|
|
|
|
Award Ceremony
Speech
|
Diễn văn trao giải
Nobel Hòa bình 1991
|
Presentation Speech by Francis Sejersted, Chairman of the
Norwegian Nobel Committee
|
Phát Biểu của Francis Sejersted, Chủ tịch Ủy Ban Nobel Na
Uy
|
|
|
We are assembled here today to honour Aung San Suu Kyi for
her outstanding work for democracy and human rights, and to present to her
the Nobel Peace Prize for 1991. The occasion gives rise to many and partly
conflicting emotions. The Peace Prize Laureate is unable to be here herself.
The great work we are acknowledging has yet to be concluded. She is still
fighting the good fight. Her courage and commitment find her a prisoner of
conscience in her own country, Burma. Her absence fills us with fear and anxiety,
which can nevertheless only be a faint shadow of the fear and anxiety felt by
her family. We welcome this opportunity of expressing our deepest sympathy
with them, with her husband, Michael Aris, and with her sons, Alexander and
Kim. We feel with you, and we are very grateful to you for coming to Oslo to
receive the Nobel Prize on behalf of your wife and mother.
|
Hôm nay chúng ta tụ họp nơi đây để tôn vinh Aung San Suu
Kyi vì sự cống hiến vĩ đại của bà cho dân chủ và quyền con người, và để trao
tặng bà Giải Nobel Hòa Bình năm 1991. Sự kiện đặc biệt này gợi ra những tình
cảm ít nhiều mâu thuẫn nhau. Chủ nhân Giải Nobel không thể có mặt cùng chúng
ta ngày hôm nay. Sự cống hiến vĩ đại mà chúng ta cùng đang tôn vinh còn chưa
đến hồi kết. Bà vẫn đang tiếp tục cuộc tranh đấu của mình. Sự dũng cảm và tận
tụy của bà đã biến bà thành tù nhân lương tâm ngay trên đất nước mình, Burma.
Sự vắng mặt của bà ngày hôm nay đem đến cho chúng ta mối quan ngại và lo
lắng, cho dù những tình cảm này chỉ là cái bóng mờ so với sự âu lo mà gia
đình bà đang trải qua. Chúng ta chào đón cơ hội này để bày tỏ đến họ sự đồng
cảm sâu đậm nhất của mình tới họ, tới chồng bà, Micheal Aris, và tới các con
trai bà, Alexander và Kim. Chúng tôi chia sẻ với các bạn, và chúng tôi rất
hàm ơn các bạn đã tới Oslo để nhận Giải Nobel thay cho vợ và mẹ của các bạn.
|
Our fear and anxiety are mixed with a sense of confidence
and hope. In the good fight for peace and reconciliation, we are dependent on
persons who set examples, persons who can symbolise what we are seeking and
mobilise the best in us. Aung San Suu Kyi is just such a person. She unites
deep commitment and tenacity with a vision in which the end and the means
form a single unit. Its most important elements are: democracy, respect for
human rights, reconciliation between groups, non-violence, and personal and
collective discipline.
|
Sự lo lắng và quan ngại của chúng ta được trộn lẫn với cảm
giác tin tưởng và hi vọng. Trong cuộc tranh đấu tốt đẹp cho hòa bình và hòa
hợp, chúng ta phụ thuộc vào những cá nhân mẫu mực, những người có thể trở
thành biểu tượng của các giá trị mà chúng ta kiếm tìm, và có thể huy động
những gì tốt nhất ẩn chứa trong từng cá nhân chúng ta. Aung San Suu Kyi chính
là một người như thế. Bà hợp nhất sự tận tụy và bền bỉ với một viễn kiến mà
theo đó, mục đích và các phương tiện kết hợp lại thành một. Những thành tố cơ
bản của nó là: dân chủ, sự tôn trọng các quyền con người, hòa hợp giữa các
nhóm, bất bạo động, kỷ luật cá nhân và tập thể.
|
She has herself clearly indicated the sources of her
inspiration: principally Mahatma Gandhi and her father, Aung San, the leader
in Burma's struggle for liberation. The philosopher of non-violence and the
General differ in many respects, but also show fundamental similarities. In
both, one can see genuine independence, true modesty, and "a profound
simplicity", to use Aung San Suu Kyi's own words about her father. To
Aung San, leadership was a duty, and could only be carried out on the basis
of humility in face of the task before him and the confidence and respect of
the people to be led.
|
Bà đã tự mình chỉ rõ các mạch nguồn cảm hứng của bà: chính
yếu là Thánh Gandhi và phụ thân của bà, Aung San, lãnh tụ cuộc đấu tranh giải
phóng Burma. Triết gia về bất bạo động và vị Tướng Quân khác nhau ở nhiều
điểm, nhưng cũng có nhiều tương đồng cơ bản. Trong cả hai, chúng ta có thể
tìm thấy độc lập chân chính, sự khiêm nhường thành thực và “một sự giản dị
hết mực”, như lời của Aung San Suu Kyi khi nói về phụ thân mình. Với Aung
San, lãnh đạo là một trách nhiệm, và chỉ có thể được thực thi trên nền tảng
là sự khiêm nhường trước việc mình làm và sự tin tưởng và kính trọng của
những người được dẫn dắt.
|
While no doubt deriving a great deal of inspiration from
Gandhi and her father, Aung San Suu Kyi has also added her own independent
reflections to what has become her political platform. The keynote is the
same profound simplicity as she sees in her father. The central position
given to human rights in her thinking appears to reflect a real sense of the
need to protect human dignity. Man is not only entitled to live in a free
society; he also has a right to respect. On this platform, she has built a
policy marked by an extraordinary combination of sober realism and visionary
idealism. And in her case this is more than just a theory: she has gone a
long way towards showing how such a doctrine can be translated into practical
politics.
|
Trong khi không có gì phải nghi ngờ rằng Aung San Suu Kyi
đã lấy cảm hứng lớn từ Gandhi và phụ thân mình, bà cũng đưa thêm những suy tư
độc lập của mình vào cái đã trở thành cương lĩnh chính trị của bà. Sự tinh
túy vẫn là tính giản dị hết mực như bà tìm thấy từ phụ thân mình. Việc quyền
con người chiếm vị trí trung tâm trong tư tưởng của bà đã phản ánh cảm nhận
chân thành của Suu Kyi về nhu cầu phải bảo vệ nhân phẩm của con người. Con
người không chỉ có quyền sống trong một xã hội tự do, mà con người còn có
quyền được tôn trọng. Trên cương lĩnh này, bà đã xây dựng một chính sách được
đặc trưng bởi sự hòa quyện tuyệt vời giữa chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo và chủ
nghĩa lý tưởng nhìn xa trông rộng. Và trong trường hợp của bà, nó không chỉ
là một lý thuyết: bà đã đi một con đường dài để chỉ ra cách làm thế nào áp
dụng một học thuyết như thế trong thực tiễn chính trị.
|
For a doctrine of peace and reconciliation to be translated
into practice, one absolute condition is fearlessness. Aung San Suu Kyi knows
this. One of her essays opens with the statement that it is not power that
corrupts, but fear.1 The comment was aimed at the totalitarian regime in her
own country. They have allowed themselves to be corrupted because they fear
the people they are supposed to lead. This has led them into a vicious
circle. In her thinking, however, the demand for fearlessness is first and
foremost a general demand, a demand on all of us. She has herself shown
fearlessness in practice. She opposed herself alone to the rifle barrels. Can
anything withstand such courage? What was in that Major's mind when at the
last moment he gave the order not to fire? Perhaps he was impressed by her
bravery, perhaps he realised that nothing can be achieved by brute force.2
|
Để một học thuyết về hòa bình và hòa hợp được đưa vào thực
tiễn, một điều kiện tiên quyết là sự can đảm. Aung San Suu Kyi biết rõ điều
này. Một trong các bài phát biểu của bà bắt đầu bằng lời khẳng định rằng
không phải quyền lực làm cho tha hóa, mà chính là nỗi khiếp sợ. [1] Nhận định
này hướng tới chế độ toàn trị trên đất nước bà. Họ đã tự cho phép mình bị tha
hóa vì họ sợ hãi những người dân mà họ đáng nhẽ ra phải dẫn dắt. Điều này dẫn
họ vào vòng luẩn quẩn. Dầu vậy, theo bà, đòi hỏi can đảm, đầu tiên và trước
hết là một nhu cầu chung, cho tất cả chúng ta. Bà đã tự chứng minh sự can đảm
của mình trong hành động. Bà đã một mình đứng trước họng súng. Liệu có gì
chống nổi lòng can đảm nhường ấy? Điều gì đã diễn ra trong đầu người Thiếu Tá
khi vào giây chót y đã ra lệnh không bắn? Có thể là y đã bị ấn tượng bởi sự
quả cảm của bà, có thể là y đã nhận thấy rằng bạo lực vô nhân sẽ không đem
lại bất kỳ điều gì. [2]
|
Violence is its own worst enemy, and fearlessness is the
sharpest weapon against it. It is not least Aung San Suu Kyi's impressive
courage which makes her such a potent symbol, like Gandhi and her father Aung
San. Aung San was shot in the midst of his struggle. But if those who
arranged the assassination thought it would remove him from Burmese politics,
they were wrong. He became the unifying symbol of a free Burma and an
inspiration to those who are now fighting for a free society. In addition to
his example and inspiration, his position among his people, over forty years
after his death, gave Aung San Suu Kyi the political point of departure she
needed. She has indeed taken up her inheritance, and is now in her own right
the symbol of the revolt against violence and the struggle for a free
society, not only in Burma, but also in the rest of Asia and in many other
parts of the world.
|
Bạo lực chính là kẻ thù tồi tệ nhất của chính nó, và sự
can đảm là vũ khí sắc bén nhất chống lại bạo lực. Aung San Suu Kyi trở thành
một biểu tượng nổi bật không đơn thuần chỉ vì sự can đảm đầy ấn tượng của bà,
cũng giống như Gandhi và phụ thân của bà, Aung San. Aung San bị bắn ngay giữa
cuộc kháng chiến. Nhưng nếu những kẻ dàn xếp vụ ám sát đó nghĩ rằng (cái chết
đã) loại ông ra khỏi nền chính trị Burma, họ đã sai lầm. Ông trở thành biểu
tượng đoàn kết của một Burma tự do, và là nguồn cảm hứng cho những người hiện
nay đang tranh đấu cho một xã hội tự do. Ngoài những bài học và nguồn cảm
hứng mà ông đem lại, vị trí của ông trong lòng người, hơn bốn mươi năm sau
khi ông tạ thế, đã đem lại cho Aung San Suu Kyi xuất phát điểm chính trị mà
bà cần có. Bà đã đón nhận lấy tài sản thừa kế ấy, và nay chính bản thân bà
trở thành biểu tượng của công cuộc tranh đấu chống lại bạo lực và cho một xã
hội tự do, không chỉ ở Burma, mà còn ở những phần còn lại của Á Châu và nhiều
nơi khác trên thế giới.
|
We ordinary people, I believe, feel that with her courage
and her high ideals, Aung San Suu Kyi brings out something of the best in us.
We feel we need precisely her sort of person in order to retain our faith in
the future. That is what gives her such power as a symbol, and that is why
any illtreatment of her feels like a violation of what we have most at heart.
The little woman under house arrest stands for a positive hope. Knowing she
is there gives us confidence and faith in the power of good.
|
Tôi tin những người bình thường chúng ta đều cảm nhận được
rằng với sự can đảm và những ý tưởng cao thượng của bà, Aung San Suu Kyi khơi
dậy những gì tốt đẹp nhất trong từng con người chúng ta. Chúng ta cảm nhận
rằng chúng ta cần chính xác những người như bà để gìn giữ niềm tin của mình
vào tương lai. Đó chính là cái đã đem lại cho bà quyền lực với tư cách là một
biểu tượng, và cũng là lý do tại sao sự đối xử bạo ngược với bà cũng giống
như một sự xúc phạm những gì thiêng liêng nhất trong trái tim chúng ta. Người
phụ nữ bé nhỏ bị quản chế đại diện cho một hi vọng lạc quan. Biết rằng bà vẫn
còn đó đem đến cho chúng ta sự tin tưởng và niềm xác tín vào sức mạnh của lẽ
phải.
|
Aung San Suu Kyi was born in 1945. Her father was killed
when she was two. She has no personal memories of him. Her mother was a
diplomat, and Aung San Suu Kyi was to spend many of her early years and much
of her later life abroad. In 1967, she took a degree in Politics, Philosophy
and Economics at St. Hugh's College, Oxford. From 1969 on, she worked for two
years for the United Nations in New York. In 1972 she married Michael Aris, a
British specialist on Tibet. For a time the family lived in Bhutan, but in
the mid-seventies they moved back to Oxford. In addition to being a housewife
with two small children, Aung San Suu Kyi kept up her academic work,
gradually concentrating on modern Burmese history and literature. She was a
visiting scholar at Kyoto University in Japan and at the Indian Institute of
Advanced Studies in New Delhi. On her return to Burma in 1988, she broke off
her studies at the London School of Oriental and African Studies. There is
little in these outward events to suggest the role she was to embark on in
1988. But she was well prepared.
|
Aung San Suu Kyi sinh năm 1945. Phụ thân của bà bị giết
khi bà mới hai tuổi. Bà không có ký ức riêng gì về cha mình. Thân mẫu của bà
là một nhà ngoại giao, Aung San Suu Kyi đã sống nhiều năm tuổi trẻ và phần
lớn phần đời về sau của mình ở nước ngoài. Vào năm 1967, bà lấy bằng về Chính
Trị, Triết Học và Kinh Tế tại trường Cao Đẳng St. Hugh’s thuộc Đại Học
Oxford. Từ năm 1969 về sau, bà làm việc hai năm cho Liên Hiệp Quốc tại New
York. Năm 1972, bà thành hôn với Micheal Aris, một chuyên gia về Tây Tạng
người Anh. Đã có thời gian gia đình họ sống ở Bhutan, nhưng vào giữa những
năm bảy mươi, họ chuyển lại về Oxford. Ngoài việc là một người nội trợ với
hai con nhỏ, Aung San Suu Kyi tiếp tục nghiên cứu và dần tập trung vào lịch
sử và văn chương Burma hiện đại. Bà là học giả trong một thời gian ngắn tại
Đại Học Kyoto, Nhật Bản và tại Học Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Ấn Độ tại New
Delhi. Khi bà quay trở lại Burma năm 1988, bà bỏ dở công việc nghiên cứu của
mình tại Trường Nghiên cứu phương Đông và châu Phi London. Không có nhiều sự
kiện bên ngoài gợi ý về vai trò mà bà (sẽ) dấn thân vào kể từ năm 1988. Tuy nhiên,
bà đã sẵn sàng.
|
There is a great deal of evidence that the fate of her own
people had constantly weighed on her mind. Her husband has told us how she
often reminded him that one day she would have to return to Burma, and that
she would count on his support.3 Her studies, too, as we have seen, became
increasingly concentrated on Burma's modern history. The study of her father
and the part he played in Burmese history no doubt increased her political
commitment and sense that his mantle had fallen on her.4
|
Có rất nhiều bằng chứng rằng số phận những đồng bào mình
đã thường xuyên đè nặng trên tâm trí người phụ nữ này. Người bạn đời của bà
cho chúng tôi biết rằng bà thường nhắc nhở ông về một ngày bà sẽ phải quay
trở về Burma, và bà sẽ cần đến sự giúp đỡ của ông. [3] Những nghiên cứu của
bà, như chúng ta thấy, đã ngày càng tập trung vào lịch sử Burma hiện đại.
Nghiên cứu về phụ thân mình và vai trò của ông trong lịch sử Burma hiển nhiên
đã tăng cường sự tận tâm chính trị của bà và cảm giác rằng sứ mệnh của ông đã
chuyển sang vai bà. [4]
|
In moving to Japan, she was virtually following in her
father's footsteps. During the Second World War, it was from a base in Japan
that Aung San built up Burma's independent national army. When Japan invaded
Burma, Aung San and his men went too. Before long, they switched from fighting
the British colonial power to resisting the occupying Japanese and supporting
the retaking of Burma by the Allies. After the war, he led the negotiations
with the British which were to lead to final independence. Aung San Suu Kyi
appears to have felt an urgent need to study the process which led to Burma's
independent statehood, and to understand the ideals governing the politics.
In a beautiful essay comparing the Indian and Burmese experience of
colonisation, she also brings out the special features of Burma's cultural
heritage.5 History is important. You choose who you are by choosing which
tradition you belong to. Aung San Suu Kyi seeks to call attention to what she
sees as the best aspects of the national and cultural heritage and to
identify herself with them. Such profound knowledge and such a deep sense of
identity are an irresistible force in the political struggle.
|
Khi chuyển sang Nhật Bản, bà đã thực sự theo bước chân của
phụ thân mình. Trong Thế Chiến Hai, Aung San đã xây dựng lực lượng quân đội
độc lập của Burma từ một căn cứ của Nhật Bản. Khi Nhật xâm lược Burma, Aung
San và binh sỹ của ông cũng theo về nước. Không lâu sau, họ chuyển mục tiêu
từ đấu tranh chống sự đô hộ của người Anh sang kháng chiến chống quân chiếm
đóng Nhật và ủng hộ quân Đồng Minh tái chiếm Burma. Sau cuộc chiến, ông dẫn
đầu các cuộc thương thảo với người Anh để dẫn đến nền độc lập cuối cùng. Aung
San Suu Kyi có vẻ như đã cảm nhận được sự cấp thiết phải nghiên cứu quá trình
dẫn tới nền độc lập của nhà nước Burma, và để hiểu những tư tưởng chi phối
nền chính trị. Trong một bài viết sắc sảo so sánh sự thực dân hóa ở Ấn và
Burma, bà đã chỉ ra những nét đặc thù trong di sản văn hóa Burma. [5] Lịch sử
là quan trọng. Chúng ta lựa chọn chúng ta là ai thông qua việc lựa chọn
truyền thống nào chúng ta sẽ thuộc về. Aung San Suu Kyi tìm kiếm những nét mà
bà nhìn nhận là các mặt tinh hoa nhất của di sản dân tộc và văn hóa và gắn bó
mình với chúng. Kiến thức uyên bác này cùng với sự ý thức sâu sắc về bản sắc
của mình là những sức mạnh không thể khuất phục trong đấu tranh chính trị.
|
The occasion of Aung San Suu Kyi's return to Burma in 1988
was, characteristically enough, not the political situation but her old mother's
illness. The political turbulence had just begun, however. There had been
demonstrations and confrontations with the police with some two hundred
killed. The unrest continued while she was nursing her dying mother. That was
the situation in which she resolved to take an active part in what she
herself called "the second struggle for national independence".
|
Sự kiện Aung San Suu Kyi quay trở lại Burma năm 1988, về
danh nghĩa, không liên quan đến tình hình chính trị mà do thân mẫu của bà lâm
trọng bệnh. Dầu vậy, sự bất ổn chính trị cũng vừa bắt đầu. Đã có những cuộc
biểu tình và đụng độ với cảnh sát và khoảng vài trăm người bị thiệt mạng.
Tình trạng bất ổn tiếp tục trong khi bà chăm sóc thân mẫu đang trong tình
trạng hấp hối. Đó là tình huống mà bà đã quyết tâm tham gia tích cực vào cái
mà bà gọi là “cuộc đấu tranh lần thứ hai cho độc lập dân tộc”.
|
The military regime had seized power in Burma in 1962. The
disturbances which broke out in 1988 were a reaction to growing repression.
In the summer of that year, at a time when the situation was very uncertain,
Aung San Suu Kyi intervened with a open letter to the government, proposing
the appointment of a consultative committee of respected independent persons
to lead the country into multi-party elections. In the letter, she emphasised
the need for discipline and for refraining from the use of force on either
side, and demanded the release of political prisoners.6
|
Chính thể quân sự lên nắm quyền ở Burma từ năm 1962. Tình
trạng hỗn loạn nổ ra năm 1988 là một phản ứng đối với sự đàn áp ngày càng
tăng. Trong mùa hè năm đó, vào thời điểm mà tình hình hết sức bấp bênh, Aung
San Suu Kyi can thiệp bằng một lá thư gửi tới chính phủ, đề nghị thành lập
một ủy ban tư vấn gồm các nhân vật độc lập có uy tín nhằm dẫn dắt đất nước đi
tới các cuộc tuyển cử đa đảng. Trong thư, bà nhấn mạnh tầm quan trọng phải có
kỷ luật và tránh sử dụng các biện pháp bạo lực từ cả hai phía, và đề nghị thả
các tù nhân chính trị. [6]
|
A couple of days later, she addressed several hundred
thousand people in front of the large Shwedagon Pagoda in Rangoon, presenting
a political program based on human rights, democracy and non-violence. On the
18th of September, after hesitating for a few weeks, the armed forces reacted
by tightening the restrictions. The so-called "State Law and Order
Restoration Council" (SLORC) was established, and martial law was
introduced under which meetings were banned and persons could be sentenced
without trial.
|
Vài ngày sau đó, bà có buổi nói chuyện với vài trăm ngàn
người trước cửa ngôi Chùa Shwedagon lớn tại Rangoon, nêu ra cương lĩnh chính
trị dựa trên các quyền con người, dân chủ và bất bạo động. Vào ngày 18 tháng
Chín, sau một vài tuần lưỡng lự, các lực lượng quân sự phản ứng lại bằng cách
thắt chặt các hạn chế. Cái gọi là “Hội Đồng Tái Lập Trật Tự và Luật Pháp Nhà
Nước” (SLORC) ra đời, và thiết quân luật được áp dụng mà theo đó các cuộc hội
họp bị cấm và cá nhân có thể bị kết án không qua xét xử.
|
Political parties were not prohibited (perhaps with
meetings banned it was thought unnecessary). A week after the establishment
of SLORC, Aung San Suu Kyi and a few other members of the opposition founded
the National League for Democracy, the NLD. She went on to engage in vigorous
political activity, defying the ban on meetings and military provocations,
and holding heavily attended political meetings all over the country. One
remarkable feature of her political campaign was the appeal she had for the
country's various ethnic groups, traditionally at odds with each other.
|
Các chính đảng không bị cấm (có lẽ vì với việc cấm các
cuộc hội họp, họ cho rằng không cần phải làm thêm điều này). Một tuần sau sự
ra đời của SLORC, Aung San Suu Kyi và một số ít các thành viên của lực lượng
đối lập thành lập Liên Minh Dân Tộc vì Dân Chủ”, viết tắt là NLD. Bà dấn
bước, tham sự vào hoạt động chính trị mạnh mẽ, thách thức sự cấm đoán hội họp
và các khiêu khích quân sự và tổ chức các cuộc mít tinh đông đảo trên toàn
quốc. Một nét nổi bật trong chương trình chính trị là sự lôi cuốn của bà đối
với nhiều nhóm sắc tộc khác nhau trên cả nước mà trước nay vẫn thường xung
đột.
|
It must have been her personal prestige which caused the
regime to hesitate so long, but in July 1989 she was placed under house
arrest. In May 1990, elections were held, in which the NLD won an overwhelming
victory and over 80 per cent of the seats in the national assembly. There is
general agreement that this was principally a triumph for Aung San Suu Kyi.
|
Chắc chắn vì uy tín cá nhân của bà mà chế độ phải ngần
ngại lâu đến như vậy, nhưng vào tháng 7 năm 1989, bà bị quản thúc tại gia.
Tháng 5 năm 1990, các cuộc bầu cử được tổ chức, theo đó NLD đã thắng lớn với
hơn 80 phần trăm số ghế trong quốc hội. Mọi người đều đồng tình rằng về cơ
bản, đó là một chiến thắng của Aung San Suu Kyi.
|
Why did the SLORC allow free elections? Probably because
they expected a very different result, a result which would somehow have
provided the legitimacy they needed to retain power. The dilemma of such
regimes was demonstrated - trapped in their own lies. At any rate, they
refused to accept the election result. The election was in effect annulled.
The SLORC continued, but with reduced legitimacy. Lack of legitimacy is often
made up for by increased brutality. Amnesty International has reported
continuing serious violations of human rights.7 Today, the Burmese regime
appears to have developed into one of the most repressive in the world.
|
Tại sao SLORC lại chấp nhận tuyển cử tự do? Có thể vì họ
dự đoán một kết quả rất khác, một kết quả mà bằng cách nào đó cung cấp cho họ
tính hợp hiến họ cần để duy trì quyền lực. Thế tiến thoái lưỡng nan của một
chế độ như vậy đã lộ rõ – bị sa vào bẫy của chính những dối lừa mà họ tạo ra.
Trong bất cứ trường hợp nào, họ từ chối công nhận kết quả bầu cử. Cuộc bầu cử
đã bị thủ tiêu trên thực tế. SLORC tiếp tục cầm quyền, nhưng tính hợp hiến đã
giảm đi. Mất tính hợp hiến thường được khỏa lấp bởi việc gia tăng đàn áp. Tổ
chức Ân Xá Quốc Tế đã báo cáo các vi phạm nghiêm trọng và liên tục về các
quyền con người. [7] Ngày nay, chính quyền Burma có vẻ như đã phát triển
thành một trong những chính thể đàn áp mạnh nhất trên toàn cầu.
|
In recent decades, the Norwegian Nobel Committee has
awarded a number of Prizes for Peace in recognition of work for human
rights.8 It has done so in the conviction that a fundamental prerequisite for
peace is the recognition of the right of all people to life and to respect.
Another motivation lies in the knowledge that in its most basic form, the
concept of human rights is not just a Western idea, but common to all major
cultures. Permit me in this connection to quote a paragraph of Aung San Suu
Kyi's essay In Quest of Democracy:
|
Trong những thập kỷ gần đây, Ủy Ban Nobel Na Uy đã trao
tặng một số Giải Hòa Bình vinh danh những đóng góp vì quyền con người. [8]
Việc này được thực hiện dựa trên niềm tin rằng điều kiện tiên quyết cơ bản
nhất cho hòa bình là sự nhìn nhận quyền của mọi người được sống và được tôn
trọng. Một động cơ khác nằm ở nhận thức rằng, ở dạng cơ bản nhất, quan niệm
về các quyền con người không chỉ là ý tưởng Tây Phương, mà chung cho tất cả
các nền văn hóa chính. Cho phép tôi được trích đọc một đoạn trong bài viết
"Trong Cuộc Kiếm Tìm Dân Chủ" của Aung San Suu Kyi:
|
Where there is no justice there can be no secure peace.
...That just
laws which uphold human rights are the necessary foundations of peace and
security would be denied only by closed minds which interpret peace as the
silence of all opposition and security as the assurance of their own power.
The Burmese associate peace and security with coolness and shade:
|
Ở đâu không có công lý, ở đó không có hòa bình bền vững.
…Luật pháp công bằng nâng đỡ các quyền con người là những
nền tảng cần thiết của hòa bình và an ninh, điều này chỉ bị phủ nhận bởi
những bộ óc đóng kín, những kẻ cho rằng hòa bình là sự câm lặng của các lực
lượng đối lập và an ninh là phương tiện bảo đảm quyền lực của họ. Người Burma
liên tưởng hòa bình và an ninh với sự dịu mát và bóng râm:
|
The shade of a tree is cool indeed
The shade of parents is cooler
The shade of teachers is cooler still
The shade of the ruler is yet more cool
But coolest of all is the shade of the Buddha's teachings.
|
Bóng râm của cây cỏ luôn dịu mát
Bóng râm của mẹ cha còn dịu mát hơn
Bóng râm của thầy còn dịu mát hơn nữa
Vẫn chưa bằng bóng râm của người cai trị
Nhưng mát dịu hơn cả là bóng râm của lời Phật dạy.
|
Thus to provide the people with the protective coolness of
peace and security, rulers must observe the teachings of the Buddha. Central
to these teachings are the concepts of truth, righteousness and loving
kindness. It is government based on these very qualities that the people of
Burma are seeking in their struggle for democracy.9
|
Vì vậy, để đem lại cho người dân sự dịu mát cần thiết của
hòa bình và an ninh, các nhà cai trị phải thấm nhuần lời dạy của Đức Phật.
Tâm điểm của những lời dạy này là quan niệm về sự thật, về lẽ phải và sự nhân
ái. Một chính phủ dựa trên những phẩm chất như thế là một chính phủ mà người
dân Burma tìm kiếm trong cuộc tranh đấu vì dân chủ. [9]
|
This is not the first time that political persecution at home
has prevented a Peace Prize Laureate from receiving the prize in person. It
happened to Carl von Ossietzky in 1936, ill in one of Hitler's concentration
camps.10 It happened to Andrei Sakharov and to Lech Walesa. Ossietzky died
before the regime fell, but Sakharov and Walesa saw their struggles
succeed.11 It is our hope that Aung San Suu Kyi will see her struggle crowned
with success.
|
Đây không phải lần đầu tiên sự ngược đãi chính trị tại quê
hương đã ngăn cản Chủ Nhân Giải Hòa Bình đích thân tới nhận giải. Nó đã từng
xảy ra với Carl von Ossietzky vào năm 1936, đau yếu trong một trại tập trung
của Hitler. [10] Nó cũng từng xảy ra với Andrei Sakharov và với Lech Walesa.
Ossietzky qua đời trước khi chế độ sụp đổ, nhưng Andrei Sakharov và Lech
Walesa đã nhìn thấy những công cuộc đấu tranh của họ viên mãn. [11] Chúng ta
hi vọng rằng Aung San Suu Kyi sẽ nhìn thấy cuộc tranh đấu của bà lên ngôi
trong thành công.
|
However, we must also face up to the likelihood that this
will not be the last occasion on which a Peace Prize Laureate is unable to
attend. Let that remind us that in a world such as ours, peace and
reconciliation cannot be achieved once and for all. We will never be able to
lower our standards. On the contrary, a better world demands even greater
vigilance of us, still greater fearlessness, and the ability to develop in
ourselves the "profound simplicity" of which this year's Laureate
has spoken. This applies to all of us as individuals, but must apply
especially to those in positions of power and authority. Show humility and
show fearlessness - like Aung San Suu Kyi. The result may be a better world
to live in.
|
Tuy nhiên, chúng ta cũng đối mặt với một khả năng rằng đây
không phải là lần cuối cùng Chủ Nhân Giải Hòa Bình không thể tới tham dự. Hãy
để điều đó nhắc nhở chúng ta rằng trong một thế giới như thế giới của chúng
ta đang có đây, hòa bình và hòa hợp không thể đạt được một lần và cho mãi
mãi. Chúng ta không bao giờ được phép hạ thấp các tiêu chuẩn của chúng ta.
Ngược lại, một thế giới tốt đẹp hơn đòi hỏi ở chúng ta sự tỉnh táo hơn nữa,
can đảm hơn nữa, và khả năng hình thành trong mỗi chúng ta sự “giản dị hết
mực” như những gì Chủ Nhân Nobel của năm nay đã nói. Điều này áp dụng với mỗi
chúng ta với tư cách là những cá nhân, và đặc biệt cần cho những người ở vị
trí quyền lực và lãnh đạo. Hãy tỏ ra can đảm và khiêm nhường – như Aung San
Suu Kyi. Kết quả có thể là một thế giới tốt đẹp hơn.
|
|
|
|
Translated by Lâm Yến
|
1. "Freedom
from Fear" in Freedom, pp. 180-185. The reference is to the oft-quoted
dictum of Lord Acton, "Power tends to corrupt and absolute power
corrupts absolutely".
2. In 1988, despite
opposition by the government, Aung San Suu Kyi made a speechmaking tour
throughout the country. She was walking with her associates along a street in
a town, when soldiers lined up in front of the group, threatening to shoot if
they did not halt. Suu Kyi asked her supporters to step aside, and she walked
on. At the last moment the major in command ordered the soldiers not to fire.
She explained later, "It seemed so much simpler to provide them with a
single target than to bring everyone else in."
3. Freedom,
Introduction, p. xvii.
4. "My
Father", in Freedom, pp. 3-38. First published by Queensland Press in
1984 in the Leaders of Asia series under the title of Aung San. Reprinted in
1991 by Kiscadale, Edinburgh, as Aung San of Burma: A Biographical Portrait
by His Daughter.
5.
"Intellectual Life in Burma and India under Colonialism", in
Freedom, pp. 82-139.
6. "The
Formation of a People's Consultative Committee", 15 August 1988,
translated by Suu Kyi, in Freedom, pp. 192-197. Her first political
initiative.
7. Amnesty
International received the Nobel Peace Prize in 1977. See Irwin Abrams, ed.,
Nobel Lectures, Peace. 1971-1980 (Singapore: World Scientific, 1997):
161-177. Amnesty International campaigned for Suu Kyi's release from
detention as a "prisoner of conscience".
8. The 1935 award to
the concentration camp prisoner Carl von Ossietzky may be considered the
earliest human rights prize. Later such recipients were Albert Lutuli (1960),
Martin Luther King, Jr. (1964), René Cassin (1968), Séan MacBride (1974),
Amnesty International (1977), Adolfo Pérez Esquivel (1980), Lech Walesa
(1983), Desmond Tutu (1984), Elie Wiesel (1986), and the 14th Dalai Lama
(1989). After 1991 such grantees were Rigoberta Menchú Tum (1992), and the
1996 laureates from East Timor, José Ramos-Horta and Bishop Belo. See Abrams,
The Nobel Peace Prize and the Laureates (Boston: G.K. Hall), 3rd printing,
1990): 175-6 and entries on these laureates. Also the lectures of the most
recent human rights laureates in Abrams, ed., Nobel Lectures, Peace.
1971-1980, cited in the previous endnote, and the companion volume for
1981-1990.
9. Quest for
Democracy", in Freedom, pp. 167-179, esp. pp. 177-178.
10. The
international campaign for the prize for Carl von Ossietzky had already
brought about his removal from the camp to a hospital in Berlin before the
Norwegian Nobel Committee announced in 1936 that he would be awarded the
postponed prize of 1935. The Nazi government refused permission for him to go
to Oslo for the award ceremony. See Irwin Abrams, The Nobel Peace Prizes, pp.
125-129; Abrams, "Carl von Ossietzky Retrospective", The Nobel
Prize Annual 1989 (Boston: G.K. Hall, 1990): 12-23.
|
[1]“Freedom from
Fear” trong Freedom, pp. 180-185. Trích dẫn lời châm ngôn thường được dẫn của
Huân Tước Acton, “Quyền lực luôn có khuynh hướng tha hóa và quyền lực tuyệt
đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối”.
[2]Năm 1988, mặc cho
sự phản đối của nhà nước, Aung San Suu Kyi thực hiện chuyến diễn thuyết khắp
đất nước. Khi bà đang dạo bước cùng các đồng sự trên một con phố, binh lính
đã dàn hàng trước nhóm của bà và đe dọa sẽ nổ súng nếu họ không dừng bước.
Suu Kyi yêu cầu các đồng sự của mình lùi ra và bà bước lên. Vào giây phút
cuối cùng, người thiếu tá chỉ huy đã hạ lệnh cho binh sĩ không khai hỏa. Bà
sau đó đã giải thích, “Có vẻ như sẽ đơn giản hơn nhiều khi đem đến cho họ một
mục tiêu hơn là đem tất cả những người khác vào”
[3]Freedom, Lời giới
thiệu, trang. xvii.
[4]“My Father”, in
Freedom, pp. 3-38. Lần đầu tiên xuất bản do Queensland Press năm 1984 trong
loạt bài về các Lãnh Đạo của Á Châu dưới tên Aung San. Tái bản năm 1991 do
Kiscadale, Edinburgh, với tên Aung San of Burma: A Biographical Portrait by
His Daughter.[Aung San của Miến Ðiện: Chân dung Tiểu sử qua Con gái ông].
[5]“Intellectual
Life in Burma and India under Colonialism” [Ðời sống trí thức ở Miến Ðiện và
Ấn Ðộ trong thời Thuộc điạ], trong Freedom, pp. 82-139.
[6]“The Formation of
a People’s Consultative Committee” [Sự hình thành một Ủy ban Cố vấn của Nhân
dân], 15 Tháng Tám 1988, dịch bởi by Suu Kyi, trong Freedom, trang. 192-197.
Đề xướng chính trị đầu tiên của bà.
[7]Tổ chức Ân Xá
Quốc Tế nhận Giải Nobel Hòa Bình năm 1977. Xem Irwin Abrams, ed., Nobel
Lectures, Peace. 1971-1980 [Các diễn văn Nobel Hòa bình] (Singapore: World
Scientific, 1997): 161-177. Ân Xá Quốc Tế tổ mở chiến dịch tranh đấu gây áp
lực bãi bỏ quản chế với Suu Kyi, một “tù nhân lương tâm”.
[8]Giải thưởng năm
1935 cho tù nhân trại tập trung Carl von Ossietzky có thể được coi là giải
thưởng nhân quyền sớm nhất. Những người nhận giải sau này gồm Albert Lutuli
(1960), Martin Luther King, Jr. (1964), René Cassin (1968), Séan MacBride
(1974), Tổ chức Ân Xá Quốc Tế (1977), Adolfo Pérez Esquivel (1980), Lech
Walesa (1983), Desmond Tutu (1984), Elie Wiesel (1986) và Dalai Lama thứ 14
(1989). Sau năm 1991, gồm Rigoberta Menchú Tum (1982), và chủ nhân của năm
1996 từ Đông Timor, José Ramos-Horta và giám mục Belo. Xem Abrams, The Nobel
Peace Prize and the Laureates (Boston: G.K. Hall), 3rd printing, 1990): 175-6
và phần giới thiệu về những người nhận giải này. Và những bài giảng của các
chủ nhân giải Nobel nhân quyền gần đây nhất trong Abrams, ed., Nobel
Lectures, Peace. 1971-1980, trích dẫn trong phần chú trên, và tập dành cho
năm 1981-1990.
[9]Quest for
Democracy”, trong Freedom, trang. 167-179, đặc biệt trang 177-178.
[10]Chiến dịch quốc
tế vận động trao giải cho Carl von Ossietzky đã khiến ông được đưa ra khỏi
trại tập trung và chuyển đến một bệnh viện tại Berlin trước khi Ủy Ban Nobel
Na Uy tuyên bố vào năm 1936 rằng ông được nhận giải thưởng hoãn từ năm 1935.
Chính quyền Phát xít từ chối không cho ông tới Oslo tham dự lễ nhân giải. Xem
Irwin Abrams, The Nobel Peace Prizes, pp. 125-129; Abrams, “Carl von
Ossietzky Retrospective”, The Nobel Prize Annual 1989 (Boston: G.K. Hall,
1990): 12-23.
[11]Từ Nobel
Lectures, Peace 1991-1995, Editor Irwin Abrams, World Scientific Publishing
Co., Singapore, 1999.
|
http://www.nobelprize.org/nobel_prizes/peace/laureates/1991/presentation-speech.html
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Sunday, June 17, 2012
Award Ceremony Speech Diễn văn trao giải Nobel Hòa bình 1991
Labels:
SPEECH-Diễn văn
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn