|
|
One of the founders
of quantitative finance had a curious early influence. Source: Library of
Congress Prints and Photographs Division
|
Một trong những ông
tổ của tài chính định lượng có sự ảnh hưởng ban đầu kì lạ. Nguồn: Thư viện
Quốc hội (Mỹ), Phòng In ấn và Nhiếp ảnh.
|
Founding Father of
the Quants Was Revolutionary Marxist
|
Ông tổ của các CFA
là một nhà cách mạng Marxist
|
By Colin Read
Bloomberg
Jan 16, 2013
|
Colin Read
Bloomberg
Jan 16/1/2013
|
One of the more interesting ironies of history is that the
man who laid the foundation for modern quantitative finance began his career
as a Marxist revolutionary.
|
Một trong những nghịch lí thú vị của lịch sử là người đặt
nền móng cho tài chính định lượng hiện đại bắt đầu sự nghiệp của mình như là
một nhà cách mạng Marxist.
|
Jacob Marschak may not be a household name today, but he
inspired a number of financial practitioners and thinkers, from Milton
Friedman to Harry Markowitz, and his insights are now the backbone of trading
strategies and computer algorithms worldwide.
|
Jacob Marschak có thể không là cái tên của mọi nhà ngày
nay, nhưng ông đã truyền cảm hứng cho một số người hành nghề tài chính và các
nhà tư tưởng, từ Milton Friedman đến Harry Markowitz, và những suy nghĩ sâu
sắc của ông giờ đây là xương sống của các chiến lược kinh doanh và thuật toán
máy tính trên toàn thế giới.
|
Marschak was born to a Jewish family in Kiev, Ukraine, in
1898. He played a part in the Russian Revolution as a teenager, working as a
Menshevik activist. The liberation of Ukraine from the czar’s Russian Empire
vaunted Marschak into the position of labor minister of the short-lived
independent state of Terek.
|
Marschak được sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Kiev,
Ukraine năm 1898. Ông tham gia Cách mạng Nga khi còn là trẻ vị thành niên,
làm việc như là một nhà hoạt động Menshevik. Khi Ukraine được giải phóng khỏi
Đế chế Sa hoàng Nga, Marschak nắm chức Bộ trưởng Lao động của Nhà nước độc
lập ngắn ngủi Terek.
|
Within months, the state was absorbed by another region
and then subsumed into the Soviet Union. A disillusioned Marschak fled to
Germany, where he received training in the Austrian School of free-market
economics. He hoped to make a permanent home in Germany, but when the Nazis
came to power, the Jewish- radical-turned-Marxist-turned-Austrian-School-economist
wisely left the country, moving first to England and then to the U.S., where
he joined the New School in New York as part of an anti- fascist University
in Exile.
|
Trong vòng vài tháng, Nhà nước này bị sáp nhập bởi một
vùng đất khác và sau đó bị gộp vào Liên bang Xô viết. Marschak bị vỡ mộng bỏ
chạy tới Đức, ở đó, ông được đào tạo kinh tế học thị trường tự do trường phái
Áo. Ông hi vọng có nhà thường trú ở Đức, nhưng sau đó Đức Quốc xã lên nắm
quyền, người Do Thái cấp tiến chuyển thành nhà Marxist rồi chuyển thành nhà
kinh tế trường phái Áo này đã khôn ngoan rời đất nước, di cư đến Anh sau đó
đến Mỹ, nơi ông gia nhập New School ở New York như là một phần Trường đại học
lưu vong chống phát xít.
|
The Quants
Marschak was but one of a tide of theoretical financiers
and economists who flowed into the U.S. as the Nazis came to power in
Germany. Some of them gravitated toward the University of Chicago, including
Marschak, who became director of the Cowles Commission, an innovative
research institute founded by Alfred Cowles III. While there, Marschak
inspired a generation of financial theorists who would become known as the
“quants.”
|
Những nhà phân tích
định lượng
Marschak là một trong những người thuộc làn sóng các nhà
tài chính và kinh tế học lý thuyết đến Mỹ khi Đức quốc xã lên nắm quyền ở
Đức. Một vài trong số họ, đổ về Đại học Chicago, bao gồm cả Marschak, người
trở thành Giám đốc Ủy ban Cowles, một viện nghiên cứu sáng tạo được thành lập
bởi Alfred Cowles III. Ở đó, Marschak truyền cảm hứng cho một thế hệ những nhà
lý thuyết tài chính, những người sau này được biết đến như là những nhà phân
tích định lượng.
|
Before the rise of the quantitative approach, finance was
more an art than a science. Practitioners relied on instinct and experience,
and theoreticians used rudimentary tools based on expected discounted net
income to price securities. Yet there was a recognition that these approaches
didn’t properly price uncertainty. And there was an appreciation that one
shouldn’t put all eggs in a single basket.
|
Trước sự nổi lên của phương pháp định lượng, tài chính trở
thành một nghệ thuật hơn là khoa học. Những người hành nghề dựa trên bản năng
và kinh nghiệm, và các nhà lý luận sử dụng những công cụ thô sơ dựa trên thu
nhập thuần chiết khấu kỳ vọng để định giá chứng khoán. Tuy nhiên, có một sự
thừa nhận rằng các phương pháp này đã không định giá chính xác sự bất định.
Và có sự đánh giá rằng một người không nên đặt tất cả trứng vào một giỏ.
|
In 1935, the British economist John Hicks (subsequently a
Nobel Prize winner) noted that a prudent investor ought to place some assets
in risky enterprises and the remainder in safer investments. Doing so could
calibrate a portfolio to better match the investor’s tolerance of risk.
|
Năm 1935, nhà kinh tế học người Anh, John Hicks (sau này
được giải Nobel) lưu ý rằng một nhà đầu tư thận trọng nên đặt một số tài sản
vào những doanh nghiệp rủi ro và phần còn lại vào các khoản đầu tư an toàn.
Làm như vậy có thể xác định một danh mục đầu tư thích hợp tốt hơn đối với mức
độ chịu rủi ro của nhà đầu tư.
|
This observation was intuitively helpful, but it lacked
theoretical guidance. Before an investor can hedge risk, a measure of risk
must be created.
|
Sự quan sát này có ích một cách trực giác, nhưng thiếu
hướng dẫn lý thuyết. Trước khi một nhà đầu tư có thể tự bảo hiểm rủi ro, một
đo lường rủi ro phải được tính toán.
|
Marschak proposed a way to do so in his 1938 paper “Money
and the Theory of Assets.” He observed that investors, by their nature,
anticipate future production and prices. Yet while they try to assess the
expected mean of future prices, they must also assess the probability of a
range of possible future values and how they may be interrelated.
|
Marschak đề xuất một phương pháp để làm được điều này
trong nghiên cứu năm 1938 'Tiền tệ và Lý thuyết Tài sản' . Ông quan sát thấy
các nhà đầu tư, về bản chất, dự đoán sản xuất và giá cả tương lai. Tuy nhiên,
khi họ cố gắng định giá trung bình kỳ vọng giá cả tương lai, họ cũng phải
tính toán xác suất một khoảng giá trị tương lai có thể có và chúng có thể
liên quan đến nhau như thế nào.
|
Marschak proposed that such expectations could be defined
by two parameters: the mean and the coefficient of variation. He deemed the
latter to be a measure of risk, which we continue to use today.
|
Marschak đề xuất rằng những kỳ vọng như vậy có thể được
xác định bởi hai thông số (parameter): trung bình và hệ số biến đổi
(coefficient of variation). Ông coi thông số sau là đo lường rủi ro, mà chúng
ta vẫn còn dùng cho tới ngày nay.
|
Physicists had for a century used this same methodology to
describe means and probabilities. They had developed a way to calculate a
mean (or expected) value based on the probabilities of the various possible
future outcomes. This was called the first-moment calculation. They also
developed a measure of variability by weighting the probability of the square
of various outcomes compared with the mean. This second moment is our
now-familiar calculation of variance.
|
Từ một thế kỷ trước, các nhà vật lý đã sử dụng phương pháp
luận tương tự để mô tả trung bình và xác suất. Họ đã phát triển một cách để
tính toán giá trị trung bình (hay kỳ vọng) dựa trên các xác suất của kết quả
tương lai có thể khác nhau. Phương pháp này gọi là tính toán moment đầu tiên
(first-moment). Họ cũng phát triển cách đo lường sự biến thiên bằng cách gia
quyền (weighting) xác suất bình phương của các độ lệch khác nhau so với giá
trị trung bình. Tính toán moment thứ hai này là cách tính phương sai
(variance) phổ biến ngày nay.
|
An Insight
Marschak reasoned that this same mean-variance technique
could be applied to asset prices. But he took this natural extension still
further: He recognized that there may be a statistical relationship between
how one asset varies relative to another. This covariance would eventually
act as the basis for the insight of one of Marschak’s best-known students,
Harry Markowitz.
|
Sự hiểu biết thấu
đáo
Marschak lý luận rằng chính kỹ thuật trung bình - phương
sai này có thể áp dụng cho giá cả tài sản. Nhưng ông đã phát triển ứng dụng
tự nhiên này hơn nữa: Ông thừa nhận rằng có mối liên hệ thống kê giữa tài sản
này biến đổi so với tài sản khác. Tính hiệp biến này cuối cùng là một yếu tố
cơ bản trong sự hiểu biết thấu đáo (insight) của Harry Markowitz, một trong
những sinh viên nổi tiếng nhất của Marschak.
|
Markowitz had been intrigued with the Great Depression-era
research of John Burr Williams, who developed the first systematic theory of
discounted corporate cash flows. Under Marschak’s guidance, Markowitz
realized that although the mean present value of future cash flows is
important, so are their variances.
|
Markowitz từ lâu đã bị hấp dẫn bởi nghiên cứu thời Đại
khủng hoảng của John Burr Williams, người đầu tiên phát triển lý thuyết dòng
tiền chiết khấu của doanh nghiệp một cách có hệ thống. Dưới sự hướng dẫn của
Marschak, Markowitz nhận ra rằng mặc dù giá trị hiện tại trung bình của dòng
tiền tương lai là quan trọng, các phương sai của chúng cũng vậy.
|
This mentor-mentee collaboration soon resulted in
Markowitz’s thesis and seminal 1952 paper on modern portfolio theory in the
Journal of Finance, titled “Portfolio Selection.” From that point, modern
finance theory was born.
|
Sự hợp tác giữa hai người nhanh chóng cho ra kết quả là
luận văn và nghiên cứu năm 1952 của Markowitz về lý thuyết danh mục đầu tư
hiện đại trong Tạp chí Tài chính (Journal of Finance) với tiêu đề 'Lựa chọn
danh mục đầu tư' (Portfolio Selection). Kể từ thời điểm đó, lý thuyết tài
chính hiện đại đã được ra đời.
|
Marschak’s paper on money and the theory of assets -- and
his other work on market rationality published while he was inspiring the
thesis for a young Markowitz -- isn’t well-read among financial theorists or
professionals today. However, a reader would easily recognize his analyses.
The two-parameter mean-variance approach is now baked into every financial
calculator, and into formulas ranging from Markowitz’s market- security line
to William Sharpe’s capital-asset pricing model to the Black-Scholes-Merton
option-pricing formula. Each of these fundamental formulas in finance assumes
that the reward-risk trade-off can be described by only two parameters, just
as Marschak proposed in 1938. Marschak’s academic descendants were later
awarded Nobel Prizes for work that would have been impossible without him.
|
Nghiên cứu về tiền tệ và lý thuyết tài sản của Marschak -
và các công trình nghiên cứu khác của ông về sự hợp lý của thị trường (market
rationality) khi ông truyền cảm hứng cho luận văn của chàng sinh viên trẻ
tuổi Markowitz - ngày nay không được đọc nhiều bởi các nhà lý thuyết tài
chính hay các chuyên gia. Tuy nhiên, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra các phân
tích của ông. Phương pháp trung bình - phương sai hai thông số ngày nay được
gắn (baked into) sẵn vào tất cả các máy tính tài chính, và trong các công
thức từ đường chứng khoán - thị trường (market- security line) Markowitz đến
mô hình định giá tài sản - vốn (capital-asset pricing model) của William
Sharpe tới công thức định giá giá trị hợp đồng quyền chọn (option-pricing
formula) Black-Scholes-Merton. Mỗi một công thức cơ bản này trong tài chính
giả định sự đánh đổi giữa rủi ro - tiền thưởng (reward-risk trade-off) có thể
được mô tả chỉ bởi hai thông số, như Marschak đã đề xuất vào năm 1938. Các
hậu duệ học thuật của Marschak sau đó được giải Nobel cho những công trình
nghiên cứu mà đã có thể không hoàn thành được nếu không có ông.
|
Marschak, the onetime radical, did indeed end up launching
a revolution -- just not the one that Karl Marx had in mind.
|
Marschak, nhà cấp tiến một thời, cuối cùng đã dấy lên một
cuộc cách mạng - nhưng không phải là cuộc cách mạng theo như Karl Marx nghĩ.
|
(Colin Read is
chairman of the finance department at the State University of New York,
Plattsburgh. He is the author of the “Great Minds in Finance” series and
other finance titles published by Palgrave MacMillan. The opinions expressed
are his own.)
|
(Colin Read là
Trưởng khoa tài chính của Trường đại học bang New York, Plattsburgh. Ông là
tác giả cuốn sách 'Những bộ óc vĩ đại trong ngành tài chính' - "Great
Minds in Finance" và các bài về tài chính khác được xuất bản bởi
Palgrave MacMillan.)
|
Translated by Sơn Phạm
|
|
http://www.bloomberg.com/news/2013-01-16/founding-father-of-the-quants-was-revolutionary-marxist-echoes.html
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Tuesday, February 19, 2013
Founding Father of the Quants Was Revolutionary Marxist Ông tổ của các CFA là một nhà cách mạng Marxist
Labels:
ECONOMICS-Kinh tế
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn