|
|
|
|
Preparing for War
with China
|
Chuẩn bị chiến tranh
với Trung Quốc
|
James Holmes
|
James Holmes
|
National Interest, August 16, 2012
|
National Interest, 16/8/2012
|
|
|
For an operational concept that has never been published,
the U.S. military’s AirSea Battle doctrine has elicited some fiery
commentary. Or maybe it stokes controversy precisely because the armed forces
haven’t made it official. Its details are subject to speculation. The chief
source of information about it remains an unclassified, unofficial study
published in 2010 by the Washington-based Center for Strategic and Budgetary
Assessments.
|
Do một khái niệm tác chiến vừa được công bố mà Học thuyết Tác
chiến Hải-Không của quân đội Mỹ đã gây nên những bình phẩm gay gắt. Có thể nó
gây nên các cuộc tranh cãi chỉ vì các lực lượng vũ trang vẫn chưa coi nó là
chính thức. Các chi tiết của nó là chủ đề của những lời ức đoán.Nguồn thông
tin chính về nó vẫn còn là một nghiên cứu không chính thức không thuộc loại bí
mật được Trung tâm đánh giá Chiến lược và Ngân sách có trụ sở tại Washington
công bố năm 2010.
|
The debate over AirSea Battle swirls mostly around
technology and whether the doctrine is aimed at China. To answer the latter
question first: Yes, it is about China. It has to be.
|
Cuộc tranh cãi về học thuyết Tác chiến Hải-Không chủ yếu xoay
quanh khía cạnh công nghệ và câu hỏi phải chăng học thuyết này nhằm vào Trung
Quốc. Có thể trả lời câu hỏi này trước: đúng, nó nhắm tới Trung Quốc.
|
This is no prophecy of doom. From a political standpoint,
war with China is neither inevitable nor all that likely. But military people
plan against the most formidable capabilities they may encounter. And from an
operational standpoint, China’s People’s Liberation Army (PLA) presents the
sternest “anti-access” challenge of any prospective antagonist. Either
strategists, planners and warfighters prepare for the hardest case, or the
United States must write off important regions or options.
|
Không có tiên đoán nào về sự diệt vong. Xét về khía cạnh
chính trị, cuộc chiến tranh với Trung Quốc không phải là không tránh khỏi,
cũng không phải là ít khả năng xảy ra. Nhưng giới chức quân đội đang lên kế
hoạch chống lại các khả năng kinh khủng nhất mà họ có thể phải đương đầu. Và
xét về khía cạnh chiến sự, Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA) đặt ra thách
thức "chống tiếp cận" cứng rắn nhất so với bất kỳ địch thủ nào
trong tương lai. Các chiến lược gia, các nhà hoạch định và cả binh sĩ đều
chuẩn bị cho tình huống gay cấn nhất, cả nước Mỹ phải xác định những khu vực
và lựa chọn quan trọng.
|
The PLA thus represents the benchmark for U.S. military
success in maritime Asia, by most accounts today’s crucible of great-power
competition. Other potential opponents, notably the Iranian military, fall
into what the Pentagon terms “lesser-included” challenges. If U.S. forces can
pierce the toughest anti-access defenses out there—if they can crack the
hardest nut—the softer defenses erected by weaker opponents will prove
manageable.
|
Như vậy, PLA được coi là cái mốc chuẩn cho sự thành công
của quân đội Mỹ tại khu vực biển ở châu Á, nơi hầu hết mọi người đều gọi là
cuộc thử thách gắt gao về cạnh tranh giữa các nước lớn trong thời đại ngày
nay. Các đối thủ tiềm năng khác, đặc biệt là quân đội Iran, được Lầu Năm Góc
xếp vào loại các thách thức "thức yếu". Bởi nếu các lực lượng của
Mỹ có thể chọc thủng hệ thống phòng thủ "chống tiếp cận" cứng rắn
nhất ở bên ngoài thì các hệ thống phòng thủ mềm hơn mà các đối thủ yếu hơn
dựng lên sẽ hoàn toàn dễ dàng bị quản lý.
|
That focus on anti-access is why AirSea Battle is about
China—because it’s the gold standard, not because anyone expects, let alone
wants, war in the Western Pacific.
|
Sự chú trọng tới chiến lược "chống tiếp cận"
giải thích tại sao học thuyết Tác chiến Hải Không là nhằm vào Trung Quốc - vì
tiêu chuẩn vàng của họ, không phải vì ai đó mong chờ xảy ra chiến tranh tại
Tây Thái Bình Dương.
|
The Technology
Anti-access is a catchy new name for the old concept of
layered defense. Like all naval officers, I was reared on it. Think about air
defense. When an aircraft-carrier task force goes in harm’s way, commanders
dispatch “combat air patrols” around the fleet, concentrating along the
“threat axis,” or direction from which air attack appears most likely.
Interceptors from the carrier air wing constitute the first, outermost line
of defense.
|
Công nghệ
"Chống tiếp cận" là một cái tên mới, hấp dẫn cho
một khái niệm cũ về phòng thủ từng lớp. Giống như mọi sỹ quan hải quân, tôi
đã phản ứng mạnh về nó. Hãy bàn về phòng không. Khi một đội đặc nhiệm tàu sân
bay có dấu hiệu bị tổn hại, các chỉ huy sẽ loại bỏ "kiểm soát không
chiến" xung quanh hạm đội, tập trung vào "trục đe dọa", hoặc
vào hướng dễ bị tấn công từ trên không nhất. Các lá chắn từ đơn vị không quân
trên tàu sân bay tạo thành hàng phòng thủ đầu tiên và ngoài cùng.
|
Then come surface-to-air missiles from the fleet’s picket
ships. If attackers get past the fighter- and missile-engagement zones,
“point” defenses such as short-range radar-guided missiles or gatling guns
essay a last-ditch effort. Each defensive system engages assailants as they
come within reach. Multiple engagements translate into multiple chances for a
kill, improving the fleet’s chances of withstanding the assault. A corollary:
defenses become denser and denser as an adversary closes in.
|
Sau đó tới các tên lửa hạm đối không trên các tàu của hạm
đội. Nếu kẻ tấn công vượt qua được các vùng chiến của tên lửa, các vũ khí
phòng thủ "mũi nhọn" như tên lửa tầm ngắn do radar điều khiển hoặc
súng sẽ tham chiến như một nỗ lực cuối cùng. Mỗi hệ thống phòng thủ chiến đấu
với kẻ tấn công khi chúng vào tầm với. Nhiều lớp như vậy sẽ làm tăng cơ hội
sát thương, tức là tăng khả năng chống cự của hạm đội. Kết quả tất yếu là:
các hệ thống phòng thủ ngày càng dày đặc khi kẻ thù càng tới gần.
|
The same logic applies to coastal defense but on a grand
scale. A nation intent on warding off adversaries fields a variety of weapons
and platforms to strike at sea and aloft. These systems have varying ranges
and design parameters. Tactical aircraft can fly hundreds of miles offshore
and fire missiles that extend their lethal reach still farther. Missile-armed
patrol boats have small fuel tanks and limited at-sea endurance, so they
stick relatively close to home. The same goes for diesel-electric submarines.
|
Logic tương tự cũng được áp dụng trong phòng thủ ven biển
nhưng trên một quy mô lớn. Một quốc gia muốn tránh kẻ thù bằng cách tung ra
một loạt vũ khí và học thuyết để tấn công trên biển và trên không. Các hệ
thống này có phạm vi khác nhau và được thiết kế các thông số khác nhau. Máy
bay chiến đấu chiến thuật có thể bay hàng trăm dặm ở ngoài khơi và bắn tên
lửa có tầm sát thương xa hơn thế. Các tàu tuần tra gắn tên lửa chỉ mang các
thùng chứa dầu nhỏ và hạn chế khả năng hoạt động ngoài khơi, vì vậy chúng chủ
yếu được cài cắm ở gần nhà. Tương tự với các tàu ngầm chạy bằng động cơ điện
diesel.
|
If anti-access is about mounting layered defenses, AirSea
Battle is about developing technologies and tactics for penetrating them.
Thus, in some sense China and America are replaying the interwar years. War
planning commenced in earnest following World War I. Imperial Japan planned
to shut the U.S. Pacific Fleet out of the waters, skies and landmasses within
a defense perimeter enclosing the Western Pacific, the China seas, Southeast
Asia and parts of the Bay of Bengal. Not to be outdone, U.S. Navy officers
devised and tested out war plans for breaching Japanese anti-access measures.
|
Nếu chiến lược chống tiếp cận là nấc cao hơn của phòng thù
từng lớp, thì Tác chiến Hải Không nhằm phát triển các công nghệ và chiến
thuật để thâm nhập chúng. Như vậy, hiểu theo cách nào đó thì Trung Quốc và Mỹ
đang chiếu lại những năm giữa hai cuộc chiến tranh. Việc hoạch định chiến
tranh đã bắt đầu ngay sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhật Hoàng đã
lên kế hoạch đuổi cổ hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ khỏi các vùng biển, vùng
trời và lãnh thổ nằm trong chu vi phòng thủ của mình, bao chùm Tây Thái Bình
Dương, các biển của Trung Quốc, Đông Nam Á và nhiều phần ở Vịnh Bengal. Không
để bị lấn át, các sĩ quan Hải quân Mỹ đã bày mưu và thử nghiệm các kế hoạch
chiến đấu để phá hỏng các biện pháp chống tiếp cận của Nhật Bản.
|
Weirdly, planners on both sides of the Pacific largely
agreed on how the coming conflict would unfold. Japan would lash out at the
U.S.-held Philippines. U.S. leaders would order the Pacific Fleet to relieve
the islands, confronting the Imperial Japanese Navy with a numerical
mismatch. Anti-access, Japanese style, meant forward-deploying warplanes to
islands along the defense perimeter and submarines to adjacent waters. Aerial
and undersea attacks would whittle the U.S. fleet down as it lumbered
westward—evening the odds before a decisive battle somewhere in Asian waters.
|
Rất lạ là các nhà hoạch định ở cả hai bên bờ Thái Bình
Dương đều đã có suy nghĩ giống nhau về cách thức cuộc xung đột sẽ diễn ra.
Nhật Bản sẽ đánh bất ngờ vào Philippines (đang được Mỹ ủng hộ). Giới chức Mỹ
sẽ ra lệnh cho Hạm đội Thái Bình Dương bảo vệ các đảo, chống lại Hải quân
Hoàng gia Nhật nhưng với số lượng không tương xứng. Chiến lược chống tiếp cận
kiểu Nhật là các máy bay chiến đấu được dàn quân phía trước các đảo dọc theo
chu vi phòng thủ và tàu ngầm thì được huy động ở các vùng nước liền kề. Các cuộc
tấn công trên không và dưới biển sẽ đuổi cổ hạm đội của Mỹ về hướng Tây trước
khi xảy ra một trận chiến quyết định ở đâu đó trong các vùng biển của châu Á.
|
Submarines and land-based tactical aircraft remain among
the panoply of anti-access weaponry. Complementing them are missile-armed
patrol boats acting as offshore pickets; shore-fired antiship cruise
missiles; and antiship ballistic missiles with ranges conservatively
estimated at over nine hundred statute miles. Beijing would expect the PLA
Navy surface fleet to handle whatever remnants of the U.S. Pacific Fleet limped
into East Asian waters following repeated aerial and subsurface onslaughts.
|
Các tàu ngầm và máy bay chiến thuật trên mặt đất vẫn là
một phần của "bộ áo giáp" vũ khí chống tiếp cận. Bổ sung cho chúng
là các tàu tuần tra gắn tên lửa hoạt động như đội quân cảnh ngoài khơi; các
tên lửa hành trình chống hạm được bắn từ mặt đất; và các tên lửa đạn đạo
chống hạm với tầm xa có thể lên tới hơn 900 dặm. Bắc Kinh có thể hy vọng hạm
đội mặt đất của Hải quân PLA đối phó với bất kỳ thứ gì còn sót lại của Hạm
đội Thái Bình Dương của Mỹ đang ì ạch trên các vùng biển ở Đông Á sau các
cuộc công kích liên tiếp từ trên không và dưới mặt nước.
|
The Human Element
The hardware dimension of the U.S.-China strategic competition,
however, is inextricable from the all-important human dimension. Weapons
don’t fight wars, as strategic thinkers from U.S. Air Force colonel John Boyd
to Chinese Communist Party chairman Mao Zedong remind us; people who operate
weapons do. Both individuals and the big institutions they serve have
deep-seated worldviews and ideas about how to cope with the strategic
surroundings. A culture that comports with strategic and operational
circumstances represents an asset. A culture that flouts reality is a huge
liability.
|
Yếu tố con người
Tuy nhiên, khía cạnh vũ khí hạng nặng trong cuộc cạnh
tranh chiến lược Mỹ - Trung không thể tách khỏi khía cạnh nhân lực vốn là vô
cùng quan trọng. Các loại vũ khí không tự nó giao đấu trong các cuộc chiến
tranh. Các nhà tư tưởng chiến lược từ Đại tá John Boyd thuộc lực lượng Không
quân Mỹ đến Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông đã nói: chính
con người vận hành các vũ khí làm nên việc này. Từng cá nhân và các thể chế
lớn mà họ phục vụ đều có thế giới quan và các ý tưởng sâu sắc về việc làm thế
nào để đối phó với các vùng biên chiến lược. Một nền văn hóa thích ứng với hoàn cảnh chiến lược
và tác chiến là một tài sản. Một nền văn hóa lăng nhục thực tế là một trách
nhiệm rất lớn.
|
So the struggle between AirSea Battle and anti-access is
about more than developing gee-whiz technologies. A culture war is brewing
between two great powers with very different conceptions of the relationship
among land, air and sea power. And again, ideas matter. As naval historian
Julian S. Corbett explains, armaments are “the expression in material of
strategical and tactical ideas that prevail at any given time.” What hardware
a nation’s armed forces acquire speaks volumes about how strategic leaders
think about war—and how they may wage it.
|
Như vậy, sự đấu tranh giữa học thuyết Tác chiến Hải Không và
chiến lược "chống tiếp cận" liên quan đến việc phát triển các công
nghệ mới tinh vi. Một cuộc chiến tranh văn hóa được hình thành giữa hai cường
quốc lớn với nhiều khái niệm khác nhau trong quan hệ giữa bộ binh, không quân
và hải quân. Một lần nữa, lại là vấn đề các ý tưởng! Theo nhà sử học về hải
quân Julian S. Corbett, các loại vũ khí là "cách thể hiện ra bên ngoài
của các tư tưởng chiến thuật và chiến lược được ưa chuộng vào một thời điểm
nào đó". Các loại vũ khí hạng nặng mà lực lượng vũ trang của một quốc
gia mua sắm cho thấy mức độ giới lãnh đạo chiến lược nước đó nghĩ về chiến
tranh, và cách họ có thể bắt đầu cuộc chiến ấy.
|
China conceives of land-based forces as intrinsic to sea
power and has done so at least since the inception of the People’s Republic.
This composite conception of sea power comes as second nature for the PLA.
Mao Zedong reportedly issued the PLA Navy’s founders three curt instructions:
“fly, dive, fast!” Commanders, that is, premised maritime defense on
short-range aircraft flying from airfields ashore, diesel submarines diving
beneath the waves, and fast patrol boats armed with guns and missiles. These
were the ancestors of today’s ultramodern anti-access force.
|
Trung Quốc coi các lực lượng có căn cứ trên mặt đất là cốt
lõi của lực lượng hải quân và quan điểm này có từ khi ra đời nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa. Khái niệm bổ trợ này về hải quân là bản chất thứ hai của
PLA. Mao Trạch Đông đã nhiều lần đưa ra ba chỉ dẫn ngắn gọn về nền tảng của
Hải quân PLA: "bay, lặn, nhanh!". Như vậy, các tư lệnh giả thuyết
phòng vệ biển dựa trên việc sử dụng các máy bay tầm ngắn từ căn cứ không quân
trên bờ, các tàu ngầm chạy bằng diesel lặn sâu dưới các con sóng, và các tàu
tuần tra nhanh được trang bị súng và tên lửa. Đây là hình thức sơ khai của
lực lượng chống tiếp cận siêu hiện đại ngày nay.
|
Maoist China viewed sea power as more than the fleet. It
was an amalgam of seagoing and land-based platforms and weaponry.
Accordingly, the navy remained close to home throughout Mao’s long tenure as
CCP chairman. That’s markedly different from the U.S. Navy, which kept
squadrons on foreign station from its earliest history. Forward deployment is
in American seafarers’ DNA. Think Thomas Jefferson and the Barbary Wars.
China, by contrast, has not forward deployed warships since the Ming
Dynasty—and even then it did so only intermittently. The ongoing
counterpiracy deployment off Somalia thus marks a break with centuries of
historical practice.
|
Trung Quốc thời Mao Trạch Đông đề cao sức mạnh hải quân
hơn các hạm đội. Đó là một sự pha trộn của các nền tảng và vũ khí trên đất
liền và ở ngoài khơi. Do đó, hải quân vẫn gắn liền với đất liền trong suốt
thời Mao Trạch Đông là Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Quan niệm trên hoàn
toàn khác với Hải quân Mỹ, vốn duy trì các hạm đội ở các căn cứ ngoài nước
ngay từ những ngày đầu lịch sử. Việc huy động lực lượng ra nước ngoài nằm
trong "ADN" của lực lượng biển của Mỹ. Ngược lại, Trung Quốc không
hề huy động tàu chiến ra nước ngoài kể từ triều nhà Minh, thậm chí sau đó, họ
cũng chỉ thỉnh thoảng làm việc này. Vì vậy, việc huy động lực lượng chống
cướp biển ở ngoài khơi Somalia đánh dấu một bước ngoặt sau nhiều thế kỷ.
|
The PLA Navy has remained true to its Maoist history even
while constructing a blue-water fleet. Coastal defense remains the service’s
core function, although it has vastly expanded its defensive zone.
|
Hải quân PLA vẫn đúng với lịch sử thời Mao Trạch Đông ngay
cả khi họ xây dựng một hạm đội biển xanh. Bảo vệ bờ biển vẫn là chức năng cốt
lõi của lực lượng này, dù họ đã mở rộng đáng kể khu vực phòng thủ của mình.
|
If the PLA Navy needs to reinvent its institutional
culture to operate far from Chinese coasts, the U.S. military faces an even
stiffer cultural challenge in orienting itself to new realities. The
post–Cold War U.S. military came to see naval power as a supporting arm of
land power. The U.S. Navy projected power onto distant shores, supporting the
army, Marines and air force as these sister services prosecuted air and
ground campaigns in theaters such as Iraq and Afghanistan.
|
Nếu Hải quân PLA cần tạo lại văn hóa thể chế của mình để
hoạt động ra xa bờ biển Trung Quốc, thì quân đội Mỹ phải đối mặt với một
thách thức văn hóa thậm chí còn lớn hơn trong việc hướng Đông tới các thực tế
mới. Quân đội Mỹ thời hậu chiến tranh Lạnh coi sức mạnh hải quân là vũ khí hỗ
trợ sức mạnh bộ binh. Hải quân Mỹ phô trương sức mạnh ở ngoài khơi xa, hỗ trợ
bộ binh, lực lượng lính thủy đánh bộ và không quân, như trường hợp các đơn vị
"chị em một nhà" này theo đuổi các chiến dịch không - bộ phối hợp
trong các mối đe dọa như ở Iraq hay Afghanistan.
|
Facing no competitor of the Soviet Navy’s stature, the
U.S. Navy leadership issued guidance stating that the navy could assume it
commanded the sea. There was no one to contest its mastery. Thus, in the
words of the 1992 directive "...From the Sea," the service could
“afford to de-emphasize efforts in some naval warfare areas.” In practice,
that meant capabilities like antisubmarine warfare and mine
countermeasures—capabilities critical to surviving and prospering in
anti-access settings—languished for two decades.
|
Không có đối thủ tầm cỡ Hải quân Liên Xô, giới lãnh đạo
Hải quân Mỹ đưa ra chỉ đạo nói rằng hải quân có thể cho rằng nó chỉ huy biển.
Không có ai để tranh cãi về địa vị chủ nhân của nó. Do đó, trong lời lẽ của
các chỉ thị năm 1992 có viết "... Từ Biển," dịch vụ này "có
thể đủ khả năng để giàm bớt nỗ lực trong một số lĩnh vực chiến tranh hải quân".
Trên thực tế, điều đó có nghĩa là các năng lực như chiến tranh chống tàu ngầm
và đáp trả ngư lôi - các năng lực quan trọng để sống sót và thành công trong
việc chống tiếp cận - đã phai mờ sau hai thập kỷ.
|
Only now are they being rejuvenated. As the anti-access
challenge has come into focus, the navy has started scrambling to upgrade its
weaponry and relearn half-forgotten skills. In all likelihood, the air force
is in worse straits. Despite Billy Mitchell’s early experiments with using
air power to defend American coasts—remember his famous 1920 sinking of a
battleship from the air—the modern U.S. Air Force does not consider fighting
at sea one of its central purposes. The services have some way to go before
they can put forth the cohesive effort AirSea Battle demands.
|
Hiện nay, các năng lực này đang tái sinh. Khi thách thức
chống tiếp cận trở thành trọng tâm, hải quân đã bắt đầu chạy đua nâng cấp vũ
khí và tái huấn luyện các kỹ năng đã bị quên lãng một nửa. Nhiều khả năng,
Không quân rơi vào tình cảnh khó khăn hơn. Bất chấp các cuộc thử nghiệm ban
đầu của Billy Mitchell với việc sử dụng không quân để bảo vệ các bờ biển của
Mỹ - còn nhớ vụ đánh chìm một chiến hạm từ trên không năm 1920 nổi tiếng của
ông - Không quân Mỹ hiện đại không coi chiến đấu trên biển là một trong các
mục đích chính.
|
Punching the Pillow
In short, the Asian continental power takes a holistic
view of sea power, while the power that rules the waves thinks of sea power
as subsidiary to land power. This cultural inversion would favor PLA
defenders in a U.S.-China war. After all, fighting offshore is familiar
terrain for them, whereas U.S. leaders long assumed they no longer had to
fight for sea control. The services must dispel that ingrained assumption.
The advantage goes to China unless the U.S. Navy and Air Force undertake a
cultural transformation ahead of time, learning to work together in the
maritime domain.
|
Đấm bị bông
Nói tóm lại, cường quốc lục địa châu Á có cái nhìn chính
thể luận đối với sức mạnh biển, trong khi cường quốc điều khiển các con sóng
lại coi sức mạnh biển là sự bổ trợ cho bộ binh. Sự đảo ngược về văn hóa này
sẽ có lợi cho những người ủng hộ PLA nếu xảy ra chiến tranh Mỹ - Trung. Sau
cùng, việc chiến đấu ở ngoài khơi là rất quen thuộc đối với họ, trong khi các
lãnh đạo Mỹ từ lâu cho rằng họ không còn phải đấu tranh để kiểm soát biển.
Các đơn vị phải xóa tan suy nghĩ thâm căn cố đế này. Lợi thế thuộc về Trung
Quốc, trừ phi Hải quân và Không quân Mỹ có sự biến chuyển về văn hóa trong
thời gian tới, và học cách phối hợp với nhau trên biển.
|
Reinventing military institutions in peacetime invariably
poses a high-order leadership challenge. It often takes some trauma—like
defeat—to clear minds. What to do, short of that doomsday scenario?
|
Tái thành lập các thể chế quân sự trong thời bình luôn đặt
ra một thách thức lớn cho các lãnh đạo cấp cao. Nó sẽ gây ra một số sang chấn
- như sự thất bại - đối với những ký ức còn rõ ràng. Phải làm gì đây, kịch
bản ngày tận thế chăng?
|
First, we need an official AirSea Battle concept to jolt
the services into action and impart direction. Let’s publish one. Second, the
navy and air force must embrace the concept, forging themselves into a joint
weapon of sea combat. And third, national leaders must hold the services
accountable for this project.
|
Trước tiên, Mỹ cần một khái niệm Tác chiến Hải Không để
kích hoạt các đơn vị hành động và đưa ra định hướng. Sau đó công bố nó. Thứ
hai, hải quân và không quân phải bám lấy khái niệm này, buộc mình vào một kho
vũ khí chung của chiến tranh trên biển. Và thứ ba, các lãnh đạo đất nước phải
có trách nhiệm giải thích với từng đơn vị về kế hoạch này.
|
Franklin Roosevelt once compared the U.S. Navy to a
pillow. Civilian officials could punch it as hard as they liked, but it
sprang back to the same shape. One suspects the U.S. Air Force bureaucracy is
the same way.
Keep punching, Washington.
|
Franklin Roosevelt từng so sánh Hải quân Mỹ với một chiếc gối
bông. Giới chức dân sự có thể đấm vào đó mạnh nhất có thể, nhưng nó sẽ bật
lại đúng như vậy. Một số người e rằng Không quân Mỹ cũng như vậy quan lieu như
thế.
Washington, cứ đấm đi.
|
James Holmes is an
associate professor of strategy at the Naval War College and a contributor to
Competitive Strategies for the 21st Century, just out from Stanford
University Press. The views voiced here are his alone.
|
James Holmes là một
giáo sư về chiến lược tại Đại học Hải Chiến. Ông là cộng tác viên cho Chiến
lược cạnh tranh cho thế kỷ 21, do Đại học Stanford xuất bản. Những quan điểm nêu
lên ở đây chỉ là quan điểm riêng của tác giả.
|
|
Translated by Châu Giang
|
|
|
http://nationalinterest.org/commentary/preparing-war-china-7352?page=show
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Tuesday, September 4, 2012
Preparing for War with China Chuẩn bị chiến tranh với Trung Quốc
Labels:
MILITARY-QUÂN SỰ
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn