|
Rule of Law as a
Goal of Development Policy
|
Pháp quyền dưới góc
nhìn từ chính sách phát triển
|
Law and Justice Institutions–The World Bank
|
Các thiết chế luật pháp và tư pháp – Ngân hàng Thế Giới
|
A prominent concern in the development community is the
"rule of law" and the related concepts from other legal systems --
"etat de droit," "estado de derecho,"
"rechsstaat." Economic
growth, political modernization, the protection of human rights, and other
worthy objectives are all believed to hinge, at least in part, on "the
rule of law." Policymakers in developing and transition nations are thus
seeking ways to establish or strengthen the rule of law in their
countries. Investment rating services,
non-governmental organizations, and other students of development are
producing indices that try to measure the degree to which a nation enjoys the
rule of law.
|
Một trong những thuật ngữ được quan tâm nhất trong việc
xây dựng và phát triển chính sách là “pháp quyền” [thượng tôn pháp luật], còn
được biết với những cái tên gọi khác như “rule of law” trong tiếng Anh, “etat
de droit” trong tiếng Pháp, “estado de derecho” trong tiếng Tây Ban Nha và
“rechsstaat” trong tiếng Đức. Sự tăng trưởng kinh tế, quá trình hiện đại hóa
chính trị, bảo vệ nhân quyền, và nhiều vấn đề quan trọng khác không ít thì
nhiều đều được xây dựng trên nền tảng của “pháp quyền”. Do đó những nhà hoạch
định chính sách ở những nước đang phát triển hoặc vẫn còn trong thời kỳ quá
độ đang tìm kiếm phương pháp để thiết lập hoặc là củng cố pháp quyền ở đất
nước của họ. Các dịch vụ đánh giá chỉ số đầu tư, các tổ chức phi chính phủ,
và những nghiên cứu sinh trong các ngành phát triển nói chung đang tìm cách
xây dựng khung chỉ số để đo đạc mức độ hiệu quả của pháp quyền ở mỗi quốc gia.
|
But overlooked in much of the dialogue about the rule of
law is that the term has no fixed meaning. It originated in normative
writings on law and government, principally by Western authors, and each
tailored the term to fit his or her vision of the "ideal" or
"just" state. As a consequence, one survey of how the term has been
used in Germany, France, the United Kingdom, and the United States concludes
that it "belongs to the category of open-ended concepts which are
subject to permanent debate" (Grote 1999: 271).
|
Nhưng khi xem xét kỹ càng các cuộc đối thoại về pháp quyền
thì chúng ta nhận ra một điều là thuật ngữ này không có một khái niệm cụ thể.
Ý tưởng đầu tiên về pháp quyền xuất hiện trong những bài viết chỉ ra quy tắc
trong luật pháp và chính phủ, chủ yếu là bởi những tác giả phương Tây, và
định nghĩa của pháp quyền bị nhào nặn sao cho phù hợp với ý tưởng về tính lý
tưởng hay sự công bằng của tác giả đó. Do đó, một khảo sát nhằm tìm hiểu cách
thuật ngữ này đã và đang được dùng ở Đức, Pháp, Anh và Mỹ như thế nào đã đi
tới kết luận rằng “pháp quyền thuộc vào một khái niệm mở và tranh luận về nó
sẽ còn kéo dài cho tới vô tận” (Grote 1999: 271).
|
Despite this multiplicity of definitions, most can be
classified according to whether they emphasize formal characteristics,
substantive outcomes, or functional considerations. The differences between
these three conceptions and the implications of each for efforts to
establish, measure, or foster the rule of law are described below.
|
Dù cho có nhiều khái niệm khác nhau, nhưng mỗi khái niệm
có thể được phân loại phụ thuộc vào điều nó nhấn mạnh là “những đặc điểm về
hình thức (formal characteristics), nội hàm những mục tiêu mà pháp quyền mang
lại (substantive outcomes), hay các cân nhắc về chức năng của pháp quyền
(functional considerations)”. Sự khác nhau giữa ba khái niệm này và mối liên
hệ của chúng tới nỗ lực xây dựng, đánh giá và củng cố pháp quyền được mô tả ở
dưới đây.
|
Formal Definitions
Formal definitions of the rule of law look to the presence
or absence of specific, observable criteria of the law or the legal system.
Common criteria include: a formally independent and impartial judiciary; laws
that are public; the absence of laws that apply only to particular
individuals or classes; the absence of retroactive laws; and provisions for
judicial review of government action. There is no definitive list of formal
criteria, and different formal definitions may use different standards. What
formal definitions have in common is that the "rule of law" is
measured by the conformity of the legal system to these explicit standards.
|
Định nghĩa về mặt
hình thức
Những định nghĩa về mặt hình thức của nền pháp quyền xem
xét sự vắng mặt hay hiện diện của những tiêu chí cụ thể và phải có tính quan
sát được của pháp luật hoặc của hệ thống pháp luật. Những tiêu chí thông
thường gồm có: một bộ máy tư pháp hoàn chỉnh và độc lập, ít nhất là về mặt
hình thức; luật pháp được công bố công khai; không có bộ luật nào được làm ra
để nhằm vào một nhóm người hay tầng lớp xã hội nào đó; không có luật hồi tố –
tức có hiệu lực đối với những sự việc xảy ra trước khi luật đó được ban hành;
và có cơ chế để tòa án kiểm tra tính hợp hiến của các hành vi của chính phủ.
Không có một danh sách đầy đủ nào về những tiêu chí hình thức này, và những định
nghĩa khác nhau về hình thức của pháp quyền có thể sử dụng những tiêu chí
khác nhau. Điểm chung của các định nghĩa hình thức này là “pháp quyền” được
đánh giá căn cứ vào việc hệ thống luật pháp có tuân thủ hay không các tiêu
chuẩn đã nói ở trên.
|
The main advantage of a formal definition of the rule of
law is that it is very clear, and relatively objective once the formal
criteria are chosen. Choosing which standards to include may be
controversial, but after the standards are made explicit, it is usually not
difficult to observe the degree to which countries meet or don’t meet the
standards. Formal definitions thus avoid more subjective judgements, for example
about whether laws are "fair" or "just."
|
Ưu điểm chính của định nghĩa của pháp quyền hình thức là
nó rất rõ ràng, và tương đối khách quan một khi những tiêu chí hình thức được
chọn. Chọn lựa ra các tiêu chí này có thể gây nhiều tranh cãi, nhưng một khi
đã có và được quy định một cách hiển ngôn thì không khó để xác định mức độ
một hệ thống luật pháp có tuân thủ theo đúng các quy định đó hay không. Các
định nghĩa về hình thức do đó tránh được những phán xét chủ quan, ví dụ như
việc nhận định nội dung một bộ luật có công bằng hay không.
|
Formal definitions suffer from two major drawbacks,
however. First, the formal conception may place too much emphasis on the
"law in the books" and not pay sufficient attention to the
"law in action." Official rules do not always (or even often) map
onto the actual operation of the legal system. Thus a formal definition’s
objectivity in observation may be purchased at the price of accuracy. Second,
the formal criteria are chosen because there is an (often unarticulated)
empirical presumption that those formal characteristics will lead to some
substantive or functional outcome (Fuller 1964). Indeed, there is no other
way to select the formal criteria.
|
Tuy nhiên, các định nghĩa chỉ tập trung vào hình thức của
nền pháp quyền có hai nhược điểm. Thứ nhất, phụ thuộc quá nhiều vào “luật ghi
trên giấy” và không để ý đủ tới “luật khi thực thi”. Những quyết định của tòa
án được ban hành không phải lúc nào cũng, nếu không muốn nói là không thường
xuyên, kết nối được với sự vận hành thực sự của hệ thống pháp lý. Do đó, tính
khách quan của chúng trong khi đưa ra nhận định có thể bị đánh đổi bởi cái
giá của sự chính xác. Thứ hai, những tiêu chí hình thức này được chọn bởi vì
có một giả định theo chủ nghĩa kinh nghiệm (thường thì không phát biểu hiển
ngôn được) rằng những đặc trưng về thủ tục đó sẽ dẫn tới một số hệ quả về mặt
nội dung hay chức năng của luật pháp (Fuller 1964). Quả thực, không có cách
nào khác để lựa chọn các chỉ tiêu về thủ tục (nếu như đã không ngầm định về
một mục tiêu nhất định về nội dung hay chức năng của luật pháp).
|
But if that is the case, it suggests a flaw in the
definition. What we really should be interested in – that is, the essence of
the rule of law – is the substantive or functional outcome. Whether or not
the formal characteristics contribute to that outcome ought to be a matter
for research, not presumption. This suggests that the "objectivity"
of the formal criteria may be illusory, since they are selected through
subjective (and perhaps culturally biased) assumptions about the actual
effect of the rules in question.
|
Nhưng ngay cả khi điều đó là sự thực, nó chỉ cho chúng ta
thấy rằng định nghĩa hình thức còn thiếu sót. Điều mà chúng ta thực sự nên
quan tâm là bản chất của pháp quyền, và đó chính là kết quả về mặt nội dung
hay chức năng mà pháp quyền đem lại. Liệu những đặc điểm về mặt hình thức,
thủ tục có đóng góp hay không vào việc đạt được những mục tiêu đó nên được
nghiên cứu cụ thể, không thể chỉ đơn thuần ngầm định một cách chủ quan. Điều
này cho thấy tính “khách quan” của những tiêu chuẩn hình thức này có thể là
viển vông, bởi chúng được lựa chọn thông qua những mặc định chủ quan (có khi
là thiên vị về mặt văn hóa) về tác động thực sự của các bộ luật khi thực thi
pháp luật.
|
Substantive
Definitions
An alternative to the formal approach to the rule of law
is one that looks to substantive outcomes such as "justice" or
"fairness." This approach is not concerned with the formal rules,
except inasmuch as they contribute to the achievement of a particular substantive
goal of the legal system. Unlike the formal approach, which eschews value
judgements, the substantive approach is driven by a moral vision of the good
legal system, and measures the rule of law in terms of how well the system
being assessed approximates this ideal (Dworkin 1985).
|
Định nghĩa về nội
dung
Một phương án thay thế cho cách tiếp cận hình thức đối với
pháp quyền đó là bằng cách chú trọng vào những kết quả về mặt nội dung (mà
pháp quyền có thể mang lại) như “công lý” hay “công bằng”. Cách tiếp cận này
không quan tâm tới những điều luật chính thức, trừ khi chúng đóng góp vào
thành tựu của một mục tiêu nội hàm cụ thể nào đó của hệ thống pháp luật. Khác
với cách tiếp cận về mặt thủ tục và hình thức – vốn không hề đả động gì tới
tính đúng sai – cách tiếp cận về mặt nội dung được định hướng bởi tầm nhìn
mang tính đạo đức của một hệ thống pháp lý tốt, và việc đánh giá hệ thống
pháp luật sử dụng pháp quyền theo kiểu này được dựa trên việc hệ thống này
đạt tới độ lý tưởng ở mức nào (Dworkin 1985).
|
The main advantage of the substantive version of the rule
of law is the explicit equation of the rule of law with something normatively
good and desirable. The rule of law is good in this case because it is
defined as such. This is appealing, first because the subjective judgement is
made explicit rather than hidden in formal criteria, and, second, because the
phrase "rule of law" has acquired such a strong positive
connotation. Many people cannot accept any definition that would allow, even in
theory, a repressive or unjust regime to possess the rule of law.
|
Ưu điểm chính của định nghĩa pháp quyền này là có thể đặt
được câu hỏi một cách hiển ngôn để so sánh pháp quyền với một cái gì đó thông
thường được xem là tốt và ai cũng muốn. Pháp quyền được xem là tốt theo cách
này bởi vì nó được định nghĩa như thế. Điều này khá hấp dẫn, đầu tiên là vì
những quyết định chủ quan được đưa ra một cách rõ ràng, không mập mờ, thay vì
bị ẩn đi sau các tiêu chí hình thức, và thứ hai là vì cụm từ “pháp quyền” sẽ
mang ý nghĩa rất tích cực. Nhiều người không thể chấp nhận bất cứ một định
nghĩa nào mà cho phép, dù chỉ là trong lý thuyết, một chế độ áp bức hoặc bất
công sở hữu được pháp quyền.
|
But this explicit link between the rule of law and some
conception of substantive goodness has drawbacks. First, and most obviously,
determining how "just" a particular legal order is requires a
subjective – and extremely complex – judgement call. Second, defining the
rule of law as a "good" legal system risks making the concept so
vague that it’s not very useful. Why should we bother talking about whether a
society has or doesn’t have the "rule of law" when what we really
are asking is whether the society is good or not? Third, the relationship
between law and societal outcomes is problematic in the substantive
definition. It is conceivable that there could be a society that had unjust
law, or no law at all, and yet achieved substantive justice according to the
normative criteria selected. On the other hand, one could imagine a society
that had normatively perfect law and legal institutions, but where law was
marginal to the point of irrelevance in actual social life, and where social
outcomes tended to be normatively bad. Which society has more rule of law
from the substantive perspective? Is it the law that must be good, or the
social outcomes? If the former, then don’t all the problems with the formal
definition apply? If the latter, why talk about law at all?
|
Tuy vậy, mối liên hệ rành mạch này giữa pháp quyền với một
vài khái niệm mang nội hàm tốt đẹp cũng có một vài nhược điểm. Đầu tiên và dễ
thấy nhất là việc xác định tính công bằng của một phán xét nào đó đòi hỏi một
quyết định chủ quan và thường cực kỳ phức tạp. Thứ hai, định nghĩa pháp quyền
là một hệ thống pháp luật tốt dễ làm cho khái niệm đó trở nên không rõ ràng
và dẫn đến không có tính thực tế nhiều. Tại sao chúng ta lại mất công bàn bạc
về một xã hội có hay không có pháp quyền khi mà điều chúng ta đang thực sự
muốn hỏi là cái xã hội mình sống có tốt hay là không? Thứ ba, sẽ rất khó để
thiết lập mối quan hệ giữa luật pháp và những thành tựu xã hội đạt được trong
cách định nghĩa pháp quyền này. Hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp có một xã
hội sống dưới một hệ thống pháp luật tồi hoặc là không hề có bất cứ một hệ
thống luật pháp nào, nhưng vẫn đạt được sự công bằng thực chất nếu xét theo
những tiêu chí chuẩn mực đã được chọn. Mặt khác, chúng ta có thể hình dung
một xã hội với những bộ luật và những cơ quan hành pháp hoàn hảo theo đúng
chuẩn mực đã định, nhưng nơi đó luật pháp lại không được xem trọng, không ảnh
hưởng gì tới đời sống xã hội, và ở nơi đó những hành vi xấu xảy ra một cách
thường xuyên. Vậy loại xã hội nào có nhiều pháp quyền hơn nếu xét theo lăng
kính nội hàm? Luật pháp cần phải tốt hay là những thành quả xã hội đạt được
cần phải tốt? Nếu như là luật pháp cần phải tốt thì pháp quyền theo định nghĩa
hình thức chẳng phải thỏa mãn hay sao? Nếu những kết quả cho xã hội mới là
cái cần làm cho tốt, thì việc gì phải tốn thời gian bàn bạc về luật pháp nữa?
|
Functional
Definition
A third approach to the rule of law is similar to the
substantive definition, but tries to avoid the thorny normative issues by
focusing on how well the law and legal system perform some function – usually
the constraint of government discretion, the making legal decisions
predictable, or some combination of both (Hayek 1960). One version of this
view, for example, would hold that a society in which government officials
have little or no discretion has a high level of rule of law, whereas a
society in which they wield a great deal of discretion has minimal rule of
law.
|
Định nghĩa theo chức
năng
Hướng tiếp cận thứ ba đối với pháp quyền tương tự như định
nghĩa theo nội dung, nhưng cố gắng tránh những vấn đề chuẩn mực, vốn khó xác
định, bằng cách tập trung vào hiệu quả của luật pháp và hệ thống pháp lý khi
thực thi một số chức năng như: hạn chế sự lộng hành của chính phủ, dễ dàng
phán đoán các quyết định pháp lý, hoặc một sự kết hợp của cả hai chức năng
trên (Hayek 1960). Một ví dụ của cách nhìn này là: một xã hội mà nơi đó nhân
viên chính phủ có rất ít hoặc không có chút quyền nào để lộng hành thì có chỉ
số pháp quyền cao, còn một xã hội mà chính quyền chuyên chế thì nơi đó có chỉ
số pháp quyền thấp nhất.
|
The functional definition of the rule of law is broadly
consistent with the traditional meaning of the English phrase, which has
usually been contrasted with "rule of man." It has the advantage,
too, of defining the rule of law according to outcome-related criteria, but
not requiring a moral verdict on the desirability of that outcome. The functional
definition is narrow enough that it does not overlap with other more general
concepts, and it makes questions as to the relationship of formal
characteristics to the rule of law, and of the rule of law to substantive
goals, researchable rather than tautological.
|
Định nghĩa pháp quyền theo chức năng đồng nhất rộng rãi
với ý nghĩa truyền thống của cụm từ trong tiếng Anh (rule of law) và thường
được mang ra để so sánh với “rule of man” – tức “nhân trị”. Nó cũng có một ưu
điểm và định nghĩa pháp quyền theo những tiêu chí liên quan tới kết quả,
nhưng không đòi hỏi những phán quyết mang tính đạo đức về các kết quả được
mong đợi đó. Định nghĩa theo chức năng đủ hẹp tới mức nó không chồng chéo lên
những khái niệm tổng quát, và nó làm cho những câu hỏi liên quan tới mối quan
hệ giữa những đặc điểm hình thức và pháp quyền, và giữa pháp quyền đối với
những mục tiêu về kết quả, có thể nghiên cứu được chứ không phải chỉ đơn
thuần là một cái vòng luẩn quẩn.
|
Nonetheless, the functional definition suffers from a
number of difficulties. First, as with the substantive definition, the
relationship between the legal system per se and the functional goal can pose
problems. It is possible to constrain government officials or realize
predictablity through means other than the legal system. Suppose one society
has less official discretion than its neighbor even though the latter has
apparently more restrictive laws. Which enjoys a greater rule of law under a
functional definition? Another problem is the fact that looking at
"predictability" or "official constraint" or any other
function makes it hard to make any definitive statement about the level of
rule of law in a whole society. Government officials may make literally
thousands of decisions each day in a given system. Some of them may be highly
constrained, while others are not. It is not at all clear how to aggregate
the levels of discretion for individual types of decisions into an overall
measure of the rule of law.
|
Tuy nhiên, định nghĩa theo chức năng cũng gặp phải một số
khó khăn. Thứ nhất, cũng giống như với định nghĩa về nội dung, mối quan hệ
giữa bản thân hệ thống pháp luật với mục tiêu mang tính chức năng có thể gây
ra những vấn đề. Có thể giới hạn các nhân viên chính quyền hoặc phán đoán được
các quyết định pháp luật bằng những phương cách không liên quan đến hệ thống
pháp luật. Giả sử, có thể trong một xã hội nào đó công chức có ít quyền tùy
nghi ra quyết định hơn so với nước láng giềng dù cho nước láng giềng này có
nhiều điều luật hạn chế quyền quyết định của công chức hơn. Vậy đất nước nào
có nền pháp quyền tốt hơn căn cứ theo định nghĩa theo chức năng? Một vấn đề
khác là việc xem xét “khả năng dự đoán pháp luật” hoặc là “hạn chế sự lộng
hành của nhân viên nhà nước” hay bất cứ một chức năng nào khác có thể làm cho
việc đưa ra bất cứ một tuyên bố cuối cùng về mức độ pháp quyền của một xã hội
đó trở nên khó khăn. Các nhân viên chính phủ có thể phải đưa ra hàng ngàn
quyết định mỗi ngày. Một vài trong số họ có thể bị hạn chế ở mức cao, trong khi
đó một số khác thì không. Việc tổng hợp các mức độ chuyên quyền của mỗi nhân
viên trong khi đưa ra mỗi kiểu quyết định để cho ra mức độ tổng quát của pháp
trị là không rõ ràng một chút nào.
|
An additional point that the functional definition
illustrates most strongly is that, despite contemporary rhetoric, there is no
a priori reason to believe that the rule of law (defined functionally or
formally) is necessarily always a good thing. Consider the example of
official discretion. Official discretion is often a bad thing – when seen as
such, the behavior is often called "arbitrary." On the other hand,
sometimes official discretion is a good thing – in these cases, we tend to
think of the behavior as "flexible." But flexibility and
arbitrariness may be two sides of the same coin. Whether official discretion
is used for good or ill depends on a host of other factors. The rule of law,
while often a good thing, can in some cases create problems. (This point, of
course, does not apply to a substantive definition, where rule of law is good
by definition.)
|
Một ý phụ nữa mà định nghĩa theo chức năng minh họa mạnh
mẽ nhất đó là mặc cho những lời hùng biện đương đại, không có một nguyên nhân
suy diễn nào để tin rằng pháp quyền (dù là định nghĩa theo chức năng hay hình
thức) luôn luôn nhất thiết phải là một điều tốt. Ví dụ về việc công chức nhà
nước có quyền tùy nghi quyết định chẳng hạn. Công chức có thể tùy nghi ra
quyết định thì thường là một điều tệ và khi đó chúng ta gọi hành động này là
“lộng hành”. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác thì sự tùy nghi đó lại có
thể là một điều tốt mà chúng ta thường vẫn hay gọi là “linh động”. Nhưng tính
linh động hay lộng hành có thể đơn giản chỉ là hai mặt của cùng một đồng xu.
Quyền tùy nghi quyết định được dùng vì mục đích tốt hay xấu lại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác. Trong khi vẫn thường được xem là một điều tốt, pháp quyền
thỉnh thoảng có thể mang lại nhiều vấn đề. (Điểm này tất nhiên không áp dụng
với định nghĩa về nội dung bởi vì theo định nghĩa đó, pháp quyền luôn là
tốt.)
|
Conclusion
Policymakers need to be clear about they mean by the rule
of law because answers to many of the questions they are interested in –
whether "rule of law" facilitates economic development and whether
democracy is a necessary precondition for rule of law, to cite just two
examples – depend crucially on what definition of the rule of law is being
used. Moreover, the multitude of rule of law concepts is likely to breed
confusion and misunderstanding between donors and recipients, or even within
different members of the same community.
|
Kết luận
Những người hoạch định chính sách cần phải làm rõ việc họ
định nghĩa pháp quyền như thế nào bởi vì những đáp án cho rất nhiều câu hỏi
mà họ quan tâm như: liệu pháp quyền có thúc đẩy sự phát triển kinh tế, hoặc
là liệu nền dân chủ có phải là điều kiện tiên quyết nhất định phải có đối với
pháp quyền hay không, và nhiều câu hỏi khác nữa, phụ thuộc rất nhiều vào định
nghĩa nào về pháp quyền đang được dùng. Hơn nữa, sự đa dạng trong khái niệm
pháp quyền rất có thể tạo nên sự mập mờ và hiểu nhầm giữa những nhà tài trợ
và nước nhận viện trợ, hoặc thậm chí ngay giữa những thành viên của cùng một
cộng đồng.
|
Perhaps the most important point for development analysts,
policymakers, and the donor community in general to keep in mind is that the
rule of law has a number of different possible meanings. All of these
definitions have problems, and which one is appropriate will depend on the
task at hand. But the pros and cons of these various conceptions – and, more
importantly, the differences between the definitions – need to be borne in
mind. Indeed, in the end it may make sense for donors and policymakers to
eschew the ambiguous rhetoric of the rule of law in favor of the articulation
of more specific reform goals.
|
Có lẽ điểm quan trọng nhất cho các nhà phân tích phát
triển, các nhà hoạch định chính sách, và cộng đồng các nhà tài trợ nói chung
cần ghi nhớ đó là pháp quyền có nhiều khái niệm khác nhau. Tất cả những khái
niệm này đều có vấn đề, và loại nào phù hợp sẽ phụ thuộc vào nhiệm vụ mà nó
phải giải quyết. Nhưng ưu điểm cũng như nhược điểm của những khái niệm khác
nhau này và quan trọng hơn là sự khác nhau giữa những định nghĩa này thì cần
phải luôn được ghi nhớ. Quả thực, xét cho cùng thì có lẽ sẽ tốt hơn nếu những
nhà tài trợ và hoạch định chính sách có thể tránh những hùng biện mơ hồ về
pháp quyền và đặt ra những mục tiêu cải cách cụ thể hơn.
|
This brief was
prepared by Matthew Stephenson of the Harvard University Department of
Government and Law School in 2005.
|
Bản tóm tắt này đã
được chuẩn bị bởi Matthew Stephenson thuộc khoa Chính phủ và Luật học, Đại
học Harvard năm 2005.
|
For Further Reference: Tham khảo thêm
Allen, T.R.S. "Legislative Supremacy
and the Rule of Law: Democracy and Constitutionalism" Cambridge Law
Journal 44(1):111-143 (1985)
Carothers, Thomas. "The Rule of Law
Revival" Foreign Affairs 77(2):95-106 (1998)
Cooter, Robet D. "The Rule of State
Law and the Rule-of-Law State: Economic Analysis of the Legal Foundations of
Development" Annual World Bank Conference on Development Economics 1996
(Washington: The World Bank, 1997) pp. 191-217
Craig, Paul. "Formal and Substantive
Conceptions of the Rule of Law: An Analytical Framework" Public Law pp.
467-487 (1997)
Dworkin, Ronald. A Matter of Principle
(Cambridge: Harvard University Press, 1985)
Fuller, Lon L. The Morality of Law (New
Haven: Yale University Press, 1964)
Ghai, Yash. "The Rule of Law,
Legitimacy, and Governance" International Journal of the Sociology of
Law 14:179-208 (1986)
Golding, Martin P. "Transitional
Regimes and the Rule of Law" Ratio Juris 9(4):387-395 (1996)
Grote, Rainer. "Rule of Law,
Rechtsstaat and Etat de Droit," in Christian Starck, ed.
Constitutionalism, Universalism and Democracy -- A Comparative Analysis.
(Baden-Baden: Nomos Verlagsgesellschaft, 1999)
Hayek, Friedrich. The Constitution of
Liberty (Chicago: University of Chicago Press, 1960)
Rapaczynski, Andrzej. "The Rule of
Law in Theoretical and Comparative Perspective" Chapter 4 in Michener,
Roger, ed. The Balance of Freedom: Political Economy, Law, and Learning (St.
Paul: Paragon House, 1995) pp. 81-106
Shklar, Judith N. "Political Theory
and the Rule of Law" in A. Hutchinson and P. Monahan, eds. The Rule of
Law (Toronto: Carswell. 1987.) Reprinted in Judith N. Shklar, Political
Thought & Political Thinkers (Chicago: University of Chicago Press, 1998)
Weingast, Barry R. "The Political
Foundations of Democracy and the Rule of Law" American Political Science
Review 91(2):245-263 (1997).
|
|
Translated by Lê Duy
|
|
|
http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/TOPICS/EXTLAWJUSTINST/0
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn