|
Distinguishing
Between Inferences and Assumptions
|
Phân biệt giữa suy
luận và giả thiết
|
To be skilled in critical thinking is to be able to take
one’s thinking apart systematically, to analyze each part, assess it for
quality and then improve it. The first step in this process is understanding
the parts of thinking, or elements of reasoning.
|
Có kỹ năng tư duy phê phán là có thể phân
tích tư duy một cách
hệ thống, phân tích từng bộ phận, đánh giá về
chất lượng và sau đó
cải thiện nó. Bước đầu tiên trong quá trình này là hiểu các thành
phần của tư
duy, hoặc các yếu tố
của lập luận.
|
These elements are: purpose, question, information,
inference, assumption, point of view, concepts, and implications. They are
present in the mind whenever we reason. To take command of our thinking, we
need to formulate both our purpose and the question at issue clearly. We need
to use information in our thinking that is both relevant to the question we
are dealing with, and accurate. We need to make logical inferences based on
sound assumptions. We need to understand our own point of view and fully
consider other relevant viewpoints. We need to use concepts justifiably and
follow out the implications of decisions we are considering.
|
Những yếu tố này là: mục đích, câu hỏi, thông tin, suy
luận, giả thiết, quan điểm, khái niệm, và hàm ý. Chúng có mặt trong tâm trí bất cứ khi
nào chúng ta suy lý. Để làm chủ tư duy, chúng ta cần phải xây dựng
cả mục đích và câu hỏi vấn đề một cách rõ ràng. Chúng ta cần
phải sử dụng thông tin trong tư duy vừa thích đáng với câu hỏi mà chúng ta đang trả
lời vừa
phải chính xác. Chúng
ta cần đưa ra các suy luận logic dựa trên các giả thiết vững
chắc. Chúng ta cần
phải hiểu quan điểm của chúng ta và xem xét đầy đủ các quan điểm thích
đáng khác. Chúng ta
cần phải sử dụng các khái niệm một cách chính đáng và thể hiện các hàm ý của các quyết định mà
chúng ta đang xem
xét.
|
In this article we focus on two of the elements of
reasoning: inferences and assumptions. Learning to distinguish inferences
from assumptions is an important intellectual skill. Many confuse the two
elements. Let us begin with a review of the basic meanings:
|
Trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào hai yếu tố của
lập luận: suy luận và
giả thiết. Học cách phân biệt suy luận với giả thiết là một kỹ năng trí tuệ
quan trọng. Nhiều người nhầm lẫn hai thành tố này. Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc
xem lại các ý nghĩa cơ bản:
|
Inference: An inference is a step of the
mind, an intellectual act by which one concludes that something is true in
light of something else’s being true, or seeming to be true. If you come at
me with a knife in your hand, I probably would infer that you mean to do me
harm. Inferences can be accurate or inaccurate, logical or illogical,
justified or unjustified.
|
Sự suy luận: Suy luận là một biện
pháp của tâm trí, một
hành động trí tuệ mà theo đó người ta kết luận điều gì đó là đúng dưới ánh sáng của một
điều khác đã
đúng rồi, hoặc có vẻ
là đúng. Nếu bạn đến gần tôi với một con dao trong tay của bạn, tôi có thể
suy luận rằng bạn có ý định làm hại tôi. Các suy luận có thể
chính xác hoặc không chính xác, hợp logic hoặc không hợp logic, chính đáng hoặc không chính
đáng.
|
Assumption: An assumption is something we
take for granted or presuppose. Usually it is something we previously learned
and do not question. It is part of our system of beliefs. We assume our
beliefs to be true and use them to interpret the world about us. If we
believe that it is dangerous to walk late at night in big cities and we are
staying in Chicago, we will infer that it is dangerous to go for a walk late
at night. We take for granted our belief that it is dangerous to walk late at
night in big cities. If our belief is a sound one, our assumption is sound.
If our belief is not sound, our assumption is not sound. Beliefs, and hence
assumptions, can be unjustified or justified, depending upon whether we do or
do not have good reasons for them. Consider this example: “I heard a scratch
at the door. I got up to let the cat in.” My inference was based on the
assumption (my prior belief) that only the cat makes that noise, and that he
makes it only when he wants to be let in.
|
Giả thiết: Một giả thiết là một cái gì đó
chúng ta đương nhiên chấp nhận hoặc phỏng đoán. Thông thường nó là điều chúng ta đã được học và không chất
vấn. Đó là một phần
của hệ thống niềm tin của chúng ta. Chúng ta cho rằng niềm tin của chúng ta là đúng và sử dụng chúng để giải
thích thế giới quanh ta. Nếu chúng ta tin rằng đi bộ vào đêm khuya ở những thành phố lớn
là rất nguy hiểm mà chúng ta đang ở lại Chicago, thì
chúng tôi sẽ suy ra
rằng rất nguy hiểm khi đi dạo vào lúc đêm khuya. Chúng ta mặc
nhiên chấp nhận niềm
tin rằng rất nguy hiểm khi đi dạo vào ban đêm ở các thành phố lớn. Nếu niềm
tin của chúng ta là vững chắc, giả thiết của chúng ta vững
chắc. Nếu niềm tin
của chúng ta không vững chắc, giả thiết của chúng ta cũng không vững chắc. Niềm tin, và do đó giả thiết, có
thể không chính đáng hoặc chính đáng, tùy thuộc vào việc chúng ta có
hay không có lý do
chính đáng cho chúng. Hãy xem ví dụ này: "Tôi nghe thấy một tiếng cào ở cửa. Tôi đã thức dậy để cho
con mèo vào." Sự suy luận của tôi dựa trên giả thiết (niềm tin trước đây của tôi)
rằng chỉ có con mèo mới tạo ra tiếng động đó, và nó chỉ làm như
thế nó khi muốn được
vào nhà.
|
We humans naturally and regularly use our beliefs as
assumptions and make inferences based on those assumptions. We must do so to
make sense of where we are, what we are about, and what is happening.
Assumptions and inferences permeate our lives precisely because we cannot act
without them. We make judgments, form interpretations, and come to
conclusions based on the beliefs we have formed.
|
Con người chúng ta sử dụng một cách tự nhiên và thường xuyên niềm tin
của chúng ta làm giả thiết và đưa ra suy luận dựa trên những giả thiết đó.
Chúng ta phải làm như vậy để hiểu được chúng ta đang ở đâu, chúng ta đang đề
cập điều gì và chuyện gì đang xảy ra. Đúng
là giả thiết và suy
luận thấm sâu vào cuộc sống của chúng ta bởi vì chúng ta không thể hành
động mà không có chúng. Chúng tôi đưa ra các phán đoán, hình thành
nên lời giải thích,
và đi đến kết luận dựa trên niềm tin mà chúng ta đã hình thành.
|
If you put humans in any situation, they start to give it
some meaning or other. People automatically make inferences to gain a basis
for understanding and action. So quickly and automatically do we make
inferences that we do not, without training, notice them as inferences. We
see dark clouds and infer rain. We hear the door slam and infer that someone
has arrived. We see a frowning face and infer that the person is upset. If
our friend is late, we infer that she is being inconsiderate. We meet a tall
guy and infer that he is good at basketball, an Asian and infer that she will
be good at math. We read a book, and interpret what the various sentences and
paragraphs — indeed what the whole book — is saying. We listen to what people
say and make a series of inferences as to what they mean.
|
Nếu bạn đặt con người vào bất kỳ tình huống nào, họ bắt
đầu cho nó một ý nghĩa nào đó. Con người tự động suy luận để tạo cơ sở cho hiểu biết và hành động. Vì vậy, một
cách nhanh chóng và
tự động, nếu như không được rèn
luyện, chúng ta suy
luận rằng chúng ta nhận thấy chúng ta không hề suy luận. Chúng ta thấy mây đen và
suy luận sẽ có mưa.
Chúng ta nghe tiếng cửa và suy luận rằng ai đó đã đến. Chúng ta nhìn thấy một
khuôn mặt cau mày và suy ra rằng người đó đang buồn. Nếu bạn của chúng ta
đến trễ, chúng ta suy luận cô ấy thiếu quan
tâm. Chúng ta gặp một anh chàng cao lớn và suy luận rằng anh ấy giỏi bóng rổ, gặp một
người châu Á và suy luận rằng cô ấy sẽ giỏi toán. Chúng ta đọc một quyển
sách, và giải nghĩa những câu và đoạn văn khác nhau - thực sự là toàn bộ cuốn
sách - đang nói gì. Chúng ta lắng nghe những gì mọi người nói và đưa ra một
loạt các suy luận về ý nghĩa của chúng.
|
As we write, we make inferences as to what readers will
make of what we are writing. We make inferences as to the clarity of what we
are saying, what requires further explanation, what has to be exemplified or
illustrated, and what does not. Many of our inferences are justified and
reasonable, but some are not.
|
Khi chúng ta viết, chúng ta suy luận như những gì độc giả
sẽ suy luận về những điều chúng ta đang viết. Chúng ta suy luận về sự rõ ràng
mạch lạc của những gì
chúng ta đang nói, cái gì cần giải thích thêm, cái gì cần được cho
ví dụ hay minh hoạ,
và cái gì không cần. Nhiều suy luận của chúng ta là chính đáng và hợp lý, nhưng một số thì
không.
|
As always, an important part of critical thinking is the
art of bringing what is subconscious in our thought to the level of conscious
realization. This includes the recognition that our experiences are shaped by
the inferences we make during those experiences. It enables us to separate
our experiences into two categories: the raw data of our experience in
contrast with our interpretations of those data, or the inferences we are
making about them. Eventually we need to realize that the inferences we make
are heavily influenced by our point of view and the assumptions we have made
about people and situations. This puts us in the position of being able to
broaden the scope of our outlook, to see situations from more than one point
of view, and hence to become more open-minded.
|
Bao giò
cũng thế, một phần quan trọng của tư duy phê phán là nghệ thuật đưa những gì
thuộc tiềm thức trong suy nghĩ của chúng ta đến mức độ nhận thức có ý thức.
Điều này bao gồm sự công nhận rằng kinh nghiệm của chúng ta được định hình
bởi những suy luận mà chúng ta thực hiện trong những trải nghiệm đó. Nó cho
phép chúng ta phân chia trải nghiệm của chúng ta thành hai loại: dữ liệu thô
của trải nghiệm và trái ngược với nó là diễn giải của chúng ta về những dữ
liệu đó, hoặc những suy luận chúng ta đưa ra về chúng. Cuối cùng, chúng ta
cần phải nhận ra rằng những suy luận chúng ta đưa ra đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ
bởi quan điểm của chúng ta và những giả thiết chúng ta đưa ra về con người và
hoàn cảnh. Điều này đặt chúng ta vào vị trí để có thể mở rộng phạm vi tầm
nhìn của chúng ta, để xem sét các tình huống từ nhiều quan điểm, và do đó trở
nên cởi mở, phóng khoáng hơn.
|
Often different people make different inferences because
they bring to situations different viewpoints. They see the data differently.
To put it another way, they make different assumptions about what they see.
For example, if two people see a man lying in a gutter, one might infer,
“There’s a drunken bum.” The other might infer, “There’s a man in need of
help.” These inferences are based on different assumptions about the
conditions under which people end up in gutters. Moreover, these assumptions
are connected to each person’s viewpoint about people. The first person
assumes, “Only drunks are to be found in gutters.” The second person assumes,
“People lying in the gutter are in need of help.”
|
Thường thì
những người khác nhau đưa ra các suy luận khác nhau bởi vì họ đưa tình huống
vào trong các cách nhìn khác nhau. Họ nhìn thấy dữ liệu theo các cách khác
nhau. Nói cách khác, họ đưa ra các giả thiết khác nhau về những gì họ nhìn
thấy. Ví dụ, nếu hai người nhìn thấy một người đàn ông đang nằm trong rãnh
nước bên đường, họ có thể suy luận, "Có một kẻ lang thang say rượu bét
nhè." Người kia có thể suy luận, "Có một người cần sự giúp
đỡ." Những suy luận này dựa trên các giả thiết khác nhau về tình cảnh người
đàn ông phải nằm trong rãnh nước. Hơn nữa, những giả thiết này được kết nối
với quan điểm của mỗi người về con người. Người đầu tiên cho rằng, "Chỉ
những kẻ say rượu mới nằm ở rãnh nước." Người thứ hai cho rằng,
"Người nằm trong rãnh nước cần được giúp đỡ."
|
The first person may have developed the point of view that
people are fundamentally responsible for what happens to them and ought to be
able to care for themselves. The second may have developed the point of view
that the problems people have are often caused by forces and events beyond
their control. The reasoning of these two people, in terms of their
inferences and assumptions, could be characterized in the following way:
|
Người đầu
tiên có thể đã phát triển quan điểm cho rằng mọi người về cơ bản phải chịu
trách nhiệm về những gì xảy ra với họ và phải có khả năng tự chăm sóc mình. Người
thứ hai có thể đã phát triển quan điểm cho rằng những vấn đề mà người ta
thường gặp phải được gây ra bởi các lực lượng và sự kiện nằm ngoài sự kiểm
soát của họ. Lập luận của hai người này, xét về các suy luận và giả thiết của
họ, có thể được mô tả theo cách sau:
|
Person One
Situation: A man is lying in the gutter.
Inference: That man’s a bum.
Assumption: Only bums lie in gutters.
Person Two
Situation: A man is lying in the gutter.
Inference: That man is in need of help.
Assumption: Anyone lying in the gutter is in need of help.
|
Người Thứ nhất
Tình
huống: Một người đàn ông đang nằm trong rãnh nước.
Suy luận:
Người đàn ông đó là kẻ lang thang.
Giả thiết:
Chỉ có kẻ lang thang mới nằm trong rãnh
nước.
Người Thứ hai
Tình
huống: Một người đàn ông đang nằm rãnh nước.
Suy luận:
Người đó đang cần sự giúp đỡ.
Giả thiết:
Bất kỳ ai nằm trong rãnh nước cũng cần được giúp đỡ.
|
Critical thinkers notice the inferences they are making,
the assumptions upon which they are basing those inferences, and the point of
view about the world they are developing. To develop these skills, students
need practice in noticing their inferences and then figuring the assumptions
that lead to them.
|
Những
người có tư duy phê phán chú ý đến các suy luận mà họ đưa ra, những giả thiết
dựa trên những suy luận đó và quan điểm về thế giới mà họ đang phát triển. Để
phát triển các kỹ năng này, người học cần thực hành về nhận biết các suy luận
của mình và sau đó tìm ra các giả thiết dẫn đến những suy luận đó.
|
As students become aware of the inferences they make and
the assumptions that underlie those inferences, they begin to gain command
over their thinking. Because all human thinking is inferential in nature,
command of thinking depends on command of the inferences embedded in it and
thus of the assumptions that underlie it. Consider the way in which we plan
and think our way through everyday events. We think of ourselves as preparing
for breakfast, eating our breakfast, getting ready for class, arriving on
time, leading class discussions, grading student papers, making plans for
lunch, paying bills, engaging in an intellectual discussion, and so on. We
can do none of these things without interpreting our actions, giving them
meanings, making inferences about what is happening.
|
Khi người
học có ý thức về những suy luận mà họ đưa ra và những giả thiết đặt cơ sở cho
những suy luận đó, họ bắt đầu có được sự làm chủ tư duy của họ. Bởi vì tất cả
tư duy của con người về bản chất đều là suy luận, làm chủ tư duy phụ thuộc
vào việc làm chủ các suy luận gắn vào nó và do đó làm chủ các các giả thiết làm
nền tảng cho nó. Hãy xem xét cách thức mà chúng ta hoạch định và suy nghĩ
theo cách của chúng ta thông qua các sự kiện hàng ngày. Chúng ta nghĩ về bản
thân khi chuẩn bị buổi ăn sáng, ăn sáng, chuẩn bị lên lớp, đến trường đúng
giờ, tổ chức thảo luận trên lớp, chấm điểm các bài viết của người học, lập kế
hoạch ăn trưa, trả tiền, tham gia thảo luận trí tuệ… Chúng ta không thể làm được
việc gì trong những việc này nếu không giải thích hành động của chúng ta, cung
cấp cho chúng ý nghĩa, suy luận về những gì đang xảy ra.
|
|
|
This is to say that we must choose among a variety of
possible meanings. For example, am I “relaxing” or “wasting time?” Am I being
“determined” or “stubborn?” Am I “joining” a conversation or “butting in?” Is
someone “laughing with me” or “laughing at me?” Am I “helping a friend” or “being
taken advantage of?” Every time we interpret our actions, every time we give
them a meaning, we are making one or more inferences on the basis of one or
more assumptions.
|
Điều này
có nghĩa là chúng ta phải chọn trong số nhiều ý nghĩa có thể có. Ví dụ, tôi đang
"thư giãn" hay "lãng phí thời gian?" Tôi đang "quyết
tâm" hay "bướng bỉnh?" Tôi đang "tham gia" trò
chuyện hay “quyấy rầy”? Có phải ai đó đang với tôi" hay “cười nhạo tôi?"
Tôi đang "giúp đỡ một người bạn" hay "bị lợi dụng?" Cứ mỗi
lần chúng ta giải thích hành động của chúng ta, mỗi khi chúng ta đưa ra ý
nghĩa, là chúng ta đang đưa ra một hoặc nhiều suy luận dựa trên một hoặc
nhiều giả thiết.
|
As humans, we continually make assumptions about
ourselves, our jobs, our mates, our students, our children, the world in
general. We take some things for granted simply because we can’t question
everything. Sometimes we take the wrong things for granted. For example, I
run off to the store (assuming that I have enough money with me) and arrive
to find that I have left my money at home. I assume that I have enough gas in
the car only to find that I have run out of gas. I assume that an item marked
down in price is a good buy only to find that it was marked up before it was
marked down. I assume that it will not, or that it will, rain. I assume that
my car will start when I turn the key and press the gas pedal. I assume that
I mean well in my dealings with others.
|
Là con
người, chúng ta liên tục tạo ra những giả thiết về bản thân, công việc, bạn
bè, người học, con cái của chúng ta và thế giới nói chung. Chúng ta phải mặc
nhiên thừa nhận một số điều vì chúng ta không thể chất vấn. Đôi khi chúng ta
coi những điều sai trái là hiển nhiên. Ví dụ, tôi chạy đến cửa hàng (giả
thiết rằng tôi có đủ tiền) và đến nơi mới biết rằng tôi đã bỏ tiền của tôi ở
nhà. Tôi cho rằng tôi có đủ xăng trong xe rồi phát hiện ra rằng tôi đã hết
xăng. Tôi cho rằng một mặt hàng được đánh dấu hạ giá là đáng mua rồi biết
rằng nó đã được tăng giá trước khi hạ giá. Tôi cho rằng trời sẽ không mưa,
hoặc sẽ mưa. Tôi cho rằng chiếc xe của tôi sẽ khởi động khi tôi xoay chìa
khóa và nhấn chân ga. Tôi cho rằng tôi có ý tốt trong khi giao dịch với người
khác.
|
Humans make hundreds of assumptions without knowing it - without thinking about it. Many assumptions
are sound and justifiable. Many, however, are not. The question then becomes:
“How can students begin to recognize the inferences they are making, the
assumptions on which they are basing those inferences, and the point of view,
the perspective on the world that they are forming?”
|
Con người
tạo ra hàng trăm giả thiết mà không hề biết đến - mà không nghĩ đến. Nhiều giả
thiết là vững chắc và hợp lý. Tuy nhiên, có nhiều giả thiết không được như
thế. Thế thì có câu hỏi rằng: "Làm thế nào mà người học có thể bắt đầu
nhận ra những suy luận mà họ đang thực hiện, những giả thiết mà họ dựa vào để
suy luận, và quan điểm, thế thế giới quan mà họ đang hình thành?"
|
There are many ways to foster student awareness of
inferences and assumptions. For one thing, all disciplined subject-matter
thinking requires that students learn to make accurate assumptions about the
content they are studying and become practiced in making justifiable
inferences within that content. As examples: In doing math, students make mathematical
inferences based on their mathematical assumptions. In doing science, they
make scientific inferences based on their scientific assumptions. In
constructing historical accounts, they make historical inferences based on
their historical assumptions. In each case, the assumptions students make
depend on their understanding of fundamental concepts and principles.
|
Có nhiều
cách để nâng cao nhận thức của người học về suy luận và giả thiết. Một mặt, toàn
bộ tư duy về chủ đề môn học được rèn luyện đòi hỏi người học phải học cách
nêu giả thiết chính xác về nội dung họ đang học và được thực hành về đưa ra
các suy luận chính đáng trong nội dung đó. Ví dụ: Khi làm toán, người học đưa
ra các suy luận toán học dựa trên các giả thiết toán học. Khi học khoa học, họ
đưa ra các suy luận khoa học dựa trên các giả thiết khoa học. Khi làm thuyết
trình về lịch sử, họ đưa ra các suy luận về lịch sử dựa trên các giả thiết
lịch sử. Trong mỗi trường hợp, các giả thuyết mà người học đưa ra phụ thuộc
vào sự hiểu biết của họ về các khái niệm và nguyên lý cơ bản.
|
As a matter of daily practice, then, we can help students
begin to notice the inferences they are making within the content we teach.
We can help them identify inferences made by authors of a textbook, or of an
article we give them. Once they have identified these inferences, we can ask
them to figure out the assumptions that led to those inferences. When we give
them routine practice in identifying inferences and assumptions, they begin
to see that inferences will be illogical when the assumptions that lead to
them are not justifiable. They begin to see that whenever they make an
inference, there are other (perhaps more logical) inferences they could have
made. They begin to see high quality inferences as coming from good
reasoning.
|
Với tư
cách là một vấn đề thực hành hàng ngày, thì, chúng ta có thể giúp người học
bắt đầu nhận ra các suy luận mà họ đang thực hiện trong nội dung chúng ta
giảng dạy. Chúng ta có thể giúp họ xác định các suy luận của các tác giả của
một cuốn sách giáo khoa, hoặc của một bài viết chúng ta cung cấp cho họ. Một
khi họ đã xác định được những suy luận này, chúng ta có thể yêu cầu họ tìm ra
những giả thiết dẫn đến những suy luận đó. Khi chúng ta cho họ thực hành
thường quy việc xác định các suy luận và giả thiết, họ bắt đầu thấy rằng
những suy luận sẽ không hợp lý khi các giả thiết dẫn đến chúng là không hợp
lý. Họ bắt đầu thấy rằng bất cứ khi nào họ suy luận, đều có những suy luận
khác (có lẽ hợp lý hơn) mà họ có thể đưa ra. Họ bắt đầu thấy các suy luận
chất lượng cao xuất phát từ lập luận tốt.
|
We can also help students think about the inferences they
make in daily situations, and the assumptions that lead to those inferences.
As they become skilled in identifying their inferences and assumptions, they
are in a better position to question the extent to which any of their
assumptions is justified. They can begin to ask questions, for example, like:
Am I justified in assuming that everyone eats lunch at 12:00 noon? Am I
justified in assuming that it usually rains when there are black clouds in
the sky? Am I justified in assuming that bumps on the head are only caused by
blows?
|
Chúng ta
cũng có thể giúp người học nghĩ về những suy luận của họ trong các tình huống
hàng ngày và những giả thiết dẫn đến những suy luận đó. Khi họ đã có kỹ năng
để xác định suy luận và giả thiết của mình, họ sẽ có lập trường tốt hơn để
chất vấn về mức độ chính đáng của bất kỳ giả thiết nào họ đưa ra. Họ có thể
bắt đầu đặt câu hỏi, ví dụ, như: Liệu có hợp lý không khi tôi giả thiết rằng
mọi người đều ăn trưa vào lúc 12 giờ trưa? Liệu có hợp lý không khi tôi giả
thiết rằng trời thường mưa khi có mây đen trên bầu trời? Liệu có hợp lý không
khi tôi giả thiết rằng những cục sưng to trên đầu chỉ là do đánh nhau mà thôi?
|
The point is that we all make many assumptions as we go
about our daily life and we ought to be able to recognize and question them.
As students develop these critical intuitions, they increasingly notice their
inferences and those of others. They increasingly notice what they and others
are taking for granted. They increasingly notice how their point of view
shapes their experiences.
|
Điều quan
trọng là tất cả chúng ta đưa ra nhiều giả thiết khi chúng ta sống cuộc sống
hàng ngày của mình và chúng ta phải có khả năng nhận ra và đặt câu hỏi với chúng.
Khi người học phát triển những trực giác quan trọng này, họ càng ngày càng
chú ý đến suy luận của họ và của người khác. Họ ngày càng nhận ra những gì họ
và những người khác đang coi là lẽ đương nhiên. Họ ngày càng nhận ra quan
điểm của họ đã định hình những trải nghiệm của họ như thế nào.
|
This article was
adapted from the book, Critical Thinking: Tools for Taking Charge of Your
Learning and Your Life, by Richard Paul and Linda Elder.
|
Bài báo này được chuyển thể từ cuốn sách, Tư duy phê
phán: Công cụ cho việc học và cuộc sống của bạn, của Richard Paul và Linda
Elder
|
|
|
http://www.criticalthinking.org/pages/distinguishing-between-inferences-and-assumptions/484
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn