùng chia xẻ, sự công bằng và bổn phận đóng góp để
đạt được mục đích chung. Cũng như Adam Smith từng nhận định: dường như có một
bàn tay vô hình dẫn dắt con người khi họ đưa ra các quyết định trong một nền
kinh tế tự do; quyết định của chúng ta trong thị trường ý tưởng thường được
dẫn dắt bởi quyền lực mềm – sự quyến rũ vô hình thuyết phục chúng ta theo
đuổi mục đích của người khác khi không hề bị hăm doạ hay mua chuộc.
|
Hard and soft power are related because they are both
aspects of the ability to achieve one's purpose by affecting the behavior of
others. The distinction between them is one of degree, both in the nature of the
behavior and in the tangibility of the resources.
Command power-the ability to change what others do-can
rest on coercion or inducement. Co-optive power-the ability to shape what
others want-can rest on the attractiveness of one's culture and values or the
ability to manipulate the agenda of political choices in a manner that makes
others fail to express some preferences because they seem to be too
unrealistic. The types of behavior between command and co-option range along
a spectrum from coercion to economic inducement to agenda setting to pure
attraction. Soft-power resources tend to be associated with the co-optive end
of the spectrum of behavior, whereas hard-power resources are usually associated
with command behavior. But the relationship is imperfect. For example,
sometimes countries may be attracted to others with command power by myths of
invincibility, and command power may sometimes be used to establish institutions
that later become regarded as legitimate. A strong economy not only provides
resources for sanctions and payments, but can also be a source of attractiveness.
On the whole, however, the general association between the types of behavior
and certain resources is strong enough to allow us to employ the useful shorthand
reference to hard- and soft-power resources.[8]
|
Quyền lực cứng và quyền lực mềm liên hệ với nhau vì đấy là
hai khiá cạnh của cùng một năng lực nhằm đạt được mục tiêu qua ảnh hưởng lên
hành vi ngưởi khác. Hai dạng quyền lực chỉ khác nhau về mức độ, xét về bản
chất hành vi và tính hữu hình của nguồn lực. Quyền năng chỉ huy – khả năng
thay đổi những điều người khác làm được – dựa vào cưỡng chế hay dụ dỗ. Quyền
năng thu phục – khả năng định hình những điều người khác muốn có – dựa vào
tính thu hút về văn hoá và các giá trị, hay năng lực thao túng nghị trình các
chọn lựa chính trị một cách khéo léo khiến cho các đối tác tự từ bỏ một số
chọn lựa của mình vì chúng không tỏ ra thực tế. Các định dạng hành vi giữa
quyền năng chỉ huy và quyền năng thu phục nằm trong phổ từ cưỡng chế, đến dụ
dỗ kinh tế, đến thiết lập nghị trình (để người khác tự tuân theo- ND), đến
thuần quyến rũ. Quyền lực mềm thường thiên về phía quyền năng thu phục trên
phổ định dạng hành vi trên, trong khi quyền lực cứng thường gắn với xu hướng
hành vi mệnh lệnh. Mối quan hệ này không phải là hoàn hảo. Ví dụ, đôi khi một
số quốc gia bị thu hút bởi các quốc gia có quyền năng chỉ huy qua huyền thoại
bất khả chiến bại, và quyền năng chỉ huy đôi khi tạo dựng nên các thể chế mà
sau nay được công nhận là hợp pháp. Một nền kinh tế hùng cường không những có
nguồn lực để chế tài và thưởng phạt mà còn tạo ra sức thu hút. Tuy nhiên, nói
chung mối liên hệ tổng quan giữa các định dạng hành vi và các nguồn lực tỏ ra
khá ổn định để chúng ta có thể dùng bảng tham khảo tóm tắt sau đây:[8]
|
|
Hard
|
Soft
|
Spectrum of Behaviors
|
coercion inducement
Commandß--------------
|
agenda
setting attraction
---------------àCo-opt
|
Most Likely Resources
|
force sanction payments bribes
|
institutions values culture
policies
|
|
Quyền lực cứng
|
Quyền lực mềm
|
Phổ hành vi
|
cưỡng chế dụ dỗ
CHỈ HUYß--------------
|
lên
lịch trình quyến rũ
----------------àHỢP TÁC
|
Nguồn lực thích hợp nhất
|
vũ lực cấm vận
trả công mua chuộc
|
thể chế giá trị
văn hóa chính sách
|
|
|
|
|
In international politics, the resources that produce soft
power arise in large part from the values an organization or country expresses
in its culture, in the examples it sets by its internal practices and
policies, and in the way it handles its relations with others. Governments sometimes
find it difficult to control and employ soft power, but that does not
diminish its importance. It was a former French foreign minister who observed
that the Americans are powerful because they can "inspire the dreams and
desires of others, thanks to the mastery of global images through film and television
and because, for these same reasons, large numbers of students from other
countries come to the United States to finish their studies."[9] Soft
power is an important reality. Even the great British realist E. H. Carr,
writing in 1939, described international power in three categories: military,
economic, and power over opinion.[10] Those who deny the importance of soft
power are like people who do not understand the power of seduction.
|
Trên chính trường quốc tế, nguồn lực sản sinh ra quyền lực
mềm thường xuất phát từ các giá trị mà một tổ chức hoặc quốc gia thể hiện qua
nền văn hoá, qua những ví dụ đưa ra qua phương thức hoạt động và chính sách
trong nước cũng như phương pháp xử lý các mối quan hệ bên ngoài. Đôi khi nhà
nước gặp khó khăn khi muốn kiểm soát và vận dụng quyền lực mềm. Điều đó không
có nghĩa là quyền lực mềm bị giảm thiểu tầm quan trọng. Một vị cựu bộ trưởng
ngoại giao Pháp đã nhận xét rằng người Mỹ có nhiều quyền lực vì họ có thể
“tạo niềm cảm hứng của những ước mơ và khao khát, qua cách sử dụng thành thạo
những hình tượng quốc tế trong phim ảnh và truyền hình, và cũng chính vì lý
do này, đại đa số sinh viên nước ngoài đã đến học tập tại Hoa Kỳ.”9 Quyền lực
mềm là một thực tại quan trọng. Ngay cả nhà hiện thực vĩ đại người Anh E. H.
Carr vào năm 1939 đã mô tả quyền lực quốc tế dưới ba phạm trù: quân sự, kinh
tế và sức mạnh tạo dư luận.[10] Những ai phủ nhận tầm quan trọng của quyền
lực mềm là người không hiểu được sức mạnh của sự cám dỗ.
|
During a meeting with President John F. Kennedy, the
senior statesman John J. McCloy exploded in anger about paying attention to popularity
and attraction in world politics: "'World opinion'? I don't believe in
world opinion. The only thing that matters is power." But like Woodrow Wilson
and Franklin Roosevelt, Kennedy understood that the ability to attract others
and move opinion was an element of power.[11] He understood the importance of
soft power.
|
Trong một cuộc gặp gỡ với Tổng thống John F. Kennedy,
chính trị gia lão thành John J. McCloy đùng đùng nổi cơn thịnh nộ vì ông cho
rằng chính quyền quan tâm quá đáng đến tính phổ cập và thu hút trên chính
trường quốc tế: “Ý kiến thế giới ư? Tôi không tin vào ý kiến thế giới. Điều
duy nhất ta cần quan tâm là quyền lực.” Nhưng cũng giống như Woodrow Wilson
và Franklin Roosevelt, Kennedy hiểu rằng khả năng quyến rũ người khác và dịch
chuyển ý kiến là một thành tố tạo nên quyền lực.[11] Ông hiểu được tầm quan
trọng của quyền lực mềm.
|
As mentioned above, sometimes the same power resources can
affect the entire spectrum of behavior from coercion to attraction. A country
that suffers economic and military decline is likely to lose not only its hard-power
resources but also some of its ability to shape the international agenda and
some of its attractiveness. Some countries may be attracted to others with
hard power by the myth of invincibility or inevitability. Both Hitler and
Stalin tried to develop such myths. Hard power can also be used to establish empires
and institutions that set the agenda for smaller states-witness Soviet rule over
the countries of Eastern Europe. President Kennedy was properly concerned
that although polls showed the United States to be more popular, they also
showed a Soviet lead in perceptions of its space program and the strength of
its nuclear arsenal. [12]
|
Như đã đề cập ở trên, cũng cùng một nguồn lực có thể ảnh
hưởng cả chuỗi hành vi đi từ cưỡng chế đến quyến rũ. Một quốc gia đang trải
qua giai đoạn suy thoái về quân sự lẫn kinh tế không những đánh mất nguồn lực
tạo nên quyền lực cứng mà cả một phần năng lực định hình các lịch trình quốc
tế cũng như tính quyến rũ của họ. Một số quốc gia bị thu hút bởi các quốc gia
có quyền lực cứng qua huyền thoại bất khả chiến bại và tính thiên định. Cả
Hitler và Stalin đều nỗ lực xây dựng những huyền thoại trên. Quyền lực cứng
cũng có thể được dùng để kiến lập đế chế và các thể chế nhằm đặt ra lịch
trình nghị sự cho các tiểu quốc – ví dụ như Liên Xô đã từng cai trị các quốc
gia trong khối Đông Âu. Tổng thống Kennedy đã tỏ ra quan ngại đúng đắn khi
ông thấy rằng mặc dù qua các cuộc trưng cầu dân ý, Hoa Kỳ được lòng dân hơn,
nhưng nó cũng cho thấy đa số công chúng cho rằng Liên Xô vượt trội hơn trong
chương trình thám hiểm vũ trụ và sức mạnh vũ khí hạt nhân.[12]
|
But soft power does not depend on hard power. The Vatican
has soft power despite Stalin's mocking question "How many divisions
does the Pope have?" The Soviet Union once had a good deal of soft
power, but it lost much of it after the invasions of Hungary and
Czechoslovakia. Soviet soft power declined even as its hard economic and
military resources continued to grow. Because of its brutal policies, the
Soviet Union's hard power actually undercut its soft power. In contrast, the
Soviet sphere of influence in Finland was reinforced by a degree of soft
power. Similarly, the United States' sphere of influence in Latin America in the
1930S was reinforced when Franklin Roosevelt added the soft power of his "good
neighbor policy."[13]
|
Quyền lực mềm không phụ thuộc vào quyền lực cứng. Toà
thánh Vatican đương nhiên có quyền lực mềm cho dù Stalin đã từng mỉa mai với
câu hỏi, “Đức Giáo Hoàng có được mấy sư đoàn trong tay?” Đã có một thời Liên
Xô có rất nhiều quyền lực mềm, nhưng nó đã đánh mất ít nhiều quyền lực này
sau khi xâm lăng Hungary và Tiệp Khắc. Quyền lực mềm của chính quyền Liên Xô
tiếp tục suy giảm mặc dù nguồn lực cứng về kinh tế và quân sự ngày càng gia
tăng. Do thực thi các chính sách tàn bạo, quyền lực cứng của Liên Xô đã làm
suy yếu quyền lực mềm của chính họ. Trái lại, quyền lực mềm ở một mức độ nào
đó đã củng cố tầm ảnh hưởng của chính quyền Liên Xô tại Phần Lan. Cũng tương
tự, quyền lực mềm đã củng cố tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại các quốc gia Nam Mỹ
trong thập niên 1930 khi Tổng thống Franklin Roosevelt đưa quyền lực mềm vào
“chính sách láng giềng tốt.”[13]
|
Sometimes countries enjoy political clout that is greater than
their military and economic weight would suggest because they define their
national interest to include attractive causes such as economic aid or
peacemaking. For example, in the past two decades Norway has taken a hand in
peace talks in the Philippines, the Balkans, Colombia, Guatemala, Sri Lanka, and
the Middle East. Norwegians say this grows out of their Lutheran missionary
heritage, but at the same time the posture of peacemaker identifies Norway
with values shared by other nations that enhance Norway's soft power. Foreign
Minister Jan Peterson argued that "we gain some access," explaining
that Norway's place at so many negotiating tables elevates its usefulness and
value to larger countries.[14]
|
Đôi khi các quốc gia có được thế lực chính trị rộng lớn
hơn cả sức mạnh kinh tế và quân sự mà họ sở hữu; điều đó ngụ ý là các quốc
gia này đã xác định lợi ích quốc gia của họ phải bao gồm những mục đích thu
hút như viện trợ kinh tế và giữ gìn hoà bình. Ví dụ như trong hai thập niên
qua, Na Uy đã đóng góp công sức vào những cuộc đàm phán hoà bình tại
Philippines, bán đảo Balkan, Columbia, Guantemala, Sri Lanka, và khu vực
Trung Đông. Người dân Nay Uy cho rằng đây là di sản nền văn hoá truyền giáo
đạo Luther của họ, nhưng đồng thời, việc đảm nhiệm tư cách của một lực lượng
giữ gìn hoà bình cũng đồng nhất quốc gia này với các giá trị mà những quốc
gia khác cùng chia xẻ, và do vậy, đã nâng cao quyền lực mềm của Na Uy. Bộ
trưởng Ngoại giao Jan Peterson lập luận rằng “chúng tôi quả thực dễ có cơ hội
tiếp cận hơn,” vì ông cho rằng vị trí của Na Uy tại nhiều cuộc đàm phán đã
nâng cao tính hữu ích và giá trị của họ đối với các quốc gia lớn hơn.[14]
|
Michael Ignatieff describes the position of Canada from a
similar point of view: "Influence derives from three assets: moral
authority as a good citizen which we have got some of, military capacity
which we have got a lot less of, and international assistance capability."
With regard to the United States, "we have something they want. They
need legitimacy."[15] That in turn can increase Canada's influence when it
bargains with its giant neighbor. The Polish government decided to send
troops to postwar Iraq not only to curry favor with the United States but
also as a way to create a broader positive image of Poland in world affairs.
When the Taliban government fell in Mghanistan in 2001, the Indian foreign
minister flew to Kabul to welcome the new interim government in a plane not
packed with arms or food but crammed with tapes of Bollywood movies and music,
which were quickly distributed across the city.[16] As we shall see in
chapter 3, many countries have soft-power resources.
|
Michael Ignatieff cũng mô tả vị trí của Canada từ một góc
nhìn tương tự: “Ảnh hưởng xuất phát từ ba phạm trù: thẩm quyền đạo đức với tư
cách một công dân tốt mà chúng ta có ít nhiều, khả năng quân sự mà chúng ta
có ít hơn nhiều, và khả năng tương trợ cộng đồng quốc tế.” Đề cập đến Hoa Kỳ,
ông cho rằng “chúng ta có cái mà họ muốn. Họ cần có tính chính danh.”[15] Đó
chính là tiền đề gia tăng ảnh hưởng của Canada khi họ cần thương lượng với
người hàng xóm khổng lồ Hoa Kỳ. Chính phủ Ba Lan quyết định gửi quân đến Iraq
trong thời hậu chiến không chỉ nhằm được Hoa Kỳ sủng ái mà còn là phương cách
tạo dựng lên một hình ảnh tích cực về Ba Lan trên trường quốc tế. Khi chính
quyền Taliban sụp đổ tại Afghanistan vào năm 2001, Bộ Trưởng Ngoại Giao của
Ấn Độ bay đến Kabul để chúc mừng tân chính phủ lâm thời. Trên chuyến bay này,
họ không mang theo theo vũ khí hay lương thực, mà chất đầy băng hình phim ảnh
và âm nhạc của Bollywood được nhanh chóng phân phát sau đó trong khắp thành
phố.[16] Trong chương ba tới, chúng ta sẽ thấy rằng nhiều quốc gia có sẵn
nguồn lực sản sinh ra quyền lực mềm.
|
Institutions can enhance a country's soft power. For
example, Britain in the nineteenth century and the United States in the second
half of the twentieth century advanced their values by creating a structure
of international rules and institutions that were consistent with the liberal
and democratic nature of the British and American economic systems: free trade
and the gold standard in the case of Britain; the International Monetary Fund,
the World Trade Organization, and the United Nations in the case of the
United States. When countries make their power legitimate in the eyes of
others, they encounter less resistance to their wishes. If a country's
culture and ideology are attractive, others more willingly follow. If a
country can shape international rules that are consistent with its interests
and values, its actions will more likely appear legitimate in the eyes of
others. If it uses institutions and follows rules that encourage other
countries to channel or limit their activities in ways it prefers, it will
not need as many costly carrots and sticks.
|
Các thể chế cũng có thể nâng cao quyền lực mềm của một
quốc gia. Ví dụ như Anh Quốc trong thế kỷ 19 và Hoa Kỳ vào thời kỳ nửa sau
thế kỷ 20 đã triển khai các giá trị của họ thông qua xây dựng các luật lệ và
thể chế quốc tế phản ánh bản chất dân chủ tự do của nền kinh tế Hoa Kỳ và Anh
Quốc: trong trường hợp Anh Quốc là sự tự do mậu dịch và nền kim bản vị; trong
trường hợp Hoa Kỳ là các thể chế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Mậu dịch
Thế giới, và Liên Hiệp Quốc. Khi các quốc gia chứng tỏ sức mạnh có tính chính
đáng, họ sẽ không bị đối kháng khi thực thi nguyện vọng của mình. Nếu nền văn
hóa và ý thức hệ của một quốc gia tỏ ra hấp dẫn, các quốc gia khác sẽ dễ dàng
đi theo họ hơn. Nếu một quốc gia có thể định hình những luật lệ quốc tế tương
thích với lợi ích và giá trị của quốc gia đó, hành động của họ sẽ hợp pháp
hơn dưới cái nhìn của các nước khác. Nếu họ sử dụng các thể chế này và tuân
thủ các luật lệ nhằm khuyến khích các quốc gia khác vận dụng hay hạn chế hoạt
động theo chiều hướng mà họ mong muốn, họ sẽ không cần dùng đến củ cà rốt và
cây gậy vốn tốn sẽ kém hơn nhiều.
|
SOURCES OF SOFT
POWER
The soft power of a country rests primarily on three
resources: its culture (in places where it is attractive to others), its
political values (when it lives up to them at home and abroad), and its
foreign policies (when they are seen as legitimate and having moral
authority.)
Let's start with
culture. Culture is the set of values and practices that create meaning for a
society. It has many manifestations. It is common to distinguish between high
culture such as literature, art, and education, which appeals to elites, and
popular culture, which focuses on mass entertainment.
|
Nguồn lực của quyền
lực mềm
Quyền lực mềm của một quốc gia dựa trên ba nguồn lực
chính: nền văn hoá (ở những điểm thu hút), giá trị về chính trị (áp dụng
trong và ngoài nước), và chính sách đối ngoại (khi được cho là hợp pháp và
phù hợp đạo đức).
Chúng ta hãy bắt đầu với văn hoá. Văn hoá bao gồm các giá
trị và tập tục vốn đem lại ý nghĩa trong một xã hội. Văn hoá có nhiều biểu
hiện khác nhau. Thường người ta hay phân biệt giữa văn hoá cao cấp như văn
chương, nghệ thuật, và giáo dục, vốn rất thu hút giới trí thức, và văn hóa
đại chúng vốn nhằm giải trí đại đa số quần chúng.
|
When a country's culture includes universal values and its
policies promote values and interests that others share, it increases the
probability of obtaining its desired outcomes because of the relationships of
attraction and duty that it creates. Narrow values and parochial cultures are
less likely to produce soft power. The United States benefits from a
universalistic culture. The German editor Josef Joffe once argued that
America's soft power was even larger than its economic and military assets.
"U.S. culture, low-brow or high, radiates outward with an intensity last
seen in the days of the Roman Empire-but with a novel twist. Rome's and
Soviet Russia's cultural sway stopped exactly at their military borders.
America's soft power, though, rules over an empire on which the sun never
sets."[17]
|
Khi văn hoá của một quốc gia bao gồm những giá trị phổ cập
và các chính sách của họ quảng bá các giá trị và quyền lợi mà những quốc gia
khác đồng chia xẻ, nền văn hoá sẽ giúp gia tăng khả năng quốc gia đó có thể
đạt được ước muốn của mình thông qua các mối quan hệ mang tính thu hút và
nghĩa vụ mà nó hình thành. Những giá trị hẹp hòi và các nền văn hoá cục bộ
hiếm khi tạo ra được quyền lực mềm. Hoa Kỳ có lợi thế từ một nền văn hoá phổ
quát. Nhà biên tập người Đức Josef Joffe đã từng đưa ra luận điểm là quyền
lực mềm của Hoa Kỳ còn rộng lớn hơn cả các tài sản quân sự và kinh tế gộp
lại. “Văn hoá Mỹ, cho dù là bình dân hay cao cấp, đều tỏa sáng mãnh liệt;
điều này chỉ xảy ra trước đây dưới thời đế chế La Mã – nhưng ở đây có một
khuynh hướng mới mẻ. Thế lực về văn hoá của La Mã và Liên Xô trước đây dừng
lại tại biên giới quân sự của họ. Trong khi đó, quyền lực mềm của Hoa Kỳ
thống trị trên một đế chế rộng lớn mà nơi đó mặt trời không hề lặn.”[17]
|
Some analysts treat soft power simply as popular cultural
power. They make the mistake of equating soft power behavior with the
cultural resources that sometimes help produce it. They confuse the cultural resources
with the behavior of attraction. For example, the historian Niall Ferguson
describes soft power as "nontraditional forces such as cultural and
commercial goods" and then dismisses it on the grounds "that it's,
well, soft."[18] Of course, Coke and Big Macs do not necessarily attract
people in the Islamic world to love the United States. The North Korean
dictator KimJong Il is alleged to like pizza and American videos, but that
does not affect his nuclear programs. Excellent wines and cheeses do not
guarantee attraction to France, nor does the popularity of Pokemon games
assure that Japan will get the policy outcomes it wishes.
|
Một số nhà phân tích cho rằng quyền lực mềm chỉ đơn thuần
là sức mạnh văn hóa đại chúng. Sai lầm của quan điểm này là đồng hoá quyền
lực mềm với các nguồn lực văn hoá được dùng để tạo ra quyền lực này. Họ nhầm
lẫn nguồn lực văn hoá với hành vi thu hút. Ví dụ, nhà sử học Niall Ferguson
mô tả quyền lực mềm là “những sức mạnh phi truyền thống như các sản phẩm văn
hoá và thương mại” và rồi ông phủ nhận nó vì lý do “thực ra, nó rất mềm.”[18]
Dĩ nhiên, nước ngọt của hãng Coke và bánh mì Big Macs không nhất thiết cuốn
hút nhân dân các nước đạo Hồi khiến họ yêu mến nước Mỹ. Có thông tin cho rằng
nhà độc tài Bắc Triều Tiên Kim Jong Il rất thích pizza và phim ảnh Mỹ, nhưng
điều đó không ảnh hưởng đến chương trình vũ khí hạt nhân của ông. Rượu ngon,
phô mai chua, không bảo đảm nước Pháp sẽ được yêu mến; tính phổ biến của trò
chơi Pokemon không hề đảm bảo nước Nhật sẽ đạt được những kết quả mong muốn
từ các chính sách của họ.
|
This is not to deny that popular culture is often a
resource that produces soft power, but as we saw earlier, the effectiveness
of any power resource depends on the context. Tanks are not a great military
power resource in swamps or jungles. Coal and steel are not major power
resources if a country lacks an industrial base. Serbs eating at McDonald's
supported Milosevic, and Rwandans committed atrocities while wearing T-shirts
with American logos. American films that make the United States attractive in
China or Latin America may have the opposite effect and actually reduce
American soft power in Saudi Arabia or Pakistan. But in general, polls show
that our popular culture has made the United States seem to others "exciting,
exotic, rich, powerful, trend-setting-the cutting edge of modernity and
innovation."[19] And such images have appeal "in an age when people
want to partake of the good life American-style, even if as political
citizens, they are aware of the downside for ecology, community, and
equality."[20] For example, in explaining a new movement toward using
lawsuits to assert rights in China, a young Chinese activist explained,
"We've seen a lot of Hollywood movies-they feature weddings, funerals and
going to court. So now we think it's only natural to go to court a few times
in your life."[21] If American objectives include the strengthening of
the legal system in China, such films may be more effective than speeches by
the American ambassador about the importance of the rule of law.
|
Điều này không có nghĩa phủ nhận văn hóa đại chúng vốn
thường là nguồn lực tạo ra quyền lực mềm. Nhưng như chúng ta đã thấy ở trên,
hiệu quả của bất kỳ nguồn lực sức mạnh nào cũng phụ thuộc vào bối cảnh. Xe
tăng không còn là sức mạnh quân sự khi dùng nó trong vùng đầm lầy hay rừng
rú. Than và sắt không hề là nguồn lực lớn lao khi một quốc gia không có cơ sở
công nghiệp hạ tầng. Có những người Serb đi ăn tại nhà hàng McDonald’s nhưng
vẫn ủng hộ Milosevic. Nhiều người dân ở Rwanda phạm những tội ác tày trời trong
khi mặc áo thun có những biểu trưng của Hoa Kỳ. Phim ảnh Mỹ vốn tạo sự thu
hút cho nước Mỹ tại Trung Hoa hay Nam Mỹ lại cũng có thể gây ra phản cảm và
làm suy giảm quyền lực mềm của họ tại Ảrập Xêút hay Pakistan. Nhưng nhìn
chung, các cuộc trưng cầu dân ý cho thấy nền văn hoá đại chúng của Hoa Kỳ gây
ra những ấn tượng như “hứng thú, kỳ lạ, phong phú, mạnh mẽ, tiền phong về
hiện đại hoá lẫn sáng tạo.”[19] Những hình này trở nên quyến rũ “trong một
thời đại mà người ta muốn tham gia vào một cuộc sống tốt đẹp theo lối Mỹ,
ngay cả khi trong quan điểm chính trị, họ ý thức được mặt trái của nước Mỹ về
hệ sinh thái, cộng đồng hay sự bất bình đẳng.”[20] Ví dụ, trong khi giải
thích xu hướng kiện tụng để khẳng định quyền lợi tại Trung Quốc, một nhà hoạt
động xã hội trẻ đã nêu ra, “Chúng ta đã xem nhiều phim ảnh Hoa Kỳ, trong đó
đầy rẫy những cảnh đám cưới, đám ma, và đi hầu toà. Bởi vậy, bây giờ chúng ta
nghĩ rằng đâu có gì là lạ khi trong đời mình cũng ra hầu toà vài lần cho
biết.”[21] Nếu mục đích của Hoa Kỳ là củng cố hệ thống luật pháp tại Trung
Quốc, những bộ phim này có lẽ còn hiệu quả hơn cả những bài diễn văn của ngài
đại sứ rao giảng về tầm quan trọng của vấn đề pháp trị.
|
As we will see in the next chapter, the background
attraction (and repulsion) of American popular culture in different regions
and among different groups may make it easier or more difficult for American
officials to promote their policies. In some cases, such as Iran, the same
Hollywood images that repel the ruling mullahs may be attractive to the
younger generation. In China, the attraction and rejection of American
culture among different groups may cancel each other out.
|
Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, sự hấp dẫn
(hay phản cảm) của văn hoá đại chúng Mỹ tại các khu vực khác nhau và đối với
các nhóm khác nhau tạo điều kiện thuận lợi hay bất lợi cho các viên chức Hoa
Kỳ quảng bá chính sách của họ. Trong một số trường hợp, ví dụ như Iran, cũng
cùng thứ phim ảnh từ Hollywood trong khi gây khó chịu cho giới giáo sĩ hồi
giáo lãnh đạo lại rất thu hút giới trẻ. Tại Trung Quốc, văn hoá Mỹ vừa cuốn
hút lại vừa bị tẩy chay trong những nhóm người khác nhau.
|
Commerce is only one of the ways in which culture is
transmitted. It also occurs through personal contacts, visits, and exchanges.
The ideas and values that America exports in the minds of more than half a
million foreign students who study every year in American universities and
then return to their home countries, or in the minds of the Asian
entrepreneurs who return home after succeeding in Silicon Valley, tend to
reach elites with power. Most of China's leaders have a son or daughter
educated in the States who can portray a realistic view of the United States
that is often at odds with the caricatures in official Chinese propaganda.
Similarly, when the United States was trying to persuade President Musharraf
of Pakistan to change his policies and be more supportive of American
measures in Afghanistan, it probably helped that he could hear from a son
working in the Boston area.
|
Thương mại chỉ là một trong những phương cách trao đổi văn
hoá. Sự trao đổi văn hoá cũng xảy ra qua liên hệ cá nhân, thăm viếng, và trao
đổi. Ý tưởng và giá trị mà Hoa Kỳ xuất khẩu tồn tại trong đầu óc của hơn nửa
triệu du học sinh hàng năm học tập tại các trường đại học Hoa Kỳ và sau này
trở về quê hương, hay trong đầu óc của những nhà kinh doanh châu Á hồi hương
sau khi họ thành đạt tại Thung lũng Silicon – chúng đều dễ dàng thẩm thấu
trong tầng lớp ưu tú nắm trong tay quyền lực. Đa số các lãnh tụ Trung Quốc
đều có con cái được đào tạo tại Hoa Kỳ. Con cái họ sẽ có cái nhìn thực tế về
Hoa Kỳ; cái nhìn này thường mâu thuẫn với những hình ảnh biếm hoạ trong
truyền thông chính thức tại Trung Quốc. Cũng tương tự như khi Hoa Kỳ đang cố
thuyết phục Tổng thống Pakistan Musharaf thay đổi chính sách của ông và tăng
cường hỗ trợ các hoạt động của Hoa Kỳ tại Afghanistan, cuộc trò chuyện với
người con trai của ông vốn đang làm việc tại Boston chắc chắn đã giúp ít
nhiều cho quyết định của ông.
|
Government policies at home and abroad are another
potential source of soft power. For example, in the 1950S racial segregation
at home undercut American soft power in Africa, and today the practice of
capital punishment and weak gun control laws undercut American soft power in
Europe. Similarly, foreign policies strongly affect soft power. Jimmy
Carter's human rights policies are a case in point, as were government
efforts to promote democracy in the Reagan and Clinton administrations. In
Argentina, American human rights policies that were rejected by the military
government of the 1970S produced considerable soft power for the United
States two decades later, when the Peronists who were earlier imprisoned
subsequently came to power. Policies can have long-term as well as short-term
effects that vary as the context changes. The popularity of the United States
in Argentina in the early 1990S reflected Carter's policies of the 1970s, and
it led the Argentine government to support American policies in the UN and in
the Balkans. Nonetheless, American soft power eroded significantly after the
context changed again later in the decade when the United States failed to
rescue the Argentine economy from its collapse.
|
Chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ cũng là một
nguồn lực khác nữa. Ví dụ, vào thập niên 1950, sự phân biệt chủng tộc trong
nước làm suy giảm quyền lực mềm của Hoa Kỳ tại châu Phi, và ngày nay án tử
hình cũng như luật lệ kiểm soát vũ khí lỏng lẻo làm suy yếu quyền lực mềm của
Hoa Kỳ tại châu Âu. Tương tự, chính sách đối ngoại cũng ảnh hưởng mạnh đến
quyền lực mềm. Trường hợp điển hình là chính sách về nhân quyền của Tổng
thống Jimmy Carter cũng như các nỗ lực của chính phủ nhằm quảng bá dân chủ
dưới thời Tổng thống Reagan và Clinton. Tại Argentina vào thập niên 1970, chính
phủ quân sự bác bỏ các chính sách nhân quyền của Mỹ; hai mươi năm sau, những
chính sách này đã đem lại cho chính phủ Hoa Kỳ quyền lực mềm đáng kể khi
những người theo Tổng thống Peron vốn bị tù đày trước đây lên nắm chính
quyền. Chính sách có thể có tác dụng dài hạn cũng như ngắn hạn và thay đổi
tùy theo bối cảnh. Hoa Kỳ được xem là quốc gia thân hữu với Argentina vào
thập niên 1990 phản ảnh chính sách của Tổng thống Jimmy Carter vào thập niên
1970, và nhờ vậy đã khiến cho chính phủ Argentina ủng hộ chính sách Hoa Kỳ
tại Liên Hiệp Quốc và vùng bán đảo Balkan. Dù sao chăng nữa, quyền lực mềm
của Hoa Kỳ đã bị xói mòn đáng kể khi bối cảnh thay đổi lần nữa vào thập kỷ
sau này khi mà Hoa Kỳ thất bại trong việc cứu trợ nền kinh tế Argentina khi
nó sụp đổ.
|
Government policies can reinforce or squander a country's
soft power. Domestic or foreign policies that appear to be hypocritical,
arrogant, indifferent to the opinion of others, or based on a narrow approach
to national interests can undermine soft power. For example, in the steep
decline in the attractiveness of the United States as measured by polls taken
after the Iraq War in 2003, people with unfavorable views for the most part
said they were reacting to the Bush
administration and its policies rather than the United
States generally. So far, they distinguish American people and culture from
American policies. The publics in most nations continued to admire the United
States for its technology, music, movies, and television. But large
majorities in most countries said they disliked the growing influence of
America in their country.[22]
|
Chính sách nhà nước có thể tăng cường hoặc phí hoài quyền
lực mềm của một quốc gia. Chính sách đối nội lẫn đối ngoại nào tỏ ra đạo đức
giả, ngạo mạn, hay dửng dưng với công luận, hoặc dựa trên quan điểm thiển cận
phục vụ cho quyền lợi quốc gia, đều có thể hủy hoại quyền lực mềm. Ví dụ như
khi trưng cầu ý kiến cho thấy sức thu hút của Hoa Kỳ bị giảm mạnh sau cuộc
chiến tranh Iraq vào năm 2003, những người tỏ ra thiếu thiện cảm với Hoa Kỳ
nói rằng họ phản đối chính sách của Tổng thống Bush và chính quyền của ông
chứ không phải dân chúng Mỹ nói chung. Cho tới nay, họ tách biệt người Mỹ và
văn hoá Mỹ với chính sách của chính phủ Mỹ. Dân chúng tại phần lớn các quốc
gia vẫn tiếp tục ngưỡng mộ Hoa Kỳ trong các lãnh vực kỹ thuật, âm nhạc, điện
ảnh, và truyền hình. Nhưng đại đa số cho hay họ không thích ảnh hưởng ngày
càng gia tăng của Mỹ tại sứ xở họ. [22]
|
The 2003 Iraq War is not the first policy action that has
made the United States unpopular. As we will see in the next chapter, three
decades ago, many people around the world objected to America's war in
Vietnam, and the standing of the United States reflected the unpopularity of
that policy. When the policy changed and the memories of the war receded, the
United States recovered much of its lost soft power. Whether the same thing
will happen in the aftermath of the Iraq War will depend on the success of
policies in Iraq, developments in the Israel-Palestine conflict, and many
other factors.
|
Cuộc chiến tranh Iraq năm 2003 không phải là chính sách
đầu tiên làm cho Hoa Kỳ không được ưa chuộng. Như chúng ta sẽ thấy trong
chương tiếp theo, ba mươi năm trước, nhân dân trên toàn thế giới phản đối
cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, và vị thế của Hoa Kỳ phản ảnh tính bất
cập của các chính sách thời bấy giờ. Sau này, khi Hoa Kỳ thay đổi chính sách
của họ và ký ức cuộc chiến tranh đã đi vào quá khứ, Hoa Kỳ thu hồi lại được
đa phần quyền lực mềm đã bị đánh mất trước đây. Quá khứ có lập lại hay không trong
hậu kỳ chiến tranh Iraq sẽ còn phụ thuộc vào sự thành công các chính sách tại
Iraq, tiến triển trong mâu thuẫn Israel và Palestine, và nhiều yếu tố khác
nữa.
|
The values a government champions in its behavior at home
(for example, democracy), in international institutions (working with
others), and in foreign policy (promoting peace and human rights) strongly
affect the preferences of others. Governments can attract or repel others by
the influence of their example. But soft power does not belong to the
government in the same degree that hard power does. Some hard-power assets
such as armed forces are strictly governmental; others are inherently
national, such as oil and mineral reserves, and many can be transferred to
collective control, such as the civilian air fleet that can be mobilized in
an emergency. In contrast, many soft-power resources are separate from the
American government and are only partly responsive to its purposes. In the
Vietnam era, for example, American popular culture often worked at
crosspurposes to official government policy. Today, Hollywood movies that
show scantily clad women with libertine attitudes or fundamentalist Christian
groups that castigate Islam as an evil religion are both (properly) outside
the control of government in a liberal society, but they undercut government
efforts to improve relations with Islamic nations.
|
Những giá trị mà một chính phủ đấu tranh để bảo vệ trong
nước (ví dụ như dân chủ), trong các thể chế quốc tế (qua hợp tác với các quốc
gia khác), và chính sách đối ngoại (thúc đẩy hoà bình và nhân quyền) đều ảnh
hưởng mạnh mẽ đến ước nguyện của người khác. Nhà nước có thể thu hút hoặc xô
đẩy người ta thông qua ảnh hưởng những hành động của họ. Nhưng nhà nước không
có khả năng sở hữu quyền lực mềm như họ sở hữu quyền lực cứng. Những tài sản
trong quyền lực cứng như quân đội hoàn toàn thuộc về nhà nước; những tài sản
khác hiển nhiên là thuộc về quốc gia, ví dụ như dầu khí và các khoáng sản; và
một số tài sản khác lại có thể được chuyển giao dưới quyền kiểm soát tập thể,
như hãng hàng không dân dụng có thể được huy động trong tình hình khẩn cấp.
Trái lại, nhiều nguồn lực của quyền lực mềm hoàn toàn tách riêng khỏi nhà
nước và chỉ đóng góp một phần khi nhà nước huy động. Ví dụ như trong thời kỳ
chiến tranh Việt Nam, văn hoá đại chúng Mỹ thường đối đầu với các chính sách
nhà nước. Ngày nay, phim ảnh Hollywood với các diễn viên nữ ăn mặc hở hang và
lối sống phóng túng, hoặc những nhóm Cơ Đốc Giáo cấp tiến lên tiếng chỉ trích
Hồi Giáo là một tôn giáo độc ác, đều đứng ngoài sự kiểm soát của chính phủ
trong một xã hội tự do, nhưng dù sao cũng ảnh hưởng xấu đến các nỗ lực của
chính quyền nhằm cải thiện quan hệ với các quốc gia Hồi Giáo.
|
THE LIMITS OF SOFT
POWER
Some skeptics object to the idea of soft power because
they think of power narrowly in terms of commands or active control. In their
view, imitation or attraction are simply that, not power. As we have seen,
some imitation or attraction does not produce much power over policy
outcomes, and neither does imitation always produce desirable outcomes. For
example, in the 1980s, Japan was widely admired for its innovative industrial
processes, but imitation by companies in other countries came back to haunt
the Japanese when it reduced their market power. Similarly, armies frequently
imitate and therefore nullify the successful tactics of their opponents and
make it more difficult for them to achieve the outcomes they want. Such
observations are correct, but they miss the point that exerting attraction on
others often does allow you to get what you want. The skeptics who want to
define power only as deliberate acts of command and control are ignoring the
second, or "structural," face of power-the ability to get the
outcomes you want without having to force people to change their behavior
through threats or payments.
|
Giới hạn của quyền
lực mềm
Một số người hoài nghi khái niệm quyền lực mềm vì họ chỉ hiểu
quyền lực theo nghĩa hẹp là quyền năng chỉ huy hay chủ động kiểm soát. Theo
họ, bắt chước hay thu hút chỉ có vậy thôi, chứ tự thân chúng không phải là
quyền lực. Như chúng ta đã nhận thấy, có những cái bắt chước hay thu hút
không hề tạo ra quyền lực nào có thể ảnh hưởng tích cực đến chính sách, và
bắt chước không luôn đem lại kết quả mong muốn. Ví dụ, trong thập niên 1980,
thế giới rất ngưỡng mộ Nhật Bản vì họ có những phương pháp sản xuất công
nghiệp tiên tiến; nhưng rốt cuộc sự mô phỏng của các công ty nước ngoài đã đem
lại hiệu quả trái ngược là đánh mất thị phần của Nhật. Tương tự, quân đội
cũng thường hay mô phỏng các chiến thuật thành công của đối phương và vô hiệu
hoá chúng, khiến cho đối phương khó có thể đạt được kết quả mà họ mong muốn.
Những nhận xét này hoàn toàn chính xác, nhưng chúng quên đi một điều là tạo
ra được sự quyến rũ thường giúp chúng ta dễ thành công hơn. Những người hoài nghi
chỉ muốn định nghĩa quyền lực là những hành động chỉ huy và kiểm soát có chủ ý,
đã lãng quên một phương diện thứhai, hay “cấu trúc” khác của quyền lực là khả
năng đạt được thành công mà không cần buộc người ta phải thay đổi hành vi của
họ qua cuỡng chế hay thưởng phạt.
|
At the same time, it is important to specify the
conditions under which attraction is more likely to lead to desired outcomes,
and under which it will not. As we have seen, popular culture is more likely to
attract people and produce soft power in the sense of preferred outcomes in
situations where cultures are somewhat similar rather than widely dissimilar.
All power depends on context-who relates to whom under what circumstances-but
soft power depends more than hard power upon the existence of willing
interpreters and receivers. Moreover, attraction often has a diffuse effect,
creating general influence rather than producing an easily observable
specific action. Just as money can be invested, politicians speak of storing
up political capital to be drawn on in future circumstances. Of course, such
goodwill may not ultimately be honored, and diffuse reciprocity is less
tangible than an immediate exchange. Nonetheless, the indirect effects of
attraction and a diffuse influence can make a significant difference in
obtaining favorable outcomes in bargaining situations. Otherwise leaders
would insist only on immediate payoffs and specific reciprocity, and we know
that is not always the way they behave. Social psychologists have developed a
substantial body of empirical research exploring the relationship between
attractiveness and power.[23]
|
Đồng thời, cũng cần xác định trong điều kiện nào sự thu
hút sẽ có khuynh hướng đưa đến thành công, và điều kiện nào không. Như chúng
ta đã thấy, văn hóa đại chúng thường thu hút đại chúng và tạo ra được quyền
lực mềm hiểu theo nghĩa là các kết quả mong muốn khi các yếu tố văn hoá có
nhiều điểm tương đồng hơn dị biệt. Tất cả các loại quyền lực đều phụ thuộc
vào bối cảnh – ai liên quan tới ai trong hoàn cảnh nào – nhưng so với quyền
lực cứng, quyền lực mềm phụ thuộc nhiều hơn vào sự hiện hữu của người diễn
dịch và người tiếp thu. Hơn nữa, sự lôi cuốn thường có hiệu quả khuếch tán,
tạo ra hiệu quả phổ quát hơn là một hành động cụ thể dễ dàng ghi nhận. Giống
như tiền bạc có thể đem đầu tư, các chính trị gia cũng hay nói đến việc tích
lũy vốn liếng chính trị để dùng đến sau này. Dĩ nhiên, thiện chí này không
phải luôn luôn sẽ được tôn trọng, và sự trao đổi mang tính khuếch tán này càng
kém hữu hình so với một hành động trao đổi tức thì. Dù sao chăng nữa, hiệu
quả gián tiếp của sự hấp dẫn và ảnh hưởng khuếch tán có thể rất quan trọng
giúp cho ta đạt được kết quả thuận lợi tại bàn thương lượng. Nếu không, các
chính trị gia đã đòi hỏi sự đáp lễ cụ thể hay đền bù tức thời, mà như chúng
ta đã biết, họ không phải luôn luôn hành xử như thế. Các nhà tâm lý học xã
hội đã dày công nghiên cứu và có được bằng chứng về mối quan hệ giữa quyến rũ
và quyền lực.[23]
|
Soft power is also likely to be more important when power
is dispersed in another country rather than concentrated. A dictator cannot
be totally indifferent to the views of the people in his country, but he can
often ignore whether another country is popular or not when he calculates whether
it is in his interests to be helpful. In democracies where public opinion and
parliaments matter, political leaders have less leeway to adopt tactics and
strike deals than in autocracies. Thus it was impossible for the Turkish
government to permit the transport of American troops across the country in
2003 because American policies had greatly reduced our popularity in public
opinion and in the parliament. In contrast, it was far easier for the United
States to obtain the use of bases in authoritarian Uzbekistan for operations
in Afghanistan.
|
Quyền lực mềm cũng giữ một vai trò quan trọng hơn khi
quyền lực tại một quốc gia được phân tán hơn là tập trung. Một nhà độc tài có
thể không hoàn toàn dửng dưng đối với các quan điểm của người dân trong nước;
nhưng ông ta sẽ dễ dàng làm ngơ một quốc gia khác, cho dù quốc gia này có đuợc
lòng dân hay không, khi ông ta tính toán những bước đi phục vụ cho lợi ích cá
nhân. Trong các nền dân chủ, nơi mà công luận và quốc hội giữ vai trò quan
trọng, các chính trị gia có ít chọn lựa hơn khi họ tính toán chiến lược hay
thương lượng, so với các chế độ chuyên quyền. Cũng vì lý do đó mà chính phủ Thổ
Nhĩ Kỳ không thể cho phép quân lực Hoa Kỳ vận chuyển ngang qua nước họ vào
năm 2003 bởi vì các chính sách của Hoa Kỳ đã làm mất lòng dân trầm trọng
trong cả công luận lẫn quốc hội. Trái lại, Hoa Kỳ dễ dàng được quyền sử dụng
các căn cứ quân sự tại Uzbekistan vốn là một quốc gia chuyên quyền trong
chiến dịch của họ tại Afghanistan.
|
Finally, though soft power sometimes has direct effects on
specific goals-witness the inability of the United States to obtain the votes
of Chile or Mexico in the UN Security Council in 2003 after our policies
reduced our popularity-it is more likely to have an impact on the general
goals that a country seeks.[24] Fifty years ago, Arnold Wolfers distinguished
between the specific "possession goals" that countries pursue, and
their broader "milieu goals," like shaping an environment conducive
to democracy.[25] Successful pursuit of both types of goals is important in
foreign policy. If one considers various American national interests, for
example, soft power may be less relevant than hard power in preventing
attack, policing borders, and protecting allies. But soft power is
particularly relevant to the realization of "milieu goals." It has
a crucial role to play in promoting democracy, human rights, and open
markets. It is easier to attract people to democracy than to coerce them to
be democratic. The fact that the impact of attraction on achieving preferred
outcomes varies by context and type of goals does not make it irrelevant, any
more than the fact that bombs and bayonets do not help when we seek to
prevent the spread of infectious diseases, slow global warming, or create
democracy.
|
Và cuối cùng, mặc dù quyền lực mềm đôi khi có thể đem lại
hiệu quả trực tiếp đối với một số mục tiêu cụ thể - ví dụ như Hoa Kỳ đã không
thể giành được lá phiếu ủng hộ của Chile hoặc Mexico tại Hội Đồng Bảo An Liên
Hiệp Quốc vào năm 2003 khi các chính sách của Mỹ đã làm mất lòng dân chúng -
nó thường có khuynh hướng ảnh hưởng lên các mục tiêu chung mà một quốc gia
theo đuổi.[24] Năm mươi năm về trước, Arnold Wolfers phân biệt các “mục tiêu
sở hữu” cụ thể mà các quốc gia theo đuổi, với các “mục tiêu trung gian” rộng lớn
hơn như tạo ra môi trường thuận lợi cho dân chủ. Theo đuổi thành công cả hai
mục tiêu này đều quan trọng trong sách lược đối ngoại.[25] Nếu chúng ta cân
nhắc các lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ chẳng hạn, quyền lực mềm có lẽ không
thích hợp như quyền lực cứng trong việc ngăn chặn tấn công, kiểm soát biên giới
và bảo vệ đồng minh. Nhưng quyền lực mềm thích hợp đặc biệt với vấn đề thực
hiện các mục tiêu trung gian. Nó đóng vai trò thiết yếu trong quảng bá dân
chủ, nhân quyền và thị trường tự do. Thường dễ thu hút người ta đi theo dân
chủ hơn là cưỡng ép họ phải dân chủ. Tác động của sự thu hút để đạt được ước
muốn phụ thuộc vào bối cảnh và loại hình mục tiêu -điều đó không làm cho nó
kém phù hợp; cũng như bom đạn và gươm súng chẳng có tác dụng gì khi muốn ngăn
chặn bệnh dịch truyền nhiễm, suy giảm tiến độ nóng dần lên của trái đất, hay
gây dựng dân chủ.
|
Other skeptics object to using the term "soft
power" in international politics because governments are not in full
control of the attraction. Much of American soft power has been produced by
Hollywood, Harvard, Microsoft, and Michael Jordan. But the fact that civil
society is the origin of much soft power does not disprove its existence. In
a liberal society, government cannot and should not control the culture.
Indeed, the absence of policies of control can itself be a source of
attraction. The Czech film director Milos Forman recounts that when the
Communist government let in the American film Twelve Angry Men because of its harsh portrait of American
institutions, Czech intellectuals responded by thinking, "If that
country can make this kind of thing, films about itself, oh, that country
must have a pride and must have an inner strength, and must be strong enough
and must be free."[26]
|
Giới hoài nghi phản đối việc sử dụng cụm từ “quyền lực
mềm” trong chính trường quốc tế vì chính phủ không kiểm soát được tính thu
hút. Phần lớn quyền lực mềm của Hoa Kỳđược tạo dựng bởi Hollywood, Harvard,
Microsoft, và Michael Jordan.Thực tế rằng xã hội dân sự là nguồn gốc của phần
lớn quyền lực mềm không ảnh hưởng tới sự tồn tại của quyền lực mềm. Trong một
xã hội tự do, chính phủ không thể và không nên kiểm soát văn hoá. Quả thực,
không có chính sách kiểm soát có thể chính nó cũng là một nguồn lực quyến rũ.
Nhà đạo diễn điện ảnh người Tiệp Khắc Milos Forman kể lại rằng chính quyền
cộng sản đã cho công chiếu bộ phim Mỹ Mười
Hai Người Giận Dữ vì bộ phimkhắc
họa chân dung khắc nghiệt của các thể chế nước Mỹ, giới trí thức Tiệp Khắc
lại có suy nghĩ “nếu quốc gia đó được phép làm điều này, dựng bộ phim nói
vềchính mình, quốc gia đó hẳn phải rất tự hào và có nhiều nội lực, và chắc
hẳn là rất hùng cường và tự do.”[26]
|
It is true that firms, universities, foundations,
churches, and other nongovernmental groups develop soft power of their own
that may reinforce or be at odds with official foreign policy goals. That is
all the more reason for governments to make sure that their own actions and
policies reinforce rather than undercut their soft power. And this is
particularly true since private sources of soft power are likely to become
increasingly important in the global information age.
|
Quả thật là các hãng xưởng, trường đại học, học viện, nhà
thờ và các tổ chức phi chính phủ khác gây dựng quyền lực mềm của riêng họ, mà
các quyền lực này có thể củng cố hoặc mâu thuẫn với mục tiêu chính sách đối
ngoại của nhà nước. Điều đó càng làm cho chính phủ phải bảo đảm là hoạt động
và chính sách của họ sẽ củng cố hơn là đánh mất quyền lực mềm của họ. Ngày
nay vấn đề này hiển nhiên hơn bao giờ hết vì các nguồn lực tư nhân của quyền
lực mềm ngày càng nắm vai trò quan trọng trong thời đại thông tin toàn cầu.
|
Finally, some skeptics argue that popularity measured by
opinion polls is ephemeral and thus not to be taken seriously. Of course, one
must be careful not to read too much into opinion polls. They are an
essential but imperfect measure of soft-power resources because answers vary
depending on the way that questions are formulated, and unless the same questions
are asked consistently over some period, they represent snapshots rather than
a continuous picture. Opinions can change, and such volatility cannot be captured
by anyone poll. Moreover, political leaders must often make unpopular
decisions because they are the right thing to do, and hope that their
popularity may be repaired if the decision is subsequently proved correct.
Popularity is not an end in itself in foreign policy. Nonetheless, polls are
a good first approximation of both how attractive a country appears and the
costs that are incurred by unpopular policies, particularly when they show
consistency across polls and over time. And as we shall see in the next
chapter, that attractiveness can have an effect on our ability to obtain the
outcomes we want in the world.
|
Và để kết luận, giới hoài nghi biện luận rằng tính phổ cập,
được lòng dân vốn được đo lường qua tham khảo ý kiến quần chúng chỉ có giá
trị ngắn hạn, và vì thế không nên coi trọng quá. Dĩ nhiên chúng ta không nên đưa
ra quá nhiều diễn dịch, suy đoán dựa trên các cuộc trưng cầu dân ý. Thăm dò
dân ý là biện pháp thiết yếu nhưng không hoàn hảo để đo lường được nguồn lực
của quyền lực mềm, vì các câu trả lời thường biến đổi nhiều tùy theo cách đặt
câu hỏi, và trừ khi cùng một câu hỏi được lặp đi lặp lại nhiều lần trong một
khoảng thời gian nhất định, những ý kiến trả lời này thể hiện một bức tranh
nhất thời chứ không phải một hình ảnh liên tục. Ý kiến thường thay đổi, và
biến đổi này có thể xuất hiện trong bất kỳ cuộc tham khảo nào. Ngoài ra, các
lãnh đạo chính trị có khi phải đưa ra những quyết định cho dù không được lòng
dân vì họ tin rằng đó là quyết định cần phải làm, và hy vọng rằng họ sẽ lại được
công chúng ủng hộ một khi quyết định của họ tỏ ra đúng đắn. Được lòng dân không
phải là mục tiêu cuối cùng khi ban hành chính sách đối ngoại. Dẫu sao, trưng
cầu dân ý cũng là định lượng sơ khởi để biết được một quốc gia có khả năng
thu hút ra sao, và cái giá phải trả cho những chính sách không được lòng dân
như thế nào, đặc biệt là khi những cuộc trưng cầu này đưa ra kết quả giống
nhau trong một khoảng thời gian. Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo,
sự thu hút sẽ giúp chúng ta đạt được những điều mình muốn.
|
THE CHANGING ROLE OF
MILITARY POWER
In the twentieth century, science and technology added dramatic
new dimensions to power resources. With the advent of the nuclear age, the
United States and the Soviet Union possessed not only industrial might but
nuclear arsenals and intercontinental missiles. The age of the superpowers had
begun. Subsequently, the leading role of the United States in the information
revolution near the end of the century allowed it to create a revolution in
military affairs. The ability to use information technology to create precision
weapons, real-time intelligence, broad surveillance of regional battlefields,
and improved command and control allowed the United States to surge ahead as the
world's only military superpower.
|
Vai tròđang thayđổi
của sức mạnh quân sự
Vào thế kỷ 20, khoa học kỹ thuật đã hình thành những bình
diện mới các nguồn lực sức mạnh. Với sự xuất hiện của thời đại nguyên tử, Hoa
Kỳ và Liên Xô không chỉ có sức mạnh công nghiệp mà còn có cả vũ khí hạt nhân
và hoả tiễn liên lục điạ. Thời đại của các siêu cường đã bắt đầu. Sau này,
vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ trong cuộc cách mạng thông tin vào cuối thế kỷ 20
đã cho phép họ tiến hành cuộc cách mạng trong hoạt động quân sự. Khả năng vận
dụng công nghệ thông tin để sáng tạo ra các vũ khí chính xác, thông tin tình
báo theo thời gian thực, giám sát mặt trận trên địa bàn rộng lớn, và cải tiến
hệ thống chỉ huy và kiểm soát đã cho phép Hoa Kỳvượt lên phía trước với vị thế
một siêu cường quân sựd uy nhất của thế giới.
|
But the progress of science and technology had
contradictory effects on military power over the past century. On the one
hand, it made the United States the world's only superpower, with unmatched
military might, but at the same time it gradually increased the political and
social costs of using military force for conquest. Paradoxically, nuclear
weapons were acceptable for deterrence, but they proved so awesome and destructive
that they became musclebound-too costly to use in war except, theoretically,
in the most extreme circumstances.[27] Non-nuclear North Vietnam prevailed
over nuclear America, and non-nuclear Argentina was not deterred from
attacking the British Falkland Islands despite Britain's nuclear status.
|
Nhưng tiến bộ khoa học và kỹ thuật đã có những hiệu quả trái
ngược nhau đối với sức mạnh quân sự trong thề kỷ vừa qua. Một mặt, nó tạo
tiền đề cho Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới cùng với sức
mạnh quân sự vô địch; nhưng đồng thời, nó cũng gia tăng cái giá phải trả về mặt
xã hội và chính trị một khi sức mạnh quân sự được dùng để chinh phục. Một ví
dụ về nghịch lý này là vũ khí hạt nhân, vốn được chấp nhận với vai trò răn đe,
đã tỏ ra khủng khiếp và hủy diệt đến mức nó có tác dụng rất hạn chế - bởi cái
giá phải trả là quá đắt một khi được dùng trong chiến tranh ngoại trừ trường
hợp trong bước đường cùng.[27] Miền Bắc Việt Nam dù không có vũ khí hạt nhân
vẫn đánh thắng được Hoa Kỳ vốn có vũ khí hạt nhân, và Argentina vốn cũng
không có vũ khí hạt nhân nhưng đã không ngần ngại tấn công quần đảo Falkland
của Anh mặc dù Anh có trong tay vũ khí hạt nhân.
|
A second important change was the way that modern communications
technology fomented the rise and spread of nationalism, which made it more
difficult for empires to rule over socially awakened populations. In the
nineteenth century, Britain ruled a quarter of the globe with a tiny fraction
of the world's population. As nationalism grew, colonial rule became too
expensive and the British empire collapsed. Formal empires with direct rule over
subject populations such as Europe exercised during the nineteenth and
twentieth centuries are simply too costly in the twenty-first century.
|
Một thayđổi quan trọng thứ hai là công nghệ truyền thông
ngày nay kích động sự trỗi dậy và lan rộng của chủ nghĩa quốc gia, khiến cho
các đế chế không còn dễ dàng thống trị quần chúng vốn đã thức tỉnh về mặt xã
hội. Vào thế kỷ19, Anh Quốc cai trị một phần tư thế giới cho dù nước Anh chỉ có
dân số rất nhỏ bé. Khi phong trào quốc gia phát triển, nền cai trị thực dân
trở nên vô cùng tốn kém và rồi đế chế Anh bị sụp đổ. Những đế quốc theo chủ nghĩa
thực dân kiểu châu Âu với sự cai trị trực tiếp tại các nước thuộc địa vào thế
kỷ 19 và 20 không thể tồn tại trong thế kỷ 21 này.
|
In addition to nuclear and communications technology, social
changes inside the large democracies also raised the costs of using military
power. Postindustrial democracies are focused on welfare rather than glory, and
they dislike high casualties. This does not mean that they will not use force,
even when casualties are expected-witness Britain, France, and the United
States in the 1991 Gulf War, and Britain and the United States in the 2003 Iraq
War. But the absence of a prevailing warrior ethic in modern democracies
means that the use of force requires an elaborate moral justification to
ensure popular support, unless actual survival is at stake. For advanced democracies,
war remains possible, but it is much less acceptable than it was a century, or
even a half century, ago.[28] The most powerful states have lost much of the
lust to conquer.[29]
|
Ngoài công nghệ truyền thông và hạt nhân, những thay đổi
bên trong các nền dân chủ cũng khiến cho việc sử dụng sức mạnh quân sự trở nên
tốn kém hơn. Các nền dân chủ hậu công nghiệp thường tập trung vào sự phồn
thịnh hơn là vinh quang, và vì vậy họ không muốn chịu nhiều thương vong. Điều
này không có nghĩa là họ sẽ không dùng đến sức mạnh quân sự, ngay cả khi có
thương vong – ví dụ như Anh, Pháp và Mỹ trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh
1991, hay Anh và Mỹ trong cuộc Chiến tranh Iraq năm 2003. Trong thời đại dân chủ
ngày nay không còn tinh thần chiến binh áp đảo như trước. Điều đó có nghĩa là
sử dụng vũ lực đòi hỏi phải có biện minh về đạo đức chính đáng để được dân
chúng ủng hộ, trừ khi sự tồn vong của quốc gia bị đe doạ. Trong các nền dân
chủ tiên tiến, chiến tranh vẫn có thể xảy ra, nhưng ít được chấp nhận so với
một thế kỷ, hay cả nửa thế kỷ về trước.[28] Những quốc gia hùng mạnh nhất hầu
như đã không còn tham muốn chinh phục nữa.[29]
|
Robert Kagan has correctly pointed out that these social
changes have gone further in Europe than the United States, although his clever
phrase that Americans are from Mars and Europeans from Venus oversimplifies
the differences.[30] After all, Europeans joined in pressing for the use of
force in Kosovo in 1999, and the Iraq War demonstrated that there were
Europeans from Mars and Americans who preferred Venus. Nonetheless, the success
of the European countries in creating an island of peace on the continent that
had been ravaged by three Franco-German wars in less than a century may
predispose them toward more peaceful solutions to conflict.
|
Robert Kagan đã vạch ra rằng những biến đổi xã hội này đã
bắt rễ tại châu Âu sâu hơn là tại Hoa Kỳ. Câu nói đùa là người Mỹ đến từ sao
Hoả (đại diện cho chiến tranh – ND) và người châu Âu đến từ sao Kim quá đơn
giản hoá sự khác biệt này[30] Dầu sao đi nữa, cũng chính châu Âu đã góp phần
gây áp lực vũ lực tại Kosovo vào năm 1999, và cuộc Chiến tranh Iraq cũng cho
thấy có những người Âu đến từ sao Hỏa, và có những người Mỹ thích sao Kim
hơn. Dù sao, các quốc gia châu Âu đã tạo dựng thành công một ốc đảo hoà bình
trên một lục điạ vốn đã bị tàn phá bởi ba cuộc chiến tranh Pháp-Đức trong
vòng một thế kỷ, và có lẽ vì vậy họ có khuynh hướng tìm các giải pháp hoà
bình trong mâu thuẫn.
|
However, in a global economy even the United States must
consider how the use of force might jeopardize its economic objectives. Mter
its victory in World War II the United States helped to restructure Japan's
economy, but it is hard to imagine that the United States today could
effectively threaten force to open Japanese markets or change the value of the
yen. Nor can one easily imagine the United States using force to resolve disputes
with Canada or Europe. Unlike earlier periods, islands of peace where the use
of force is no longer an option in relations among states have come to characterize
relations among most modern liberal democracies, and not just in Europe. The
existence of such islands of peace is evidence of the increasing importance
of soft power where there are shared values about what constitutes acceptable
behavior among similar democratic states. In their relations with each other,
all advanced democracies are from Venus.
|
Ngày nay trong nền kinh tế toàn cầu, ngay cả Hoa Kỳ cũng
phải cân nhắc khi dùng vũ lực vì nó có thể gây nguy hại cho các mục tiêu kinh
tế. Sau chiến thắng trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Hoa Kỳ giúp tái
thiết nền kinh tế Nhật Bản; nhưng ngày nay, khó có thể tưởng tượng ra cảnh
Hoa Kỳ dùng vũ lực để buộc Nhật phải mở cửa thị trường hoặc thay đổi giá trị đồng
Yên. Chúng ta cũng khó mà tưởng tượng ra cảnh Hoa Kỳ dùng vũ lực để giải quyết
tranh chấp với Canada hoặc châu Âu. Không như những giai đoạn trước đây,
những ốc đảo hoà bình đã được hình thành, nơi mà việc sửdụng vũ lực không còn
là một chọn lựa khả thi trong quan hệ quốc tế, và điều này đã trở thành biểu
hiện đặc thù cho mối quan hệ giữa phần lớn các nền dân chủ tự do hiện đại
không chỉ giới hạn tại châu Âu. Sự tồn tại của những ốc đảo hoà bình là bằng
chứng cho thấy tầm quan trọng ngày càng lớn của quyền lực mềm. Theo đó, người
ta chia xẻ những giá trị chung về cách hành xử được chấp nhận giữa các chế độ
dân chủ. Trong quan hệ giữa các quốc gia này, tất cả các nền dân chủ đều đến
từ sao Kim.
|
Even nondemocratic countries that feel fewer popular moral
constraints on the use of force have to consider its effects on their
economic objectives. War risks deterring investors who control flows of
capital in a globalized economy.[31] A century ago, it may have been easier to
seize another state's territory by force than "to develop the
sophisticated economic and trading apparatus needed to derive benefit from commercial
exchange with it."[32] But it is difficult to imagine a scenario today
in which, for example, Japan would try to or succeed in using military force
to colonize its neighbors. As two RAND analysts argue, "In the information
age, 'cooperative' advantages will become increasingly important. Moreover,
societies that improve their abilities to cooperate with friends and allies
may also gain competitive advantages against rivals."[33]
|
Ngay cả những quốc gia phi dân chủ vốn ít bị ràng buộc về luân
lý khi sử dụng vũ lực cũng phải cân nhắc tác động đến mục tiêu kinh tế. Chiến
tranh có nguy cơ làm nản lòng các nhà đầu tư vốn kiểm soát các nguồn vốn
trong nền kinh tế đã được toàn cầu hoá.[31] Một thế kỷ trước, chiếm đoạt lãnh
thổ của một quốc gia khác bằng vũ lực dễ hơn là “phát triển công cụ kinh tế và
thương mại phức tạp cần thiết để thiết lập quan hệ thương mại hữu ích.”[32] Ngày
nay, khó có thể hình dung ra một tình huống mà ví dụ như Nhật Bản có ý định
hoặc sẽ thành công trong việc sử dụng vũ lực để chiếm các nước làng giềng làm
thuộc địa. Có hai phân tích gia của hãng RAND đã biện luận rằng “Trong thời đại
thông tin, các lợi thế ‘hợptác’ sẽ trở nên ngày càng quan trọng. Hơn nữa,
những xã hội cải tiến được khả năng hợp tác với bạn bè và đồng minh cũng sẽ đạt
được ưu thế cạnh tranh so với đối thủ.”[33]
|
None of this is to suggest that military force plays no
role in international politics today. On the contrary, the information revolution
has yet to transform most of the world, and many states are unconstrained by democratic
societal forces. Civil wars are rife in many parts of the world where collapsed
empires left failed states and power vacuums. Even more important is the way in
which the democratization of technology is leading to the privatization of
war. Technology is a double-edged sword. On the one hand, technological and social
changes are making war more costly for modern democracies. But at the same
time, technology is putting new means of destruction into the hands of extremist
groups and individuals.
|
Tất cả những điều nêu trên không có nghĩa là sức mạnh quân
sự không còn có vai trò trong chính trị quốc tế. Ngược lại, cuộc cách mạng
thông tin còn chưa biến đổi được nhiều khu vực trên thế giới. Nhiều quốc gia
vẫn chưa bị ràng buộc bởi các lực lượng xã hội dân chủ. Nội chiến vẫn còn đầy
rẫy tại nhiều nơi trên thế giới: ở những nơiđó, các đế chế sụp đổ để lại sau
lưng các quốc gia thất bại và những khoảng trống quyền lực. Quan trọng hơn
nữa là sự dân chủ hoá của công nghệ đã dẫn đến việc tư nhân hoá chiến tranh.
Công nghệ là con dao hai lưỡi. Một mặt, thay đổi về xã hội và công nghệ làm
cho chiến tranh trở nên tốn kém đối với các nền dân chủ. Mặt khác, công nghệ tạo
ra những phương tiện hủy diệt mới trong tay những cá nhân và nhóm cực đoan.
|
TERRORISM AND THE
PRIVATIZATION OF WAR
Terrorism is not new, nor is it a single enemy. It is a
long-standing method of conflict frequently defined as deliberate attack on
noncombatants with the objective of spreading fear and intimidation. Already
a century ago, the novelistJoseph Conrad had drawn an indelible portrait of
the terrorist mind, and terrorism was a familiar phenomenon in the twentieth century.
Whether homegrown or transnational, it was a staple of conflicts throughout the
Middle East, in Northern Ireland, Spain, Sri Lanka, Kashmir, South Africa, and
elsewhere. It occurred on every continent except Antarctica and affected nearly
every country. September Il, 2001, was a dramatic escalation of an age-old phenomenon.
Yet two developments have made terrorism more lethal and more difficult to
manage in the twenty-first century.
|
Khủng bố và tư nhân
hóa chiến tranh
Khủng bố không phải là kẻ thù mới, cũng không phải là kẻ thù
đơn độc. Đó là hình thức mâu thuẫn lâu đời được định nghĩa là sự tấn công có
chủ ý nhắm vào các thành phần phi quân sự với mục đích gây sợ hãi và đe dọa.
Một thế kỷ trước, nhà văn Joseph Conrad đã phác họa hình ảnh tâm trí của gã
khủng b không thể quên được. Khủng bố là một hiện tượng
quen thuộc trong thế kỷ 20. Cho dù là phát triển trong nước
hay liên quốc gia, khủng bố là hình
thức chủ yếu trong các mâu thuẫn tại Trung Đông, Bắc
Ireland, Tây Ban Nha, SriLanka, Kashmir, Nam Phi, và những nơi khác. Khủng bố
diễn ra trên khắp các châu lục, ngoại trừ Nam Cực, và ảnh hưởng hầu hết mọi
quốc gia. Ngày 11 tháng 9 năm 2001 chỉ là cuộc leo thang bi thảm của một hiện
tượng đã có từ lâu đời. Tuy nhiên, có hai tiến triển gần đây đã làm cho khủng bố trở nên một hiểm
hoạ lớn và càng khó chế ngự trong thế
kỷ 21 này.
|
One set of trends grows out of progress in science and
technology. First, there is the complex, highly technological nature of modern
civilization's basic systems. As a committee of the National Academy of
Sciences pointed out, market forces and openness have combined to increase the
efficiency of many of our vital systems such as those that provide transportation,
information, energy, and health care. But some (though not all) systems
become more vulnerable and fragile as they become more complex and efficient.[34]
|
Thứ nhất là các khuynh hướng phát triển từ khoa học kỹ thuật.
Những cơ sở hạ tầng của nền văn minh ngày nay mang tính kỹ thuật cao cấp và
phức tạp. Theo một uỷ ban của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, các lực lượng
và tính mở của thị trường ngày nay đã cùng kết hợp đem lại hiệu suất cao
trong các hệ thống thiết yếu như giao thông, truyền tin, năng lượng, và y tế.
Một số (chứ không phải tất cả) các hệ thống trở nên dễ bị tổn thương và dễ đổ
vỡ hơn song song với việc chúng trở nên phức tạp và hiệu quả hơn.[34]
|
At the same time, progress is "democratizing
technology," making the instruments of mass destruction smaller, cheaper,
and more readily available to a far wider range of individuals and groups.
Where bombs and timers were once heavy and expensive, plastic explosives and
digital timers are light and cheap. The costs of hijacking an airplane are
sometimes little more than the price of a ticket.
|
Đồng thời, những tiến bộ này đã “dân chủ hoá công nghệ”,
khiến cho những công cụ có khả năng sát hại hàng loạt trở nên gọn nhẹ hơn, rẻ
hơn, và dễ kiếm mua hơn cho cả cá nhân lẫn các nhóm khủng bố. Ngày xưa, mìn
và máy đặt giờ đắt tiền và cồng kềnh; ngày nay, chất nổ plastic và máy đặt
giờ số rẻ và gọn nhẹ. Chi phí để đánh cướp máy bay có khi chỉ cao hơn giá mua
vé máy bay chút đỉnh.
|
In addition, the success of the information revolution is
providing inexpensive means of communication and organization that allow
groups once restricted to local and national police jurisdictions to become
global in scope. Thirty years ago, instantaneous global communication was sufficiently
expensive that it was restricted to large entities with big budgets like
governments, multinational corporations, or the Roman Catholic church. Today
the Internet makes global communication virtually free for anyone with access
to a modem.[35] Similarly, the Internet has reduced the costs of searching
for information and making contacts related to instruments of widescale destruction.
Terrorists also depend on getting their messages out quickly to a broad
audience through mass media and the Internet-witness the widespread
dissemination of bin Laden's television interviews and videotapes after September
11th. Terrorism depends crucially on soft power for its ultimate victory.
It depends on its ability to attract support from the crowd at least as much
as its ability to destroy the enemy's will to fight.
|
Ngoài ra, sự thành công trong cuộc cách mạng thông tin đã
tạo tiền đề cho các cách thức liên lạc và tổ chức ít tốn kém, khiến cho các
nhóm trước đây chỉ hoạt động trong khuôn khổ điạ phương hoặc quốc gia mở rộng
tầm hoạt động toàn cầu. Ba mươi năm về trước, khả năng truyền tin toàn cầu và
cấp thời rất tốn kém, chỉ có những tổ chức lớn có nhiều ngân sách như chính
phủ, các công ty đa quốc gia, hay nhà thờThiên Chúa La Mã mới có được. Ngày
nay, internet đã tạo điều kiện liên lạc trên khắp thế giới gần như là miễn
phí, chỉ cần có modem để gắn vào máy tính.[35] Cũng tương tự, internet đã
giúp cho việc tìm kiếm thông tin và tạo mối liên hệ để tiếp cận các vũ khí
sát thương trở nên dễ dàng và ít tốn kém. Bọn khủng bố dùng những phương tiện
truyền thông đại chúng và internet để truyền đi các thông điệp tới số đông đại
chúng – ví dụ như bin Laden đã phát tán rộng rãi những cuộc phỏng vấn trên
truyền hình và các băng hình sau ngày 11 tháng 9. Khủng bố phụ thuộc hoàn
toàn vào quyền lực mềm để đạt được thành công tối hậu. Khủng bố dựa vào khả năng
thu hút sự hỗ trợ từ quần chúng cũng như khả năng triệt phá ý chí chiến đấu
của kẻ thù.
|
The second set of trends reflects changes in the
motivation and organization of terrorist groups. Terrorists in the
mid-twentieth century tended to have relatively well-defined political objectives,
which were often ill served by mass destruction. They were said to want many
people watching rather than many people killed. Such terrorists were often
supported and covertly controlled by governments such as Libya or Syria.
Toward the end of the century, radical groups grew on the fringes of several
religions. Most numerous were the tens of thousands of young Muslim men who
went to fight against the Soviet occupation of Afghanistan. There they were
trained in a wide range of techniques, and many were recruited to
organizations with an extreme view of the religious obligation of jihad. As the
historian WaIter Laquer has observed, "Traditional terrorists, whether left-wing,
right-wing, or nationalist-separatists, were not greatly drawn to these opportunities
for greater destruction... Terrorism has become more brutal and
indiscriminate since then."[36]
|
Thứ nhì là các khuynh hướng phản ánh thayđổi về động cơ và
cách tổ chức của các nhóm khủng bố. Bọn khủng bố vào giữa thế kỷ 20 thường có
mục tiêu chính trị rõ ràng, và các mục tiêu này không phù hợp với sự hủy diệt
hàng loạt. Người ta cho rằng những cuộc khủng bố này muốn gây tiếng vang hơn
là gây tiếng nổ (nhiều người theo dõi hơn là nhiều người bị sát hại.) Những
dạng khủng bố này thường được các chính phủ như Libya và Syria ủng hộ và bí
mật tài trợ. Vào cuối thế kỷ 20, nhiều
nhóm khủng bố xuất hiện đại diện cho những phần tử tôn giáo cực đoan. Đông
nhất đã có hàng chục ngàn thanh niên theo đạo Hồi tham gia cuộc chiến chống
Liên Xô chiếm đóng Afghanistan. Họ được huấn luyện nhiều kỹ năng chiến đấu,
và nhiều người trong số họ được thu nạp vào các tổ chức có quan điểm tôn giáo
cựcđoan về chiến tranh Hồi Giáo. Nhà sử học Walter Laquer đã có nhận xét, “khủng
bố theo nghĩa truyền thống, dù theo cánh tả hay cánh hữu, hoặc chủ nghĩa ly
khai quốc gia, không hướng về những cơ hội gây tàn phá lớn... Từ đó đến nay,
khủng bố đã trở nên tàn bạo và không còn phân biệt nữa.”[36]
|
This trend is reinforced when motivations change from
narrowly political to unlimited or retributive objectives reinforced by promises
of rewards in another world. Fortunately, unlike communism and fascism, Islamist
ideology has failed to attract a wide following outside the Islamic
community, but that community provides a large pool of over a billion people
from which to recruit. Organization has also changed. For example, AI Qaeda's
network of thousands of people in loosely affiliated cells in some 60
countries gives it a scale well beyond anything seen before. But even small
networks can be more difficult to penetrate than the hierarchical quasi-military
organizations of the past.
|
Khuynh hướng này càng được củng cố khi động lực thay đổi
từ những mục tiêu chính trị hạn hẹp thành mục tiêu trừng phạt không giới hạn,
lại được củng cố bằng những phần thưởng ở thế giới bên kia. May mắn là, không
như chủ nghĩa cộng sản hay phát xít, ý thức hệ Hồi Giáo không thu hút được
nhiều tín đồ bên ngoài cộng đồng Hồi Giáo. Tuy nhiên, cộng đồng Hồi Giáo có
trên một tỷ người có thể được tuyển mộ. Ví dụ, mạng lưới của Al Qaeda, với
hàng ngàn người trong các nhóm phối hợp lỏng lẻo tại 60 quốc gia, có quy mô
lớn chưa từng thấy. Nhưng ngay cả những mạng lưới nhỏ cũng khó thâm nhập hơn
so với các tổ chức bán quân sự được tổ chức theo thứ bậc trước đây.
|
Both trends, technological and ideological, have created a
new set of conditions that have increased both the lethality of terrorism and
the difficulty of managing terrorism today. Because of September-11 and the
unprecedented scale of AI Qaeda, the current focus is properly on terrorism associated
with Islamic extremists. But it would be a mistake to limit our attention or
responses to Islamic terrorists, for that would be to ignore the wider
effects of the democratization of technology and the broader set of challenges
that must be met. Technological progress is putting into the hands of deviant
groups and individuals destructive capabilities that were once limited primarily
to governments and armies. Every large group of people has some members who deviate
from the norm, and some who are bent on destruction. It is worth remembering
that the worst terrorist act in the United States before September I I was the
one committed by Timothy McVeigh, a purely home grown antigovernment fanatic.
Similarly, the Aum Shinrykio cult, which released sarin in the Tokyo subway
system in 1995, had nothing to do with Islam. Even if the current wave of Islamic
terrorism turns out to be generational or cyclical, like terrorist waves in
the past, the world will still have to confront the long-term secular dangers
arising out of the democratization of technology.
|
Cả hai khuynh hướng về kỹ thuật lẫn ý thức hệ đã tạo một
số tiền đề làm gia tăng khả năng tàn sát của các cuộc khủng bố và khiến việc
kiểm soát trởnên khó khăn hơn. Do sự cố ngày 11 tháng 9 và quy mô chưa từng
thấy của Al Qaeda, trọng tâm ngày nay nhắm vào các nhóm khủng bố liên quan đến
những kẻ theo Hồi Giáo cực đoan. Nhưng chúng ta sẽ phạm sai lầm nếu chỉ hạn
chế quan tâm hoặc phản ứng lại với các nhóm khủng bố Hồi Giáo vì làm như vậy
có nghĩa là chúng ta lãng quên hiệu ứng rộng lớn hơn của việc dân chủ hoá
công nghệ và hàng loạt những thửthách cần được giải quyết. Tiến bộ về kỹ thuật
đã đặt trong tay các nhóm và cá nhân lệch lạc khả năng hủy diệt mà trước đây
chỉ thuộc về các chính phủ và quânđội. Bất cứ một nhóm số đông nào cũng có
những thành viên lệch lạc, và cả một số thành viên có khuynh hướng hủy diệt.
Chúng ta cần nhớ rằng hành động khủng bố lớn nhất tại Mỹ trước ngày 11 tháng
9 là do tay Timothy McVeigh, một kẻ cuồng tín chống chính quyền sinh ra tại
nước Mỹ. Tương tự, giáo phái Aum Shinrykio vốn đã thải hoá chất độc hại sarin
trên các toa xe điện ngầm tại Tokyo vào năm 1995, không có liên hệ gì với Hồi
Giáo. Ngay cả nếu như phong trào khủng bố Hồi Giáo hiện nay rốt cuộc chỉ mang
tính thế hệ hay nhất thời, cũng giống như những phong trào khủng bố khác
trước đây, thế giới này vẫn phải đươn đầu với những hiểm họa lâu dài phi tôn
giáo xuất phát từ việc dân chủ hoá kỹ thuật.
|
Lethality has been increasing. In the 1970s, the
Palestinian attack on Israeli athletes at the Munich Olympics or the killings
by the Red Brigades that galvanized world attention cost dozens of lives. In
the 1980s, Sikh extremists bombed an Air India flight and killed over 300
people. September II, 2001, cost several thousand lives - and all of this escalation
occurred without the use of weapons of
mass destruction. If one extrapolates this lethality trend
and imagines a deviant group in some society gaining access to biological or
nuclear materials within the coming decade, it is possible to imagine
terrorists being able to destroy millions of lives.
|
Tính hủy diệt gia tăng nhanh chóng. Vào những năm của thập
niên 1970, khi người Palestine tấn công các vận động viên Israel tại Thế Vận
Hội Munich hoặc vụ thảm sát do nhóm Lữ Đoàn Đỏ tiến hành, vốn gây chú ý trên
toàn thếgiới, chỉ cướp đi sinh mạng của vài chục người. Vào thập niên 1980,
nhóm cực đoan người Sikh nổ bom trên chuyến bay của hãng Hàng không Ấn Độvà
giết chết trên 300 người. Sự cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 giết chết hàng ngàn
người - tất cả sự gia tăng về tổn thất nhân mạng đều xảy ra mà không cần tới vũ
khí giết người hàng loạt. Chỉ cần ngoại suy và phân tích khuynh hướng hủy
diệt nêu trên,và thử tưởng tượng một nhóm đi lạc lối trong xã hội nào đó có được
trong tay các nguyên liệu để sản xuất vũ khí hạt nhân hay vi trùng trong vòng
mười năm tới, chúng ta có thể hìnhdung được bọn khủng bố có thể tàn sát hàng
triệu mạng sống.
|
In the twentieth century, a pathological individual like
Hitler or Stalin or Pol Pot required the apparatus of a totalitarian
government to kill large numbers of people. Unfortunately, it is now all too
easy to envisage extremist groups and individuals killing millions without
the instruments of governments. This is truly the "privatization of
war," and it represents a dramatic change in world politics. Moreover, this
next step in the escalation of terrorism could have profound effects on the
nature of our urban civilization. What will happen to the willingness of
people to locate in cities, to our ability to sustain cultural institutions, if
instead of destroying two office buildings, a future attack destroys the lower
half of Manhattan, the City area of London, or the Left Bank of Paris?
|
Vào thế kỷ 20,
những cá nhân bệnh hoạn như Hitler, Stalin, hay Pol Pot cần phải có công cụ của
một chính thể chuyên chính để tiêu diệt được số đông quần chúng. Đáng tiếc là
ngày nay, các nhóm cực đoan rất dễ sát hại hàng triệu người mà không cần đến
các công cụ của nhà nước. Đây thật sự là quá trình “tư nhân hoá chiến tranh”,
và nó thể hiện một thay đổi nghiêm trọng trên chính trường quốc tế. Hơn nữa,
bước phát triển tiếp theo này trong việc leo thang khủng bố sẽ có hậu quả sâu
sắc đối với nền văn minh đô thị ngày nay. Điều gì sẽ xảy ra với mong muốn
sống trong thành phố của người dân và khả năng duy trì các thể chếvăn hoá,
nếu giả dụ thay vì hủy hoại hai toà nhà cao tầng, cuộc tấn công trong tương
lai sẽ phá hủy hơn nửa khu phố Manhattan, cả khu vực thành phố LuânĐôn, hay
một bên bờsông Paris?
|
The new terrorism is not like the 1970S terrorism of the IRA,
the ETA (the military wing of the Basque separatist movement), or Italy's Red
Brigades, nor is the vulnerability limited to anyone society. A
"business as usual" attitude toward curbing terrorism is not
enough. Force still plays a role in world politics, but its nature has
changed in the twenty-first century. Technology is increasing terrorists' access
to destructive power, but they also benefit greatly from increased capacities
to communicate-with each other across jurisdictions, and with global audiences.
As we will see in chapter 3, many terrorists groups also have soft as well as
hard power. The United States was correct in altering its national security
strategy to focus on terrorism and weapons of mass destruction after
September 11, 2001. But the means the Bush administration chose focused too
heavily on hard power and did not take enough account of soft power. And that
is a mistake, because it is through soft power that terrorists gain general
support as well as new recruits.
|
Phong trào khủng bốngày nay không giống với phong trào
thập niên 1970 của nhóm IRA, nhóm ETA (cánh quân sự của phong trào ly khai xứ
Basque), hoặc Lữ Đoàn Đỏ của Ý. Không chỉ một xã hội sẽ bị đe dọa bởi phong
trào khủng bố này. Thái độ cho rằng đây chỉ là “việc thường ngày ở huyện” về việc
ngăn ngừa khủng bố sẽ không thể chấp nhận được. Vũ lực vẫn giữ một vai trò nhất
định trong chính trường thế giới, nhưng bản chất của nó đã thay đổi trong thế kỷ 21. Kỹ thuật tạo điều kiện cho bọn
khủng bố dễ tiếp cận với sức mạnh hủy diệt, cũng như khả năng thông tin liên
lạc nhanh chóng vượt không gian trong nội bộ và cả thế giới bên ngoài. Như chúng
ta sẽ thấy trong chương ba, nhiều nhóm khủng bố có cả quyền lực mềm cũng như quyền
lực cứng. Hoa Kỳ đã đi theo con đường đúng đắn là thay đổi chiến lược an ninh
quốc gia để tập trung vào khủng bố và vũ khí giết người hàng loạt sau ngày 11
tháng 9. Nhưng phương tiện mà chính quyền Bush sử dụng tập trung quá nhiều
vào quyền lực cứng và không hề quan tâm tới quyền lực mềm. Đó là một sai lầm,
bởi vì chính nhờ ở quyền lực mềm mà các tổ chức khủng bố có được sự ủng hộ cũng
như cơ hội tuyển mộ thành viên.
|
THE INTERPLAY OF
HARD AND SOFT POWER
Hard and soft power sometimes reinforce and sometimes interfere
with each other. A country that courts popularity may be loath to exercise its
hard power when it should, but a country that throws its
weight around without regard to the effects on its soft
power may find others placing obstacles in the way of its hard power. No country
likes to feel manipulated, even by soft power. At the same time, as mentioned
earlier, hard power can create myths of invincibility or inevitability that
attract others. In I96I, President John F. Kennedy went ahead with nuclear testing
despite negative polls because he worried about global perceptions of Soviet
gains in the arms race. Kennedy "was willing to sacrifice some of America's
'soft' prestige in return for gains in the harder currency of military
prestige."[37] On a lighter note, it is amusing that in 2003, just a few
months after massive antiwar protests in London and Milan, fashion shows in those
cities used models in U.S. military commando gear exploding balloons. As one designer
put it, American symbols "are still the strongest security
blanket."[38]
|
Sự giao thoa giữa
quyền lực cứng và quyền lực mềm
Quyền lực cứng và quyền lực mềm đôi khi củng cố và đôi khi
cản trở lẫn nhau. Một quốc gia muốn được công chúng ủng hộ thường không muốn
sử dụng quyền lực cứng khi cần thiết; nhưng một quốc gia cậy thế mà không
màng đến quyền lực mềm của mình thường sẽ gặp phải sự đối đầu khi sử dụng
quyền lực cứng. Không có quốc gia nào muốn bị thao túng, ngay bởi cả quyền
lực mềm. Đồng thời, như đã nêu trên, quyền lực cứng có thể giúp tạo dựng
huyền thoại về sự bất khả chiến bại và tính thiên mệnh vốn thu hút các quốc
gia khác. Năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy vẫn tiến hành thử nghiệm vũ khí
hạt nhân cho dù các cuộc thăm dò công luận tỏ ra phản đối, vì ông e ngại thế giới
nghĩ rằng Liên Xô đang chiếm ưu thế trong cuộc chạy đua vũ trang. Kennedy
“sẵn sàng đánh đổi một phần uy tín ‘mềm’ của Hoa Kỳ để thu được uy tín quân
sự.”[37] Có một s ựkiện vui là năm 2003, chỉ vài tháng sau khi xảy ra các
cuộc biểu tình phản chiến ở Luân Đôn và Milan, các buổi trình diễn thời trang
tại hai nơi này cho các người mẫu mặc quần áo lính biệt kích Mỹ và họ làm nổ hàng
loạt bong bóng. Như một nhà tạo mẫu nhận xét, các biểu tượng của Hoa Kỳ“vẫn
là tấm mền an ninh tốt nhất.”[38]
|
Throughout history, weaker states have often joined
together to balance and limit the power of a stronger state that threatens.
But not always. Sometimes the weak are attracted to jumping on the bandwagon
led by a strong country, particularly when they have little choice or when
the large country's military power is accompanied by soft power. Moreover, as
we saw earlier, hard power can sometimes have an attractive or soft side. As Osama
bin Laden put it in one of his videos, "When people see a strong horse and
a weak horse, by nature, they will like the strong horse."[39] And to
deliberately mix the metaphor, people are more likely to be sympathetic to
underdogs than to bet on them.
|
Xuyên suốt lịch sử, các quốc gia nhược tiểu thường liên
kết với nhau để cân bằng và giới hạn quyền lực của một quốc gia mạnh hơn đang
gây uy hiếp. Nhưng không phải luôn luôn nhưvậy. Đôi khi các nước yếu bị thu
hút và đi theo một nước mạnh, nhất là khi họ không có lựa chọn nào khác, hoặc
do nước đó có cả sức mạnh quân sự lẫn quyền lực mềm hỗ trợ. Hơn nữa, như chúng
ta đã thấy, quyền lực cứng đôi khi cũng có khía cạnh mềm và thu hút. Như Osama
bin Ladenđã nói trong một băng video, “Khi người ta thấy một con ngựa khỏe và
một con ngựa yếu, theo bản tính tự nhiên, họ chọn con ngựa khỏe.”[39] Cũng dùng
phép ẩn dụ tương tự, chúng ta thường thương hại kẻ yếu hơn là đánh cược cho
họ.
|
The 2003 Iraq War provides an interesting example of the
interplay of the two forms of power. Some of the motives for war were based
on the deterrent effect of hard power. Donald Rumsfeld is reported to have entered
office believing that the United States "was seen around the world as a
paper tiger, a weak giant that couldn't take a punch" and determined to
reverse that reputation.[4]0 America's military victory in the first Gulf War
had helped to produce the Oslo process on Middle East peace, and its 2003 victory
in Iraq might eventually have a similar effect. Moreover, states like Syria
and Iran might be deterred in their future support of terrorists. These were
all hard power reasons to go to war. But another set of motives related to soft
power. The neoconservatives believed that American power could be used to export
democracy to Iraq and transform the politics of the Middle East. If successful,
the war would become self-legitimizing. As William Kristol and Lawrence Kaplan
put it, "What is wrong with dominance in the service of sound principles
and high ideals?"[41]
|
Cuộc Chiến tranh Iraq năm 2003 là một ví dụ về sự giao
thoa giữa hai dạng quyền lực này. Một số động lực gây chiến tranh dựa trên
khả năng răn đe của quyền lực cứng. Người ta nói rằng khi Donald Rumsfeld
nhậm chức, ông cho rằng Hoa Kỳ “trong cái nhìn của thế giới chỉ là một con
cọp giấy, một gã khổng lồ yếu ớt không thể nào chịu nổi một cú đấm” và vì
vậy, ông quyết tâm thay đổi cách nhìn này.[40] Chiến thắng về quân sự của Mỹ trong
cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần trước đã giúp thúc đẩy cuộc đàm phán hoà bình Trung
Đông tại Oslo, và chiến thắng năm 2003 tại Iraq đã có thể có một kết quả tương
tự. Hơn nữa, các quốc gia như Syria và Iran có lẽ sẽ cân nhắc kỹ ưỡng trước
khi ủng hộ các hoạt động khủng bố khác trong tương lai. Tất cả đều là những
lý do quyền lực cứng được dùng để phát động chiến tranh. Nhưng cũng có một
loạt các động lực khác liên quan đến quyền lực mềm. Những người theo trường
phái tân bảo thủ cho rằng có thể dùng quyền lực của Hoa Kỳ để xuất khẩu dân
chủ qua Iraq và biến đổi chính trị tại Trung Đông. Nếu thành công, chiến
tranh sẽ tự hợp thức hoá sự tồn tại của nó. Như William Kristol và Lawrence Kaplan
đã nói, “Sự thống trị đâu có gì là sai trái nếu như ta dùng nó để phục vụ các
nguyên tắc đúng đắn và những lý tưởng cao cả?”[41]
|
Part of the contest about going to war in Iraq became a
struggle over the legitimacy of the war. Even when a military balance of
power is impossible (as at present, with America the only superpower), other
countries can still band together to deprive the U.S. policy of legitimacy
and thus weaken American soft power. France, Russia, and China chafed at
American military unipolarity and urged a more multipolar world. In Charles
Krauthammer's view, Iraq "provided France an opportunity to create the first
coherent challenge to that dominance."[42] Even without directly
countering the superpower's military power, the weaker states hoped to deter
the U.S. by making it more costly for us to use our hard power.[43] They were
not able to prevent the United States from going to war, but by depriving the
United States of the legitimacy of a second Security Council resolution, they
certainly made it more expensive.
|
Người ta tranh cãi về cuộc chiến tranh Iraq một phần do họ
cố lý giải tính hợp pháp của cuộc chiến này. Ngay cả khi không có đối trọng
về quân sự (như hiện nay, Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất), các quốc gia khác
vẫn có thể liên kết với nhau và tước đi tính chính danh trong các chính sách
của Hoa Kỳ, và qua đó làm suy giảm quyền lực mềm của Mỹ. Pháp, Nga và Trung
Quốc tỏ ra bực bội trước tính đơn cực về quân sự của Mỹ và kêu gọi một thế giới
đa cực. Theo quan điểm của Charles Krauthammer, Iraq “tạo cơ hội cho Pháp hình
thành thách thức nhất quán đầu tiên đối với sự thống trị đó.”[42] Ngay cả khi
không đối đầu trực tiếp với sức mạnh quân sự của một siêu cường, các nước yếu
hơn mong rằng họ có thể cản trở Hoa Kỳ bằng cách làm cho Hoa Kỳ phải tốn kém
nhiều hơn khi sử dụng quyền lực cứng.[43] Cho dù không thể ngăn cản Hoa Kỳ phát
động chiến tranh, nhưng bằng cách làm cho Hoa Kỳ mất tính chính danh thông
qua nghị quyết thứ hai của Hội Đồng Bảo An, họ đã làm cho cuộc chiến tranh
này tốn kém hơn.
|
Soft balancing was not limited to the UN arena. Outside the
UN, diplomacy and peace movements helped transform the global debate from the
sins of Saddam to the threat of American empire. That made it difficult for
allied countries to provide bases and support and thus cut into American hard
power. As noted earlier, the Turkish parliament's refusal to allow transport
of ground troops and Saudi Arabia's reluctance to allow American use of air
bases that had been available in 1991 are cases in point.
|
Quyền lực mềm không chỉ giới hạn trong đấu trường Liên
Hiệp Quốc. Ngoài Liên Hiệp Quốc, ngoại giao và các phong trào hoà bình đã
biến đổi cuộc tranh luận trên thế giới từ những tội lỗi của Saddam chuyển
sang mối đe dọa của đế quốc Mỹ. Điều đó khiến cho các quốc gia đồng minh khó
có thể cho phép Hoa Kỳ sử dụng căn cứ quân sự, hoặc hỗ trợHoa Kỳ, và vì vậy,
làm suy giảm quyền lực cứng của Hoa Kỳ. Những ví dụ như đã đề cập ở trên bao
gồm việc quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ từ chối cho phép Mỹ quá cảnh quân đội trên lãnh thổ
của họ, và Saudi Arabia không sẵn lòng cho Mỹ sử dụng các căn cứ không quân
mà họ đã cho phép từ năm 1991.
|
Since the global projection of American military force in
the future will require access and overflight rights from other countries,
such soft balancing can have real effects on hard power. When support for
America becomes a serious vote loser, even friendly leaders are less likely to
accede to our requests. In addition, bypassing the UN raised the economic
costs to the United States after the war, leading the columnist Fareed
Zakaria to observe, "The imperial style of foreign policy is backfiring.
At the end of the Iraq war the administration spurned any kind of genuine
partnership with the world. It pounded away at the United Nations."[44]
|
Do việc triển khai sức mạnh quân sự Hoa Kỳ trong tương lai
đòi hỏi việc sử dụng lãnh thổ cũng quyền bay quá cảnh của các quốc gia khác,
những hành vi cân bằng quyền lực mềm như vậy có thể ảnh hưởng thực tế lên
quyền lực cứng. Khi mà việc ủng hộ Hoa Kỳ khiến các chính trị gia mất phiếu
bầu của dân chúng, ngay cả các lãnh tụ vốn thân Mỹ cũng sẽ khó lòng chấp nhận
các thỉnh cầu của Hoa Kỳ. Thêm vào đó, việc qua mặt Liên Hiệp Quốc đã làm
tăng chi phí kinh tế cho Mỹ sau khi cuộc chiến kết thúc, khiến nhà báo Fareed
Zakaria nhận xét rằng “Chính sách đối ngoại kiểu đế quốc chủ nghĩa đãnđem lại
kết quả trái ngược. Khi cuộc chiến tranh Iraq kết thúc, chính quyền Mỹ đã chối
bỏ bất kỳ hình thức đối tác thực sự nào với thế giới. Mỹ liên tục coi thường
Liên Hiệp Quốc.”[44]
|
In the summer of 2003, the Bush administration's initial
resistance to a significant role for the United Nations in the reconstruction
of Iraq is estimated to have cost the United States more than $100 billion,
or about $1,000 per American household. In most major peacekeeping missions, the
UN covers most of the expenses for countries that contribute troops. In the 1991
Gulf War, the broad coalition assembled by President George H. W. Bush covered
80 percent of the costs, and during the Clinton interventions abroad, the
United States shouldered only 15 percent of the reconstruction and
peacekeeping costs.[45] But without a UN mandate, some countries refused to participate
in peacekeeping in Iraq, and for those who did-countries such as Poland,
Ukraine, Nicaragua, El Salvador, Honduras, and others-it was estimated that the
United States would have to spend $250 million to help underwrite their
participation.[46]
|
Mùa hè năm 2003, chính quyền Bush thoạt đầu phản đối việc
Liên Hiệp Quốc giữ một vai trò quan trọng trong việc tái thiết Iraq. Việc này
tính ra làm cho Hoa Kỳ tốn đến hơn 100 tỷ đô la, hay khoảng 1.000 đô la trên
một hộ gia đình Mỹ. Trong đa phần các sứ mạng gìn giữ hoà bình, Liên Hiệp
Quốc tài trợ phần lớn chi phí cho các quốc gia đóng góp quân đội. Trong cuộc
Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, liên minh do Tổng thống George H. W.Bush tạo
dựng trang trải 80% toàn bộ phí tổn; và trong những vụ can thiệp của Tổng
thống Clinton tại nước ngoài, Hoa Kỳ chỉ phải gánh vác 15% phí tổn gìn giữ hoà
bình và tái thiết.[45] Khi không có sự ủy thác của Liên Hiệp Quốc, một số quốc
gia từ chối tham gia gìn giữ hoà bình tại Iraq, và đối với một số quốc gia
tham gia như Ba Lan, Ukraine, Nicaragua, El Salvador, Honduras cùng những
nước khác, ước tính Hoa Kỳ đã phải trang trải 250 triệu đô la để giúp họ tham
gia.[46]
|
Some neoconservatives argued that the solution was to
avoid the UN and to deny its legitimacy. For some, thwarting the UN was a gain.[47]
They viewed the Iraq War as a "twofer": it removed Saddam and damaged
the UN. Some urged the creation of an alliance of democracies to replace the
UN. But such responses ignore the fact that the key divisions were among the
democracies, and the United States can influence but not alone determine
international views of the legitimacy of the UN. Moreover, soft balancing
that puts pressure on parliaments in democracies can be conducted outside the
framework of the UN. The Internet has allowed protests to be quickly
mobilized by free-wheeling amorphous groups, rather than hierarchical
organizations. In the Vietnam era, planning a protest required weeks and
months of pamphlets, posters, and phone calls, and it took four years before
the size of the protest rallies, 25,000 at first, reached half a million in 1969.
In contrast, 800,000 people turned out in the United States and 1.5 million in
Europe on one weekend in February 2003 before the start of the war.[48]
|
Một sốngười theo chủ nghĩa tân bảo thủ biện luận rằng giải
pháp họ chọn lựa nhằm né tránh Liên Hiệp Quốc và làm cho Liên Hiệp Quốc mất đi
tính chính danh. Đối với những người này, phá được Liên Hiệp Quốc cũng được
xem như là một thắng lợi.[47] Họđánh giá cuộc Chiến tranh Iraq như “một mũi
tên trúng hai con chim”: vừa lật đổ được Saddam, vừa làm tổn hại đến Liên
Hiệp Quốc. Một số còn kêu gọi thành lập một liên minh mới bao gồm các quốc
gia dân chủ để thay thế Liên Hiệp Quốc. Những phản ứng như vậy quên đi một điều
là sự chia rẽ chính là giữa các quốc gia dân chủ, và Hoa Kỳ có thể gây ảnh
hưởng nhưng không thể một mình quyết định quan điểm của thế giới về tính
chính danh của Liên Hiệp Quốc. Hơn nữa, cân bằng mềm nhằm tạo áp lực lên quốc
hội của các nước dân chủ có thể được thực hiện bên ngoài khuôn khổ của Liên
Hiệp Quốc. Internet tạo điều kiện cho các phong trào chống đối nhanh chóng
triệu tập các nhóm phi tổ chức với cơ cấu lỏng lẻo thay vì những tổ chức có
thứ bậc như trước đây. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, tổ chức một cuộc
xuống đường đòi hỏi phải chuẩn bị nhiều tuần lễ, có khi cả mấy tháng trời,
các tờ truyền đơn, biểu ngữ, các cuộc điện thoại; trải qua bốn năm các cuộc
xuống đuờng này mới có số đông đáng kể, thoạt đầu là 25.000 người, rồi lên đến
nửa triệu người vào năm 1969. Để tiện so sánh, 800.000 người tại Hoa Kỳ và
1,5 triệu người tại châu Âu đã tụ họp vào một ngày cuối tuần tháng 2 năm 2003
trước khi cuộc chiến bắtđầu.[48]
|
Protests do not represent the "international
community," but they do often affect the attitudes of editorial writers,
parliamentarians, and other influential people in important countries whose
views are summarized by that vague phrase.[49] Though the concept of an
international community may be imprecise, even those who dismissed international
concerns about how the United States entered the war seem to appeal to such
opinion when they argue that the legitimacy of American actions will be accepted
after the fact if we produce a better Iraq. Such post hoc legitimization may
help to restore American soft power that was lost on the way in, but it also
shows that legitimacy matters. And in the difficult cases of Iran and North
Korea, it is worth noting that President Bush appealed to the views of the "international
community" that some of his advisors dismissed as "illusory."[50]
The continual contest for legitimacy illustrates the importance of soft
power. Morality can be a power reality.
|
Mặc dù những cuộc phản kháng này không đại diện cho cả “cộng
đồng quốc tế”, nó gây ảnh hưởng đến quan điểm của các nhà báo, nghị viên và
các nhân vật có thế lực tại các quốc gia quan trọng; quan điểm của nhóm này
tiêu biểu cho “cộng đồng quốc tế” nêu trên.[49] Mặc dù khái niệm về một cộng đồng
quốc tế là không chính xác, ngay cả những người vốn bác bỏ mối quan ngại trên
thế giới về phương cách mà Hoa Kỳ đã dấn thân vào cuộc chiến, có vẻ cũng chấp
nhận ý kiến nêu trên khi họ cho rằng tính chính danh của Hoa Kỳ sẽ được chấp
nhận một khi thu được kết quả khả quan tại Iraq. Cách chính danh hóa hậu kỳ này
có thể giúp tái tạo quyền lực mềm của Hoa Kỳ vốn bị đánh mất khi tham chiến,
nhưng đồng thời nó cũng cho thấy rằng tính chính danh là quan trọng. Trong
những trường hợp khó khăn hơn như với Iran hay Bắc Triều Tiên, Tổng thống
Bush tranh thủquanđiểm của cái gọi là “cộng đồng thế giới” mà một số cố vấn
của ông cho là “viển vông.”[50] Cuộc đấu tranh liên tục để giành tính chính
danh cho thấy sự quan trọng của quyền lực mềm. Đạođức có thể là sức mạnh
trong thực tế.
|
The initial effect of the Iraq War on opinion in the Islamic
world was quite negative. AI Jazeera television (the soft-power resource
owned by the same government of Qatar that provided headquarters for American
hard power) showed bloody pictures of civilian casualties night after night. An
Egyptian parliamentarian observed, "You can't imagine how the military
strikes on Baghdad and other cities are provoking people every night."[51]
In Pakistan, a former diplomat reported that "the US invasion of Iraq is
a complete gift to the Islamic parties. People who would otherwise turn up
their noses at them are now flocking to their banner."[52] American intelligence
and law enforcement officials reported that AI Qaeda and other terrorist
groups intensified their recruitment on three continents by "tapping
into rising anger about the American campaign for war in Iraq."[53]
After the war, polls found a rise in support for bin Laden and a fall in the
popularity of the United States even in friendly countries such as Indonesia
and Jordan.[54] Meanwhile, in Europe polls showed that the way the United
States went about the Iraq War had dissipated the outflow of sympathy and
goodwill that had followed the September 11 events. It is still too soon to tell
whether the hard-power gains from the war in Iraq will in the long run exceed
the soft-power losses, or how permanent the latter will turn out to be, but
the war provided a fascinating case study of the interaction of the two types
of power.
|
Chiến tranh Iraq có tác động ban đầu hoàn toàn tiêu cực
lên công luận của thế giới Hồi Giáo. Đài truyền hình Al Jazeera (nguồn lực
quyền lực mềm của chính phủ Qatar, cũng là nơi đồn trú quyền lực cứng của Hoa
Kỳ) chiếu những cảnh dân thường đổ máu hết ngày này qua ngày khác. Một nghị viên
Ai Cập nhận xét, “Quý vị không thể tưởng tượng nổi những cuộc hành quân tại
Baghdad và các thành phố khác gây phẫn nộ trong công chúng đến mức nào.”[51] Tại
Pakistan, một cựu viên chức ngoại giao đã tường trình rằng “việc Hoa Kỳ xâm
chiếm Iraq là món quà tặng cho các đảng phái Hồi Giáo tại đây. Những người
trước đây vốn xem thường các đảng phái này thì nay lại đi theo họ thành đoàn.”[52]
Tình báo Mỹ và các nhân viên công lực cho hay Al Qaeda và các nhóm khủng bố khác
tăng cường việc tuyển mộ trên ba đại lục bằng cách “xoáy vào sự giận dữ ngày
càng gia tăng đối với việc Hoa Kỳ mởchiến dịch tấn công Iraq.”[53] Sau khi
cuộc chiến kết thúc, các cuộc thăm dò công luận cho thấy công chúng ủng hộ bin
Laden hơn trước, và Hoa Kỳ ngày càng mất lòng dân ngay tại các quốc gia thân
cận với Hoa Kỳ như Indonesia và Jordan.[54] Trong khi đó, các cuộc thăm dò ý
kiến tại châu Âu cho thấy phương cách Hoa Kỳ tiến hành cuộc chiến tranh Iraq đã
làm tiêu tan sự thông cảm và thiện chí dành cho Hoa Kỳ sau ngày 11 tháng 9.
Hiện nay còn quá sớm để có thể đánh giá những thắng lợi về quyền lực cứng
trong cuộc chiến tranh Iraq về lâu dài có hơn được những tổn thất về quyền
lực mềm hay không, hay những tổn thất này có lâu dài không. Tuy nhiên cuộc
chiến tranh này đã là trường hợp nghiên cứu rất thú vị về sự tương tác giữa
hai hình thái quyền lực này.
|
Looking to the future, much will depend on the
effectiveness of American policies in creating a better Iraq and moving the
Middle East peace process forward. In addition, much will depend on whether
the intelligence failures and political exaggeration of intelligence evidence
will have a permanent damaging effect on the credibility of the American government
when it approaches other countries for help on cases like Iran and North
Korea, as well as in the war on terrorism. As the British weekly The
Economist observed, "The spies erred and the politicians exaggerated...
The war, we think, was justified. But in making the case for it, Mr Bush and
Mr Blair did not play straight with their people."[55]
|
Hướng vềtương lai, nhiều điều phụ thuộc vào hiệu quả chính
sách của Mỹ nhằm xây dựng một Iraq tốt đẹp hơn và quá trình vận động hoà bình
tại Trung Đông. Ngoài ra, nhiều điều cũng phụ thuộc vào việc những thất bại
tình báo và sự thổi phồng chính trị những bằng chứng tình báo này có gây tổn
hại lâu dài đến uy tín của chính phủ Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ tiếp cận các quốc gia
khác để được giúp đỡ trong những trường hợp như Iran và Bắc Hàn, cũng như trong
cuộc chiến tranh chống khủng bố hay không. Tuần báo Anh The Economist nhận định
rằng, “Điệp viên phạm sai lầm, chính trị gia thổi phồng... Cuộc chiến tranh,
theo nhận định của chúng tôi, đã được biện minh. Nhưng khi vận động sự ủng
hộ, ông Bush và ông Blair đã không thẳng thắn với công chúng.”[55]
|
Skeptics argue that because countries cooperate out of
self-interest, the loss of soft power does not matter much. But the skeptics
miss the point that cooperation is a matter of degree, and that degree is affected
by attraction or repulsion. They also miss the point that the effects on
nonstate actors and recruitment to terrorist organization do not depend on
government attitudes. Already in 2002, well before the Iraq War, reactions against
heavy-handed American policies on the Korean peninsula had led to a dramatic drop
over the past three years in the percentage of the Korean population favoring
an American alliance, from 89 to only 56 percent. [56] That will complicate
dealing with the dangerous case of North Korea. Whether in the Middle East or
in East Asia, hard and soft power are inextricably intertwined in today's
world.
|
Những người hồ nghi biện luận rằng các quốc gia cần hợp
tác do quyền lợi của họ, vì vậy dù có mất đi quyền lực mềm cũng không phải
chuyện to tát. Những người này quên mất một điều là hợp tác cũng có nhiều mức
độ khác nhau, và mức độ đó phụ thuộc vào sự thu hút hay ghét bỏ. Họ cũng quên
mất một điều là các thành tố phi quốc gia cũng như tổ chức khủng bố không phụ
thuộc vào quan điểm của chính quyền. Vào năm 2002, trước khi xảy ra chiến
tranh Iraq, đã có phản ứng trước chính sách cứng rắn của Hoa Kỳ tại bán đảo
Triều Tiên, dẫn đến giảm sút nhiều - chỉ trong vòng ba năm - tỷ lệ dân chúng
Hàn Quốc ủng hộ liên minh với Hoa Kỳ, từ 89% xuống còn 56%.[56] Điều đó sẽ đưa
đến những khó khăn trong việc giải quyết tình trạng Bắc Triều Tiên vốn dĩ có
nhiều rủi ro. Cho dù là tại Trung Đông hay Đông Á, quyền lực cứng và quyền
lực mềm liên hệ chặt chẽ với nhau trong thế giới ngày nay.
|
POWER IN A GLOBAL
INFORMATION AGE
Power today is less tangible and less coercive among the advanced
democracies than it was in the past. At the same time, much of the world does
not consist of advanced democracies, and that limits the global transformation
of power. For example, most African and the Middle Eastern countries have
preindustrial agricultural economies, weak institutions, and authoritarian
rulers. Failed states such as Somalia, Congo, Sierra Leone, and Liberia
provide venues for violence. Some large countries such as China, India, and
Brazil are industrializing and may suffer some of the disruptions that
analogous parts of the West encountered at similar stages of their
development early in the twentieth century,[57] In such a diverse world, all three
sources of power-military, economic, and soft-remain relevant, although in different
degrees in different relationships. However, if the current economic and
social trends of the information revolution continue, soft power will become
more important in the mix.
|
Quyền lực trong
kỷnguyên thông tin toàn cầu
Ngày nay quyền lực trở nên khó nắm bắt hơn, ít cưỡng chế hơn
giữa các nền dân chủ tiên tiến so với trước đây. Nhưng đồng thời, thế giới
ngày nay chưa có nhiều quốc gia dân chủ tiến bộ, và điều đó giới hạn sự chuyển
hoá quyền lực trên thế giới. Ví dụ đa số các quốc gia châu Phi và Trung Đông
vẫn còn duy trì nền kinh tế nông nghiệp tiền công nghiệp, các thể chế của họ còn
non yếu, và chịu sự kiểm soát của chính quyền toàn trị. Các quốc gia thất bại
như Somalia, Congo, Sierra Leone, và Liberia tạo cơ sở cho bạo lực. Những
quốc gia lớn nhưTrung Quốc, Ấn Độvà Brazil đang trong thời kỳ công nghiệp hoá
và có thể sẽ đương đầu với những phân hoá mà các quốc gia phương Tây khác đã
trải qua trong giai đoạn phát triển đầu thế kỷ thứ20.[57] Trong thế giới đa dạng
ngày nay, tất cả ba nguồn lực – quân sự, kinh tế và nguồn lực mềm - vẫn tỏ ra
phù hợp, mặc dù với những mức độ khác nhau trong các mối quan hệ khác nhau.
Tuy nhiên, nếu các xu thế kinh tế xã hội trong cuộc cách mạng thông tin vẫn
tiếp diễn, quyền lực mềm sẽ trở nên quan trọng hơn.
|
The information revolution and globalization of the economy
are transforming and shrinking the world. At the beginning of the
twenty-first century, these two forces have enhanced American power. But with
time, technology will spread to other countries and peoples, and America's relative
preeminence will diminish. Today Americans represent one twentieth of the global
population total, but nearly half of the world's Internet users. Though
English may remain the lingua franca, as Latin did after the ebb of Rome's
might, at some point in the future, perhaps in a decade or two, the Asian cyber-community
and economy may loom larger than the American. Even more important, the
information revolution is creating virtual communities and networks that cut across
national borders. Transnational corporations and nongovernmental actors (terrorists
included) will play larger roles. Many of these organizations will have soft
power of their own as they attract citizens into coalitions that cut across
national boundaries. Politics then becomes in part a competition for
attractiveness, legitimacy, and credibility. The ability to share information-and
to be believed-becomes an important source of attraction and power.
|
Cuộc cách mạng thông tin và toàn cầu hoá kinh tế đang biến
chuyển và làm thế giớingày càng nhỏ bé. Với thời gian, công nghệ sẽ thâm nhập
các quốc gia và dân tộc khác, và vị trí ưu việt của Hoa Kỳ sẽ suy giảm. Ngày
nay, dân số nước Mỹ chỉ chiếm một phần hai mươi dân số toàn cầu, nhưng lại
chiếm gần một nửa số người sử dụng Internet. Mặc dù tiếng Anh sẽ tiếp tục là
ngôn ngữ chung, như tiếng La Tinh sau khi đế chế La Mã đã suy tàn, vào một
thời điểm nào đó trong tương lai, có thể là mười hay hai mươi năm, cộng đồng
trên mạng cũng như kinh tế của châu Á sẽ rộng lớn hơn Mỹ. Quan trọng hơn nữa,
cuộc cách mạng thông tin đang hình thành những cộng đồng và mạng lưới trên
mạng vượt qua giới hạn biên giới giữa các nước. Các công ty đa quốc gia và
các thành tố phi chính phủ (bao gồm cả tổchức khủng bố) sẽ đóng vai trò lớn
hơn. Đa số các tổ chức này sẽ có quyền lực mềm của chính họ, và các tổ chức
này sẽ thu hút công dân tham gia vào các liên minh vượt ra khỏi giới hạn quốc
gia. Chính trị sẽ phần nào trở nên một cuộc chiến giành giật tính hấp dẫn,
tính chính danh và uy tín. Khả năng chia sẻ thông tin, và tạo sự tin cậy, sẽ trở
thành nguồn lực quan trọng tạo nên tính hấp dẫn và quyền lực.
|
|
Behaviors
|
Primary Currencies
|
Government Policies
|
Military Power
|
coercion
deterrence
protection
|
threats
force
|
coercive diplomacy
war
alliance
|
Economic Power
|
inducement
coercion
|
payments
sanctions
|
aid
bribes
sanctions
|
Soft Power
|
attraction
agenda setting
|
values
culture
policies
institutions
|
public diplomacy
bilateral and
multilateral
diplomacy
|
Three Types of Power
|
|
Hành vi
|
Phương tiện chính
|
Chính sách nhà nước
|
Quyền lựcquân sự
|
Cưỡng chế Răn đe Bảo vệ
|
Hăm dọa
Vũ lực
|
Ngoại giao
cưỡng chế
Chiến tranh
Liên minh
|
Quyền lực kinh tế
|
Dụ dỗ
Cưỡng ép
|
Mua chuộc
Cấm vận
|
Viện trợ Hối lộ
Cấm vận
|
Quyền lực mềm
|
Thu hút
Lên nghị trình
|
Giá trị
Văn hoá
Chính sách
Thể chế
|
Ngoại giao công chúng Ngoại giao đa phương và song phương
|
Ba loại quyền lực
|
This political game in a global information age suggests
that the relative importance of soft power will increase. The countries that
are likely to be more attractive and gain soft power in the information age are
those with multiple channels of communication that help to frame issues;
whose dominant culture and ideas are closer to prevailing global norms (which
now emphasize liberalism, pluralism, and autonomy); and whose credibility is enhanced
by their domestic and international values and policies. These conditions
suggest opportunities for the United States, but also for Europe and others,
as we shall see in chapter 3.
|
Cuộc chơi chính trị này trong thời đại thông tin toàn cầu
cho thấy vai trò của quyền lực mềm sẽ gia tăng. Những quốc gia có sức thu hút
hơn, có nhiều quyền lực mềm hơn trong kỷ nguyên thông tin thường là những
nước có nhiều kênh liên lạc để có thể định hình các vấn đề; có nền văn hoá và
ý tưởng bao trùm gần gũi hơn với các chuẩn mực quốc tế thịnh hành (mà ngày
nay tập trung vào chủ nghĩa tựdo, chủ nghĩa đa nguyên, và tự trị); và những nước
mà uy tín của họ được nâng cao qua các chính sách và giá trị trong đối nội và
đối ngoại. Những điều kiện này hàm ý cơ hội cho Hoa Kỳ, châu Âu và các quốc
gia khác, như chúng ta sẽ thấy trong Chương 3.
|
The soft power that is becoming more important in the
information age is in part a social and economic by-product rather than
solely a result of official government action. Nonprofit institutions with
soft power of their own can complicate and obstruct government efforts, and
commercial purveyors of popular culture can hinder as well as help the
government achieve its objectives. But the larger long-term trends can help
the United States if it learns to use them well. To the extent that official
policies at home and abroad are consistent with democracy, human rights,
openness, and respect for the opinions of others, America will benefit from the
trends of this global information age. But there is a danger that the United
States may obscure the deeper message of its values through arrogance. As we
shall see in the next chapter, American culture high and low still helps produce
soft power in the information age, but government actions also matter, not only
through programs like the Voice of America and Fulbright scholarships, but, even
more important, when policies avoid arrogance and stand for values that
others admire. The larger trends of the information age are in America's favor,
but only if we learn to stop stepping on our best message. Smart power means learning
better how to combine our hard and soft power.
|
Quyền lực mềm vốn trở nên ngày càng quan trọng hơn trong
thời đại thông tin đa phần là một sản phẩm phụ về xã hội và chính trị hơn là đơn
thuần chỉ là kết quả phát xuất từ hành động của chính quyền. Các thể chế phi
lợi nhuận vốn có quyền lực mềm của riêng họ có thể làm phức tạp hóa hoặc ngăn
cản những nỗ lực của nhà nước; những nhà thương mại cung cấp văn hóa đại
chúng cũng có thể cản trở hoặc giúp đỡ chính quyền đạt được mục đích của
mình. Những xu thế lâu dài và tổng quát có thể giúp cho nước Mỹ nếu họ biết
sử dụng chúng. Nếu thật sựl là các chính sách chính thức trong và ngoài nước
phù hợp với các giá trị dân chủ, nhân quyền, cởi mở, và tôn trọng ý kiến
người khác, Hoa Kỳ sẽ có lợi từ những xu thế trong thời đại thông tin toàn
cầu này. Nhưng cũng có hiểm hoạ là Hoa Kỳ đánh mất đi thông điệp về các giá
trị của họ nếu Hoa Kỳ tỏ ra ngạo mạn. Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp
theo, văn hóa nước Mỹ, cả cao cấp và bình dân, vẫn giúp tạo ra quyền lực mềm
trong thời đại thông tin, nhưng những hoạt động của chính phủ cũng quan
trọng, thông qua các chương trình như Đài Tiếng nói Hoa Kỳ và học bổng
Fullbright, nhưng, thậm chí quan trọng hơn, là khi các chính sách của chính
phủ tránh được sự ngạo mạn và đại diện cho những giá trịmà người khác ngưỡng
mộ. Những xu thế trong thời đại thông tin phát triển theo hướng có lợi cho
Hoa Kỳ chỉ khi họ học được cách không dẫm chân lên các thông điệp của chính
mình. Quyền lực thông minh có nghĩa là học cách biết cách kết hợp quyền lực cứng
và mềm một cách thành thạo hơn.
|
Translated by Lê Hồng Hiệp, edied
by Vũ Trong Cương
P1 P2 P3 P4 P5
|
|
|
REFERENCES
1. Robert Dahl, Who Governs? Democracy and Power in an
American City (New Haven: Yale University Press, 1961).
2. David Baldwin,
"Power Analysis and World
Politics: New Trends versus Old Tendencies," World Politics 3 I, 2 Oanuary 1979), pp. 161-94.
3. Ibid., p. 164b.
4. A.]. P.
Taylor, The Struggle for Mastery in Europe,
I848-I9I8 (Oxford: Oxford University Press, 1954), p. xxix.
5. I first
introduced this concept in Bound to Lead: The Changing Nature of American Power (New York:
Basic Books, 1990), chapter 2.
It builds on what Peter Bachrach and Morton Baratz called the
"second face of power." See
their "Decisions and Nondecisions: An Analytical Framework," American
Political Science Review (September
1963), pp. 632-42.
6. I am indebted to
Mark Moore for pointing this out to me.
7. See Jane J. Mansbridge, Beyond Self-Interest (Chicago:
University of Chicago Press, 1990).
8. Repulsion and hatred can also move people to act, but
the outcomes they produce are usually
not desired by those who generate them. While some might consider repulsion a
form of "negative soft
power," such a term would be
inconsistent with my definition of power as the capacity to produce desired outcomes.
Thus I use the term "repulsion" as the opposite of "attraction."
9. Hubert V€drine with Dominique Moisi, France in an Age of Globalization (Washington, D.e.: Brookings Institution
Press, 2001), p. 3.
lO. E. H. Carr, The
Twenty Years' Crisis, 1919-1939: An Introduction to the
Study of International Relations (New York:
Harper & Row, 1964),
p. 108
I!. John McCloy and
Arthur Schlesinger, Jr., quoted in Mark Haefele, "John F. Kennedy,
USIA, and World Public
Opinion," Diplomatic History 25,
I (\Vinter 2001), p. 66.
12. Ibid.,
p. 75. See also USIA data in Richard L. Merritt and
Donald J. Puchala, Western European Perspectives on InternationalAffairs (New York: FrederickA.
Praeger, 1968), pp. 513-38.
13.John P.
Vloyantes, Silk Glove
Hegemony: Finnish-Soviet Relations,
1944-1974 (Kent, Ohio: Kent State
University Press, 1975) uses the
term "soft sphere of
influence."
14- Frank Bruni,
"A Nation That Exports Oil, Herring and Peace," New York Times, December 21,2002, p. A3.
15. Michael Ignatieff,
"Canada in the Age of
Terror-Multilateralism Meets a Moment of
Truth," Options Politiques,
February 2003, p. 16.
16. Jehangir Pocha, "The Rising Soft Power of India and China," New Perspectives
Quarterly 20 (\Vinter 2003), p. 9.
17. JosefJoffe, "Who's Afraid of Mr. Big?" The
National Interest, Summer 2001, p. 43.
18. Niall Ferguson,
"Think Again: Power,"
Foreign Policy, January-February 2003.
19. Neal M. Rosendorf, "Social and Cultural
Globalization: Concepts, History, and
America's Role," in Joseph Nye
and John D. Donahue, eds., Governance
in a Globalizing World (Washington, D.e.: Brookings Institution Press, 2000),
p. 123.
20. Todd Gitlin,
"Taking the World by
(Cultural) Force," The
Straits Times (Singapore),
January II, 1999, p. 2.
21. Elisabeth
Rosenthal, "Chinese Test New
Weapon from West: Lawsuits," New
York Times, June 16, 2001, p. A3.
22. Pew Global Attitudes Project, Views of a Changing World June 2003 (Washington,
D.C.: Pew Research Center for the People
and the Press, 2003), pp. 22-23·
23. For an early example,
see John R. P. French and Bertram Raven, "Bases of Social
Power," in Dorwin
Cartwright and Alvin Zander, eds., Group
Dynamics: Reseach and Theory,
3rd ed. (New York:
Harper & Row, 1968), pp.
259-69·
2+ This builds on a distinction first made by Arnold Wolfers, Discord and
Collaboration: Essays on
International Politics
(Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1962).
25. Ibid.
26. Milos Forman,
"Red Spring Episode
14: The Sixties," interview, available at:
http://www.gwu.edu/
-nsarchiv/
coldwarlinterviews/ episode-14 forman1.html.
Quoted in Matthew Kohut, "The Role of
American Soft Power in the Democratization of
Czechoslovakia," unpublished paper, April 2003.
27. Whether
this would change with
the proliferation of nuclear weapons to more
states is hotly
debated among theorists.
Deterrence should work with most states, but the prospects of accident and loss of control would increase.
For my views, see Joseph Nye,
Nuclear Ethics (New York: Free Press,
1986).
28.John Meuller, Retreatfrom Doomsday: The Obsolescence of Major War (New York: Basic Books, 1989).
29. Robert Cooper, The Postmodern State and the World Order (London: Demos,
2000), p. 22.
30. Robert Kagan, Of
Paradise and Power (New York: Knopf,
2003).
31. Thomas Friedman,
The Lexus and the
Olive Tree: Understanding Globalization (New York: Farrar Straus and Giroux, 1999),
chapter 6.
32. Richard N. Rosecrance, The Rise of the Trading State (New York: Basic
Books, 1986), pp. 16, 160.
33.John Arquilla and David Ronfeldt, The Emergence ofNeopolitik: Toward an
American Information Strategy (Santa
Monica: RAND Corporation, 1999), p. 42.
34. National Research Council, Making the Nation Safer (Washington, D.e.: National Academies
Press, 2002), p. 25.
35. For details see
Joseph Nye, The Paradox of
American Power (New York:
Oxford University Press, 2002),
chapter 2.
36. WaIter Laquer,
"Left, Right and Beyond: The Changing Face of Terror," in James Hoge and Gideon Rose, eds., How
Did This Happen?
(New York: PublicAffairs, 2001), p. 74.
37. Haefele,
"John F. Kennedy, USIA,
and World Public Opinion," P·78.
38. Cathy Horyn,
"Macho America Storms
Europe's Runways," New York Times, July 3, 2003, p.
I.
39. Quoted in
"Special Report Al
Qaeda," The Economist,
March 8, 2003, p. 25·
40. Evan Thomas, "Road to War," Newsweek, March
21, 2003, p. 60.
41. William Kristol and Lawrence Kaplan, The 1IVilr over Iraq: Saddam's Tyranny and America's Mission (San
Francisco: Encounter
Books, 2003), p. Il2.
42. Charles Krauthammer,
"The French Challenge,"
1IVilshington Post, February
21,2003, p. 27.
43. Robert A.
Pape, "The World Pushes
Back," Boston Sunday
Globe, March 23,2003, p. HI.
44. Fareed Zakaria, "And Now, Global Booby
Prizes," Newsweek, September 29,
2003, p. 13·
45. Lael Brainard and Michael O'Hanlon, "The Heavy
Price of America's Going It
Alone," Financial Times, August 6, 2003, p. 13.
46. Paul Richter,
"U.S. Enlists More Countries
in Iraq, at Taxpayers' Expense," Los Angeles
Times, June 22, 2003, p. 3.
47. David Gelertner, "Replacing the United Nations to
Make Way for the Big Three," Weekly Standard, March 17, 2003.
48. Jennifer Lee,
"How Protesters Mobilized So Many and So Nimbly," New York Times, February 23, 2003, The Week in Review, p. 4.
49. For various views of what it means, see
"What Is the International
Community?" Foreign Poliry,
September 2002.
50. Bill Keller,
"Does Not Play Well with Others," New York
Times, June 22, 2003, Book Review,
p. 9.
51. Mustafa al-Feqi quoted
in Susan Sachs, "Arab Foreign Ministers Urge US Withdrawal,"
New York Times, March 25, 2003, p. 811.
52. "US
Invasion Pushes Pakistani Elite Closer to Hardline Islam," FinancialTimes,
March 28, 2003, p. I.
53. Don Van Natta, Jr.,
and Desmond Butler, "Anger
on Iraq Seen as New Qaeda Recruiting Tool," New York Times, March
16, 2003, p. I. Their conclusion is
reinforced by the
judgment of the authors of the
report "Strategic Balance"
(London: International Institute of Strategic Studies, 2003).
54. Pew Global Attitudes Project, Views of a Changing World.
55. "Wielder
of Mass Deception?" The
Economist, October 4, 2003, p.
13·
56. Seung Hwan Kim,
"Anti-Americanism in
Korea," The Washington Quarterly,
Winter 2002-3, p. II6.
57. See Cooper, Postmodern
State, and Daniel Bell, The
Coming of Post-Industrial
Society: A Venture in
Social Forecasting (1976; paperback edition with new foreword: New
York: Basic Books, 1999), foreword,
passim.
|
|
|
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn