|
|
PROBLEM OF UNIVERSALS
|
VẤN ĐỀ VỀ CÁC PHỔ QUÁT
|
In metaphysics, the problem of
universals refers to the question of whether properties exist, and if so,
what they are. Properties are qualities or relations that two or more
entities have in common. The various kinds of properties, such as qualities
and relations are referred to as universals. For instance, one can imagine
three cup holders on a table that have in common the quality of being
circular or exemplifying circularity, or two daughters that have in common
being the daughter of Frank. There are many such properties, such as being
human, red, male or female, liquid, big or small, taller than, father of, etc.
|
Trong siêu hình học, vấn đề về những
cái phổ quát liên quan tới câu hỏi liệu các thuộc tính có hiện hữu không, và
nếu có, chúng là gì. Thuộc tính là những chất hay mối quan hệ mà hai hay nhiều
thực thể có chung với nhau. Nhiều loại thuộc tính, như những chất hay những mối
quan hệ, được xem như là những cái phổ quát. Chẳng hạn, ta có thể hình dung
ba miếng lót ly trên bàn đều có chung một phẩm tính là có hìnhtròn hay tính
tròn, hoặc hai cô con gái có chung thuộc tính là con gái của Frank. Có nhiều
thuộc tính như thế, chẳng hạn như người, đỏ, đực hay cái, lỏng, lớn và nhỏ,
cao hơn, cha của, v.v…
|
While philosophers agree that
human beings talk and think about properties, they disagree on whether these
universals exist in reality or merely in thought and speech.
|
Mặc dù các triết gia đồng ý rằng
con người nói và nghĩ về các thuộc tính, nhưng họ lại bất đồng với nhau ở chỗ
liệu những cái phổ quát này hiện hữu trong thực tại, hay chỉ hiện hữu
trong tư tưởng và lời nói mà thôi.
|
1. POSITIONS
|
1. CÁC LẬP TRƯỜNG
|
The main positions on the issue
are generally considered to be: realism, nominalism, and idealism (sometimes
simply called "anti-realism" with regard to universals).
|
Về vấn đề này nhìn chung có ba lập
trường chính là: thuyết duy thực, thuyết duy danh, và thuyết duy tâm (đôi khi
còn được gọi đơn giản là “thuyết phản-duy thực” khi nói đến những cái phổ
quát).
|
1.1. Realism
The realist school claims that
universals are real — they exist and are distinct from the particulars that
instantiate them. There are various forms of realism. Two major forms are
Platonic realism (universalia ante res) and Aristotelian realism (universalia
in rebus). Platonic realism is the view that universals are real entities and
they exist independent of particulars. Aristotelian realism, on the other hand,
is the view that universals are real entities, but their existence is
dependent on the particulars that exemplify them.
|
1.1. Thuyết duy thực
Trường phái duy thực quả quyết những
cái phổ quát là thực tồn – chúng hiện hữu và khác biệt với những cái đặc thù,
vốn là hiện thân của chúng. Thuyết duy thực có nhiều hình thức. Hai hình thức
chính là thuyết duy thực Plato (cái phổ quát [có] trước vật) và thuyết duy thực
Aristotle (cái phổ quát [có] trong vật). Theo quan điểm của thuyết duy thực
Plato, những cái phổ quát là những thực thể thực tồn và chúng hiện hữu độc lập
với những cái đặc thù. Trong khi đó, thuyết duy thực Aristotle cho rằng những
cái phổ quát là những thực thể thực tồn, nhưng sự hiện hữu của chúng tùy thuộc
vào những cái đặc thù hiện thân cho chúng.
|
Realists tend to argue that
universals must be posited as distinct entities in order to account for
various phenomena. For example, a common realist argument, arguably found in
Plato, is that universals are required for certain general words to have
meaning and for the sentences in which they occur to be true or false. Take
the sentence " Djivan Gasparyan is a musician". The realist may
claim that this sentence is only meaningful and expresses a truth because
there is an individual, Djivan Gasparyan, who possesses a certain quality,
musicianship. Thus it is assumed that the property is a universal which is
distinct from the particular individual who has the property.
|
Các nhà duy thực có xu hướng cho rằng
những cái phổ quát cần phải được thiết định như là những thực thể riêng biệt
để nghiên cứu các hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn, theo một lập luận phổ biến
trong thuyết duy thực, mà ta có thể tìm thấy nơi Plato, phải có những cái phổ
quát (nào đó) để những từ mang tính tổng quát có nghĩa, và những câu văn chứa
đựng chúng là đúng hoặc sai. Ta hãy xem câu “Djivan Gasparyan là một nhạc
sĩ”. Nhà duy thực quả quyết, câu này chỉ có nghĩa và diễn tả một sự thật bởi
có một cá nhân cụ thể tên Djivan Gasparyan, là người sở hữu một phẩm chất nhất
định, đó là nhà nhạc sĩ. Như vậy, ta
có thể giả định rằng thuộc tính này là một cái phổ quát tách biệt với cá nhân
đặc thù có thuộc tính ấy.
|
1.2. Nominalism
Nominalists assert that only
individuals or particulars exist and deny that universals are real (i.e. that
they exist as entities or beings). The term "nominalism" comes from
the Latin nomen ("name"), since the nominalist philosopher agrees
that we predicate the same property of multiple entities but argues that the
entities only share a name, not a real quality, in common. There are various
forms of nominalism (which is sometimes also referred to as
"terminism"), three major forms are resemblance nominalism,
conceptualism, and trope nominalism. Nominalism has been endorsed or defended
by many, including William of Ockham, Peter Abelard, D. C. Williams (1953),
David Lewis (1953), and arguably H. H.
Price (1953) and W. V. O. Quine (1961).
|
1.2. Thuyết duy danh
Các nhà duy danh khẳng định rằng
chỉ có những cái cá biệt hay những cái đặc thù mới hiện hữu, và phủ nhận sự
thực tồn của những cái phổ quát (tức, phủ nhận việc chúng hiện hữu như những
thực thể hay những (cái) tồn tại). Từ “nominalism” [thuyết duy danh] xuất
phát từ tiếng Latinh nomen (“name” - tên), vì triết gia duy danh đồng ý rằng
chúng ta chấp nhận nhiều thực thể có cùng một thuộc tính, nhưng lại biện luận
rằng các thực thể chỉ chung nhau một cái tên, chứ không phải một tính chất thực
tồn. Thuyết duy danh (đôi khi còn được gọi là “thuyết duy hạn từ”) có nhiều
hình thức khác nhau, ba hình thức chính là thuyết duy danh tương đồng, thuyết
duy khái niệm, và thuyết duy danh tu từ. Thuyết duy danh được nhiều người tán
thành hoặc bảo vệ, như William of
Ockham, Peter Abelard, D. C. Williams (1953), David Lewis (1953), và có thể cả
H. H. Price (1953) và W. V. O. Quine (1961).
|
Nominalists often argue for their
view by claiming that nominalism can account for all the relevant phenomena,
and therefore – by Ockham’s razor or some sort of principle of simplicity –
nominalism is preferable, since it posits fewer entities. Whether nominalism
can truly account for all of the relevant phenomena is debated.
|
Các nhà duy danh thường biện luận
cho quan điểm của mình bằng cách cho rằng thuyết duy danh có thể giải thích mọi
hiện tượng liên quan, và do đó – theo nguyên tắc lưỡi dao cạo của Ockham hay
một nguyên tắc nào đó về tính đơn giản
– thuyết duy danh được ưa chuộng hơn, vì nó thiết định ít thực thể hơn. Tuy nhiên,
việc học thuyết duy danh có thể thực sự giải thích được toàn bộ hiện tượng
liên quan không hãy còn là điều tranh luận.
|
1.3. Idealism
Idealists, such as Kant and Hegel,
posit that universals are not real, but are ideas in the mind of rational
beings. Idealists do not reject universals as arbitrary names; rather, they
treat universals as fundamental categories of pure reason (or as secondary
concepts derived from those fundamental categories). Universals, in idealism,
are intrinsically tied to the rationality of the subject making the judgment.
|
1.3. Thuyết duy tâm
Các nhà duy tâm như Kant và Hegel
cho rằng những cái phổ quát không thực tồn, chúng là những ý niệm trong tinh
thần của những hữu thể có lý tính. Họ
không bác bỏ những cái phổ quát như là những tên gọi tùy tiện; mà đúng hơn, họ
xem chúng như những phạm trù nền tảng [lượng, chất, tương quan, nhân quả] của
lý tính thuần túy (hoặc như là những khái niệm thứ cấp phái sinh từ những phạm
trù cơ bản này). Theo thuyết duy tâm, những cái phổ quát thực chất gắn liền với tính lý tính của chủ thể đưa ra phán
đoán.
|
For instance, when someone judges
that two cup holders are both circular they are not noticing a
mind-independent thing ("circularity") that is in both objects, nor
are they simply applying a name ("circular") to both. Rather, they
partially constitute the very concept of cup holder by supplying it with the
concept of circularity, which already exists as an idea in their rational
mind.
|
Chẳng hạn, khi có người đưa ra
phán đoán rằng cả hai chiếc lót ly đều tròn, họ không nói đến một điều độc lập
với tinh thần (“tính tròn”) có ở trong cả hai vật dụng, họ cũng không đơn giản
gán một cái tên (“tròn”) cho cả hai. Đúng ra là họ phần nào tạo nên chính
khái niệm chiếc lót ly bằng cách cung cấp cho nó khái niệm tính tròn, vốn đã
hiện hữu như một ý niệm trong đầu óc thuần lý của họ.
|
Thus, for idealists, the problem
of universals is only tangentially a metaphysical problem; it is more of a
problem of psychology and epistemology.
|
Như vậy, đối với các nhà duy tâm,
vấn đề về những cái phổ quát chưa hẳn là vấn đề siêu hình học; đúng hơn, nó
là vấn đề tâm lý học và nhận thức luận.
|
2. ANCIENT THOUGHT
|
2. TƯ TƯỞNG THỜI CỔ ĐẠI
|
2.1. Plato
Plato believed there to be a sharp
distinction between the world of perceivable objects and the world of
universals or forms: one can only have mere opinions about the former, but
one can have knowledge about the latter. For Plato it was not possible to
have knowledge of anything that could change or was particular, since
knowledge had to be forever unfailing and general. For that reason, the world
of the forms is the real world, like sunlight, the sensible world is only
imperfectly or partially real, like shadows. This Platonic realism, however,
in denying that the eternal Forms are mental artifacts, differs sharply with
modern forms of idealism.
|
2.1. Plato
Plato cho rằng có sự phân biệt rõ
nét giữa thế giới của những vật khả giác và thế giới của những cái phổ quát
hay những mô thức: ta chỉ có thể có tư kiến đơn thuần về cái trước (đối tượng
khả giác), nhưng lại có thể có tri thức về cái sau. Đối với Plato, ta không
thể có tri thức về bất kỳ cái khả biến hay có tính đặc thù, vì tri thức phải
vĩnh viễn tổng quát và không thể sai. Vì lẽ đó, thế giới của các mô thức là
thế giới thực tồn như ánh sáng mặt trời, còn thế giới khả giác chỉ thực tồn
trong bất toàn hoặc thực tồn một phần, như những chiếc bóng. Tuy nhiên, thuyết
duy thực của Plato khác biệt rõ rệt với các thuyết duy tâm cận đại ở việc phủ
nhận những mô thức vĩnh cửu là những cái do trí tuệ con người tạo ra.
|
One of the first nominalist
critiques of Plato's realism was that of Diogenes of Sinope, who said
"I've seen Plato's cups and table, but not his cupness and
tableness."
|
Một trong những nhà duy danh đầu
tiên phê bình thuyết duy thực của Plato là Diogenes xứ Sinope khi ông tuyên bố:
“Tôi thấy những chiếc cốc và cái bàn của Plato, chứ không thấy tính cốc và
tính bàn”.
|
2.2. Aristotle
Plato's student Aristotle
disagreed with his tutor. Aristotle transformed Plato's forms into
"formal causes", the blueprints or essences of individual things.
Whereas Plato idealized geometry, Aristotle emphasized nature and related
disciplines and therefore much of his thinking concerns living beings and
their properties. The nature of universals in Aristotle's philosophy
therefore hinges on his view of natural kinds.
|
2.2. Aristotle
Môn đệ của Plato là Aristotle
không đồng ý với thầy mình. Ông biến các mô thức của Plato thành những nguyên
nhân hình thức, những bản mẫu hay bản chất của các sự vật riêng lẻ. Trong khi
Plato lý tưởng hóa môn hình học, thì Aristotle lại chú trọng đến tự nhiên và
các môn học liên quan. Do đó, phần lớn suy tưởng của ông liên quan đến các
sinh vật và thuộc tính của chúng. Bởi vậy, bản tính của những cái phổ quát
trong triết học của Aristotle xoay quanh quan điểm của ông về các loài tự
nhiên.
|
Consider for example a particular
oak tree. This is a member of a species and it has much in common with other
oak trees, past, present and future. Its universal, its oakness, is a part of
it. A biologist can study oak trees and learn about oakness and more
generally the intelligible order within the sensible world. Accordingly,
Aristotle was more confident than Plato about coming to know the sensible
world; he was a prototypical empiricist and a founder of induction. Aristotle
was a new, moderate sort of realist about universals.
|
Chẳng hạn, ta hãy xem xét một cây
sồi cụ thể. Cây sồi này là thành viên thuộc một giống, và nó có nhiều điểm
chung với những cây sồi khác trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Tính chất phổ quát của nó, tức tính sồi, là một phần
của nó. Một nhà sinh vật có thể nghiên cứu những cây sồi và biết đến tính sồi,
và nói rộng hơn là biết về trật tự khả niệm nằm trong lòng thế giới khả giác.
Bởi đó, Aristotle có niềm tin hơn Plato khi đến với nhận thức về thế giới khả
giác, ông là nhà duy nghiệm mẫu hình sơ khởi và là người xây dựng nên phép
qui nạp. Aristotle là một loại nhà duy thực mới, ôn hòa, về những cái phổ
quát.
|
3. MEDIEVAL THOUGHT
3.1. Boethius
The problem was introduced to the
medieval world by Boethius, by his translation of Porphyry's Isagoge. It
begins:
|
3. TƯ TƯỞNG THỜI TRUNG ĐẠI
3.1. Boethius
Vấn đề những cái phổ quát được
Boethius du nhập vào thế giới trung đại qua bản dịch tác phẩm Isagoge
(Introduction - Du nhập) của Porphyry. Cuốn sách mở đầu như sau:
|
"I shall omit to speak about
genera and species, as to whether they subsist (in the nature of things) or
in mere conceptions only; whether also if subsistent, they are bodies or
incorporeal, and whether they are separate from, or in, sensibles, and
subsist about these, for such a treatise is most profound, and requires
another more extensive investigation".
|
“Tôi sẽ không nói về loài và giống
ở khía cạnh liệu chúng tồn tại (trong bản tính của vật) hay chỉ đơn thuần có
trong quan niệm; cũng như liệu nếu chúng tồn tại, thì chúng là vật thể hay
phi vật thể, chúng tách biệt hay nằm trong những cái khả giác, và tồn tại về
những cái khả giác này, vì một luận thuyết như vậy sẽ uyên thâm vô cùng và
đòi hỏi một công trình nghiên cứu rộng hơn”.
|
3.2. Duns Scotus
Duns Scotus argued strongly
against both nominalism and conceptualism, arguing instead for Scotist realism,
a medieval response to the conceptualism of Abelard. The problem of
universals may be thought of as the question of what, if anything, is the
metaphysical basis of our using the same predicate for more than one distinct
individual. Socrates is human and Plato is human. Does this mean that there
must be some one universal reality – humanity –that is somehow repeatable, in
which Socrates and Plato both share? Or is there nothing metaphysically
common to them at all? Those who think there is some actual universal
existing outside the mind are called realists; those who deny extra-mental
universals are called nominalists. Scotus was a realist about universals, and
like all realists he had to give an account of what exactly those universals
are: what their status is, what sort of existence they have outside the mind.
So, in the case of Socrates and Plato, the question is “What sort of item is
this humanity that both Socrates and Plato exemplify?” A related question
that realists have to face is the problem of individuation. Given that there
is some extra-mental reality common to Socrates and Plato, we also need to
know what it is in each of them that makes them distinct exemplifications of
that extra-mental reality.
|
3.2 Duns Scotus
Duns Scotus kịch liệt phản đối cả
thuyết duy danh lẫn thuyết duy khái niệm, thay vào đó ông bênh vực cho thuyết
duy thực Scotus – đây là một lời đáp của thời trung đại đối với thuyết duy
khái niệm của Abelard. Vấn đề những cái phổ quát có thể được quy về câu hỏi:
cơ sở siêu hình học cho việc chúng ta sử dụng cùng một thuộc tính cho nhiều
cái cá biệt (nếu có) là gì. Socrates là người và Plato là người. Có phải điều
này có nghĩa là hẳn phải có một thực tại phổ quát nào đó – tính người – vì lẽ nào đó có thể lặp lại, mà ở đó cả
Socrates và Plato cùng chia sẻ? Hoặc chẳng hề có gì chung trên phương diện
siêu hình học ở họ? Những người cho rằng có một cái phổ quát thật sự nào đó
hiện hữu bên ngoài tinh thần được gọi là các nhà duy thực; còn những người phủ
nhận những cái phổ quát nằm ngoài tinh thần được gọi là các nhà duy danh.
Scotus là một nhà duy thực về những cái phổ quát, và như mọi nhà duy thực,
ông phải giải thích những cái phổ quát đó chính xác là cái gì: chúng có địa vị
như thế nào, và chúng hiện hữu ra sao bên ngoài tinh thần. Do đó, trong trường
hợp của Socrates và Plato, câu hỏi là
“Cái tính người mà cả Socrates và Plato thể hiện là cái loại gì?” Một vấn đề
liên quan mà những nhà duy thực phải đối mặt là vấn đề về sự cá biệt hóa. Cứ
cho là có một thực tại nằm ngoài tinh thần nào đó chung cho cả Socrates và
Plato, thì chúng ta cũng cần biết điều gì ở trong mỗi người khiến họ là những
hiện thân riêng biệt của cái thực tại nằm
ngoài tinh thần ấy.
|
Scotus calls the extra-mental
universal the “common nature” (natura communis) and the principle of
individuation the “haecceity” (haecceitas). The common nature is common in
that it is “indifferent” to existing in any number of individuals. But it has
extra-mental existence only in the particular things in which it exists, and
in them it is always “contracted” by the haecceity. So the common nature
humanity exists in both Socrates and Plato, although in Socrates it is made
individual by Socrates's haecceitas and in Plato by Plato's haecceitas. The
humanity-of-Socrates is individual and non-repeatable, as is the
humanity-of-Plato; yet humanity itself is common and repeatable, and it is
ontologically prior to any particular exemplification of it.
|
Scotus gọi cái phổ quát nằm ngoài
tinh thần này là “bản tính chung” (natura communis) và nguyên tắc của sự cá biệt hóa là “haecceity” – (haecceitas / sở ngã
tính). Bản tính chung là chung ở chỗ nó “dửng dưng” với sự hiện hữu trong bất
kỳ một số lượng những cái cá biệt nào. Nhưng nó chỉ hiện hữu bên ngoài tinh
thần trong những cái đặc thù, mà trong đó nó hiện hữu, và trong đó chúng luôn
được haecceitas “thu gọn” lại. Do đó cái
bản tính chung – tính người – hiện hữu trong cả Socrates và Plato, mặc
dù ở Socrates nó được cá biệt hóa bởi haecceitas của Socrates và ở Plato bởi
haecceitas của Plato. Tính người Socrates là cá biệt và không thể lặp lại,
tính người Plato cũng vậy; thế nhưng bản thân tính người lại là chung và có
thể lặp lại, và về mặt bản thể học nó có trước bất cứ hiện thân đặc thù nào của
nó.
|
3.3. Ockham
William of Ockham argued strongly
that universals are a product of abstract human thought. According to Ockham,
universals are just words/names that only exist in the mind and have no real
place in the external world. In the case of universal entities, Ockham's
nominalism is not based on his Razor, his principle of parsimony. That is,
Ockham does not hold merely that there is no good reason for affirming
universals, so that we should refrain from doing so in the absence of further
evidence. No, he holds that theories of universals, or at least the theories
he considers, are outright incoherent; they either are self-contradictory or
at least violate certain other things we know are true in virtue of the three
sources just cited. For Ockham, the only universal entities it makes sense to
talk about are universal concepts, and derivative on them, universal terms in
spoken and written language. Metaphysically, these “universal” concepts are
singular entities like all others; they are “universal” only in the sense of
being “predicable of many.”
|
3.3. William xứ Ockham
William người xứ Ockham lập luận
chắc chắn rằng những cái phổ quát là sản phẩm của tư tưởng trừu tượng của con
người. Theo Ockham, những cái phổ quát chỉ là những từ ngữ hoặc tên gọi, chỉ
hiện hữu trong tinh thần và không có vị trí thực sự trong thế giới bên ngoài.
Trong trường hợp những thực thể phổ quát, thuyết duy danh của Ockham không dựa
trên lý thuyết Lưỡi dao cạo, nguyên tắc tiết kiệm của ông. Tức là, Ockham
không đơn thuần cho rằng, không có lý do vững chắc nào để khẳng định sự hiện
hữu của những cái phổ quát, để chúng ta phải cố làm vậy khi thiếu vắng những bằng chứng rõ rệt hơn.
Không, ông cho rằng các lý thuyết về những cái phổ quát, hay ít ra là những
lý thuyết mà ông xem xét, rõ ràng là không chặt chẽ; chúng hoặc là tự mâu thuẫn
hoặc chí ít cũng vi phạm những điều chúng ta biết là đúng. Đối với Ockham, những
thực thể phổ quát duy nhất đáng được bàn tới là những khái niệm phổ quát, và
những hạn từ phổ quát trong ngôn ngữ nói hoặc viết phát sinh từ chúng. Trên
phương diện siêu hình học, những khái niệm “phổ quát” này là những thực thể
đơn nhất như mọi khái niệm khác; chúng chỉ “phổ quát” trong ý nghĩa chúng “có
thể trở thành thuộc từ cho nhiều cái khác”.
|
With respect to the exact
ontological status of such conceptual entities, however, Ockham changed his
view over the course of his career. To begin with, he adopted what is known
as the fictum-theory, a theory according to which universals have no “real”
existence at all in the Aristotelian categories, but instead are purely
“intentional objects” with a special mode of existence; they have only a kind
of “thought”-reality. Eventually, however, Ockham came to think this
intentional realm of “fictive” entities was not needed, and by the time of
his Summa of Logic and the Quodlibets adopts instead a so-called
intellectio-theory, according to which a universal concept is just the act of
thinking about several objects at once; metaphysically such an “act” is a
singular quality of an individual mind, and is “universal” only in the sense
of being a mental sign of several things at once and being predicable of them
in mental propositions.
|
Tuy nhiên, liên quan đến địa vị bản
thể học chính xác của những thực thể khái niệm này, Ockham đã thay đổi quan
điểm của mình theo thời gian. Đầu tiên ông chấp nhận cái được gọi là lý thuyết
hư cấu, theo đó những cái phổ quát hoàn toàn không “thật sự” hiện hữu trong
các phạm trù của Aristotle, thay vào đó chúng thuần túy là “những đối tượng
có ý hướng” có một thể cách hiện hữu đặc biệt; chúng chỉ có một thứ thực tại-“tư
tưởng”. Tuy nhiên, cuối cùng Ockham đi đến chỗ cho rằng lĩnh vực ý hướng của
các thực thể “hư cấu” là không cần thiết, và vào giai đoạn soạn thảo các tác
phẩm Summa of Logic và Quodlibets ông chấp nhận cái được gọi là lý thuyết trí
năng, theo đó một khái niệm phổ quát chỉ là hành vi tư duy cùng một lúc về
nhiều đối tượng; trên phương diện siêu hình học, một “hành vi” như vậy là một
phẩm tính đơn nhất của một tinh thần cá biệt, và chỉ “phổ quát” ở ý nghĩa nó
là dấu hiệu tinh thần của cùng lúc nhiều sự vật, và có thể khẳng định những sự
vật đó trong các mệnh đề tinh thần.
|
3.4. Medieval realism
Realism was argued for by both
Thomas Aquinas and John Duns Scotus. Aquinas argued that both the essence of
a thing and its existence were clearly distinct, in this regard he is close
to the teaching of Aristotle. Scotist realism argues that in a thing there is
no real distinction between the essence and the existence, instead there is
only a Formal distinction. Both these opinions were denied by Scotus' pupil
William of Ockham.
|
3.4. Thuyết duy thực thời trung đại
Thuyết duy thực được cả Thomas
Aquinas lẫn John Duns Scotus ủng hộ. Aquinas cho rằng bản chất của một vật và sự hiện hữu của nó
rõ ràng là khác biệt. Về phương diện này ông gần với lời giảng của Aristotle.
Còn thuyết duy thực của Scotus biện luận
rằng không có sự phân biệt thật sự giữa bản chất và sự hiện hữu trong một sự
vật, mà thay vào đó chỉ có duy nhất sự phân biệt về mặt hình thức. Cả hai ý
kiến này đều bị học trò của Scotus là William bác bỏ.
|
3.5. Medieval nominalism
Nominalism was first formulated as
a philosophical theory in the Middle Ages. The French philosopher and
theologian Roscellinus (c. 1050-c. 1125) was an early, prominent proponent of
this view. It can be found in the work of Peter Abelard and reached its
flowering in William of Ockham, who was the most influential and thorough
nominalist. Abelard's and Ockham's version of nominalism is sometimes called
conceptualism, which presents itself as a middle way between nominalism and
realism, asserting that there is something in common among like individuals,
but that it is a concept in the mind, rather than a real entity existing
independently of the mind. Ockham argued that only individuals existed and that
universals were only mental ways of referring to sets of individuals. "I
maintain", he wrote, "that a universal is not something real that
exists in a subject... but that it has a being only as a thought-object in
the mind [objectivum in anima]". As a general rule, Ockham argued
against assuming any entities that were not necessary for explanations.
Accordingly, he wrote, there is no reason to believe that there is an entity
called "humanity" that resides inside, say, Socrates, and nothing further
is explained by making this claim. This is in accord with the analytical
method which has since come to be called Ockham’s razor, the principle that
the explanation of any phenomenon should make as few assumptions as possible.
|
3.5. Thuyết duy danh thời trung đại
Thuyết duy danh ban đầu được trình
bày như một lý thuyết triết học thời trung đại. Triết gia và nhà thần học người
Pháp, Roscellinus (khoảng 1050 - 1125), là người đề xướng xuất chúng cho quan
điểm này trong thời kỳ đầu. Học thuyết này có thể được tìm thấy trong tác phẩm
của Peter Abelard và phát triển rực rỡ với William of Ockham, nhà duy danh
triệt để và có ảnh hưởng nhất. Phiên bản của Abelard và Ockham về thuyết duy
danh đôi khi được gọi là thuyết duy khái niệm, học thuyết tự thể hiện như một
con đường thứ ba giữa thuyết duy danh và thuyết duy thực khi khẳng định rằng
có một điều gì đó chung giữa những cái cá thể, nhưng nó là một khái niệm thuộc
về tinh thần hơn là một thực thể thực tồn, hiện hữu độc lập với tinh thần.
Ockham biện luận rằng chỉ có những cái cá biệt mới hiện hữu, và những cái phổ
quát chỉ là những cách thức của tinh thần khi muốn chỉ một tập hợp những cái
cá biệt. Ông viết: “Tôi cho rằng một cái phổ quát không phải là thứ gì đó thực
tồn, hiện hữu trong một chủ thể… mà là nó có một tồn tại chỉ như là một vật
thể - tư tưởng trong tinh thần". Nhìn chung, Ockham phản đối việc giả định
bất kỳ thực thể nào không cần thiết cho các giải thích. Do vậy, ông viết,
không có lý do nào để tin rằng có một thực thể gọi là “tính người” ngự ở bên
trong, chẳng hạn như, Socrate, và không có giải thích gì thêm cho biện luận
này. Điều này phù hợp với phương pháp phân tích mà từ đó trở đi được gọi là
lưỡi dao cạo Ockham, nguyên tắc cho rằng việc giải thích bất kỳ hiện tượng
nào cũng nên đặt ra càng ít giả định càng tốt.
|
Critics argue that conceptualist
approaches only answer the psychological question of universals. If the same
concept is correctly and non-arbitrarily applied to two individuals, there
must be some resemblance or shared property between the two individuals that
justifies their falling under the same concept and that is just the
metaphysical problem that universals were brought in to address, the
starting-point of the whole problem (MacLeod & Rubenstein, 2006, §3d). If
resemblances between individuals are asserted, conceptualism becomes moderate
realism; if they are denied, it collapses into nominalism.
|
Các nhà phê phán biện luận rằng những
cách tiếp cận của thuyết duy khái niệm chỉ trả lời cho câu hỏi tâm lý học về
những cái phổ quát. Nếu cùng một khái niệm được áp dụng một cách đúng đắn và
không võ đoán cho hai cái cá biệt, thì hẳn phải có một sự tương đồng hoặc một
thuộc tính chung nào đó giữa hai cái cá biệt đó, giúp biện minh cho việc
chúng cùng nằm trong một khái niệm, cũng như đó đúng là vấn đề siêu hình học
mà những cái phổ quát được đưa vào để giải quyết, đó là khởi điểm của toàn bộ
vấn đề (MacLeod & Rubenstein, 2006, §3d). Nếu những tương đồng giữa các
cái cá biệt được khẳng định, học thuyết duy khái niệm trở thành thuyết duy thực
ôn hòa; nếu bị bác bỏ, học thuyết rơi vào thuyết duy danh.
|
translated by NHÓM DỊCH THỨ BẢY
|
|
|
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Saturday, October 11, 2014
PROBLEM OF UNIVERSALS VẤN ĐỀ VỀ CÁC PHỔ QUÁT
Labels:
PHILOSOPHY-TRIẾT
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn