|
|
Wary optimism in
South China Sea
|
Lạc quan dè chừng ở
Biển Đông
|
Bangkok post
|
Bangkok post
|
18 Feb 2013 at 00.00
|
18/2/ 2013 at 00.00
|
There has recently been a flurry of diplomatic activity
between China and Japan that reflects the first positive turn in their
maritime relationship since Japan nationalised the disputed Senkaku/Diaoyu
islands in September last year.
|
|
Late last month, New Komeito leader Yamaguchi Natsuo was
dispatched to Beijing with a letter for Chinese leaders from Shinzo Abe,
Japan's recently elected prime minister. Former Chinese foreign minister Tang
Jiaxuan, current head of the China-Japan Friendship Association, used that
opportunity to invite a Japanese delegation to Beijing, led by former prime
minister Murayama Tomiichi, which included current LDP deputy
secretary-general Gen Nakatani . These visits have led to speculation that
both Mr Abe and Xi Jinping have expressed interest in a leadership summit.
|
Cuối tháng trước, tân lãnh đạo đảng Komeito, Yamaguchi Natsuo đã được phái tới Bắc Kinh mang theo lá thư của thủ tướng Nhật Bản vừa đắc cử, Shinzo Abe gửi các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Cựu bộ trưởng ngoaị giao Trung
Quốc Đường Gia Triền, hiện đứng đầu Hội Hữu nghị Trung Quốc-Nhật Bản, tận
dụng cơ hội này để mời một phái đoàn Nhật Bản đến Bắc Kinh, do cựu Thủ tướng
Murayama Tomiichi dẫn đầu, bao gồm đương kim Phó Tổng bí thư của LDP, Gen
Nakatani. Những chuyến thăm này đã dẫn đến suy đoán rằng cả hai ông Abe và
Tập Cận Bình đã bày tỏ quan tâm về một hội nghị thượng đỉnh của các nhà lãnh
đạo.
|
While it is premature to suggest that these signs indicate
a meaningful effort to cooperate, particularly as both parties continue to
engage in brinksmanship at sea, these overtures are not unprecedented nor
unexpected. It has long been a fact that cooperation follows confrontation in
Sino-Japanese maritime relations.
|
Trong khi còn quá sớm để cho
rằng những dấu hiệu này
cho thấy một nỗ lực có ý nghĩa hợp tác, đặc biệt là khi cả hai bên tiếp
tục vướng vào “bờ vực
chiến tranh” trên biển, những đề nghị dạo đầu này không phải là chưa từng có và
cũng không bất ngờ. Từ lâu đã có một thực tế là hợp tác tiếp theo sau đối đầu
trong quan hệ hàng hải giữa Trung Quốc và Nhật Bản.
|
Although this positive turn will not yield a lasting
settlement to the simmering Senkaku/Diaoyu Islands dispute, nor will it yield
delimitation of the contested boundary in the East China Sea, observers should
recognise efforts to manage tensions when they see it. Indeed, Sino-Japanese
maritime relations reflect a pattern of confrontation and cooperation that
follows perceived shifts in the maritime status quo between China and Japan
and speaks to the capacity of both countries to maintain the peace between
them.
|
Mặc dù chuyển biến tích cực này sẽ không mang lại một giải quyết bền vững cho tranh các chấp âm ỉ tự lâu về quần đảo
Senkaku / Điếu Ngư, nó cũng sẽ không mang lại phân định ranh giới tranh chấp
ở Biển Hoa Đông,
các nhà quan sát nên nhận ra những nỗ lực nhằm quản lý căng thẳng khi nhận ra nó. Thật
vậy, mối quan hệ hàng hải Trung-Nhật phản ánh một mô hình đối đầu và hợp tác tiếp
theo sau thay đổi nhận thức về hiện trạng hàng hải giữa Trung Quốc và Nhật
Bản và thể hiện năng lực của cả hai nước nhằm duy trì hòa bình.
|
Recurrent crises over the Senkaku/Diaoyu Islands and the
surrounding maritime area have been managed with quiet working-level
diplomacy that set the stage for higher profile exchanges of views.
Consistent with this pattern, the exchanges last month were preceded by
working-level discussions that occurred a month after Japan nationalised the
islands and included a purportedly secret meeting between vice foreign
ministers Kawai Chikao and Zhang Zhijun.
|
Cuộc khủng hoảng tái diễn trên quần
đảo Senkaku / Điếu Ngư và khu vực hàng hải xung quanh đã được quản lý với
ngoại giao thầm lặng
ở cấp độ nhóm công
tác nhằm chuẩn bị sân khấu để trao
đổi các quan điểm ở
cấp cao hơn. Phù hợp với mô hình này, các trao đổi tháng
trước đã diễn ra sau các thảo luận cấp công tác được tiến hành một tháng sau
khi Nhật Bản quốc hữu các đảo và bao gồm cả một cuộc họp được cho là bí mật
giữa phó ngoại trưởng Kawai Chikao và Zhang Zhijun.
|
The most prominent example of this pattern is the
negotiations that led to the 2008 consensus on resource development in the
East China Sea. The two sides held 11 rounds of director-general level
discussions over three years and working group meetings that included a
dialogue between the Japan Coast Guard and China's State Oceanic
Administration, which oversees the China Maritime Surveillance fleet that has
taken up residence in the disputed islands' territorial sea.
|
Ví dụ nổi bật nhất của mô hình
này là các cuộc đàm phán dẫn đến sự đồng thuận năm 2008 về phát triển nguồn
tài nguyên ở Biển Hoa
Đông. Hai bên đã tổ chức 11 vòng thảo luận ở cấp độ tổng vụ trưởng qua ba
năm và các cuộc họp của nhóm công tác mà bao gồm một cuộc đối thoại giữa lực
lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản và Cục Quản lý nhà nước về đại dương của Trung
Quốc, cục này cai quản các đội tàu hải giám Trung Quốc mà đã được đưa đến
thường trực tại lãnh hải của các đảo tranh chấp.
|
There is no doubt that these talks contributed to China's
decision to accept a joint development zone that straddles the median line,
which paved the way for high-level dialogues between foreign ministers and
finally between leaders during reciprocal state visits in December 2007 and May
2008. The fact that the agreement remains in limbo is arguably immaterial to
the fact that tension over the issue of resource development in the East
China Sea has abated and neither party is engaged in the kind of brinkmanship
near the Chunxiao gas field that was witnessed in 2004 and 2005.
|
Không có gì để nghi ngờ
rằng những cuộc đàm phán đã góp phần khiến Trung Quốc quyết định chấp nhận một
khu vực phát triển chung nằm dọc theo đường
trung tuyến, và đã mở đường
cho các đối thoại cấp cao giữa các bộ trưởng ngoại giao và cuối cùng giữa các nhà
lãnh đạo hai nước trong
các chuyến thăm qua lại ở cấp nhà nước hồi tháng 12 năm 2007 và
tháng 5 năm 2008. Thỏa thuận vẫn còn trong tình trạng lấp lửng này được mọi
người cho là không có sức nặng gì sự kiện căng thẳng về vấn đề phát triển
nguồn tài nguyên ở Biển Hoa Đông đã giảm bớt và không bên nào muốn vường
miệng hố chiến tranh ở gần mỏ khí đốt Chunxiao mà đã từng được chứng kiến trong năm 2004 và 2005.
|
Likewise the Sino-Japanese fisheries relationship is built
on over 50 years of dialogue on fisheries issues that preceded the
establishment of formal diplomatic relations. This relationship is extremely
well managed despite the current climate.
|
Tương tự như vậy mối quan hệ
Trung-Nhật về khai
thác thuỷ sản được xây dựng trong 50 năm đối
thoại về các các
vấn đề thủy sản đã
diễn ra trước khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. Mối quan hệ
này được quản lý cực kỳ tốt bbats chấp khí hậu chính trị hiện nay.
|
Numerous Chinese fishermen have been detained in Japanese
waters since the downturn in relations that followed the collision incident
in September 2010.
|
Nhiều ngư dân Trung Quốc đã bị
bắt giữ trong các vùng biển của Nhật Bản kể từ khi có suy thoái về quan hệ
sau sự cố va chạm hồi tháng 9 năm 2010.
|
Yet these incidents have not led to an escalation of
tensions, probably because China recognises that its fishermen have been
detained in undisputed Japanese waters and because Japan has refrained from
dealing out harsh penalties. This speaks to the capacity of both Beijing and
Tokyo to be pragmatic.
|
Tuy nhiên, các sự cố đã không
dẫn đến một sự leo thang căng thẳng, có lẽ bởi vì Trung Quốc công nhận những
ngư dân của nó đã bị giam giữ trong vùng biển không có tranh chấp của Nhật Bản và
vì Nhật Bản đã kiềm chế
không áp dụng các
hình phạt nghiêm khắc. Điều này nói lên năng lực của cả Bắc Kinh và Tokyo rất
thực dụng.
|
However, these conflict management efforts have become
more difficult as Sino-Japanese relations have worsened. Gone is the time
when Japanese people were prepared to turn the other cheek when faced with
Chinese excesses, like nuclear tests or missile diplomacy across the Taiwan
Strait. Likewise, there is no sign that when confronted with leadership
crises and an increasingly dire domestic situation that Beijing is prepared
to detach itself from its anti-Japan legitimising narrative. As a consequence
of these negative popular perceptions future efforts at dispute management
will necessarily continue to be informal, ad hoc and fragile. Importantly,
however, they will occur.
|
Tuy nhiên, những nỗ lực quản
lý xung đột đã trở nên khó khăn hơn khi quan hệ Trung-Nhật đã trở nên xấu hơn.
Đã qua rồi thời điểm khi người Nhật Bản chuẩn bị sẵn sàng để chìa má bên kia
khi phải đối mặt với sự thái quá của Trung Quốc, giống như thử nghiệm hạt
nhân hoặc ngoại giao tên lửa qua eo biển Đài Loan. Tương tự như vậy, không có
dấu hiệu cho thấy khi nào phải đương đầu với cuộc khủng hoảng lãnh đạo và
tình hình ngày càng nghiêm trọng trong nước thì Bắc Kinh sẵn sàng tách mình
ra khỏi câu chuyện hợp pháp hóa việc chống Nhật. Do những nhận thức tiêu cực
phổ biến này mà những nỗ lực trong quản lý tranh chấp trong tương lai nhất
thiết sẽ tiếp tục phi thể thức, có
tính đối phó và mong manh. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là, chúng sẽ xảy
ra.
|
Furthermore, even if the recent positive turn is the
beginning of the latest effort to manage bilateral maritime relations, a
number of challenges remain. First, what will define the new status quo? It
is unlikely that Chinese enforcement ships will cease entering the
territorial sea. China is developing a maritime policy that includes the
fullest exploitation of its maritime jurisdiction, much of it contested with
its neighbours. Will Japan be prepared to accept the routine presence of
Chinese in its claimed territorial sea?
|
Hơn nữa, ngay cả khi các chuyển biến tích cực
gần đây là sự khởi đầu của những nỗ lực mới nhất để quản lý các mối quan hệ
hàng hải song phương, một số thách thức vẫn còn đó. Đầu tiên, cái gì sẽ xác định hiện
trạng mới này? Không chắc rằng các tàu chấp pháp Trung Quốc sẽ chấm dứt vào
vùng lãnh hải này. Trung Quốc đang phát triển một chính sách hàng hải bao gồm
việc khai thác tối đa chủ quyền hàng hải của mình, phần lớn là tranh chấp với
các nước láng giềng. Liệu Nhật Bản có sẵn sàng chấp nhận sự hiện diện thường
xuyên của Trung Quốc trong lãnh hải mà họ tuyên bố chủ quyền hay không?
|
Second, if Japan does accept in practice China's new
norms, how can inadvertent escalation be prevented? There have been numerous
confrontations and close calls between Chinese and Japanese vessels of all
stripes in the past. If Japan and China are incapable of managing the
interaction between their naval vessels on the high seas, how can they be
expected to manage the interaction between coastguard vessels operating in
contested waters?
|
Thứ hai, nếu Nhật Bản không
chấp nhận trong thực hế
chuẩn mực mới của Trung Quốc, thì làm thế nào để ngăn chặn
được sự leo
thang vô ý? Đã có rất nhiều cuộc đối đầu và đụng chạm giữa tàu biển các loại của
Trung Quốc và Nhật Bản trong quá khứ. Nếu Nhật Bản và Trung Quốc không có khả
năng quản lý sự tương tác giữa các tàu hải quân của họ trên các vùng biển cả,
thì làm thế nào họ có thể hy vọng sẽ quản lý được
sự tương tác giữa các tàu bảo vệ bờ biển hoạt động trong vùng biển tranh
chấp?
|
On balance, the recent cooperative turn in Sino-Japanese
maritime relations is not unexpected; it is perfectly consistent with their
track record. However, as in previous cases, the post crisis status quo will
be different than that which preceded it and will likely lead to more crises.
|
Khi cân nhắc kỹ, người ta thấy chuyển biến hợp tác gần
đây trong quan hệ hàng hải Trung-Nhật không có gì bất ngờ; nó hoàn toàn phù hợp với thành thích quá khứ của hai nước này. Tuy nhiên, cũng
như trong trường hợp trước đây, hiện trạng hậu khủng hoảng sẽ khác hơn so với
trước đó và có thể sẽ dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng khác nữa.
|
Perhaps the best that can be expected is continued
management and deepening maritime cooperation, defined by the construction of
an order in which two rich, powerful maritime states can co-exist in the
close and contested confines of the East China Sea.
|
Có lẽ, hy vọng tốt nhất là quản lý tiếp
tục và tăng cường hợp tác hàng hải, được xác định bởi việc xây dựng một trật
tự, trong đó hai quốc gia hàng hải hùng mạnh và giàu có này thể cùng tồn tại trong những ranh giới chật chội và đầy tranh chấp của biển Hoa Đông.
|
James Manicom is a
research fellow for Global Security at the Centre for International
Governance Innovation in Ottawa, Canada.
|
James Manicom là một nhà nghiên cứu an ninh toàn cầu tại Trung tâm Quốc
tế Quản trị đổi mới ở Ottawa, Canada.
|
http://www.bangkokpost.com/opinion/opinion/336417/wary-optimism-in-south-china-sea
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Wednesday, February 20, 2013
Wary optimism in South China Sea Lạc quan dè chừng ở Biển Đông
Labels:
SOUTH CHINA SEA-BIỂN ĐÔNG
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn