|
|
Why China Can’t Pick
Good Leaders
|
Vì sao Trung Quốc
không thể chọn được lãnh đạo tốt?
|
Minxin Pei
|
Minxin Pei
|
The Diplomat
June 28, 2012
|
The Diplomat
28-06-2012
|
China’s next
generation of leaders are expected to be chosen later this year. But
factional strength and patronage may well trump talent.
|
Thế hệ các nhà lãnh
đạo kế tiếp của Trung Quốc dự định sẽ được chọn vào cuối năm nay. Nhưng sức mạnh
và sự đỡ đầu của các phe phái có thể vượt qua những người có tài.
|
As China’s top leaders get ready for their summer retreat
in Beidaihe, the exclusive beach resort
225 kilometers north of Beijing, the rest of the world remains in the
dark about the jockeying for power inside the world’s largest ruling party.
By convention, the appointments for the party’s top positions are usually
finalized when Chinese leaders escape the oppressive summer heat, pollution,
and humidity engulfing Beijing to swim and relax toward the end of July in
Beidaihe, known for its cool weather and clean air.
|
Khi các nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc sẵn sàng cho
việc rút lui vào mùa hè này ở Beidaihe, một khu nghỉ mát riêng biệt có bãi
biển, khoảng 225 km về phía bắc của Bắc Kinh, các nước còn lại trên thế giới
vẫn mù tịt về việc tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng cầm quyền lớn nhất
thế giới. Theo quy ước, việc bổ nhiệm các vị trí hàng đầu của đảng thường
hoàn tất khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc thoát khỏi cái nóng ngột ngạt của
mùa hè, sự ô nhiễm, và ẩm ướt nhấn chìm Bắc Kinh, để bơi lội và thư giãn ở
Beidaihe vào cuối tháng 7, một nơi được biết đến với khí hậu mát mẻ và không
khí trong lành.
|
The ugly purge of Bo Xilai may have removed a lethal
threat to leadership unity at the top for the moment, but that hasn’t ended
the fierce competition for the most senior and desirable positions or reduced
the uncertainty over the impact of leadership change on China's domestic and
foreign policies. Compared with previous leadership transitions, the impending
shift is perhaps among the most significant in terms of scope and timing.
|
Vụ thanh lọc tệ hại, Bạc Hy Lai, có thể tạm thời đã loại
bỏ mối đe dọa chết người, để thống nhất trong giới lãnh đạo cao cấp, nhưng
điều đó không thể chấm dứt sự tranh giành khốc liệt các chức vụ cao cấp, cũng
như các chức vụ mà họ mong muốn hoặc làm giảm sự mơ hồ về tác động của việc
thay đổi lãnh đạo liên quan đến chính sách đối nội và đối ngoại của Trung
Quốc. So với quá trình chuyển đổi lãnh đạo trước đây, sự thay đổi sắp xảy ra
có lẽ là một trong những thay đổi quan trọng nhất về mức độ và thời gian.
|
Of the nine members of the Politburo Standing Committee
(PSC), seven will retire. There will be seven new faces if the party decides
to maintain the PSC’s current size. Should the party reduce the size of the
PSC to seven, a move that may streamline decision-making, five new members
will be chosen at the next party congress scheduled for the autumn. While
analysts have focused most of their attention on the leading contenders for the
PSC, the party's most powerful decision-making body, it’s worth noting that
the 25-member Politburo itself will have at least 15 fresh faces. Of these,
two or three new members under the age of 52 will likely be strong contenders
for the party’s top two positions in five years. In other words, this
transition will select not just the next generation of leaders, but also
identify the promising candidates to succeed Xi Jinping and Li Keqiang,
respectively the incoming general secretary of the Communist Party and the
premier of the State Council.
|
Trong số chín ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị (PSC),
bảy người sẽ nghỉ hưu. Sẽ có bảy gương mặt mới nếu đảng quyết định duy trì số
lượng ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị hiện tại. Nếu đảng giảm số lượng ủy
viên Bộ Chính trị xuống còn bảy người, một quyết định có thể giúp sắp xếp lại
[ban lãnh đạo] hiệu quả hơn, năm ủy viên mới sẽ được chọn tại đại hội đảng
sắp tới, đã lên kế hoạch vào mùa thu. Trong khi các nhà phân tích tập trung
toàn bộ sự chú ý vào các ứng viên hàng đầu của Ban Thường vụ Bộ Chính trị, cơ
quan có quyền ra các quyết sách quan trọng nhất của đảng, đáng chú ý là trong
số 25 ủy viên Bộ Chính trị, sẽ có ít nhất 15 gương mặt mới. Trong số [15
người] này, hai hoặc ba ủy viên mới dưới 52 tuổi, sẽ có khả năng trở thành
các đối thủ mạnh cho hai chức vụ hàng đầu của đảng trong 5 năm. Nói cách
khác, quá trình chuyển đổi này không những sẽ lựa chọn thế hệ các nhà lãnh
đạo kế tiếp, mà còn xác định các ứng viên có triển vọng để kế nhiệm Tập Cận
Bình với chức tổng bí thư Đảng Cộng sản và Lý Khắc Cường, chức thủ tướng
chính phủ sắp tới.
|
In terms of timing, the transition is taking place at a
critical juncture of the party’s rule.
Economically, the much-hyped “China Model” is seen as exhausted.
Economic growth is slowing, due to slumping exports and weak final domestic
demand. Huge risks in the financial system are piling up. The real estate
sector is on the brink of a spectacular bust. Most sensible people, including
those inside the government, have realized that growth driven by investment
and export can no longer continue. Difficult structural reforms await the
next leadership.
|
Về vấn đề thời gian, sự chuyển giao quyền lực đang diễn ra
vào thời điểm quan trọng trong việc cầm quyền của đảng. Về mặt kinh tế, “Mô
hình Trung Quốc” được phóng đại, bị xem như kiệt sức. Tăng trưởng kinh tế
đang chậm lại, do xuất khẩu sụt giảm cũng như nhu cầu nội địa thấp. Các rủi
ro rất lớn trong hệ thống tài chính đang chồng chất. Lĩnh vực bất động sản
thì đang trên bờ vực phá sản. Những người có óc xét đoán nhất, gồm cả những
người bên trong chính phủ, đã nhận ra rằng, không thể tiếp tục tăng trưởng
dựa vào đầu tư và xuất khẩu. Cải cách cơ cấu khó khăn đang chờ đợi ban lãnh
đạo kế tiếp.
|
Politically, the Bo affair has revealed the deep rift
within the ruling elites over the distribution of power and protection of
their private interests. Elite unity, the glue holding together the regime,
has shown signs of fraying. Chinese citizens increasingly want to have a say
in how the country is governed. Despite the party’s costly censorship system,
the spread of the information revolution, particularly Weibo, the Chinese
version of the Twitter, is challenging the authority of the party. Dissidents have become more defiant, as the
example of Chen Guangcheng’s daring escape from illegal house detention in
late April shows. Calls for democracy and political reform, long suppressed
by the party, have resurfaced in the Chinese media. These are the warning signs that the
post-1989 political paradigm, which combines selective repression with
promises of ever-rising standards of living, is about to unravel.
|
Về mặt chính trị, sự kiện Bạc Hy Lai đã tiết lộ những rạn
nứt sâu kín bên trong giới cầm quyền trong việc phân chia quyền lực và bảo vệ
lợi ích cá nhân của họ. Đoàn kết trong giới lãnh đạo cao cấp là chất keo gắn
kết mọi người trong chế độ lại với nhau, cho thấy có các dấu hiệu xung đột.
Người dân Trung Quốc ngày càng muốn có tiếng nói vệ việc đất nước được điều
hành như thế nào. Mặc dù hệ thống kiểm duyệt của đảng tốn kém, nhưng sự lây
lan của cuộc cách mạng thông tin, đặc biệt là Weibo, phiên bản Twitter của
Trung Quốc, thách thức quyền lực của đảng. Bất đồng chính kiến càng trở nên
thách thức hơn, như trường hợp trốn thoát táo bạo của ông Trần Quang Thành,
thoái khỏi sự quản chế bất hợp pháp tại gia hồi cuối tháng 4. Các lời kêu gọi
dân chủ và cải cách chính trị, từ lâu bị đảng đàn áp, đã xuất hiện trở lại
trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc. Đây là những dấu hiệu cảnh báo mô
hình chính trị sau [sự kiện Thiên An Môn] năm 1989, kết hợp đàn áp có chọn
lọc với những lời hứa luôn gia tăng mức sống, sắp sửa được làm sáng tỏ.
|
So the question is
whether the new leaders are up to these challenges?
|
Cho nên câu hỏi được
đặt ra là, liệu các nhà lãnh đạo mới có chuẩn bị cho những thách thức này không?
|
In the eyes of most Western elites, businessmen and
politicians alike, Chinese leaders are practically synonymous with “smart,
capable, dynamic, decisive, and forward looking.” Many of them are impressed,
usually after relatively brief meetings, by the perceived sophistication,
intelligence, and leadership skills of Chinese officials.
|
Dưới mắt của giới ưu tú phương Tây thì doanh nhân và chính
trị gia đều như nhau, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thực tế đồng nghĩa với
“thông minh, có khả năng [lãnh đạo], năng động, quyết định, và hướng tới
tương lai”. Thường sau các cuộc họp tương đối ngắn, nhiều người trong số họ
có ấn tượng, qua cảm nhận về sự tinh tế, thông minh và kỹ năng lãnh đạo của
các quan chức Trung Quốc.
|
The truth is, of course, quite different. Compared with their revolutionary
predecessors, the current generation of leaders is obviously better educated,
younger, culturally more sophisticated. But does the current system in China
actually promote the most capable leaders to the top? Can such leaders
actually govern effectively once installed?
|
Dĩ nhiên, sự thật thì hoàn toàn khác. So với những nhà
lãnh đạo cách mạng tiền nhiệm của họ, thế hệ các nhà lãnh đạo hiện tại rõ ràng
là được giáo dục tốt hơn, trẻ hơn, văn hóa tinh tế hơn. Nhưng hệ thống hiện
tại ở Trung Quốc có thực sự thúc đẩy các nhà lãnh đạo có khả năng nhất lên
nắm các chức vụ hàng đầu hay không? Các lãnh đạo như thế có thể thực sự lãnh
đạo một cách hiệu quả khi được đưa vào [nắm giữ các chức vụ hàng đầu]?
|
Evidence based on academic research and press reports in
China suggest that personal patronage and factional strength, not
demonstrated achievements, are far more important in the selection of top
leaders than objective factors such as record of administration. For example,
Victor Shih of the University of California in San Diego and his
collaborators combed through extensive personnel data and local economic
growth rates to find whether promotion of officials in China actually depends
on their demonstrated ability to deliver economic growth. Their conclusion is that political
patronage (specifically ties with powerful leaders), not growth rates,
determines promotion.
|
Bằng chứng dựa vào các nghiên cứu và tin tức từ báo chí ở
Trung Quốc, cho thấy rằng, thay vì chứng minh những thành tựu đã đạt được, sự
đỡ đầu cá nhân và sức mạnh phe phái thì quan trọng hơn nhiều trong việc lựa
chọn các nhà lãnh đạo hàng đầu, so với các yếu tố khách quan như lý lịch điều
hành công việc. Ví dụ, Victor Shih thuộc Đại học San Diego (UCSD) và các cộng
sự của ông đã nghiên cứu kỹ các dữ liệu hồ sơ nhân sự tổng quát và tốc độ
tăng trưởng kinh tế nội địa để tìm xem việc thăng tiến của các quan chức ở
Trung Quốc có thực sự phụ thuộc vào khả năng của họ là làm cho kinh tế tăng
trưởng hay không. Kết luận của nhóm nghiên cứu là, sự đỡ đầu chính trị (đặc
biệt các mối quan hệ với các nhà lãnh đạo đầy quyền lực), quyết định việc
thăng tiến, thay vì tốc độ tăng trưởng.
|
This finding equally applies to the selection of top
leaders. With a small number of exceptions, most candidates slated for top
positions in the PSC and the Politburo don’t have records that inspire confidence
and admiration. Other than the most strict and objective limit – their age –
the only factor that influences their chances of being elevated to the top is
whether they have powerful backers.
|
Phát hiện này tương tự cũng đúng trong việc lựa chọn của
các nhà lãnh đạo hàng đầu. Với một số ít trường hợp ngoại lệ, hầu hết các ứng
viên dự kiến sẽ vào các chức vụ hàng đầu trong Ban Thường vụ và Bộ Chính trị,
không có lý lịch có thể truyền cảm hứng về sự tự tin và sự ngưỡng mộ [của
người dân]. Ngoài các giới hạn nghiêm ngặt nhất và giới hạn khách quan như độ
tuổi của họ, yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến cơ hội để họ được vào các chức vụ
hàng đầu là liệu những người ở đằng sau họ có quyền hành mạnh mẽ để ủng hộ họ
hay không.
|
Political patronage at the top in the leadership
transition process can only produce a fragile coalition, cobbled together
through bargaining and horse-trading. Key appointments are made not based on
individual competence or proven record, but on personal loyalty and
considerations of how such appointments help balance the distribution of
power among factions. Under such circumstances, mismatch of skill sets and
policy portfolios is the norm, not the exception.
|
Việc đỡ đầu chính trị cho các chức vụ hàng đầu trong quá
trình thay đổi lãnh đạo chỉ có thể sản sinh một liên minh mong manh, sắp đặt
mọi thứ lại với nhau một cách cẩu thả, thông qua các cuộc thương lượng và mặc
cả. Những bổ nhiệm quan trọng được thực hiện không dựa trên năng lực cá nhân
hoặc thành tích đã được chứng minh, mà dựa vào sự trung thành cá nhân và
những cất nhắc về việc bổ nhiệm như thế có thể giúp cân bằng sự phân chia
quyền lực giữa các phe phái như thế nào. Những trường hợp như thế, vai trò
của những người làm chính sách không phù hợp với các kỹ năng của họ, vẫn
thường xảy ra, không phải là trường hợp ngoại lệ.
|
But the most damaging effect of this Byzantine system of
leadership selection is that it inevitably results in a collective leadership
prone to factional compromise, even policy paralysis. The fact that China has
failed to undertake much-needed economic reforms to rebalance the economy in
the previous decade must be attributed to such a fundamentally flawed system
of picking leaders.
|
Tuy nhiên, hậu quả tai hại nhất của hệ thống lựa chọn lãnh
đạo phức tạp này là, chắc chắn kết quả của sự lãnh đạo tập thể nghiêng về sự
thỏa hiệp giữa các phe phái, thậm chí làm tê liệt chính sách. Thực tế là
Trung Quốc đã thất bại trong việc thực hiện các cải cách kinh tế cần thiết để
tái cân bằng lại nền kinh tế trong thập kỷ trước đó, về căn bản phải được quy
cho hệ thống rạn nứt trong việc chọn lãnh đạo như thế.
|
To be fair to the Communist Party, such political
pathology is not unique to China. All autocratic regimes without strongman
rule pick leaders through oligarchic bargaining, with predictable outcomes:
these regimes ossify and ultimately fall from power.
|
Để công bằng đối với Đảng Cộng sản, căn bệnh chính trị này
không chỉ xảy ra đối với riêng Trung Quốc. Tất cả các chế độ độc tài không có
nguyên tắc vững chắc trong việc chọn lãnh đạo, mà thông qua độc quyền mặc cả,
với kết quả có thể tiên đoán là: các chế độ này trở nên cứng nhắc và cuối
cùng sẽ bị rơi khỏi quyền lực.
|
It’s doubtful whether Chinese leaders are willing to do
anything to change the current system, even though they must be aware of its
fatal flaws. So the Beidaihe summer conclave will produce plenty of suspense
and drama, but not the right leaders for steering China in a different
direction.
|
Không chắc liệu các nhà lãnh đạo Trung Quốc có sẵn sàng
làm bất cứ điều gì để thay đổi hệ thống hiện tại hay không, mặc dù họ nhận
thấy những sai sót chết người đó. Cho nên hội nghị vào mùa hè này ở
Beidaihe sẽ cho ra nhiều màn hồi hộp và đầy kịch tích, thay vì cho ra những
nhà lãnh đạo đúng đắn, chỉ đạo Trung Quốc đi theo một hướng khác.
|
|
|
|
|
Minxin Pei is a
professor of government at Claremont McKenna College. His research has been
published in Foreign Policy, Foreign Affairs, The National Interest, Modern
China, China Quarterly, Journal of Democracy and many edited books and his
op-eds have appeared in the Financial Times, New York Times, Washington Post,
Newsweek International, and International Herald Tribune, and other major
newspapers.
|
Minxin Pei là một
giáo sư về chính phủ học ở Claremont McKenna College. Nghiên cứu của ông đã
được xuất bản trên các tạp chí Foreign Policy, Foreign Affairs, The National
Interest, Modern China, China Quarterly, Journal of Democracy and many edited
books and his op-eds have appeared và nhiều ấn phẩm khác đã xuất hiện trên các
tờ Financial Times, New York Times, Washington Post, Newsweek International,
và International Herald Tribune, và các tờ báo lớn khác.
|
|
Translated by Dương Lệ Chi
|
http://thediplomat.com/author/minxin/
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Saturday, June 30, 2012
Why China Can’t Pick Good Leaders Vì sao Trung Quốc không thể chọn được lãnh đạo tốt?
Guarding the guardians Canh gác người canh gác
|
|
The party makes sure
that the people who guarantee its rule are themselves under tight control
|
Đảng muốn chắc chắn
những người thi hành mệnh lệnh phải bị kiểm soát chặt chẽ
|
Guarding the guardians
|
Canh gác người canh
gác
|
The Economist
Jun 30th 2012
|
The Economist
30/6/2012
|
CHINA’S leaders, it seems, are stepping up the policing of
the police who help secure their rule. In the provinces police chiefs are
being put more firmly under the Communist Party’s thumb. Some liberals detect
in this a sign of possible reform in the way the party polices China’s
citizens. More probable, however, is that after a season of tumult, the
control of the police force itself is now under scrutiny. China’s vast and
costly domestic-security apparatus is still behaving as aggressively as ever.
|
Dường như các lãnh đạo Trung Quốc đang gia tăng kiểm soát
lực lượng an ninh đang bảo vệ quyền hành của đảng. Tại các tỉnh thành, các
cảnh sát trưởng đang bị xiết chặt hơn dưới bàn tay của Đảng Cộng sản. Vài nhà
cấp tiến phát hiện ra rằng, đây là dấu hiệu của sự thay đổi về chính sách
kiểm soát người dân Trung Quốc của Đảng. Tuy nhiên, có khả năng là sau một
thời gian xáo trộn, chính việc kiểm soát lực lượng cảnh sát hiện đang được
xem xét kỹ lưỡng. Bộ máy an ninh quốc nội to lớn và tốn kém của Trung Quốc vẫn
hành động một cách hung hăng như thuở nào.
|
In the run-up to this autumn’s Communist Party Congress,
at which China will change its most senior leaders for the first time in ten
years, provincial- and lower-level party committees have already been
revamped. In the process, provincial chiefs of police are being taken down a
peg.
|
Trong thời gian sắp tới ngày Đại hội Đảng Cộng sản vào mùa
thu năm nay, thời điểm Trung Quốc sẽ thay đổi các lãnh đạo cao cấp nhất lần
đầu tiên trong vòng 10 năm, các chi bộ đảng cấp tỉnh và thấp hơn đã được thay
đổi. Trong tiến trình đó, các cảnh sát trưởng của tỉnh đang bị kiềm chế.
|
First, they are being dropped as leaders of the party’s “political-legal”
committees, which oversee the police, courts and prosecutors. These
committees have enormous power. The security forces they oversee are not just
officers of the law but guardians of Communist rule. In recent years they
have faced a series of crises, such as ethnically charged unrest in the
regions of Tibet, Xinjiang and Inner Mongolia, and challenges from lawyers
and activists. Their response has been to crackdown, often with mass
detentions; some detainees disappear.
|
Trước tiên, họ bị tước bỏ chức lãnh đạo ủy ban “chính
trị-pháp luật” của đảng, có nhiệm vụ giám sát cảnh sát, tòa án và viện kiểm
sát. Các ủy ban này có quyền hành rất lớn. Lực lượng an ninh mà họ coi sóc
không chỉ là những viên chức an ninh mà còn là những kẻ bảo vệ sự cai trị của
đảng. Trong những năm gần đây, họ đối diện với một loạt khủng khoảng, như bất
ổn sắc tộc ở các khu vực Tây Tạng, Tân Cương và Nội Mông, và những thách thức
từ giới luật sư và các nhà hoạt động. Sự đáp trả của họ là đàn áp, thường đi
kèm với các vụ bắt bớ tập thể; vài người bị bắt đã biến mất.
|
According to Southern Weekend, a Chinese newspaper, the
party’s organisation department decreed in 2010 that political-legal
committee heads should no longer double as police chiefs. The paper seems to
have been right, at least about the trend. Of the 30 secretaries of provincial
political-legal committees chosen this year, only nine are police chiefs,
down from 13 out of 31 less than five years ago. And—unthinkable until
recently—in Guangdong province in the south and Qinghai in the west, not one
of the 29 police chiefs at the administrative tier below the province, the
prefecture, is also the political-legal head.
|
Theo tuần báo Trung Quốc, Southern Weekend, năm 2010, vụ
tổ chức [các bộ] của đảng đã ban hành sắc lệnh, chủ tịch ban chính trị-pháp
luật không được kiêm thêm chức cảnh sát trưởng. Tuần báo này nói đúng, ít
nhất về chiều hướng [thay đổi]. Trong số 30 bí thư của ủy ban chính trị-pháp
luật tỉnh được chọn năm nay, chỉ có 9 người là cảnh sát trưởng, giảm từ 13 so
với 31 người cách đây gần 5 năm. Và điều không thể tưởng tượng được cho tới
gần đây, tỉnh Quảng Đông, miền nam [Trung Quốc] và tỉnh Thanh Hải, miền tây
[Trung Quốc], không có một người nào trong số 29 cảnh sát trưởng thuộc bộ
phận hành chánh bên dưới cấp tỉnh, tức cấp quận, kiêm chức bí thư ủy ban
chính trị-pháp luật.
|
A corollary of this trend is a second blow to the police
chiefs’ standing: they are also being denied places on the Communist Party’s
regional standing committees. These rule the provinces much as the
nine-member Politburo standing committee in Beijing rules China as a whole.
Of the 30 provincial-level committees named so far this year (ie, all except
Beijing’s, whose congress begins on June 29th), only ten include the regional
police chief, down from 14 less than five years ago. This change makes the
provincial set-up look more like that in the central party and government,
where the minister of public security, Meng Jianzhu, is not on the 24-member
Politburo, let alone the standing committee.
|
Một hệ quả của xu hướng này là một cú đánh vào vị thế cảnh
sát trưởng: họ cũng không được xếp vào ủy ban thường vụ khu vực của Đảng Cộng
sản. Các ủy ban này điều hành các tỉnh thành giống như 9 ủy viên Ban Thường
vụ Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung quốc cai trị toàn bộ đất nước Trung Quốc.
Trong số 30 [bí thư] ủy ban chính trị-pháp luật cấp tỉnh đã được chỉ định năm
nay (nghĩa là tất cả các tỉnh thành, ngoại trừ ở Bắc Kinh, nơi mà đại hội bắt
đầu vào ngày 29 tháng 6), chỉ có 10 bí thư kiêm chức cảnh sát trưởng, giảm
xuống từ 14 người cách đây gần 5 năm. Sự thay đổi này làm cho cơ cấu tổ chức
tỉnh thành giống như trung ương đảng và chính phủ, nơi mà Bộ trưởng Công an
Mạnh Kiến Trụ không phải là một trong 24 ủy viên của Bộ Chính trị, chứ đừng
nói tới [ủy viên] Ban Thường vụ.
|
One reason to think the power of the police is on the wane
is the recent decline in the fortunes of the central political-legal chief,
Zhou Yongkang. Mr Zhou was party secretary at the ministry of public security
from 2002-07, before becoming the Politburo’s man in charge of domestic
security—secret police and all. He was an ally of Bo Xilai, a fellow
Politburo member, until Mr Bo was purged earlier this year.
|
Một lý do để nghĩ rằng quyền hành công an đang trên đà suy
giảm, là sự suy sụp gần đây của Chu Vĩnh Khang, bí thư ủy ban chính trị- pháp
luật trung ương. Ông Chu là bí thư của bộ công an từ năm 2002 – 2007, trước
khi trở thành người của Bộ Chính trị, phụ trách an ninh quốc nội – công an
mật vụ và tất cả các ngành liên hệ. Ông là một đồng minh với Bạc Hy Lai, là
ủy viên Bộ Chính trị, cho tới khi ông Bạc bị thanh lọc đầu năm nay.
|
Mr Zhou, who is said to have backed Mr Bo to succeed him,
has presided over heady days for the men and women in blue (and
plainclothes). China’s domestic-security budget has surged to an astonishing
$110 billion a year, larger than declared defence spending. Some party rivals
must surely have chafed at such a grab for power and money, and grumbled
privately about Mr Zhou’s effectiveness. After all, the number of
destabilising protests across China has continued to climb, to as high as
180,000 in 2010, by one estimate.
|
Ông Chu, người được cho là đã hỗ trợ ông Bạc để thay thế
chức vụ của ông, đã chỉ huy các nhân viên an ninh áo xanh (và thường phục)
trong những ngày tháng xáo trộn. Ngân sách an ninh quốc nội của Trung Quốc đã
tăng lên đến con số kinh ngạc là 110 tỷ đô la một năm, lớn hơn chi tiêu quốc
phòng đã được công bố. Vài đối thủ trong đảng hẳn phải ganh ghét với sự sở
hữu quyền lực và số tiền đó, và kín đáo phàn nàn về hiệu quả làm việc của ông
Chu. Cuối cùng, số lượng những cuộc biểu tình gây bất ổn khắp Trung Quốc tiếp
tục gia tăng, tới mức 180.000 vụ trong năm 2010, theo một nguồn tin ước đoán.
|
No senior leader has argued in public, however, that the
rise of the security state has been counterproductive. Wen Jiabao, the prime
minister, who presents himself as reform-minded, may have opposed Mr Zhou’s
preference for the iron fist. But if so, he was outnumbered. Police and
security powers have steadily expanded at the expense of legal procedure, the
courts, prosecutors and even other party leaders. Their leadership of the
political-legal committees, which are charged with balancing the interests of
the police, courts and prosecutors, enhanced the police chiefs’ scope to
sidestep formal institutions. Lofty hopes for the rule of law have repeatedly
dashed against the rocks of the security state.
|
Tuy nhiên, không có lãnh đạo cao cấp nào tuyên bố công
khai rằng sự gia tăng lực lượng an ninh chính phủ trở nên phản tác dụng. Thủ
tướng Ôn Gia Bảo, người tự cho là có đầu óc cải cách, có lẽ chống đối khuynh
hướng bàn tay sắt của ông Chu. Nhưng nếu chống đối như thế, thì ông đã bị áp
đảo. Quyền hành của cảnh sát và an ninh đã từ từ mở rộng, lấn át quy trình
luật pháp, tòa án, công tố và ngay cả những lãnh đạo đảng khác. Sự lãnh đạo
của họ (lực lượng an ninh) trong ủy ban chính trị- pháp luật, với nhiệm vụ
cân bằng quyền lợi của cảnh sát, tòa án và các công tố, đã gia tăng quyền hạn
của các cảnh sát trưởng để né tránh quy trình luật pháp. Những hy vọng hão
huyền về pháp trị liên tục đụng phải những tảng đá của lực lượng an ninh.
|
Cheng Li, an expert on Chinese elite politics at the
Brookings Institution, a Washington think-tank, says police power grew partly
because Mr Zhou lacked powerful rivals in China’s “collective leadership”
system; partly in response to the threat posed by lawyers and activists keen
to use the law against the party; and partly in reaction to the crises of
unrest.
|
Ông Cheng Li, một chuyên gia nghiên cứu về chính trị trong
giới cao cấp Trung Quốc, thuộc Viện Brookings, một viện nghiên cứu ở
Washington (Hoa Kỳ), nói rằng quyền lực cảnh sát lớn mạnh một phần do ông Chu
thiếu đối thủ mạnh trong hệ thống “lãnh đạo tập thể”; một phần để đáp trả lại
mối đe dọa từ các luật sư và các nhà hoạt động chuyên dùng luật pháp để chống
lại đảng, và một phần để đối phó với các cuộc khủng hoảng do bất ổn.
|
Until this year each perceived new challenge to party rule
seemed to bolster Mr Zhou’s personal standing. As central political-legal
chief, he is also in charge of state security and shadowy irregular units,
including the 610 Office, which was created in 1999 to crush the Falun Gong
spiritual movement and remains active today.
|
Cho tới năm nay, một cảm nhận về thách thức mới đối với sự
cầm quyền của đảng dường như ủng hộ vị thế cá nhân của ông Chu hơn. Với chức
vụ bí thư ủy ban chính trị- pháp luật trung ương, ông ta cũng chịu trách
nhiệm về vấn đề an ninh của đất nước và những đơn vị bất thường trong bóng
tối, gồm Phòng 610, được thành lập vào năm 1999, để đàn áp phong trào Pháp
Luân Công và [văn phòng này] vẫn còn hoạt động cho tới nay.
|
The security strategy itself has not changed this year.
But Mr Zhou seems a diminished figure. A turning-point came in February when
Wang Lijun, the former police chief of the south-western municipality of
Chongqing, briefly took refuge in an American consulate. That was one tile in
a tumble of dominoes that ended the career of Mr Bo, Chongqing’s party
secretary.
|
Chiến lược an ninh vẫn không thay đổi trong năm nay. Nhưng
ông Chu có vẻ là một nhân vật mờ nhạt. Một bước ngoặt quyết định đã đến vào
tháng 2, khi Vương Lập Quân, cảnh sát trưởng thành phố Trùng Khánh, miền tây
nam [Trung Quốc], đã ẩn náu một thời gian ngắn ngủi tại lãnh sự quán Hoa Kỳ.
Đó là một miếng gạch trong sự sụp đổ dây chuyền đã chấm dứt sự nghiệp của ông
Bạc, bí thư thành ủy Trùng Khánh.
|
Mr Zhou’s record, damaged by his links to Mr Bo, was
further besmirched in April, when Chen Guangcheng, a blind legal activist,
escaped from his home in Shandong province, where he was being
detained—illegally—by the authorities. The episode highlighted the extralegal
powers of the security forces, which had hired thugs to guard and intimidate
Mr Chen and his family, and to keep well-wishers at bay, sometimes by beating
them up. The political-legal chief and the police chief in Shandong were both
soon sacked. Reformers took this as a hopeful sign, but it was hardly
surprising: when Mr Chen also sought American protection, the incident became
a national embarrassment.
|
Hồ sơ của ông Chu bị tổn hại do các mối liên hệ với ông
Bạc, lại càng bị lem luốc hơn vào tháng 4, khi ông Trần Quang Thành, một nhà
hoạt động pháp lý khiếm thị, trốn khỏi nhà của ông ở tỉnh Sơn Đông, nơi ông
bị nhà cầm quyền giam giữ bất hợp pháp. Câu chuyện này đã làm nổi bật vấn đề
quyền hành của lực lượng an ninh cao hơn cả luật pháp, như lực lượng an ninh
đã từng thuê mướn côn đồ để canh giữ và đe dọa ông Trần và gia đình ông, và
ngăn cản những người tới thăm ông, bằng cách thỉnh thoảng đánh đập họ. Bí thư
ủy ban chính trị-pháp luật và cảnh sát trưởng ở Sơn Đông chẳng bao lâu sau đã
bị sa thải. Những nhà cải cách xem đây như một dấu hiệu đầy hy vọng, nhưng
điều này không có gì đáng ngạc nhiên là: khi ông Trần tìm kiếm sự bảo vệ từ
người Mỹ, thì sự cố này đã trở thành một điều xấu hổ cho đất nước [Trung
Quốc].
|
There is much speculation in Beijing as to whether the
successor to Mr Zhou as political-legal chief to be named this autumn will
also join the new Politburo standing committee. Mr Li of Brookings and Fu
Hualing of the University of Hong Kong believe that the system of
political-legal committees will eventually be abolished as a step towards the
rule of law. That reform, however, does not seem imminent.
|
Có nhiều sự đồn đoán ở Bắc Kinh, liệu người kế vị ông Chu
với chức vụ bí thư ủy ban chính trị-pháp luật sẽ được chỉ định vào mùa thu
này, có được vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị mới hay không. Ông Li thuộc viện
Brookings và ông Fu Hualing thuộc Đại học Hong Kong tin rằng, hệ thống ủy ban
chính trị-pháp luật rốt cuộc sẽ bị phế bỏ như một bước tiến tới tinh thần
pháp trị. Tuy nhiên, sự cải cách đó dường như vẫn chưa sắp xảy ra.
|
Put simply, it looks as if China’s police chiefs are being
reminded who is in charge. In the same vein, since the downfall of Mr Bo, who
counts some army generals among his friends, party leaders have also
repeatedly reminded the army that its master is the Communist Party, not the
state, let alone any individual.
|
Một cách đơn giản, có vẻ như các cảnh sát trưởng của Trung
Quốc đang được nhắc nhở rằng ai là người [thực sự] nắm quyền. Trong cùng ý
hướng, từ sự thất thế của ông Bạc, người có vài người bạn là tướng lãnh quân
đội, lãnh đạo đảng cũng liên tục nhắc nhở quân đội rằng người chỉ huy của
quân đội là Đảng Cộng sản, không phải chính phủ, chứ đừng nói tới bất kỳ cá
nhân nào.
|
Out of the barrel of
the party
The dilemma for the party, as Mr Li sees it, is that the
very factors that threaten the party and made Mr Zhou and the security state
powerful still exist: “If you reduce the spending on police, on security,
then how to deal with the possible protests?” So murky units such as the 610
Office, whose members have surfaced, for example, in Mr Chen’s security
cordon, still thrive. Ai Weiwei, a dissident and artist who was detained in
irregular fashion last year by police, says security officers can be vague
about precisely which branch of the party-state they work for. One way or
another, though, they do the same job. Communist Party leaders cling tightly
to their security state, even as they struggle to control it.
|
Ra khỏi nòng súng
của đảng
Như ông Li nhận thấy, thế khó xử của đảng là, các yếu tố
đe dọa đảng và làm ông Chu và bộ máy an ninh chính phủ có nhiều quyền hành
thì vẫn còn đó: “Nếu anh cắt giảm chi tiêu của cảnh sát, an ninh, thì anh đối
phó với các cuộc biểu tình thế nào?” Vì thế những đơn vị bí mật như Phòng
610, mà các thành viên đã tiết lộ, ví dụ như hàng rào an ninh canh giữ ông
Trần vẫn phát triển. Ngải Vị Vị, một người bất đồng chính kiến và là họa sĩ,
đã bị cảnh sát giam giữ một cách bất thường hồi năm ngoái, nói rằng, các nhân
viên an ninh có thể không biết chính xác họ làm việc cho bộ phận nào của đảng
và nhà nước. Tuy nhiên, bằng cách này hay cách khác, họ làm cùng công việc.
Các lãnh đạo Đảng Cộng sản bám chặt bộ máy an ninh nhà nước, ngay cả khi họ
cố gắng kiểm soát nó.
|
Translated by Trần Văn Minh
|
|
http://www.economist.com/node/21557760
|
The Future of American Power TƯƠNG LAI CỦA SỨC MẠNH MỸ
|
|
The Future of
American Power
|
TƯƠNG LAI CỦA SỨC
MẠNH MỸ
|
By Joseph S. Nye Jr.
Foreign Affair Nov-Dec/2010
|
Joseph S. Nye Jr.
Foreign Affair 11-12/2010
|
Dominance and Decline in Perspective
|
Triển vọng thống soái hay suy thoái
|
|
|
The twenty-first century began with a very unequal distribution
of power resources. With five percent of the world's population, the United
States accounted for about a quarter of the world's economic output, was
responsible for nearly half of global military expenditures, and had the most
extensive cultural and educational soft-power resources. All this is still
true, but the future of U.S. power is hotly debated. Many observers have
interpreted the 2008 global financial crisis as the beginning of American
decline. The National Intelligence Council, for example, has projected that
in 2025, "the U.S. will remain the preeminent power, but that American
dominance will be much diminished."
|
Thế kỷ 21 bắt đầu bằng một sự phân phối rất không đồng đều
các nguồn lực sức mạnh. Với 5 phần trăm dân số thế giới, Mỹ chiếm khoảng một
phần tư sản lượng kinh tế toàn cầu, chịu trách nhiệm đối với gần một nửa chi
phí quân sự toàn cầu, và có các nguồn lực sức mạnh mềm văn hoá và giáo dục
rộng lớn nhất. Tất cả điều này vẫn đúng, nhưng tương lai của sức mạnh Mỹ được
tranh luận một cách sôi nổi. Nhiều nhà quan sát đã lý giải cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2008 như là khởi đầu cho sự suy đoán của Mỹ. Chẳng
hạn, Hội đồng Tình báo quốc gia đã dự đoán rằng vào năm 2025, “Mỹ sẽ vẫn là
cường quốc ưu việt, nhưng ưu thế đó của Mỹ sẽ bị giảm đi nhiều”.
|
Power is the ability to attain the outcomes one wants, and
the resources that produce it vary in different contexts. Spain in the
sixteenth century took advantage of its control of colonies and gold bullion,
the Netherlands in the seventeenth century profited from trade and finance,
France in the eighteenth century benefited from its large population and
armies, and the United Kingdom in the nineteenth century derived power from
its primacy in the Industrial Revolution and its navy. This century is marked
by a burgeoning revolution in information technology and globalization, and
to understand this revolution, certain pitfalls need to be avoided.
|
Sức mạnh là khả năng đạt được những kết quả mà người ta
mong muốn, và các nguồn lực tạo ra nó thay đổi trong những bối cảnh khác
nhau. Tây Ban Nha trong thế kỷ 16 đã tận dụng quyền kiểm soát của mình đối
với các thuộc địa và váng nén, Hà Lan trong thế kỷ 17 đã hưởng lợi từ thương
mại và tài chính, Pháp trong thế kỷ 18 đã hưởng lợi từ dân số và quân đội to
lớn của mình, và Anh trong thế kỷ 19 đã tìm được sức mạnh từ sự ưu việt của
mình trong Cách mạng Công nghiệp và hải quân của nước này. Thế kỷ này được
đánh dấu bằng một cuộc cách mạng phát triển nhanh chóng trong công nghệ thông
tin và toàn cầu hoá, và để hiểu cuộc cách mạng này, cần phải tránh một số cạm
bẫy.
|
First, one must beware of misleading metaphors of organic
decline. Nations are not like humans, with predictable life spans. Rome
remained dominant for more than three centuries after the peak of its power,
and even then it did not succumb to the rise of another state. For all the
fashionable predictions of China, India, or Brazil surpassing the United
States in the next decades, the greater threat may come from modern
barbarians and nonstate actors. In an information-based world, power
diffusion may pose a bigger danger than power transition. Conventional wisdom
holds that the state with the largest army prevails, but in the information
age, the state (or the nonstate actor) with the best story may sometimes win.
|
Thứ nhất, người ta phải thận trọng trước những phép ẩn dụ
gây hiểu lầm của sự suy thoái hữu cơ. Các quốc gia không giống như con người,
với tuổi thọ có thể dự đoán được. La Mã vẫn thống trị trong hơn ba thế kỷ sau
thời kỳ đỉnh cao quyền lực của mình, và thậm chí khi đó nó đã không khuất
phục trước sự trỗi dậy của một nhà nước khác. Mặc dù những dự đoán có vẻ hợp
thời về việc Trung Quốc, Ấn Độ hay Braxin vượt qua Mỹ trong những thập kỷ
tới, mối đe doạ lớn hơn có thể đến từ những người man di hiện đại và những
bên tham gia không phải nhà nước. Trong một thế giới dựa trên thông tin, sự
khuếch tán sức mạnh có thể tạo ra một nguy cơ lớn hơn sự chuyển tiếp quyền
lực. Sự hiểu biết thông tin thường cho rằng nhà nước với quân đội lớn nhất
chiếm ưu thế, nhưng trong thời đại thông tin, nhà nước (hoặc bên tham gia
không phải nhà nước) với câu chuyện hay nhất có thể đôi khi giành chiến
thắng.
|
Power today is distributed in a pattern that resembles a
complex three-dimensional chess game. On the top chessboard, military power
is largely unipolar, and the United States is likely to retain primacy for
quite some time. On the middle chessboard, economic power has been multipolar
for more than a decade, with the United States, Europe, Japan, and China as
the major players and others gaining in importance. The bottom chessboard is
the realm of transnational relations. It includes nonstate actors as diverse
as bankers who electronically transfer funds, terrorists who traffic weapons,
hackers who threaten cybersecurity, and challenges such as pandemics and
climate change. On this bottom board, power is widely diffused, and it makes
no sense to speak of unipolarity, multipolarity, or hegemony.
|
Ngày nay sức mạnh được phân bổ trong một mô hình giống như
một ván cờ ba chiều phức tạp. Trên bàn cờ đầu, sức mạnh quân sự phần lớn là
đơn cực, và Mỹ có thể giữ vị trí hàng đầu trong khoảng một thời gian. Ở bàn
cờ giữa, sức mạnh kinh tế đã là đa cực trong hơn một thập kỷ, với Mỹ, châu
Âu, Nhật Bản và Trung Quốc như là những bên tham gia chủ yếu và những nước
khác đang có được tầm quan trọng. Bàn cờ bên dưới là lĩnh vực của các mối
quan hệ xuyên quốc gia. Nó bao gồm các bên tham gia không phải nhà nước đa
dạng như các chủ ngân hàng chuyển tiền bằng điện tử, những phần tử khủng bố
buôn bán vũ khí, những hacker đe doạ an ninh mạng, và những thách thức như
bệnh dịch và biến đổi khí hậu. Ở bàn cờ bên dưới này, sức mạnh bị khuếch tán
một cách rộng rãi, và không có ý nghĩa gì khi đề cập đến đơn cực, đa cực hay
bá quyền.
|
In interstate politics, the most important factor will be
the continuing return of Asia to the world stage. In 1750, Asia had more than
half the world's population and economic output. By 1900, after the
Industrial Revolution in Europe and the United States, Asia's share shrank to
one-fifth of global economic output. By 2050, Asia will be well on its way
back to its historical share. The rise of China and India may create
instability, but this is a problem with precedents, and history suggests how
policies can affect the outcome.
|
Trong hoạt động chính trị liên nhà nước, nhân tố quan
trọng nhất sẽ là sự trở lại tiếp tục của châu Á trên vũ đài thế giới. Vào năm
1750, châu Á đã chiếm hơn một nửa dân số và sản lượng kinh tế của thế giới.
Cho đến năm 1900, sau cuộc Cách mạng Công nghiệp ở châu Âu và Mỹ, phần đóng
góp của châu Á thu hẹp lại còn một phần năm sản lượng kinh tế toàn cầu. Đến
năm 2050, châu Á sẽ trên con đường trở lại phần đóng góp lịch sử của mình. Sự
trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ có thể tạo ra sự bất ổn, nhưng đây là một
vấn đề với những tiền lệ, và lịch sử cho thấy các chính sách có thể ảnh hưởng
đến kết quả như thế nào.
|
HEGEMONIC DECLINE?
It is currently fashionable to compare the United States'
power to that of the United Kingdom a century ago and to predict a similar
hegemonic decline. Some Americans react emotionally to the idea of decline,
but it would be counterintuitive and ahistorical to believe that the United
States will have a preponderant share of power resources forever. The word
"decline" mixes up two different dimensions: absolute decline, in
the sense of decay, and relative decline, in which the power resources of
other states grow or are used more effectively.
|
Sự suy giảm bá
quyền?
Hiện nay là hợp thời khi so sánh sức mạnh của Mỹ với sức
mạnh của Anh cách đây một thế kỷ và dự đoán một sự suy giảm bá quyền tương
tự. Một số người Mỹ phản ứng một cách cảm tính đối với ý tưởng về sự suy
thoái, nhưng sẽ là khác thường và không mang tính lịch sử khi tin rằng Mỹ sẽ
mãi mãi có một phần vượt trội trong các nguồn lực sức mạnh. Từ “suy thoái”
pha trộn hai khía cạnh khác nhau: suy thoái tuyệt đối, theo nghĩa suy tàn, và
suy thoái tương đối, trong đó các nguồn lực sức mạnh của những nhà nước khác
tăng lên và được sử dụng hiệu quả hơn.
|
The analogy with British decline is misleading. The United
Kingdom had naval supremacy and an empire on which the sun never set, but by
World War I, the country ranked only fourth among the great powers in its
share of military personnel, fourth in GDP, and third in military spending.
With the rise of nationalism, protecting the empire became more of a burden
than an asset. For all the talk of an American empire, the United States has
more freedom of action than the United Kingdom did. And whereas the United
Kingdom faced rising neighbors, Germany and Russia, the United States
benefits from being surrounded by two oceans and weaker neighbors.
|
Điểm tương đồng với sự suy thoái của Anh gây hiểu nhầm.
Anh đã có vị trí hàng đầu về hải quân và một đế chế mà ở đó mặt trời không
bao giờ lặn, nhưng đến Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, đất nước đứng chỉ thứ
tư trong số các nước lớn về phần nhân viên quân sự, thứ tư về GDP, và thứ ba
về chi phí quân sự. Với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, việc bảo vệ đế chế
đã trở thành một gánh nặng hơn là tài sản. Cho dù nói về một đế chế Mỹ, Mỹ có
quyền tự do hành động hơn Anh. Và trong khi Anh phải đối mặt với những nước
láng giềng trỗi dậy, Đức và Nga, thì Mỹ được lợi từ việc được bao quanh bởi
hai đại dương và những người láng giềng yếu hơn.
|
Despite such differences, Americans are prone to cycles of
belief in their own decline. The Founding Fathers worried about comparisons
to the Roman republic. Charles Dickens observed a century and a half ago,
"If its individual citizens, to a man, are to be believed, [the United
States] always is depressed, and always is stagnated, and always is at an alarming
crisis, and never was otherwise." In the last half century, belief in
American decline rose after the Soviet Union launched Sputnik in 1957, after
President Richard Nixon's economic adjustments and the oil shocks in the
1970s, and after the closing of rust-belt industries and the budget deficits
in the Reagan era. Ten years later, Americans believed that the United States
was the sole superpower, and now polls show that many believe in decline
again.
|
Bất chấp những khác biệt như vậy, người Mỹ nghiêng về
những chu kỳ tin vào sự suy thoái của chính mình. Những thành viên đã viết ra
Hiến pháp Mỹ đã lo ngại về những so sánh với nền cộng hoà La Mã. Charles
Dickens đã nhận xét cách đây một thế kỷ rưỡi: “Đối với một người, nếu tin vào
cá nhân các công dân của nước này thì [nước Mỹ] luôn suy yếu, và luôn đình
trệ, và luôn ở trong một cuộc khủng hoảng đáng báo động, và không bao giờ
khác được”. Trong nửa cuối thế kỷ, việc tin vào sự suy thoái của Mỹ đã nổi
lên sau khi Liên Xô phóng Sputnik vào năm 1957, sau những điều chỉnh kinh tế
của Tổng thống Richard Nixon và các cú sốc dầu lửa những năm 1970, và sau khi
đóng cửa các ngành công nghiệp vùng vành đai phát triển chậm Rust Belt (Rust
Belt là tên một khu vực ở miền Bắc nước Mỹ, bao gồm các bang Illinois,
Michigan, Indiân, Ohio và Wisconsin, nơi nhiều ngành hớn, đặc biệt là các
ngành sản xuất thép và ôtô, đã từng sử dụng nhiều nhân công nhưng ngày càng
ít thành công) và những thâm hụt ngân sách trong kỷ nguyên Reagan. Mười năm
sau, người Mỹ tin rằng nước Mỹ là một siêu cường duy nhất và hiện nay các
cuộc thăm dò cho thấy rằng nhiều người lại tin vào sự suy thoái.
|
Pundits lament the inability of Washington to control
states such as Afghanistan or Iran, but they allow the golden glow of the
past to color their appraisals. The United States' power is not what it used
to be, but it also never really was as great as assumed. After World War II,
the United States had nuclear weapons and an overwhelming preponderance of economic
power but nonetheless was unable to prevent the "loss" of China, to
roll back communism in Eastern Europe, to overcome stalemate in the Korean
War, to stop the "loss" of North Vietnam, or to dislodge the Castro
regime in Cuba. Power measured in resources rarely equals power measured in
preferred outcomes, and cycles of belief in decline reveal more about
psychology than they do about real shifts in power resources. Unfortunately,
mistaken beliefs in decline -- at home and abroad -- can lead to dangerous
mistakes in policy.
|
Các học giả than vãn về sự bất lực của Oasinhton trong
việc kiểm soát những nhà nước như Ápganixtan hay Iran, nhưng họ để cho hào
quang của quá khứ tô màu cho những đánh giá của mình. Sức mạnh của Mỹ không
phải là cái đã từng có, nhưng nó cũng chưa bao giờ thực sự to lớn như được
cho là vậy. Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Mỹ có vũ khí hạt nhân và một ưu
thế áp đảo về sức mạnh kinh tế nhưng tuy thế không thể ngăn ngừa “việc mất”
Trung Quốc, không thể đẩy lui chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, thoát khỏi sự bế
tắc trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, ngăn chặn “việc mất” miền Bắc Việt
Nam, hay lật đổ chế độ Castro ở Cuba. Sức mạnh đo được trong các nguồn lực
hiếm khi ngang bằng với sức mạnh đo được trong những kết quả được ưa thích
hơn, và những chu kỳ tin vào sự suy thoái bộc lộ ra là về tâm lý hơn là về
những thay đổi thực sự trong các nguồn lực sức mạnh. Đáng tiếc là, những sự
tin tưởng nhầm lẫn về suy thoái – ở trong nước và nước ngoài – có thể dẫn đến
những sai lầm nguy hiểm trong chính sách.
|
CHINA ON THE RISE
For more than a decade, many have viewed China as the most
likely contender to balance U.S. power or surpass it. Some draw analogies to
the challenge that imperial Germany posed to the United Kingdom at the
beginning of the last century. A recent book (by Martin Jacques) is even
titled When China Rules the World: The End of the Western World and the Birth
of a New Global Order. Goldman Sachs has projected that the total size of
China's economy will surpass that of the United States in 2027.
|
Trung Quốc trỗi dậy
Trong hơn một thập kỷ, nhiều người đã nhìn Trung Quốc như
là đối thủ có khả năng nhất để cân bằng sức mạnh Mỹ hay vượt qua nó. Một số
người đã vạch ra những sự tương đồng với thách thức mà nước Đức đế quốc đã
đặt ra cho Anh vào đầu thế kỷ trước. Một cuốn sách gần đây (của Martin
Jacques) còn được đặt tên là Khi Trung Quốc thống trị thế giới: Sự kết thúc
của thế giới phương Tây và sự ra đời của một trật tự toàn cầu mới. Goldman
Sachs đã dự kiến rằng tổng quy mô của nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt của Mỹ
vào năm 2027.
|
Yet China has a long way to go to equal the power resources
of the United States, and it still faces many obstacles to its development.
Even if overall Chinese GDP passed that of the United States around 2030, the
two economies, although roughly equivalent in size, would not be equivalent
in composition. China would still have a vast underdeveloped countryside, and
it would have begun to face demographic problems from the delayed effects of
its one-child policy. Per capita income provides a measure of the
sophistication of an economy. Assuming a six percent Chinese GDP growth rate
and only two percent American GDP growth rate after 2030, China would
probably not equal the United States in per capita income until sometime
around the middle of the century. In other words, China's impressive economic
growth rate and increasing population will likely lead the Chinese economy to
pass the U.S. economy in total size in a few decades, but that is not the
same as equality.
|
Tuy nhiên, Trung Quốc còn một con đường dài để tiến tới
ngang bằng với các nguồn lực sức mạnh của Mỹ và nước này vẫn còn phải đối mặt
với nhiều trở ngại đối với sự phát triển của mình. Ngay cả nếu tổng GDP của
Trung Quốc vượt qua của Mỹ vào khoảng năm 2030, hai nền kinh tế, dù đại thể
tương đương về quy mô, sẽ không tương đương về thành phần. Trung Quốc sẽ vẫn
có một khu vực nông thôn kém phát triển rộng lớn, và nước này bắt đầu phải
đối mặt với những vấn đề nhân khẩu học từ những tác động chậm của chính sách
một con của mình. Thu nhập tính theo đầu người cung cấp một thước đo sự tinh
vi của một nền kinh tế. Giả sử một tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc là 6%
và tỷ lệ tăng trưởng GDP của Mỹ chỉ có 2% sau năm 2030, Trung Quốc có thể sẽ
không ngang bằng với Mỹ trong thu nhập tính theo đầu người cho đến một lúc
nào đó vào khoảng giữa thế kỷ. Nói cách khác, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ấn
tượng và dân số ngày càng tăng của Trung Quốc sẽ có khả năng dẫn đến nền kinh
tế Trung Quốc vượt nền kinh tế Mỹ về tổng quy mô trong một vài thập kỷ, nhưng
nó không giống như là sự ngang bằng.
|
Moreover, linear projections can be misleading, and growth
rates generally slow as economies reach higher levels of development. China's
authoritarian political system has shown an impressive capability to harness
the country's power, but whether the government can maintain that capability
over the longer term is a mystery both to outsiders and to Chinese leaders.
Unlike India, which was born with a democratic constitution, China has not
yet found a way to solve the problem of demands for political participation
(if not democracy) that tend to accompany rising per capita income. Whether China
can develop a formula that manages an expanding urban middle class, regional
inequality, rural poverty, and resentment among ethnic minorities remains to
be seen.
|
Hơn nữa, những dự đoán thẳng băng có thể khiến hiểu nhầm,
và các tỷ lệ tăng trưởng nói chung chậm lại khi các nền kinh tế đạt tới những
mức độ phát triển cao. Hệ thống chính trị độc đoán của Trung Quốc đã thể hiện
một khả năng đầy ấn tượng khai thác sức mạnh của đất nước, nhưng liệu chính
phủ có thể duy trì khả năng đó trong dài hạn hay không là một điều bí ẩn cả
đối với người bên ngoài lẫn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Không giống
như Ấn Độ, vốn được sinh ra với một hiến pháp dân chủ, Trung Quốc vẫn chưa
tìm ra con đường để giải quyết vấn đề đòi hỏi tham gia vào chính trị (nếu
không phải là dân chủ) có xu hướng đi cùng với việc tăng thu nhập bình quân
đầu người. Liệu Trung Quốc có thể phát triển một công thức quản lý một tầng
lớp trung lưu thành thị đang mở rộng, sự bất bình đẳng khu vực, đói nghèo ở
nông thôn, và sự oán giận giữa các nhóm thiểu số sắc tộc hay không thì vẫn
còn phải xem xét.
|
Some have argued that China aims to challenge the United
States' position in East Asia and, eventually, the world. Even if this were
an accurate assessment of China's current intentions (and even the Chinese
themselves cannot know the views of future generations), it is doubtful that
China will have the military capability to make this possible anytime soon.
Moreover, Chinese leaders will have to contend with the reactions of other
countries and the constraints created by China's need for external markets and
resources. Too aggressive a Chinese military posture could produce a
countervailing coalition among China's neighbors that would weaken both its
hard and its soft power.
|
Một số người đã lập luận rằng Trung Quốc đặt mục tiêu
thách thức vị trí của Mỹ ở Đông Á và cuối là thế giới. Ngay cả nếu đây là một
sự đánh giá chính xác về những ý định hiện nay của Trung Quốc (và thậm chí
bản thân người Trung Quốc không thể biết quan điểm của những thế hệ tương
lai), điều đáng ngờ là Trung Quốc sẽ có khả năng quân sự để khiến điều này có
thể sớm thực hiện được bất cứ lúc nào. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc
sẽ phải đấu tranh với những phản ứng của những nước khác và những sự kiềm chế
được tạo ra bởi nhu cầu của Trung Quốc đối với các thị trường và nguồn lực
bên ngoài. Một tư thế quân sự quá hung hăng của Trung Quốc có thể tạo ra một
sự liên minh bù lại giữa các nước láng giềng của Trung Quốc sẽ làm suy yếu cả
sức mạnh cứng lẫn sức mạnh mềm của nước này.
|
The rise of Chinese power in Asia is contested by both
India and Japan (as well as other states), and that provides a major power
advantage to the United States. The U.S.-Japanese alliance and the
improvement in U.S.-Indian relations mean that China cannot easily expel the
Americans from Asia. From that position of strength, the United States,
Japan, India, Australia, and others can engage China and provide incentives
for it to play a responsible role, while hedging against the possibility of
aggressive behavior as China's power grows.
|
Sự trỗi dậy của sức mạnh Trung Quốc ở châu Á bị cạnh tranh
bởi cả Ấn Độ lẫn Nhật Bản (cũng như những nhà nước khác), và điều đó tạo ra
một lợi thế sức mạnh chủ yếu cho Mỹ. Liên minh Mỹ – Nhật và sự cải thiện
trong các mối quan hệ Mỹ-Ấn có nghĩa rằng Trung Quốc không thể dễ dàng đánh
bật người Mỹ ra khỏi châu Á. Từ quan điểm sức mạnh đó, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ,
Ôxtrâylia, và những nước khác có thể can dự với Trung Quốc và tạo ra những sự
khích lệ để nước này đóng một vai trò có trách nhiệm, trong khi ngăn cản khả
năng cư xử hung hăng khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên.
|
DOMESTIC DECAY?
Some argue that the United States suffers from
"imperial overstretch," but so far, the facts do not fit that
theory. On the contrary, defense and foreign affairs expenditures have
declined as a share of GDP over the past several decades. Nonetheless, the
United States could decline not because of imperial overstretch but because
of domestic underreach. Rome rotted from within, and some observers, noting
the sourness of current U.S. politics, project that the United States will
lose its ability to influence world events because of domestic battles over
culture, the collapse of its political institutions, and economic stagnation.
This possibility cannot be ruled out, but the trends are not as clear as the
current gloomy mood suggests.
|
Sự suy tàn ở trong
nước?
Một số người lập luận rằng Mỹ gánh chịu tổn thất bởi “sự
dàn trải quá mức kiểu đế quốc”, nhưng cho đến nay, thực tế không đúng với
thuyết đó. Ngược lại, các khoản chi tiêu cho quốc phòng và các vấn đề quốc tế
đã giảm đi như là một phần của GDP trong vài thập kỷ vừa qua. Tuy vậy, Mỹ có
thể suy thoái không phải vì sự dàn trải quá mức kiểu đế quốc mà vì khả năng
hoạt động kém ở trong nước. La Mã mục nát từ bên trong, và một số nhà quan
sát, lưu ý đến tình trạng xấu đi trong hoạt động chính trị của Mỹ hiện nay,
dự đoán rằng Mỹ sẽ mất đi khả năng của mình ảnh hưởng đến các sự kiện của thế
giới bởi các cuộc chiến trong nước về văn hoá, sự sụp đổ của các thể chế
chính trị nước này, và sự đình trệ về kinh tế. Không thể loại bỏ khả năng
này, nhưng các xu thế không rõ ràng như tâm trạng u ám hiện nay cho thấy.
|
Although the United States has many social problems -- and
always has -- they do not seem to be getting worse in any linear manner. Some
of these problems are even improving, such as rates of crime, divorce, and
teenage pregnancy. Although there are culture wars over issues such as
same-sex marriage and abortion, polls show an overall increase in tolerance.
Civil society is robust, and church attendance is high, at 42 percent. The
country's past cultural battles, over immigration, slavery, evolution,
temperance, McCarthyism, and civil rights, were arguably more serious than
any of today's.
|
Mặc dù Mỹ có nhiều vấn đề về xã hội – và luôn có – họ
dường như không trở nên tồi tệ đi theo bất cứ cách thức thẳng băng nào. Một
số trong những vấn đề đó thậm chí còn đang cải thiện, như tỷ lệ tội phạm, ly
hôn và mang thai ở tuổi vị thành niên. Mặc dù có các cuộc chiến văn hoá đối
với những vấn đề như kết hôn đồng giới và phá thai, các cuộc thăm dò cho thấy
một sự gia tăng tổng thể về sự dung nạp. Xã hội dân sự vững mạnh, và tỷ lệ đi
đến nhà thờ cao, 42%. Những cuộc chiến văn hoá trước đây của đất nước này, về
nhập cư, nô lệ, tiến hoá, sự ôn hoà, chủ nghĩa McCarthy và nhân quyền, được
cho là còn nghiêm trọng hơn bất cứ cuộc chiến nào của ngày nay.
|
A graver concern would be if the country turned inward and
seriously curtailed immigration. With its current levels of immigration, the
United States is one of the few developed countries that may avoid
demographic decline and keep its share of world population, but this could
change if xenophobia or reactions to terrorism closed its borders. The
percentage of foreign-born residents in the United States reached its
twentieth-century peak, 14.7 percent, in 1910. Today, 11.7 percent of U.S.
residents are foreign born, but in 2009, 50 percent of Americans favored
decreasing immigration, up from 39 percent in 2008. The economic recession
has only aggravated the problem.
|
Một mối lo ngại nghiêm trọng hơn sẽ là liệu đất nước này
có chuyển sang hướng nội và hạn chế một cách trầm trọng sự nhập cư. Với mức
nhập cư hiện nay của mình, Mỹ là một trong số ít những nước phát triển có thể
tranh được sự suy giảm về nhân khẩu học và giữ phần đóng góp của mình trong
dân số thế giới, nhưng điều này có thể thay đổi nếu sự bài ngoại hay những
phản ứng đối với khủng bố đã đóng cửa các đường biên giới của nước này. Tỷ lệ
phần trăm các cư dân sinh ra ở nước ngoài ở Mỹ đã đạt đỉnh cao của thế kỷ 20,
14,7% vào năm 1910. Hiện nay, 11,7% cư dân Mỹ được sinh ra ở nước ngoài,
nhưng vào năm 2009, 50% người Mỹ ủng hộ giảm nhập cư, tăng từ 39% vào năm
2008. Suy thoái kinh tế chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề.
|
Although too rapid a rate of immigration can cause social
problems, over the long term, immigration strengthens U.S. power. Today, the
United States is the world's third most populous country; 50 years from now,
it is likely to still be third (after India and China). Not only is this
relevant to economic power, but given that nearly all developed countries are
aging and face the burden of providing for the older generation, immigration
could help reduce the sharpness of the resulting policy problem. In addition,
there is a strong correlation between the number of H-1B visas and the number
of patents filed in the United States. In 1998, Chinese- and Indian-born
engineers were running one-quarter of Silicon Valley's high-tech businesses,
and in 2005, immigrants were found to have helped start one of every four
American technology start-ups over the previous decade.
|
Mặc dù một số tốc độ nhập cư quá nhanh có thể tạo ra những
vấn đề xã hội, nhưng về dài hạn sự nhập cư củng cố sức mạnh của Mỹ. Ngày nay,
Mỹ là nước đông dân thứ ba trên thế giới; 50 năm kể từ bây giờ, nó có thể vẫn
là thứ ba (sau Ấn Độ và Trung Quốc). Điều này không chỉ liên quan đến sức
mạnh kinh tế, mà do gần như tất cả các nước phát triển đang già đi và phải
đối mặt với gánh nặng lo liệu cho thế hệ già hơn, sự nhập cư có thể giúp giảm
bớt tính gay gắt của vấn đề chính sách do kết quả của điều đó. Thêm vào đó,
có một sự tương quan giữa số visa H-1B và số bằng sáng chế được đệ trình tại
Mỹ. Vào năm 1998, các kỹ sư sinh ra tại Trung Quốc và Ấn Độ điều hành một
phần tư các doanh nghiệp công nghệ cao của Thung lũng Silicon, và vào năm
2005, người ta thấy cứ bốn công ty công nghệ khởi nghiệp của Mỹ trong thập kỷ
qua thì có một công ty là do người nhập cư đã giúp khởi đầu.
|
Equally important are the benefits of immigration for the
United States' soft power. Attracted by the upward mobility of American
immigrants, people want to come to the United States. The United States is a
magnet, and many people can envisage themselves as Americans. Many successful
Americans look like people in other countries. Rather than diluting hard and
soft power, immigration enhances both. When Singapore's Lee Kuan Yew
concludes that China will not surpass the United States as the leading power
of the twenty-first century, he cites the ability of the United States to attract
the best and brightest from the rest of the world and meld them into a
diverse culture of creativity. China has a larger population to recruit from
domestically, but in his view, its Sinocentric culture will make it less
creative than the United States, which can draw on the whole world.
|
Quan trọng không kém là những lợi ích của sự nhập cư đối
với sức mạnh mềm của Mỹ. Bị thu hút bởi sự phấn đấu của những người nhập cư
Mỹ, mọi người muốn tới Mỹ. Nước Mỹ là một cục nam châm, và nhiều người có thể
hình dung bản thân mình là người Mỹ. Nhiều người Mỹ thành công trông giống
như người ở những nước khácl. Thay vì làm giảm bớt sức mạnh cứng và mềm, sự
nhập cư tăng cường cả hai. Khi Lý Quang Diệu của Xinhgapo kết luận rằng Trung
Quốc sẽ không vượt qua Mỹ với tư cách cường quốc hàng đầu của thế kỷ 21, ông
trích dẫn khả năng của Mỹ thu hút những người giỏi nhất và thông minh nhất từ
phần còn lại của thế giới và dung nạp họ vào một nền văn hoá đa dạng của sự
sáng tạo. Trung Quốc có một dân số lớn hơn để tuyển chọn từ trong nước, nhưng
theo quan điểm của ông, nền văn hoá lấy Trung Quốc làm trung tâm của nước này
sẽ khiến nó ít tính sáng tạo hơn Mỹ, vốn có thể lôi kéo toàn thế giới.
|
On the other hand, a failure in the performance of the
U.S. economy would be a showstopper. Keeping in mind that macroeconomic
forecasts (like weather forecasts) are notoriously unreliable, it appears
that the United States will experience slower growth in the decade after the
2008 financial crisis. The International Monetary Fund expects U.S. economic growth
to average about two percent in 2014. This is lower than the average over the
past several decades but roughly the same as the average rate over the past
ten years.
|
Mặt khác, một thất bại trong thành tích của nền kinh tế Mỹ
sẽ là một điểm dừng. Hãy nhớ rằng những dự báo về kinh tế vĩ mô (giống như dự
báo thời tiết) nổi tiếng là không thể tin cậy được, dường như là Mỹ sẽ trải
qua sự tăng trưởng chậm hơn trong thập kỷ sau cuộc khủng hoảng tài chính
2008. Quỹ Tiền tệ Quốc tế hy vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ đạt trung bình
khoảng 2% trong năm 201. Con số này thấp hơn mức trung bình trong vài thập kỷ
trước đó nhưng xấp xỉ gần với tỷ lệ trung bình trong 10 năm qua.
|
In the 1980s, many observers believed that the U.S.
economy had run out of steam and that Germany and Japan were overtaking the
United States. The country seemed to have lost its competitive edge. Today,
however, even after the financial crisis and the ensuing recession, the World
Economic Forum has ranked the United States fourth (after Switzerland,
Sweden, and Singapore) in global economic competitiveness. (China, in
comparison, was ranked 27th.) The U.S. economy leads in many new growth
sectors, such as information technology, biotechnology, and nanotechnology.
And even though optimists tend to cite the United States' dominance in the
production and use of information technology, that is not the only source of
U.S. productivity. The United States has seen significant agricultural
innovation, too, and its openness to globalization, if it continues, will
also drive up productivity. Economic experts project that American
productivity growth will be between 1.5 and 2.25 percent in the next decade.
|
Trong những năm 1980, nhiều nhà quan sát tin rằng nền kinh
tế Mỹ đã xì hết hơi và Đức và Nhật Bản đang vượt Mỹ. Đất nước này dường như
đã đánh mất lợi thế cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, hiện nay ngay cả sau cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kéo dài, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã xếp
Mỹ đứng thứ 4 (sau Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển và Xinhgapo) về năng lực canh tranh
kinh tế toàn cầu (so với Trung Quốc xếp thứ 27). Nền kinh tế Mỹ đi đầu trong
nhiều khu vực tăng trưởng mới, như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và
công nghệ nano. Và ngay dù những người lạc quan có xu hướng dẫn ra sự vượt
trội của Mỹ trong sản xuất và sử dụng công nghệ thông tin, thì đó không phải
là nguồn năng suất duy nhất của Mỹ. Mỹ cũng đã chứng kiến sự đổi mới nông
nghiệp đáng kể và sự mở cửa của nước này đối với toàn cầu hoá, nếu điều này
tiếp tục, cũng sẽ kéo năng suất lên. Các chuyên gia kinh tế dự đoán rằng tăng
trưởng về năng suất của Mỹ sẽ từ 1,5% đến 2,25% trong thập kỷ tới.
|
In terms of investment in research and development, the
United States was the world leader in 2007, with $369 billion, followed by
all of Asia ($338 billon) and the European Union ($263 billion). The United
States spent 2.7 percent of its GDP on research and development, nearly
double what China spent (but slightly less than the three percent spent by
Japan and South Korea). In 2007, American inventors registered about 80,000
patents in the United States, or more than the rest of the world combined. A
number of reports have expressed concern about problems such as high
corporate tax rates, the flight of human capital, and the growing number of
overseas patents, but U.S. venture capital firms invest 70 percent of their
money in domestic start-ups. A 2009 survey by the Global Entrepreneurship
Monitor ranked the United States ahead of other countries in opportunities
for entrepreneurship because it has a favorable business culture, the most
mature venture capital industry, close relations between universities and
industry, and an open immigration policy.
|
Về đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, Mỹ là nước đứng
đầu thế giới vào năm 2007, với 369 tỉ USD, theo sau là toàn bộ châu Á (338 tỉ
USD) và Liên minh châu Âu (263 tỉ USD). Mỹ đã chi 2,7 GDP của mình vào nghiên
cứu và phát triển, gần gấp đôi những gì Trung Quốc đã chi (nhưng ít hơn một
chút so với 3% mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã chi). Trong năm 2007, các nhà sáng
chế Mỹ đã đăng ký khoảng 80.000 bằng sáng chế ở Mỹ, hay nhiều hơn phần còn
lại của thế giới hợp lại. Một số báo cáo đã bày tỏ mối lo ngại về những vấn
đề như tỷ lệ thuế công ty cao, chảy máu nguồn vốn con người, và số bằng sáng
chế ở nước ngoài ngày càng tăng, nhưng các công ty vốn mạo hiểm đầu tư 70%
tiền của họ vào các công ty khởi nghiệp ở trong nước. Một cuộc điều tra nam
2009 của tổ chức Global Entrepreneurship Monitor (Giám sát doanh nhân toàn
cầu) đã xếp Mỹ ở trên những nước khác về các cơ hội cho doanh nhân bởi nước
này có một nền văn hoá kinh doanh thuận lợi, ngành công nghiệp đầu tư mạo
hiểm trưởng thành nhất, các mối quan hệ thân thiết giữa các trường đại học và
ngành công nghiệp, và một chính sách nhập cư mở.
|
Other concerns about the future of the U.S. economy focus
on the current account deficit (whose current level indicates that Americans
are becoming more indebted to foreigners) and the rise in government debt. In
the words of the historian Niall Ferguson, "This is how empires decline.
It begins with a debt explosion." Not only did the recent bank bailout
and Keynesian stimulus package add to U.S. debt, but the rising costs of
health care and entitlement programs such as Social Security, along with the
rising cost of servicing the debt, will claim large shares of future revenue.
Other observers are less alarmist. The United States, they claim, is not like
Greece.
|
Những mối lo ngại khác về tương lai của nền kinh tế Mỹ tập
trung vào thâm hụt tài khoản vãng lai (mà mức hiện nay chỉ ra rằng người Mỹ
đang ngày càng mắc nợ người nước ngoài hơn) và sự gia tăng nợ chính phủ. Theo
lời của sử gia Niall Ferguson, “Đây là cách các đế quốc suy thoái. Nó bắt đầu
bằng một sự bùng nổ nợ”. Không chỉ cứu trợ tài chính ngân hàng gần đây và gói
kích thích kinh tế kiểu Keynes làm tăng thêm nợ của Mỹ, mà phí tổn ngày càng
tăng của các chương trình chăm sóc y tế và đảm bảo phúc lợi cho tất cả những
người được thụ hưởng như An sinh xã hội, cùng với phí tổn ngày càng tăng của
việc trả lãi cho các khoản nợ, sẽ đòi hỏi những phần đóng góp lớn của thu
nhập tương lai. Các nhà quan sát khác ít gây hoang mang hơn. Họ tuyên bố Mỹ
không giống như Hy Lạp.
|
The Congressional Budget Office calculates that total
government debt will reach 100 percent of GDP by 2023, and many economists
begin to worry when debt levels in rich countries exceed 90 percent. But as
The Economist pointed out last June, "America has two huge advantages
over other countries that have allowed it to face its debt with relative
equanimity: possessing both the world's reserve currency and its most liquid
asset market, in Treasury bonds." And contrary to fears of a collapse of
confidence in the dollar, during the financial crisis, the dollar rose and
bond yields fell. A sudden crisis of confidence is less the problem than that
a gradual increase in the cost of servicing the debt could affect the
long-term health of the economy.
|
Văn phòng Ngân sách Quốc hội tính toán rằng tổng nợ chính
phủ sẽ lên tới 100% GDP vào năm 2023, và nhiều nhà kinh tế bắt đầu lo ngại
khi các mức nợ ở những nước giàu đã vượt quá 90%. Nhưng như tạp chí The
Economist đã chỉ ra hồi cuối tháng 6, “Mỹ có hai lợi thế khổng lồ so với
những nước khác cho phép nước này đối mặt với những khoản nợ của mình với
thái độ tương đối bình thản: có cả đồng tiền dự trữ của thế giới lẫn thị
trường tài sản có tính thanh khoản cao nhất của mình, trong trái phiếu kho
bạc”. Và trái ngược với những ngại về một sự sụp đổ lòng tin vào đồng đôla,
trong cuộc khủng hoảng tài chính, đồng đôla đã tăng lên và lợi tức trái phiếu
giảm xuống. Một cuộc khủng hoảng lòng tin đột ngột ít là vấn đề hơn một sự
gia tăng dần dần trong chi phí trả lãi cho các khoản nợ có thể ảnh hưởng đến
sức khoẻ dài hạn của nền kinh tế.
|
It is in this sense that the debt problem is important,
and studies suggest that interest rates rise 0.03 percent for every one
percent increase in the debt-to-GDP ratio over the long term. Higher interest
rates mean lower private-sector investment and slower growth. These effects
can be mitigated by good policies or exacerbated by bad ones. Increasing debt
need not lead to the United States' decline, but it certainly raises the
long-term risk.
|
Chính trong nghĩa này mà vấn đề nợ là quan trọng, và những
nghiên cứu cho thấy rằng lãi suất tăng 0,03% cho mỗi một phần trăm tăng lên
trong tỉ suất nợ trên GDP trong dài hạn. Lãi suất cao hơn có nghĩa là đầu tư
vào khu vực tư nhân thấp hơn và tăng trưởng chậm hơn. Những tác động này có
thể được giảm nhẹ bằng những chính sách tốt hoặc bị làm trầm trọng thêm bởi
những chính sách tồi. Nợ tăng lên không nhất thiết dẫn tới sự suy thoái của
Mỹ, nhưng nó chắc chắn làm tăng rủi ro dài hạn.
|
A well-educated labor force is another key to economic
success in the information age. At first glance, the United States does well
in this regard. It spends twice as much on higher education as a percentage
of GDP as do France, Germany, Japan, and the United Kingdom. The London-based
Times Higher Education's 2009 list of the top ten universities includes six
in the United States, and a 2010 study by Shanghai Jiao Tong University
places 17 U.S. universities -- and no Chinese universities -- among its top 20.
Americans win more Nobel Prizes and publish more scientific papers in
peer-reviewed journals -- three times as many as the Chinese -- than do the
citizens of any other country. These accomplishments enhance both the
country's economic power and its soft power.
|
Một lực lượng lao động được đào tạo tốt là một chìa khoá
khác cho thành công về kinh tế trong thời đại thông tin. Thoạt nhìn, Mỹ làm
tốt về mặt này. Nước này đã chi cho giáo dục đại học gấp đôi tính theo tỉ lệ
phần trăm GDP so với Pháp, Đức, Nhật Bản và Anh. Danh sách top 10 trường đại
học năm 2009 của Times Higher Education có trụ sở tại Luân Đôn bao gồm 6
trường ở Mỹ, và một nghiên cứu năm 2010 của Đại học Giao thông Thượng Hải xếp
17 trường của Mỹ – và không có trường nào của Trung Quốc – trong top 20 của
mình. Người Mỹ giành giải Nôben và công bố các tài liệu khoa học trên những
tạp chí được các nhà chuyên môn kiểm duyệt – gâp ba lần người Trung Quốc –
nhiều hơn công dân của bất cứ nước nào khác. Những thành tựu này tăng cường
cả sức mạnh kinh tế lẫn sức mạnh mềm của đất nước này.
|
American education at its best -- many universities and
the top slice of the secondary education system -- meets or sets the global
standard. But American education at its worst -- too many primary and
secondary schools, especially in less affluent districts -- lags badly
behind. This means that the quality of the labor force will not keep up with
the rising standards needed in an information-driven economy. There is no
convincing evidence that students are performing worse than in the past, but
the United States' educational advantage is eroding because other countries
are doing better than ever. Improvement in the country's K-12 education
system will be necessary if the country is to meet the standards needed in an
information-based economy.
|
Nền giáo dục Mỹ trong điều kiện tốt nhất của mình – nhiều
trường đại học và bộ phận trên trong hệ thống giáo dục trung học – đáp ứng
hoặc đưa ra các tiêu chuẩn toàn cầu. Nhưng nền giáo dục Mỹ trong điều kiện
tồi tệ nhất của mình – quá nhiều trường tiểu học và trung học, đặc biệt tại
những khu vực ít giàu có – tụt hậu nặng nề. Điều này có nghĩa là chất lượng
của lực lượng lao động sẽ không theo kịp các tiêu chuẩn đang tăng lên cần
thiết trong một nền kinh tế do thông tin thúc đẩy. Không có bằng chứng thuyết
phục rằng các sinh viên đang thể hiện tồi hơn trong quá khứ, nhưng lợi thế về
giáo dục của Mỹ đang xói mòn bởi vì các nước khác đang làm tốt hơn bao giờ
hết. Sự cải thiện trong hệ thống giáo dục K-12 của đất nước sẽ là cần thiết
nếu nước này muốn đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết trong một nền kinh tế dựa
trên thông tin.
|
POLITICS AND
INSTITUTIONS
Despite these problems and uncertainties, it seems
probable that with the right policies, the U.S. economy can continue to
produce hard power for the country. But what about U.S. institutions? The
journalist James Fallows, who spent years in China, came home worried less
about the United States' economic performance than the gridlock in its
political system. In his view, "America still has the means to address
nearly any of its structural weaknesses. . . . That is the American tragedy of
the early 21st century: a vital and self-renewing culture that attracts the
world's talent and a governing system that increasingly looks like a
joke." Although political gridlock in a period of recession looks bad,
it is difficult to ascertain whether the situation today is much worse than
in the past.
|
Hoạt động chính trị
và các thể chế
Bất chấp những vấn đề và sự không chắc chắn này, dường như
khả năng là với các chính sách đúng đắn, nền kinh tế Mỹ có thể tiếp tục tạo
ra sức mạnh cứng cho đất nước. Nhưng còn về các thể chế của Mỹ thì sao? Nhà
báo James Fallows, người đã sống nhiều năm ở Trung Quốc, trở về nước lo lắng
về thành tích kinh tế của Mỹ thì ít hơn so với những tắc nghẽn trong hệ thống
chính trị của nước này. Theo quan điểm của ông, “Mỹ vẫn có các phương tiện để
đối phó với gần như bất kỳ sự yếu kém về cơ cấu nào của nó… Đó là bi kịch của
Mỹ đầu thế kỷ 21: một nền văn hoá có ý nghĩa sống còn và tự đổi mới thu hút
nhân tài của thế giới và một hệ thống quản lý ngày càng giống như một trò
đùa”. Mặc dù bế tắc chính trị trong một giai đoạn suy thoái có vẻ tồi tệ,
nhưng khó xác định liệu tình trạng hiện nay có tồi tệ hơn nhiều so với quá
khứ hay không.
|
Power conversion -- translating power resources into
desired outcomes -- is a long-standing problem for the United States. The
U.S. Constitution is based on the eighteenth-century liberal view that power
is best controlled by fragmentation and countervailing checks and balances.
In foreign policy, the Constitution has always invited the president and
Congress to compete for control. Strong economic and ethnic pressure groups
struggle for their self-interested definitions of the national interest, and
Congress is designed to pay attention to squeaky wheels.
|
Sự chuyển đổi sức mạnh – chuyển các nguồn lực sức mạnh thành
kết quả mong muốn – là một vấn đề lâu dài đối với Mỹ. Hiến pháp Mỹ dựa trên
quan điểm tự do của thế kỷ 18 rằng sức mạnh được kiểm soát tốt nhất bởi sự
phân mảng và hệ thống “checks and balances” (kiểm tra và cân bằng) bù lại
(“checks and balances” là một hệ thống chính trị trong một nước dân chủ, gồm
3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó mỗi ngành có nhiệm vụ kiểm
soát quyền lực của hai ngành kia để tạo ra sự cân bằng quyền lực). Trong
chính sách đối ngoại, Hiến pháp luôn luôn khuyến khích Tổng thống và Quốc hội
cạnh tranh để giành quyền kiểm soát. Các nhóm gây sức ép về kinh tế và sắc
tộc mạnh mẽ đấu tranh đòi những sự định nghĩa có tính tư lợi của họ về lợi
ích quốc gia, và Quốc hội được định ra để tập trung vào những vấn đề trục
trặc.
|
Another cause for concern is the decline of public
confidence in government institutions. In 2010, a poll by the Pew Research
Center found that 61 percent of respondents thought the United States was in
decline, and only 19 percent trusted the government to do what is right most
of the time. In 1964, by contrast, three-quarters of the American public said
they trusted the federal government to do the right thing most of the time.
The numbers have varied somewhat over time, rising after 9/11 before
gradually declining again.
|
Một nguyên nhân khác của mối lo ngại là sự suy giảm lòng
tin của công chúng vào cac thể chế chính phủ. Trong năm 2010, một cuộc thăm
dò của Trung tâm nghiên cứu Pew thấy rằng 61% số người được hỏi nghĩ rằng Mỹ
đã suy thoái, và chỉ 19% tin rằng chính phủ làm điều gì là đúng đắn trong
phần lớn thời gian. Ngược lại, vào năm 1964, ba phần tư công chúng Mỹ nói
rằng họ tin chính phủ liên bang làm những việc đúng đắn trong hầu hết thời
gian. Các con số đã thay đổi phần nào qua thời gian, tăng sau sự kiện ngày
11/9 trước khi giảm dần trở lại.
|
The United States was founded in part on a mistrust of
government, and its constitution was designed to resist centralized power. Moreover,
when asked not about day-to-day government but about the underlying
constitutional framework, Americans are very positive. If asked where the
best place to live is, the overwhelming majority of them say the United
States. If asked whether they like their democratic system of government,
nearly everyone says yes. Few people feel the system is rotten and must be
overthrown.
|
Mỹ được hình thành một phần dựa vào một mối ngờ vực về
chính phủ, và hiến pháp của nước này được thiết kế để chống lại quyền lực tập
trung. Hơn nữa, khi được hỏi không phải về chính phủ thường ngày, mà về khuôn
khổ hiến pháp cơ bản, người Mỹ rất tích cực. Nếu được hỏi nơi tốt nhất để
sống là ở đâu, đại đa số trong số họ nói là Mỹ. Nếu được hỏi liệu họ có thích
hệ thống chính phủ dân chủ của mình hay không, gần như tất cả mọi người nói
có. Ít người cảm thấy hệ thống này mục nát và phải bị lật đổ.
|
Some aspects of the current mood probably represent
discontent with the bickering and deadlock in the political process. Compared
with the recent past, party politics has become more polarized, but nasty
politics is nothing new -- as John Adams, Alexander Hamilton, and Thomas
Jefferson could attest. Part of the problem with assessing the current
atmosphere is that trust in government became abnormally high among the
generation that survived the Depression and won World War II. Over the long
view of U.S. history, that generation may be the anomaly. Much of the
evidence for a loss of trust in government comes from modern polling data,
and responses are sensitive to the way questions are asked. The sharpest
decline occurred more than four decades ago, during the Johnson and Nixon
administrations.
|
Một số khía cạnh của tâm trạng hiện tại có thể thể hiện sự
bất mãn với những cuộc cãi vã và bế tắc trong tiến trình chính trị. So với
thời gian gần đây, hoạt động chính trị đảng phái đã trở nên phân cực hơn,
nhưng hoạt động chính trị tồi tệ không có gì mới – như John Adams, Alexander
Hamilton, và Thomas Jefferson có thể chứng thực. Một phần của vấn đề với việc
đánh giá bầu không khí hiện nay là việc niềm tin vào chính phủ đã trở nên cao
khác thường trong thế hệ đã sống sót qua cuộc Suy thoái và chiến thắng Chiến
tranh thế giới thứ Hai. Trong tầm nhìn dài về lịch sử nước Mỹ, thế hệ đó có
thể là bất thường. Nhiều bằng chứng về một sự mất lòng tin vào chính phủ xuất
phát từ dữ liệu thăm dò hiện đại, và những phản ứng rất nhạy cảm với cách các
câu hỏi được nêu ra. Sự suy thoái mạnh nhất đã xảy ra hơn bốn thập kỷ trước,
dưới thời Chính quyền Johnson và Nixon.
|
This does not mean that there are no problems with
declining confidence in government. If the public became unwilling to pay
taxes or comply with laws, or if bright young people refused to go into
public service, the government's capacity would be impaired, and people would
become more dissatisfied with the government. Moreover, a climate of distrust
can trigger extreme actions by deviant members of the population, such as the
1995 bombing of a federal office building in Oklahoma City. Such results
could diminish the United States' hard and soft power.
|
Điều này không có nghĩa là không có vấn đề với niềm tin
đang suy giảm vào chính phủ. Nếu công chúng trở nên không sẵn lòng nộp thuế
hoặc tuân theo pháp luật, hoặc nếu người trẻ tuổi sáng dạ từ chối tham gia
khu vực dịch vụ công, năng lực của chính phủ sẽ bị ảnh hưởng, và người ta sẽ
trở nên bất mãn hơn với chính phủ. Hơn nữa, một không khí nghi ngờ có thể gây
ra những hành động cực đoan của các thành viên lầm đường lạc lối trong dân
số, chẳng hạn như vụ đánh bom năm 1995 một toà nhà văn phòng liên bang ở
Oklahoma City. Những kết quả như vậy có thể làm giảm bớt sức mạnh cứng và mềm
của Mỹ.
|
As yet, however, these fears do not seem to have
materialized. The Internal Revenue Service has seen no increase in tax
cheating. By many accounts, government officials have become less corrupt
than in earlier decades, and the World Bank gives the United States a high
score (above the 90th percentile) on "control of corruption." The
voluntary return of census forms increased to 67 percent in 2000 and was
slightly higher in 2010, reversing a 30-year decline. Voting rates fell from
62 percent to 50 percent over the four decades after 1960, but the decline
stopped in 2000 and returned to 58 percent in 2008. In other words, the
public's behavior has not changed as dramatically as its responses to poll
questions indicates.
|
Tuy nhiên, cho đến nay, những nỗi lo sợ này dường như chưa
thành hiện thực. Cơ quan thuế vụ đã không thấy sự gia tăng trong gian lận
thuế. Theo nhiều thông tin thu thập đựơc, các quan chức chính phủ đã trở nên
ít tham nhũng hơn trong những thập kỷ trước đó, và Ngân hàng Thế giới cho Mỹ
một điểm số cao (đạt phân vị 90 trên một trăm) về “kiểm soát tham nhũng”.
Việc tự nguyện nộp lại bản khai điều tra tăng lên 67% vào năm 200 và cao hơn
một chút vào năm 2010, đảo ngược sự suy giảm 30 năm. Các tỷ lệ bỏ phiếu đã
rơi từ 62% xuống 50% trong bốn thập niên sau năm 1960, nhưng sự suy giảm đã
dừng lại vào năm 2000 và quay trở lại 58% vào năm 2008. Nói cách khác, hành
vi của công chúng không thay đổi đột ngột như phản ứng của họ đối với những
câu hỏi thăm dò ý kiến cho thấy.
|
How serious are changes in social capital when it comes to
the effectiveness of American institutions? The political scientist Robert
Putnam notes that community bonds have not weakened steadily over the last
century. On the contrary, U.S. history, carefully examined, is a story of ups
and downs in civic engagement. Three-quarters of Americans, according to the
Pew Partnership for Civic Change, feel connected to their communities and say
that the quality of life there is excellent or good. Another of the group's
polls found that 111 million Americans had volunteered their time to help solve
problems in their communities in the past 12 months and that 60 million
volunteer on a regular basis. Forty percent said working together with others
in their community was the most important thing they could do.
|
Những thay đổi trong vốn xã hội nghiêm trọng như thế nào
khi nói đến hiệu quả của các thể chế của Mỹ? Nhà khoa học chính trị Robert
Putnam lưu ý rằng trái phiếu cộng đồng đã không suy yếu dần dần trong thế kỷ
qua. Ngược lại, lịch sử Mỹ, được xem xét một cách cẩn thận, là một câu chuyện
về những thăng trầm trong sự can sự dân sự. Theo Pew Partnership for Civic
Change, ba phần tư người Mỹ cảm thấy có liên kết với cộng đồng của họ và nói
rằng chất lượng cuộc sống ở đó tuyệt vời hoặc tốt. Một cuộc thăm dò khác
trong các cuộc thăm dò của nhóm này thấy rằng 111 triệu người Mỹ đã tình
nguyện dành thời gian của họ để giúp giải quyết những vấn đề trong các cộng
đồng của họ trong 12 tháng qua và rằng 60 triệu người tình nguyện trên cơ sở
thường xuyên. Bốn mươi phần trăm nói rằng làm việc cùng với những người khác
trong cộng đồng của họ là điều quan trọng nhất mà họ có thể làm.
|
In recent years, U.S. politics and political institutions have
become more polarized than the actual distribution of public opinion would
suggest. The situation has been exacerbated by the recent economic downturn.
As The Economist noted, "America's political system was designed to make
legislation at the federal level difficult, not easy. . . . So the basic
system works; but that is no excuse for ignoring areas where it could be
reformed." Some important reforms -- such as changing the gerrymandered
safe seats in the House of Representatives or altering Senate rules about
filibusters -- would not require any constitutional amendment. Whether the
U.S. political system can reform itself and cope with the problems described
above remains to be seen, but it is not as broken as implied by critics who
draw analogies to the domestic decay of Rome or other empires.
|
Trong những năm gần đây, hoạt động chính trị và các thể
chế chính trị của Mỹ đã trở nên phân cực hơn so với sự phân loại thực tế của
công luận cho thấy. Tình hình trầm trọng thêm bởi sự suy thoái kinh tế gần
đây. Như The Economist lưu ý, “hệ thống chính trị của Mỹ được thiết kế để làm
cho việc lập pháp ở cấp liên bang khó khăn, chứ không phải dễ dàng… Như vậy
hệ thống cơ bản phát huy tác dụng; nhưng điều đó khong có lý do gì để bào
chữa cho việc bỏ qua các khu vực mà có thể được cải cách”. Một số cải cách
quan trọng, chẳng hạn như thay đổi những ghế an toàn được sắp xếp gian lận
trong Hạ viện hoặc sửa đổi các quy định của Thượng viện đối với những người
cản trở việc thông qua một dự luật – sẽ không yêu cầu bất kỳ sự sửa đổi về
hiến pháp nào. Vẫn còn phải xem liệu hệ thống chính trị Mỹ có thể cải cách
chính nó và đối phó với các vấn đề được miêu tả ở trên hay không, nhưng nó
không tan vỡ như ngụ ý của các nhà phê bình vẽ ra những tương đồng đối với
tình trạng suy tàn trong nước của La Mã hoặc các đế chế khác.
|
DEBATING DECLINE
Any net assessment of American power in the coming decades
will remain uncertain, but analysis is not helped by misleading metaphors of
decline. Declinists should be chastened by remembering how wildly exaggerated
U.S. estimates of Soviet power in the 1970s and of Japanese power in the
1980s were. Equally misguided were those prophets of unipolarity who argued a
decade ago that the United States was so powerful that it could do as it
wished and others had no choice but to follow. Today, some confidently
predict that the twenty-first century will see China replace the United
States as the world's leading state, whereas others argue with equal
confidence that the twenty-first century will be the American century. But
unforeseen events often confound such projections. There is always a range of
possible futures, not one.
|
Sự suy thoái gây
tranh luận
Bất kỳ đánh giá thực nào về quyền lực Mỹ trong những thập
kỷ tới sẽ vẫn không chắc chắn, nhưng sự phân tích không được giúp đỡ bởi
những phép ẩn dụ sai lệch về sự suy thoái. Những nhà phát triển lý thuyết suy
thoái nên được cảnh tỉnh bằng việc ghi nhớ cách đánh giá cực kỳ phóng đại của
Mỹ về sức mạnh của Liên Xô những năm 1970 và về sức mạnh của Nhật Bản những
năm 1980 như thế nào. Sai lầm không kém là những người tiên đoán về sự đơn
cực đó vốn lập luận một thập kỷ trước rằng Mỹ đã mạnh mẽ đến mức nước này có
thể làm như mình muốn và những nước khác không có lựa chọn nào khác ngoài làm
theo. Ngày nay, một số người tự tin dự đoán rằng thế kỷ 21 sẽ chứng kiến Trung
Quốc thay thế Mỹ với tư cách nhà nước lãnh đạo thế giới, trong khi những
người khác lập luận với sự tự tin không kém rằng thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của
Mỹ. Nhưng những sự kiện không lường trước được thường làm hỏng những dự đoán
như vậy. Luôn có một loạt những tương lai có thể xảy ra, không phải một.
|
As for the United States' power relative to China's, much
will depend on the uncertainties of future political change in China. Barring
any political upheaval, China's size and high rate of economic growth will
almost certainly increase its relative strength vis-à-vis the United States.
This will bring China closer to the United States in power resources, but it
does not necessarily mean that China will surpass the United States as the
most powerful country -- even if China suffers no major domestic political
setbacks. Projections based on GDP growth alone are one-dimensional. They
ignore U.S. advantages in military and soft power, as well as China's
geopolitical disadvantages in the Asian balance of power.
|
Về sức mạnh của Mỹ có liên quan đến sức mạnh của Trung
Quốc, nhiều điều sẽ phụ thuộc vào những bấp bênh của sự thay đổi chính trị
trong tương lai tại Trung Quốc. Trừ phi có bất kỳ cuộc chính biến nào, quy mô
và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao của Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ làm tăng
sức mạnh tương đối của nước này so với Mỹ. Điều này sẽ đưa Trung Quốc lại gần
Mỹ hơn về các nguồn lực sức mạnh, nhưng không nhất thiết có nghĩa rằng Trung
Quốc không phải chịu những bước thụt lùi về chính trị lớn ở trong nước. Những
dự đoán dựa trên chỉ riêng tăng trưởng GDP là một chiều. Chúng bỏ qua những
lợi thế của Mỹ trong sức mạnh quân sự và sức mạnh mềm, cũng như những bất lợi
địa chính trị của Trung Quốc trong cán cân quyền lực của châu Á.
|
Among the range of possible futures, the more likely are
those in which China gives the United States a run for its money but does not
surpass it in overall power in the first half of this century. Looking back
at history, the British strategist Lawrence Freedman has noted that the
United States has "two features which distinguish it from the dominant
great powers of the past: American power is based on alliances rather than
colonies and is associated with an ideology that is flexible. . . . Together
they provide a core of relationships and values to which America can return
even after it has overextended itself." And looking to the future, the
scholar Anne-Marie Slaughter has argued that the United States' culture of
openness and innovation will keep it central in a world where networks
supplement, if not fully replace, hierarchical power.
|
Trong loạt những tương lai có thể xảy ra, nhiều khả năng
hơn là những tương lai trong đó Trung Quốc cạnh tranh quyết liệt với Mỹ nhưng
không vượt qua nước này về sức mạnh tổng thể trong nửa đầu thế kỷ này. Nhìn
lại lịch sử, chiến lược gia người Anh Lawrence Freedman đã lưu ý rằng Mỹ có
“hai đặc điểm phân biệt nước này với các cường quốc thống trị trong quá khứ:
sức mạnh của Mỹ dựa trên các liên minh chứ không phải các thuộc địa và được
kết hợp với một ý thức hệ linh hoạt… Cùng nhau chúng tạo ra một nòng cốt của
những mối quan hệ và những giá trị mà Mỹ có thể quay trở lại ngay cả sau khi
nước này đã tự mình mở rộng quá mức”. Và nhìn về tương lai, học giả Anne –
Marie Slaughter đã lập luận rằng văn hoá cởi mở và đổi mới của Mỹ sẽ giữ cho
nó ở trung tâm trong một thế giới nơi các mạng lưới bổ sung, nếu không nói là
hoàn toàn thay thế, sức mạnh theo thứ bậc.
|
The United States is well placed to benefit from such
networks and alliances, if it follows smart strategies. Given Japanese
concerns about the rise of Chinese power, Japan is more likely to seek U.S.
support to preserve its independence than ally with China. This enhances the
United States' position. Unless Americans act foolishly with regard to Japan,
an allied East Asia is not a plausible candidate to displace the United
States. It matters that the two entities in the world with per capita incomes
and sophisticated economies similar to those of the United States -- the
European Union and Japan -- both are U.S. allies. In traditional realist
terms of balances of power resources, that makes a large difference for the
net position of U.S. power. And in a more positive-sum view of power -- that
of holding power with, rather than over, other countries -- Europe and Japan
provide the largest pools of resources for dealing with common transnational
problems. Although their interests are not identical to those of the United
States, they share overlapping social and governmental networks with it that
provide opportunities for cooperation.
|
Mỹ cũng được ở vào vị trí thuận lợi để hưởng lợi từ những
mạng lưới và liên minh như vậy, nếu nước này theo các chiến lược khôn ngoan.
Do những lo ngại của Nhật Bản về sự gia tăng sức mạnh của Trung Quốc, Nhật
Bản có khả năng hơn tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ để bảo vệ sự độc lập của mình
thay vì liên minh với Trung Quốc. Điều này làm tăng vị thế của Mỹ. Trừ phi
người Mỹ hành động một cách thiếu khôn ngoan đối với Nhật Bản, một Đông Á
đồng minh không phải là một ứng cử viên đáng tin cậy để thay thế theo đầu
người và các nền kinh tế tân tiến tương tự như của Mỹ – đó là Liên minh châu
Âu và Nhật Bản – thì đều là đồng minh của Mỹ. Trong biểu hiện mang tính hiện
thực truyền thống dưới dạng những cán cân nguồn lực sức mạnh, điều đó tạo ra
một sự khác biệt lớn đối với vị trí thực của sức mạnh Mỹ. Và trong một quan
điểm về sức mạnh kiểu mọi thành phần tham gia đều có cơ hội thắng hơn – rằng
nắm quyền lực cùng với, thay vì đối với, các nước khác – châu Âu và Nhật Bản
cung cấp các nhóm nguồn lực lớn nhất để đối phó với các vấn đề xuyên quốc gia
chung. Mặc dù lợi ích của họ không đồng nhất với những lợi ích của Mỹ, họ
chia sẻ các mạng lưới xã hội và chính phủ gối lên nhau với Mỹ, điều đem lại
các cơ hội hợp tác.
|
On the question of absolute, rather than relative, American
decline, the United States faces serious problems in areas such as debt,
secondary education, and political gridlock. But they are only part of the
picture. Of the multiple possible futures, stronger cases can be made for the
positive ones than the negative ones. But among the negative futures, the
most plausible is one in which the United States overreacts to terrorist
attacks by turning inward and thus cuts itself off from the strength it
obtains from openness. Barring such mistaken strategies, however, there are
solutions to the major American problems of today. (Long-term debt, for
example, could be solved by putting in place, after the economy recovers,
spending cuts and consumption taxes that could pay for entitlements.) Of
course, such solutions may forever remain out of reach. But it is important
to distinguish hopeless situations for which there are no solutions from
those that could in principle be solved. After all, the bipartisan reforms of
the Progressive era a century ago rejuvenated a badly troubled country.
|
Về vấn đề sự suy thoái tuyệt đối, thay vì tương đối, của
Mỹ, nước Mỹ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng trong các lĩnh vực như
nợ, giáo dục trung học, và bế tắc chính trị. Nhưng chúng chỉ là một phần của
bức tranh. Nằm trong nhiều tương lai có thể xảy ra, những trường hợp rõ ràng
hơn có thể được tao ra cho những tương lai tích cực hơn là những tương lai
tiêu cực. Nhưng trong những tương lai tiêu cực, tương lai hợp lý nhất là một
tương lai trong đó Mỹ phản ứng quá mức với các cuộc tấn công khủng bố bằng
cách chuyển sang hướng nội và do đó tự cắt đứt mình khỏi sức mạnh mà nước này
có được từ sự mở cửa. Tuy nhiên, trừ phi có những chiến lược sai lầm như vậy,
có những giải pháp cho các vấn đề chính của Mỹ ngày nay. (Chẳng hạn, nợ dài
hạn có thể được giải quyết bằng cách sau khi nền kinh tế hồi phục đưa ra
những sự cắt giảm chi tiêu và thuế tiêu thụ có thể trả tiền phúc lợi.) Tất
nhiên, những giải pháp như vậy có thể mãi mãi vẫn còn nằm ngoài tầm với.
Nhưng điều quan trọng là phân biệt những tình huống tuyệt vọng mà trong đó
không có giải pháp nào với những tình huống mà trên nguyên tắc có thể được
giải quyết. Rốt cuộc, những cải cách lưỡng đảng của thời đại Tiến bộ cách đây
một thế kỷ đã phục hồi một đất nước bị
rối loạn nặng nề.
|
A NEW NARRATIVE
It is time for a new narrative about the future of U.S.
power. Describing power transition in the twenty-first century as a
traditional case of hegemonic decline is inaccurate, and it can lead to
dangerous policy implications if it encourages China to engage in adventurous
policies or the United States to overreact out of fear. The United States is
not in absolute decline, and in relative terms, there is a reasonable
probability that it will remain more powerful than any single state in the
coming decades.
|
Một câu chuyện mới
Đã đến lúc có một câu chuyện mới về tương lai của sức mạnh
Mỹ. Mô tả sự chuyển giao quyền lực trong thế kỷ 21 như một trường hợp suy
giảm bá quyền truyền thống là không chính xác, và nó có thể dẫn đến những tác
động về chính sách nguy hiểm nếu nó khuyến khích Trung Quốc can dự vào các
chính sách mạo hiểm hay Mỹ phản ứng thái quá vì sợ hãi. Mỹ không phải trong
tình trạng suy thoái tuyệt đối, và về mặt tương đối, có một khả năng hợp lý
rằng nước này sẽ vẫn hùng mạnh hơn bất kỳ nhà nước đơn lẻ nào trong những
thập kỷ tới.
|
At the same time, the country will certainly face a rise
in the power resources of many others -- both states and nonstate actors.
Because globalization will spread technological capabilities and information
technology will allow more people to communicate, U.S. culture and the U.S.
economy will become less globally dominant than they were at the start of
this century. Yet it is unlikely that the United States will decay like
ancient Rome, or even that it will be surpassed by another state, including
China.
|
Đồng thời, đất nước này chắc chắn sẽ phải đối mặt với sự
trỗi dậy trong các nguồn lực sức mạnh của nhiều nước khác – cả các bên tham
gia nhà nước lẫn không phải nhà nước. Bởi sự toàn cầu hoá sẽ làm lan truyền
những khả năng công nghệ và công nghệ thông tin sẽ cho phép thêm nhiều người
giao thiệp hơn, văn hoá Mỹ và nền kinh tế Mỹ sẽ trở nên ít mang tính chi phối
trên toàn cầu hơn so với lúc bắt đầu của thế kỷ này. Tuy nhiên, không có khả
năng là Mỹ sẽ suy tàn giống như La Mã cổ đại, hoặc thậm chí là nước này sẽ bị
một nhà nước khác vượt qua, trong đó có Trung Quốc.
|
The problem of American power in the twenty-first century,
then, is not one of decline but what to do in light of the realization that
even the largest country cannot achieve the outcomes it wants without the
help of others. An increasing number of challenges will require the United
States to exercise power with others as much as power over others. This, in
turn, will require a deeper understanding of power, how it is changing, and
how to construct "smart power" strategies that combine hard- and
soft-power resources in an information age. The country's capacity to
maintain alliances and create networks will be an important dimension of its
hard and soft power.
|
Như vậy, vấn đề về sức mạnh của Mỹ trong thế kỷ 21 không
phải là vấn đề suy giảm mà là phải làm gì dưới ánh sáng của nhận thức rằng
ngay cả đất nước lớn nhất cũng không thể đạt được những kết quả mình mong
muốn nếu không có sự giúp đỡ của những nước khác. Một số lượng ngày càng tăng
những thách thức sẽ đòi hỏi Mỹ thể hiện sức mạnh cùng với những nước khác
cũng nhiều như sức mạnh đối với những nước khác. Điều này đến lượt nó sẽ đòi
hỏi một sự hiểu biết sâu sắc hơn về sức mạnh, nó đang thay đổi như thế nào,
và làm thế nào để xây dựng những chiến lược “sức mạnh thông minh” kết hợp
những nguồn lực sức mạnh cứng và mềm trong một thời đại thông tin. Khả năng
của đất nước này duy trì các liên minh và tạo ra những mạng lưới sẽ là một
khía cạnh quan trọng trong sức mạnh cứng và mềm của nó.
|
Power is not good or bad per se. It is like calories in a
diet: more is not always better. If a country has too few power resources, it
is less likely to obtain its preferred outcomes. But too much power (in terms
of resources) has often proved to be a curse when it leads to overconfidence
and inappropriate strategies. David slew Goliath because Goliath's superior
power resources led him to pursue an inferior strategy, which in turn led to
his defeat and death. A smart-power narrative for the twenty-first century is
not about maximizing power or preserving hegemony. It is about finding ways
to combine resources in successful strategies in the new context of power
diffusion and "the rise of the rest."
|
Sức mạnh bản chất là không tốt hay xấu. Nó giống như calo
trong chế độ ăn uống: nhiều hơn không phải luôn tốt hơn. Nếu một đất nước có
quá ít nguồn lực sức mạnh, nước này ít có khả năng đạt được những kết quả ưa
thích của mình. Nhưng quá nhiều sức mạnh (về nguồn lực) thường tỏ ra là một
tai ương khi nó dẫn đến sự tự tin quá mức và những chiến lược không thích
hợp. David giết được Goliath vì nguồn lực sức mạnh ưu việt của Goliath khiến
hắn theo đuổi một chiến lược yếu kém hơn, chiến lược mà đến lượt nó dẫn đến
thất bại và cái chết của hắn. Một câu chuyện về sức mạnh thông minh cho thế
kỷ 21 không phải về việc tối đa hoá sức mạnh hoặc duy trì bá quyền. Đó là về
việc tìm ra cách để kết hợp các nguồn lực trong những chiến lược thành công
trong bối cảnh mới của sự khuếch tán quyền lực và “sự trỗi dậy của phần còn
lại”.
|
As the largest power, the United States will remain
important in global affairs, but the twentieth-century narrative about an
American century and American primacy -- as well as narratives of American
decline -- is misleading when it is used as a guide to the type of strategy
that will be necessary in the twenty-first century. The coming decades are not
likely to see a post-American world, but the United States will need a smart
strategy that combines hard- and soft-power resources -- and that emphasizes
alliances and networks that are responsive to the new context of a global
information age.
|
Là quốc gia lớn nhất, Mỹ sẽ vẫn quan trọng trong các vấn
đề toàn cầu, nhưng câu chuyện của thế kỷ 20 về một thế kỷ Mỹ và sự ưu việt Mỹ
– cũng như những câu chuyện về sự suy thoái của Mỹ – gây hiểu lầm khi nó được
sử dụng như một sự chỉ dẫn cho kiểu chiến lược sẽ cần thiết trong thể kỷ 21.
Những thập kỷ tới không có khả năng chứng kiến một thế giới hậu Mỹ, nhưng Mỹ
sẽ cần một chiến lược thông minh kết hợp các nguồn lực sức mạnh cứng và mềm –
và chú trọng đến những liên minh và những mạng lưới đáp ứng được với bối cảnh
mới của một thời đại thông tin toàn cầu.
|
|
|
|
|
http://www.foreignaffairs.com/articles/63394/fareed-zakaria/the-future-of-american-power
|
Subscribe to:
Posts (Atom)