Nobel Lecture by
Aung San Suu Kyi
|
Diễn từ Nobel hòa
bình của bà Aung San Suu Kyi
|
Oslo, 16 June, 2012
|
Tại Oslo, 16/6/2012
|
“The true measure of
the justice of a system is the amount of protection it guarantees to the
weakest” và “It is not power that corrupts but fear. Fear of losing power
corrupts those who wield it and fear of the scourge of power corrupts those
who are subject to it”.
|
Không phải quyền lực
làm cho tha hóa, mà chính là sự khiếp sợ. Sự khiếp sợ đánh mất quyền lực làm
tha hóa những kẻ đang nắm trong tay quyền lực và sự khiếp sợ bị quyền lực
trừng phạt làm tha hóa những người đang nằm dưới tay quyền lực.
|
Your Majesties, Your Royal Highness, Excellencies,
Distinguished members of the Norwegian Nobel Committee, Dear Friends,
|
Thưa Ðức Vua và Hoàng hậu, thưa các vị trong Hoàng gia,
thưa các vị khách quý, các thành viên của Ủy ban Nobel Na Uy, và các bạn thân
mến,
|
Long years ago, sometimes it seems many lives ago, I was
at Oxford listening to the radio programme Desert Island Discs with my young
son Alexander. It was a well-known programme (for all I know it still
continues) on which famous people from all walks of life were invited to talk
about the eight discs, the one book beside the bible and the complete works
of Shakespeare, and the one luxury item they would wish to have with them
were they to be marooned on a desert island. At the end of the programme,
which we had both enjoyed, Alexander asked me if I thought I might ever be
invited to speak on Desert Island Discs. “Why not?” I responded lightly.
Since he knew that in general only celebrities took part in the programme he
proceeded to ask, with genuine interest, for what reason I thought I might be
invited. I considered this for a moment and then answered: “Perhaps because
I’d have won the Nobel Prize for literature,” and we both laughed. The
prospect seemed pleasant but hardly probable.
|
Nhiều năm trước, đôi khi tưởng như đã qua nhiều cuộc đời, tôi đã từng nghe chương trình
phát thanh “Desert Island Discs” (Bộ dĩa nhạc Hoang Ðảo) với con trai nhỏ của
tôi là Alexander ở Ðại học Oxford. Ðó là một chương trình nổi tiếng (mà theo
tôi biết ngày nay vẫn còn đang tiếp tục),
ở đó có những người nổi tiếng từ mọi thành phần trong xã hội được mời
để nói về tám đĩa nhạc, một cuốn sách, bên cạnh Kinh Thánh và bộ tác phẩm của
Sheakspeare, với một vật xa xỉ mà họ muốn có bên mình nếu như họ bị bỏ lại
ngoài một hoang đảo. Khi chương trình kết thúc, cả hai chúng tôi đều thích
thú, Alexander hỏi tôi có nghĩ rằng một ngày nào đó mẹ có thể được mời nói
chuyện trong chương trình này không. “Tại sao lại không?”, tôi đã nhẹ nhàng
trả lời cháu. Vì Alexander biết rằng nói chung chỉ những người nổi tiếng mới
tham gia chương trình này, cháu tiếp tục hỏi tôi với một sự quan tâm thành
thật, rằng tôi nghĩ tôi có thể được mời vì lý do gì. Tôi nghĩ trong giây lát
rồi trả lời; “Có thể vì mẹ sẽ được giải Nobel về văn chương”, và cả hai chúng
tôi cùng cười. Dự đoán này nghe có vẻ thú vị nhưng rất khó thành hiện thực.
|
(I cannot now remember why I gave that answer, perhaps
because I had recently read a book by a Nobel Laureate or perhaps because the
Desert Island celebrity of that day had been a famous writer.)
|
(Giờ đây tôi không nhớ nổi tại sao tôi lại trả lời như
thế, có lẽ vì lúc đó tôi vừa đọc một quyển sách của một tác giả được trao
giải Nobel, hay có lẽ vì danh nhân xuất hiện trong chương trình Hoang Ðảo đã
là một nhà văn nổi tiếng.)
|
In 1989, when my late husband Michael Aris came to see me
during my first term of house arrest, he told me that a friend, John Finnis,
had nominated me for the Nobel Peace Prize. This time also I laughed. For an
instant Michael looked amazed, then he realized why I was amused. The Nobel
Peace Prize? A pleasant prospect, but quite improbable! So how did I feel
when I was actually awarded the Nobel Prize for Peace? The question has been
put to me many times and this is surely the most appropriate occasion on
which to examine what the Nobel Prize means to me and what peace means to me.
|
Năm 1989, khi người chồng quá cố của tôi (Michael Aris)
đến thăm tôi trong kỳ hạn đầu của quản thúc tại gia, anh ấy nói rằng một
người bạn của anh là John Finnis đã đề cử tôi cho Giải Nobel Hòa bình. Lần đó
tôi cũng cười. Ngay lúc đó, Michael có vẻ kinh ngạc, rồi anh nhận ra tại sao
chuyện đó lại làm tôi cảm thấy buồn cười. Giải Nobel Hòa bình? Một viễn ảnh
đẹp, nhưng hoàn toàn bất khả! Vậy thì tôi cảm thấy như thế nào khi tôi thực
sự được trao giải Nobel vì Hòa bình? Câu hỏi này đã được đặt ra với tôi nhiều
lần và đây chắc chắn là dịp thích hợp nhất
để xem giải Nobel có ý nghĩa như thế nào đối với tôi, và hòa bình có ý
nghĩa gì đối với tôi.
|
As I have said repeatedly in many an interview, I heard
the news that I had been awarded the Nobel Peace Prize on the radio one
evening. It did not altogether come as a surprise because I had been
mentioned as one of the frontrunners for the prize in a number of broadcasts
during the previous week. While drafting this lecture, I have tried very hard
to remember what my immediate reaction to the announcement of the award had
been. I think, I can no longer be sure, it was something like: “Oh, so
they’ve decided to give it to me.” It did not seem quite real because in a
sense I did not feel myself to be quite real at that time.
|
Như tôi đã nói nhiều lần trong nhiều cuộc trả lời phỏng
vấn, tôi đã nghe tin tức về việc tôi được chọn trao giải Nobel Hòa bình trên
đài phát thanh vào một buổi tối. Tin tức ấy không đến với tôi cùng với sự
ngạc nhiên bất ngờ vì tôi đã được nêu tên như một ứng viên được đề cử trong
một số chương trình truyền hình trước đó vài tuần. Khi thảo bài nói chuyện
này, tôi đã hết sức cố gắng nhớ lại xem phản ứng tức thời của tôi lúc nghe
thông báo ấy là như thế nào. Tôi nghĩ, tôi không còn chắc chắn lắm, là một
cái gì đại loại như: “Ồ! Vậy là họ đã quyết định trao giải thưởng ấy cho
tôi”. Có vẻ như nó không hoàn toàn là thực, vì theo một nghĩa nào đấy tôi đã
không cảm thấy chính tôi đang tồn tại hoàn toàn thực vào lúc đó.
|
Often during my days of house arrest it felt as though I
were no longer a part of the real world. There was the house which was my
world, there was the world of others who also were not free but who were
together in prison as a community, and there was the world of the free; each
was a different planet pursuing its own separate course in an indifferent
universe. What the Nobel Peace Prize did was to draw me once again into the
world of other human beings outside the isolated area in which I lived, to
restore a sense of reality to me. This did not happen instantly, of course,
but as the days and months went by and news of reactions to the award came
over the airwaves, I began to understand the significance of the Nobel Prize.
It had made me real once again; it had drawn me back into the wider human
community. And what was more important, the Nobel Prize had drawn the
attention of the world to the struggle for democracy and human rights in
Burma. We were not going to be forgotten.
|
Thường trong những ngày bị quản thúc tại gia, có cảm tưởng
như tôi không còn là một phần của thế giới thực nữa. Ðã có một căn nhà vốn
từng là thế giới của tôi, đã có một thế giới của những người khác cũng không
có tự do nhưng đã cùng sống chung nhau trong nhà tù như một cộng đồng, và có
một thế giới của những người tự do; mỗi thế giới đó là một hành tinh khác
biệt theo đuổi đường đi của nó trong
một vũ trụ dửng dưng. Ðiều mà giải Nobel Hòa bình đã làm là một lần nữa kéo tôi
trở về thế giới của con người ngoài khu vực bị cô lập mà tôi đã sống; là khôi
phục cảm giác về thực tại đối với tôi. Ðiều này tất nhiên không xảy ra ngay
tức thì, nhưng khi ngày tháng trôi qua và tin tức về những phản ứng đối với
giải thưởng đến tôi qua làn sóng phát thanh đã lắng xuống, tôi bắt đầu hiểu ý
nghĩa quan trọng của giải Nobel. Nó đã làm tôi trở về thực tại một lần nữa;
nó kéo tôi trở về cộng đồng con người rộng lớn. Và điều quan trọng hơn nữa là
giải Nobel đã thu hút sự chú ý của thế giới vào cuộc đấu tranh cho dân chủ và
quyền con người ở Miến Ðiện. Chúng tôi sẽ không bị quên lãng.
|
To be forgotten. The French say that to part is to die a
little. To be forgotten too is to die a little. It is to lose some of the
links that anchor us to the rest of humanity. When I met Burmese migrant
workers and refugees during my recent visit to Thailand, many cried out:
“Don’t forget us!” They meant: “don’t forget our plight, don’t forget to do
what you can to help us, don’t forget we also belong to your world.” When the
Nobel Committee awarded the Peace Prize to me they were recognizing that the
oppressed and the isolated in Burma were also a part of the world, they were
recognizing the oneness of humanity. So for me receiving the Nobel Peace
Prize means personally extending my concerns for democracy and human rights
beyond national borders. The Nobel Peace Prize opened up a door in my heart.
|
Bị quên lãng. Người Pháp nói rằng chia ly là đã chết đi
một ít. Bị quên lãng cũng chính là chết đi một ít. Ðó là sự mất mát những mối
dây liên kết neo giữ chúng ta với nhân loại.
Khi tôi gặp những người Miến Ðiện là lao động nhập cư và tị nạn trong
chuyến thăm gần đây của tôi tại Thái Lan, nhiều người đã khóc: “Xin đừng quên
chúng tôi!”. Họ muốn nói rằng: “Xin đừng quên cảnh ngộ khốn cùng tuyệt vọng
của chúng tôi, xin đừng quên làm những gì bà có thể làm để giúp chúng tôi,
xin đừng quên chúng tôi cũng thuộc về thế giới của bà” . Khi Ủy ban Nobel
trao giải Nobel Hòa bình cho tôi, họ đã nhận ra rằng sự đàn áp và cô lập của
Miến Ðiện cũng là một phần của thế giới, họ đã nhận ra sự thống nhất của nhân
loại. Bởi vậy đối với tôi nhận giải Nobel Hòa bình về mặt cá nhân có nghĩa là
mở rộng mối quan tâm của tôi về dân chủ và quyền con người ra khỏi biên giới
quốc gia. Giải Nobel Hòa bình đã mở ra một cánh cửa trong tim tôi.
|
The Burmese concept of peace can be explained as the
happiness arising from the cessation of factors that militate against the
harmonious and the wholesome. The word nyein-chan translates literally as the
beneficial coolness that comes when a fire is extinguished. Fires of
suffering and strife are raging around the world. In my own country,
hostilities have not ceased in the far north; to the west, communal violence
resulting in arson and murder were taking place just several days before I
started out on the journey that has brought me here today. News of atrocities
in other reaches of the earth abound. Reports of hunger, disease,
displacement, joblessness, poverty, injustice, discrimination, prejudice,
bigotry; these are our daily fare. Everywhere there are negative forces
eating away at the foundations of peace. Everywhere can be found thoughtless
dissipation of material and human resources that are necessary for the
conservation of harmony and happiness in our world.
|
Khái niệm hòa bình của người Miến Ðiện có thể được giải
thích như hạnh phúc nảy sinh từ sự chấm dứt những yếu tố ngăn cản sự hài hòa
và lành mạnh. Từ nyein-chan dịch theo nghĩa đen là cái mát lành đến từ một
ngọn lửa đã bị dập tắt. Ngọn lửa của đau khổ và xung đột đang hoành hành dữ
dội khắp nơi trên thế giới. Ở đất nước của tôi, thái độ thù nghịch và hành
động chiến tranh vẫn chưa mất đi ở những vùng xa phía bắc; ở phía tây, bạo
lực của các nhóm chủng tộc và tôn giáo đối lập đưa tới kết quả đốt phá và giết
người chỉ mới xảy ra cách đây ít ngày trước khi tôi bắt đầu cuộc hành trình
đưa tôi đến đây hôm nay. Tin tức về những hành động tàn bạo ở những vùng khác
trên trái đất thì đầy dẫy. Những bài báo tường thuật về nạn đói, bệnh dịch,
sự di tản, thất nghiệp, nghèo khổ, bất công, kỳ thị, thành kiến, cuồng tín;
tất cả đều là tình trạng hàng ngày của chúng ta. Nơi nào cũng có những lực
lượng tiêu cực gặm nhấm nền tảng của hòa bình. Nơi nào cũng có thể thấy sự
phung phí vật chất và nguồn lực con người một cách thiếu suy nghĩ, những thứ
cần cho sự bảo toàn hạnh phúc và sự hài hòa trong thế giới của chúng ta.
|
The First World War represented a terrifying waste of
youth and potential, a cruel squandering of the positive forces of our
planet. The poetry of that era has a special significance for me because I
first read it at a time when I was the same age as many of those young men
who had to face the prospect of withering before they had barely blossomed. A
young American fighting with the French Foreign Legion wrote before he was
killed in action in 1916 that he would meet his death: “at some disputed barricade;” “on some
scarred slope of battered hill;” “at midnight in some flaming town.” Youth
and love and life perishing forever in senseless attempts to capture nameless,
unremembered places. And for what? Nearly a century on, we have yet to find a
satisfactory answer.
|
Thế chiến thứ nhất tiêu biểu cho sự lãng phí kinh khủng
tuổi trẻ và tiềm năng, một sự hoang phí đầy tội ác đối với những sức mạnh
tích cực trên hành tinh của chúng ta. Bài thơ về kỷ nguyên này
có một ý nghĩa quan trọng đối với tôi khi tôi đã đọc nó lần đầu tiên
vào lúc tôi bằng tuổi những người thanh niên trẻ phải đương đầu với viễn cảnh
bị héo tàn trước khi bừng nở. Một người thanh niên Mỹ chiến đấu với lính lê
dương Pháp đã viết trước khi bị giết năm 1916 là anh ta có thể gặp cái chết
của mình “ở một chiến hào ghê tởm nào đó”, “trên triền dốc đầy vách đá ở một
ngọn đồi mòn vẹt”, “vào nửa đêm ở một thành phố nào đó đang bốc cháy”. Tuổi
trẻ và tình yêu, và cuộc sống đã chết mãi mãi trong những nỗ lực vô nghĩa để
chiếm lấy những nơi chốn không tên, không ai nhớ tới. Và để làm gì? Gần một
thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn chưa tìm thấy một câu trả lời thỏa đáng.
|
Are we not still guilty, if to a less violent degree, of
recklessness, of improvidence with regard to our future and our humanity? War
is not the only arena where peace is done to death. Wherever suffering is ignored,
there will be the seeds of conflict, for suffering degrades and embitters and
enrages.
|
Ở mức độ ít bạo động hơn, phải chăng chúng ta không cảm thấy
tội lỗi về sự liều lĩnh, về sự phung phí liên quan đến tương lai của chúng ta
và nhân loại? Chiến tranh đâu phải là đấu trường duy nhất nơi mà hoà bình bị
giết chết. Bất cứ nơi nào sự đau khổ bị làm ngơ thì ở đó sẽ có mầm mống của
xung đột, bởi vì đau khổ làm hạ thấp con người, gây ra cay đắng và làm người
ta nổi giận.
|
A positive aspect of living in isolation was that I had
ample time in which to ruminate over the meaning of words and precepts that I
had known and accepted all my life. As a Buddhist, I had heard about dukha,
generally translated as suffering, since I was a small child. Almost on a
daily basis elderly, and sometimes not so elderly, people around me would
murmur “dukha, dukha” when they suffered from aches and pains or when they
met with some small, annoying mishaps. However, it was only during my years
of house arrest that I got around to investigating the nature of the six
great dukha. These are: to be conceived, to age, to sicken, to die, to be
parted from those one loves, to be forced to live in propinquity with those
one does not love. I examined each of the six great sufferings, not in a
religious context but in the context of our ordinary, everyday lives. If
suffering were an unavoidable part of our existence, we should try to
alleviate it as far as possible in practical, earthly ways. I mulled over the
effectiveness of ante- and post-natal programmes and mother and childcare; of
adequate facilities for the aging population; of comprehensive health
services; of compassionate nursing and hospices. I was particularly intrigued
by the last two kinds of suffering: to be parted from those one loves and to
be forced to live in propinquity with those one does not love. What
experiences might our Lord Buddha have undergone in his own life that he had
included these two states among the great sufferings? I thought of prisoners
and refugees, of migrant workers and victims of human trafficking, of that
great mass of the uprooted of the earth who have been torn away from their
homes, parted from families and friends, forced to live out their lives among
strangers who are not always welcoming.
|
Một điểm tích cực của cuộc sống trong sự cô lập là tôi có
khá nhiều thời gian để suy tư về ý nghĩa của những ngôn từ và khái niệm mà
tôi từng biết và từng chấp nhận trong cả cuộc đời. Là một Phật tử, tôi đã
nghe về dukha, thường được dịch là sự đau khổ, từ khi tôi là một đứa trẻ nhỏ.
Gần như ngày nào cũng thế, những người lớn, và có khi cũng chẳng phải là
ngừơi già cho lắm, những người quanh tôi thầm thì “dukha, dukha” khi họ phải
chịu đựng nỗi đau đớn thể xác hay nhức nhối tâm can, hay khi họ gặp phải điều
gì đó rủi ro, bực bội nho nhỏ. Tuy nhiên, chỉ trong những năm bị quản chế tại
gia, tôi mới nghiền ngẫm được rõ ràng bản chất của sáu điều gây đau khổ lớn.
Ðó là: sinh, lão, bệnh, tử, chia lìa với người thương, và bị bắt buộc phải
sống giữa những người xa lạ không có tình yêu thương. Tôi suy ngẫm về từng
thứ gây đau khổ ấy, không phải trong bối cảnh tôn giáo mà trong đời sống bình
thường hàng ngày của chúng ta. Nếu như đau khổ là một phần không thể tránh
trong sự tồn tại của chúng ta, chúng ta nên cố gắng làm giảm nhẹ nó hết sức
có thể theo những cách thực tiễn nhất.
Tôi đã suy đi nghĩ lại về hiệu quả của những chương trình chăm sóc bà mẹ và
trẻ em trước và sau khi sinh, về những điều kiện tương xứng cho số dân lớn
tuổi; về chăm sóc sức khỏe toàn diện; về chăm sóc y tế và nhà tế bần cho
người nghèo. Tôi đặc biệt chú ý đến hai loại đau khổ sau cùng: bị chia tách
khỏi những người thân thương và bị buộc phải sống giữa những người xa lạ không
có tình yêu thương. Những trải nghiệm nào mà Ðức Phật của chúng ta có lẽ đã
trải qua trong đời ngài khiến ngài đã bao gồm hai điều này trong sáu điều đau
khổ? Tôi nghĩ về những người bị cầm tù và những người di cư, hay những công
nhân xa xứ và nạn nhân của sự buôn người, nghĩ về những đám đông như những
cái cây bị nhổ bật rễ, những người đã phải xa lìa xứ sở quê hương, bị chia
cắt với gia đình và bạn bè, bị bắt buộc phải sống giữa những người xa lạ
chẳng phải bao giờ cũng chào đón họ.
|
We are fortunate to be living in an age when social
welfare and humanitarian assistance are recognized not only as desirable but
necessary. I am fortunate to be living in an age when the fate of prisoners
of conscience anywhere has become the concern of peoples everywhere, an age
when democracy and human rights are widely, even if not universally, accepted
as the birthright of all. How often during my years under house arrest have I
drawn strength from my favourite passages in the preamble to the Universal
Declaration of Human Rights:
|
Chúng ta thật may mắn sống trong thời đại mà phúc lợi xã
hội và trợ giúp nhân đạo được công nhận không chỉ là một điều ước mà là một
sự cần thiết. Tôi có may mắn sống trong một thời đại mà số phận của những tù
nhân lương tâm ở một nơi nào đó trở thành mối quan tâm của mọi người ở mọi
nơi, một thời đại mà dân chủ và quyền con người là điều được công nhận một
cách rộng rãi, cho dù không phải phổ quát trên toàn thế giới, là những quyền
tự nhiên bẩm sinh của tất cả mọi người. Ðã bao lần trong những năm bị quản
chế tại gia, tôi đã lấy thêm sức mạnh cho mình từ đoạn văn tôi rất ưa thích
trong lời nói đầu bản Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân quyền:
|
…disregard and contempt for human rights have resulted in
barbarous acts which have outraged the conscience of mankind, and the advent
of a world in which human beings shall enjoy freedom of speech and belief and
freedom from fear and want has been proclaimed as the highest aspirations of
the common people,
|
…. Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến
những hành động dã man làm xúc phạm lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một
thế giới trong đó con người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng,
không còn sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên bố như là khát vọng cao nhất
của con người bình thường.
|
…it is essential, if man is not to be compelled to have
recourse, as a last resort, to rebellion against tyranny and oppression, that
human rights should be protected by the rule of law.
|
…điều cốt lõi là, để con người không bị bắt buộc phải sử
dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức, nhân quyền cần phải được bảo vệ bằng những
quy định của luật pháp.”
|
If I am asked why I am fighting for human rights in Burma
the above passages will provide the answer. If I am asked why I am fighting
for democracy in Burma, it is because I believe that democratic institutions
and practices are necessary for the guarantee of human rights.
|
Nếu người ta hỏi tôi vì sao tôi tranh đấu cho quyền con
người ở Miến Ðiện, những đoạn văn trên đây sẽ đem lại câu trả lời. Nếu người
ta hỏi tôi vì sao tôi tranh đấu cho nền dân chủ ở Miến Ðiện, thì đó là vì tôi
tin rằng thiết chế dân chủ và sự thực hiện nó là cần thiết để bảo đảm cho
quyền con người.
|
Over the past year there have been signs that the
endeavours of those who believe in democracy and human rights are beginning
to bear fruit in Burma. There have been changes in a positive direction;
steps towards democratization have been taken. If I advocate cautious
optimism it is not because I do not have faith in the future but because I do
not want to encourage blind faith. Without faith in the future, without the
conviction that democratic values and fundamental human rights are not only
necessary but possible for our society, our movement could not have been
sustained throughout the destroying years. Some of our warriors fell at their
post, some deserted us, but a dedicated core remained strong and committed.
At times when I think of the years that have passed, I am amazed that so many
remained staunch under the most trying circumstances. Their faith in our
cause is not blind; it is based on a clear-eyed assessment of their own
powers of endurance and a profound respect for the aspirations of our people.
|
Trong năm qua đã có dấu hiệu về những nỗ lực của những
người tin vào nền dân chủ và quyền con người đang bắt đầu kết trái ở Miến
Ðiện. Ðã có những thay đổi theo hướng tích cực, đã có những bước đi hướng về
dân chủ hóa. Nếu tôi tán thành chủ nghĩa lạc quan thận trọng thì đó không
phải là vì tôi không có niềm tin vào tương lai mà là vì tôi không muốn khuyến
khích niềm tin mù quáng. Nếu không có niềm tin vào tương lai, không có sự
thuyết phục rằng những giá trị dân chủ và quyền cơ bản của con người không
chỉ là điều cần thiết mà còn là khả dĩ cho xã hội của chúng ta, thì phong trào của chúng tôi đã không thể
đứng vững trong những năm tháng hủy diệt này. Một số chiến binh đã ngã xuống
tại vị trí chiến đấu của họ, số khác rời bỏ chúng tôi, nhưng nhóm nòng cốt
tận tâm thì vẫn mạnh mẽ và gắn bó. Có lúc nghĩ về những năm tháng đã qua, tôi
ngạc nhiên là đã có rất nhiều người vững vàng trong những hoàn cảnh nhiều thử
thách nhất. Niềm tin của họ vào sự nghiệp của chúng tôi không hề mù quáng; nó
dựa trên một sự đánh giá sáng suốt về sức mạnh của chính họ, về sự can trường
và một sự tôn trọng sâu sắc trước những khát vọng của dân tộc chúng tôi.
|
It is because of recent changes in my country that I am
with you today; and these changes have come about because of you and other
lovers of freedom and justice who contributed towards a global awareness of
our situation. Before continuing to speak of my country, may I speak out for
our prisoners of conscience. There still remain such prisoners in Burma. It
is to be feared that because the best known detainees have been released, the
remainder, the unknown ones, will be forgotten. I am standing here because I
was once a prisoner of conscience. As you look at me and listen to me, please
remember the often repeated truth that one prisoner of conscience is one too
many. Those who have not yet been freed, those who have not yet been given access
to the benefits of justice in my country number much more than one. Please
remember them and do whatever is possible to effect their earliest,
unconditional release.
|
Nhờ những thay đổi gần đây trong đất nước tôi mà tôi có
mặt ở đây với các bạn hôm nay; và những thay đổi này đã đến bởi vì các bạn và những người yêu tự do và công lý
khác đã đóng góp vào sự nhận thức trên toàn cầu về hoàn cảnh của chúng tôi.
Trước khi tiếp tục nói về đất nước tôi, tôi xin được nói về những tù nhân
lương tâm của chúng tôi. Vẫn đang còn có những người tù như thế ở Miến Ðiện.
Thật đáng lo ngại khi những người bị giam giữ nổi tiếng nhất đã được phóng
thích, những người vô danh khác sẽ bị lãng quên. Tôi đứng ở nơi đây là vì tôi
đã từng là một tù nhân lương tâm. Khi các bạn nhìn vào tôi và lắng nghe tôi
nói, xin hãy nhớ một sự thật thường được lặp đi lặp lại rằng một người tù
nhân lương tâm đã là quá nhiều. Những người chưa được trả tự do, những người
chưa được tiếp cận với lợi ích của công lý trong nước tôi, con số đó lớn hơn
con số một nhiều lắm. Xin hãy nhớ đến họ và xin hãy làm bất cứ cái gì có thể
để tác động đến việc trả tự do cho họ sớm nhất và vô điều kiện.
|
Burma is a country of many ethnic nationalities and faith
in its future can be founded only on a true spirit of union. Since we
achieved independence in 1948, there never has been a time when we could
claim the whole country was at peace. We have not been able to develop the
trust and understanding necessary to remove causes of conflict. Hopes were
raised by ceasefires that were maintained from the early 1990s until 2010
when these broke down over the course of a few months. One unconsidered move
can be enough to remove long-standing ceasefires. In recent months,
negotiations between the government and ethnic nationality forces have been
making progress. We hope that ceasefire agreements will lead to political
settlements founded on the aspirations of the peoples, and the spirit of
union.
|
Miến Ðiện là đất nước nhiều sắc dân và niềm tin vào tương
lai của Miến Ðiện chỉ có thể xây dựng trên nền tảng của tinh thần hợp nhất.
Từ khi giành được độc lập năm 1948, chưa bao giờ có lúc nào chúng tôi có thể
tuyên bố là cả nước đã có hòa bình. Chúng tôi đã chưa thể xây dựng lòng tin
và sự hiểu biết cần thiết để xóa bỏ những nguyên nhân gây xung đột. Niềm hy
vọng đã trỗi dậy qua cuộc ngưng bắn được duy trì từ đầu thập kỷ 90 cho đến
năm 2010 thì bị phá vỡ qua một tiến trình vài ba tháng. Một hành động thiếu
cân nhắc đã đủ để phá tan cuộc ngừng chiến đã kéo dài khá lâu. Trong những
tháng gần đây, những cuộc thương lượng giữa chính phủ và các lực lượng người
dân tộc đã và đang có tiến bộ. Chúng tôi hy vọng rằng thỏa thuận ngừng bắn sẽ
dẫn đến những giải pháp chính trị được xây dựng trên nền tảng khát vọng của
các dân tộc và tinh thần hợp nhất.
|
My party, the National League for Democracy, and I stand
ready and willing to play any role in the process of national reconciliation.
The reform measures that were put into motion by President U Thein Sein’s
government can be sustained only with the intelligent cooperation of all
internal forces: the military, our ethnic nationalities, political parties,
the media, civil society organizations, the business community and, most
important of all, the general public. We can say that reform is effective
only if the lives of the people are improved and in this regard, the
international community has a vital role to play. Development and
humanitarian aid, bi-lateral agreements and investments should be coordinated
and calibrated to ensure that these will promote social, political and
economic growth that is balanced and sustainable. The potential of our
country is enormous. This should be nurtured and developed to create not just
a more prosperous but also a more harmonious, democratic society where our
people can live in peace, security and freedom.
|
Ðảng Liên hiệp Quốc gia vì Dân chủ của tôi và tôi đã sẵn
sàng và mong muốn giữ bất cứ vai trò nào trong tiến trình hòa giải quốc gia.
Những biện pháp đã được khởi động bởi chính phủ của tổng thống U Thein chỉ có
thể duy trì được với sự hợp tác sáng suốt của tất cả mọi lực lượng nội bộ:
quân đội, các nhóm dân tộc quốc gia, các đảng phái chính trị, truyền thông,
các tổ chức xã hội dân sự, cộng đồng doanh nghiệp, và quan trọng hơn hết là
công chúng. Chúng tôi có thể nói rằng cuộc cải cách này là có hiệu quả chỉ
khi cuộc sống của nhân dân chúng tôi được cải thiện và về mặt ấy, cộng đồng
quốc tế có một vai trò không thể thiếu. Viện trợ nhân đạo và viện trợ phát
triển, các thỏa thuận song phương và đầu tư phải được phối hợp và có cân nhắc
đến việc bảo đảm tăng trưởng quân bình và bền vững về xã hội, chính trị và
kinh tế. Tiềm năng của đất nước chúng tôi là hết sức to lớn. Ðiều này cần
được nuôi dưỡng và phát triển để tạo ra một xã hội không chỉ thịnh vượng hơn
mà còn hài hòa hơn, dân chủ hơn, nơi người dân của chúng tôi có thể sống
trong hòa bình, an toàn và tự do.
|
The peace of our world is indivisible. As long as negative
forces are getting the better of positive forces anywhere, we are all at
risk. It may be questioned whether all negative forces could ever be removed.
The simple answer is: “No!” It is in human nature to contain both the
positive and the negative. However, it is also within human capability to
work to reinforce the positive and to minimize or neutralize the negative.
Absolute peace in our world is an unattainable goal. But it is one towards
which we must continue to journey, our eyes fixed on it as a traveller in a
desert fixes his eyes on the one guiding star that will lead him to
salvation. Even if we do not achieve perfect peace on earth, because perfect
peace is not of this earth, common endeavours to gain peace will unite
individuals and nations in trust and friendship and help to make our human
community safer and kinder.
|
Hòa bình của thế giới chúng ta là điều không thể chia cắt.
Chừng nào mà những lực lượng tiêu cực còn mạnh hơn những lực lượng tích cực ở
bất cứ nơi đâu, thì tất cả chúng ta đều bị đe dọa. Có lẽ ta có thể đặt câu
hỏi rằng liệu có bao giờ tất cả những lực lượng tiêu cực sẽ bị loại bỏ? Câu
trả lời đơn giản là: “Không!”. Bản chất của con người chứa đựng cả cái tích
cực lẫn cái tiêu cực. Tuy nhiên con người cũng có khả năng tạo nên và làm
mạnh thêm những cái tích cực và làm giảm đến mức thấp nhất hay trung hòa hóa
những cái tiêu cực. Hòa bình tuyệt đối trong thế giới chúng ta là một mục
tiêu không thể đạt được. Nhưng đó là thứ mà chúng ta phải hướng về trong cuộc
hành trình mà chúng ta đang tiếp tục; đôi mắt chúng ta dán chặt vào mục tiêu
đó như người đi trong sa mạc dán mắt vào ngôi sao dẫn đường sẽ đưa anh ta đến
nơi giải thoát. Ngay cả nếu chúng ta không đạt được hòa bình hoàn hảo trên
trái đất, bởi vì hòa bình hoàn hảo là thứ không có trên trái đất này, thì những nỗ lực chung để giành lấy hòa
bình cũng sẽ đoàn kết mọi cá nhân và mọi quốc gia trong lòng tin và tình hữu
nghị; và giúp tạo ra một cộng đồng người an toàn hơn và tử tế hơn.
|
I used the word ‘kinder’ after careful deliberation; I
might say the careful deliberation of many years. Of the sweets of adversity,
and let me say that these are not numerous, I have found the sweetest, the
most precious of all, is the lesson I learnt on the value of kindness. Every
kindness I received, small or big, convinced me that there could never be
enough of it in our world. To be kind is to respond with sensitivity and
human warmth to the hopes and needs of others. Even the briefest touch of
kindness can lighten a heavy heart. Kindness can change the lives of people.
Norway has shown exemplary kindness in providing a home for the displaced of
the earth, offering sanctuary to those who have been cut loose from the
moorings of security and freedom in their native lands.
|
Tôi dùng từ “tử tế hơn” với sự cân nhắc thận trọng. Tôi có
thể nói đó là sự cân nhắc thận trọng của nhiều năm. Trong những sự ngọt ngào
của nghịch cảnh, và hãy cho tôi nói rằng những thứ ngọt ngào ấy chẳng có
nhiều cho lắm, tôi đã tìm thấy cái điều ngọt ngào nhất, thứ quý giá hơn hết
tất cả, là bài học mà tôi đã học được về giá trị của lòng tốt. Tất cả những
sự tử tế mà tôi đã nhận được, dù nhỏ hay lớn, đều đã thuyết phục tôi rằng
lòng tốt có thể không bao giờ đủ trong thế giới của chúng ta. Tử tế là đáp
ứng với sự nhạy cảm và ấm áp của con người trước hy vọng và nhu cầu của người
khác. Ngay cả cái chạm nhẹ nhất của lòng tốt cũng có thể thắp sáng một trái
tim nặng trĩu. Lòng tốt có thể làm thay đổi cuộc đời của con người. Na-Uy đã
cho thấy gương mẫu của sự tử tế trong việc cung cấp tổ ấm cho những người tha
phương trên trái đất, bảo vệ những người đang bị tấn công, bị cắt đứt chiếc
dây neo của an toàn và tự do với quê hương bản quán của họ.
|
There are refugees in all parts of the world. When I was
at the Maela refugee camp in Thailand recently, I met dedicated people who
were striving daily to make the lives of the inmates as free from hardship as
possible. They spoke of their concern over ‘donor fatigue,’ which could also
translate as ‘compassion fatigue.’ ‘Donor fatigue’ expresses itself precisely
in the reduction of funding. ‘Compassion fatigue’ expresses itself less
obviously in the reduction of concern. One is the consequence of the other.
Can we afford to indulge in compassion fatigue? Is the cost of meeting the
needs of refugees greater than the cost that would be consequent on turning
an indifferent, if not a blind, eye on their suffering? I appeal to donors
the world over to fulfill the needs of these people who are in search, often
it must seem to them a vain search, of refuge.
|
Ở mọi nơi trên thế giới này đều có những người tị nạn. Khi
tôi đến trại tị nạn Maela ở Thái Lan gần đây, tôi đã gặp những người tận tụy
đang hàng ngày đấu tranh cho cuộc sống của những người tị nạn thoát khỏi khó
khăn chừng nào hay chừng ấy. Họ nói về mối quan ngại của họ đối với “sự mòn
mỏi dần những người tài trợ”, là điều có thể dịch ra thành “sự mòn mỏi lòng
trắc ẩn”. Cụm từ “sự mòn mỏi dần những người tài trợ” tự nó đã diễn đạt một
cách chính xác sự giảm sút nguồn tiền tài trợ. “Sự mòn mỏi lòng trắc ẩn” tự
diễn đạt nó ít hiển nhiên hơn việc giảm sút đi lòng trắc ẩn. Cái này là hậu
quả của cái kia. Liệu chúng ta có thể sống mãi được với việc tự cho phép mình
mòn mỏi đi lòng trắc ẩn? Phải chăng cái giá của việc đáp ứng nhu cầu cho
những người tị nạn lớn hơn cái giá của sự quay lưng, nếu không muốn nói là
nhắm mắt lại trước sự đau khổ của họ? Tôi khẩn khoản kêu gọi những nhà tài
trợ trên thế giới trong việc đáp ứng nhu cầu của những con người này, những
người đang tìm kiếm, thường là cuộc tìm kiếm vô vọng, sự tị nạn trên một đất
nước khác.
|
At Maela, I had valuable discussions with Thai officials
responsible for the administration of Tak province where this and several
other camps are situated. They acquainted me with some of the more serious
problems related to refugee camps: violation of forestry laws, illegal drug
use, home brewed spirits, the problems of controlling malaria, tuberculosis,
dengue fever and cholera. The concerns of the administration are as
legitimate as the concerns of the refugees. Host countries also deserve
consideration and practical help in coping with the difficulties related to
their responsibilities.
|
Ở Maela, tôi đã có những cuộc thảo luận quý giá với các
viên chức Thái chịu trách nhiệm quản lý điều hành tỉnh Tak, nơi có trại này
và nhiều trại khác. Họ cho tôi biết nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn liên quan
đến các trại tị nạn: vi phạm luật bảo vệ rừng, sử dụng ma túy bất hợp pháp,
cất rượu lậu, các vấn đề về kiểm soát bệnh sốt rét, bệnh lao phổi, sốt xuất
huyết và bệnh dịch tả. Những quan ngại của cơ quan hành chánh là chính đáng
cũng như những quan ngại của những người tị nạn. Các quốc gia chủ nhà cũng
cần có sự xem xét và sự giúp đỡ cụ thể để đương đầu những khó khăn liên quan
đến phần trách nhiệm của họ.
|
Ultimately our aim should be to create a world free from
the displaced, the homeless and the hopeless, a world of which each and every
corner is a true sanctuary where the inhabitants will have the freedom and
the capacity to live in peace. Every thought, every word, and every action
that adds to the positive and the wholesome is a contribution to peace. Each
and every one of us is capable of making such a contribution. Let us join
hands to try to create a peaceful world where we can sleep in security and
wake in happiness.
|
Mục tiêu tối hậu của chúng ta phải là tạo ra một thế giới
thoát khỏi tình trạng có những người phải di tản, những người không nhà và
tuyệt vọng, một thế giới mà từng góc nhỏ và tất cả mọi nơi đều là nơi trú ẩn
thực sự mà những người sống ở đó đều có tự do và có năng lực sống trong hòa
bình. Mọi ý nghĩ, mọi lời nói, mọi việc làm góp phần vào cái tốt và cái lành
mạnh sẽ là một sự đóng góp cho hòa bình. Mỗi người và tất cả chúng ta đều có
thể đóng góp như thế. Chúng ta hãy nắm tay nhau tạo ra một thế giới hòa bình,
nơi chúng ta có thể ngủ trong an toàn và thức dậy trong niềm hạnh phúc.
|
The Nobel Committee concluded its statement of 14 October
1991 with the words: “In awarding the Nobel Peace Prize ... to Aung San Suu
Kyi, the Norwegian Nobel Committee wishes to honour this woman for her
unflagging efforts and to show its support for the many people throughout the
world who are striving to attain democracy, human rights and ethnic
conciliation by peaceful means.” When I joined the democracy movement in
Burma it never occurred to me that I might ever be the recipient of any prize
or honour. The prize we were working for was a free, secure and just society
where our people might be able to realize their full potential. The honour
lay in our endeavour. History had given us the opportunity to give of our
best for a cause in which we believed. When the Nobel Committee chose to
honour me, the road I had chosen of my own free will became a less lonely
path to follow. For this I thank the Committee, the people of Norway and
peoples all over the world whose support has strengthened my faith in the
common quest for peace. Thank you.
|
Ủy ban Nobel đã kết luận tuyên bố của họ ngày 14 tháng 10
năm 1991: “Bằng cách trao giải Nobel Hòa bình cho Aung San Suu Kyi, Ủy ban
Nobel Na-Uy muốn vinh danh người phụ nữ này vì những nỗ lực không mệt mỏi của
bà, và thể hiện sự ủng hộ của giải Nobel đối với rất nhiều người trên khắp
thế giới đang tranh đấu để đạt đến dân chủ, quyền con người và hòa giải dân
tộc bằng những phương tiện hòa bình”. Khi tôi tham gia phong trào dân chủ ở
Miến Ðiện chưa bao giờ tôi tự nghĩ rằng tôi có thể là người nhận bất cứ giải
thưởng hay vinh dự nào. Cái giải thưởng mà chúng tôi đang làm hết sức mình
cho nó, đó là tự do, an toàn, và chỉ là một xã hội mà con người có thể nhận
ra được tất cả tiềm năng của mình. Vinh dự nằm trong những nỗ lực của chúng
tôi. Lịch sử đã trao cho chúng tôi cơ hội để cống hiến những gì tốt nhất của
chúng tôi cho một sự nghiệp mà chúng tôi tin vào. Khi Ủy ban Nobel chọn vinh
danh tôi, con đường mà tôi đã chọn cho ý chí tự do của riêng tôi sẽ trở nên một
con đường ít cô đơn hơn để theo đuổi nó. Vì điều ấy tôi xin cảm ơn Ủy ban và
tất cả mọi người trên thế giới này, vì sự hỗ trợ của họ đã làm mạnh thêm niềm
tin của tôi trên con đường chung tìm kiếm hòa bình. Xin cảm ơn quý vị.
|
A. S. S. K.
|
http://www.gocnhinalan.com/bai-cua-khach/din-nobel-ha-bnh-aung-san-suu-kyi.html
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Sunday, June 17, 2012
Nobel Lecture by Aung San Suu Kyi, Oslo, 16 June, 2012 - Diễn Văn Nobel của bà Nobel Lecture by Aung San Suu Kyi
Labels:
SPEECH-Diễn văn
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn