MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Saturday, October 11, 2014

WHAT IS PHILOSOPHY? TRIẾT HỌC LÀ GÌ?





WHAT IS PHILOSOPHY?
1. Philosophy is the study of general and fundamental problems, such as those connected with reality, existence, knowledge, values, reason, mind, and language. Philosophy is distinguished from other ways of addressing such problems by its critical, generally systematic approach and its reliance on rational argument. The word "philosophy" comes from the Greek φιλοσοφία (philosophia), which literally means "love of wisdom". In more casual speech the "philosophy" of a particular person can refer to the beliefs held by that person.

TRIẾT HỌC LÀ GÌ?
1. Triết học là khoa học nghiên cứu về các vấn đề nền tảng và tổng quát, như: thực tại, hiện hữu, nhận thức, các giá trị, lý tính, tinh thần và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những lối diễn đạt các vấn đề ấy theo cách khác bằng sự tiếp cận phê phán, nhìn chung là có tính hệ thống, của nó và việc nó dựa trên luận cứ thuần lý. Chữ “triết học” có gốc từ chữ φιλοσοφία (philosophia) trong tiếng Hy Lạp, nghĩa đen là “yêu mến sự minh triết”. Theo lối nói thông thường hơn, “triết học” của cá thể một người có thể dùng để chỉ những niềm tin của người ấy.
2. Areas of inquiry
The main areas of study in philosophy today include logic, metaphysics, epistemology, ethics, and aesthetics.
2. Những lĩnh vực nghiên cứu
Những lĩnh vực nghiên cứu chính trong triết học ngày nay gồm: siêu hình học, logic học, nhận thức luận, đạo đức học và mỹ học.

2.1. Metaphysics
Metaphysics is the study of the most general features of reality, such as existence, time, the relationship between mind and body, objects and their properties, wholes and their parts, events, processes, and causation. Traditional branches of metaphysics include cosmology, the study of the world in its entirety, and ontology, the study of being.
2.1. Siêu hình học
Siêu hình học là khoa học nghiên cứu về những đặc điểm phổ biến nhất của thực tại, như: hiện hữu, thời gian, mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác, các vật thể và các thuộc tính của chúng, những cái toàn bộ và các bộ phận của chúng, những sự biến, những quá trình và quan hệ nhân quả. Các bộ phận truyền thống của môn siêu hình học gồm: vũ trụ học, khoa học nghiên cứu về thế giới trong toàn thể của nó, và bản thể học, khoa học nghiên cứu về tồn tại.


Within metaphysics itself there are a wide range of differing philosophical theories. Idealism, for example, is the belief that reality is mentally constructed or otherwise immaterial while realism holds that reality, or at least some part of it, exists independently of the mind. Subjective idealism describes objects as no more than collections or "bundles" of sense data in the perceiver. The 18th century philosopher George Berkeley contended that existence is fundamentally tied to perception with the phrase Esse est aut percipi aut percipere or "To be is to be perceived or to perceive".

Trong bản thân môn siêu hình học có rất nhiều lý thuyết triết học khác nhau. Thuyết duy tâm, chẳng hạn, là niềm tin cho rằng thực tại là do tinh thần kiến tạo hay nói cách khác là phi-vật chất, trong khi đó thuyết duy thực lại cho rằng thực tại, hay ít ra là một phần của thực tại, tồn tại độc lập với tinh thần. Thuyết duy tâm chủ quan mô tả các đối tượng không gì khác hơn là những tập hợp hay những “bó” dữ liệu cảm giác ở người tri giác. Triết gia thế kỷ 18 là George Berkeley thừa nhận rằng hiện hữu về cơ bản là gắn với tri giác bằng thành ngữ Esse est aut percipi aut percipere (Tồn tại là được tri giác hay tri giác”

In addition to the aforementioned views, however, there is also an ontological dichotomy within metaphysics between the concepts of particulars and universals as well. Particulars are those objects that are said to exist in space and time, as opposed to abstract objects, such as numbers. Universals are properties held by multiple particulars, such as redness or a gender. The type of existence, if any, of universals and abstract objects is an issue of serious debate within metaphysical philosophy. Realism is the philosophical position that universals do in fact exist, while nominalism is the negation, or denial of universals, abstract objects, or both. Conceptualism holds that universals exist, but only within the mind's perception.

Tuy nhiên, ngoài những quan niệm được ở trên, trong siêu hình học còn có sự phân đôi bản thể học giữa khái niệm về những cái đặc thù và khái niệm về những cái phổ quát. Những cái đặc thù là những đối tượng được cho là tồn tại trong không gian và thời gian, đối lập với những đối tượng trừu tượng, ví dụ như những con số. Những cái phổ quát là những thuộc tính của nhiều cái đặc thù, ví dụ như màu đỏ hay loài. Kiểu loại tồn tại, nếu có thể nói như vậy, của những cái phổ quát và những đối tượng trừu tượng là một vấn đề bàn luận nghiêm túc trong triết học siêu hình học. Thuyết duy thực là lập trường triết học cho rằng những cái phổ quát trên thực tế là tồn tại, trong khi đó thuyết duy danh là sự phủ định hay phủ nhận những cái phổ quát, những đối tượng trừu tượng, hay phủ nhận cả hai. Thuyết duy khái niệm cho rằng những cái phổ quát tồn tại, nhưng chỉ trong sự tri giác của tinh thần.

The question of whether or not existence is a predicate has been discussed since the Early Modern period. Essence is the set of attributes that make an object what it fundamentally is and without which it loses its identity. Essence is contrasted with accident: a property that the substance has contingently, without which the substance can still retain its identity.

Câu hỏi hiện hữu có phải là một thuộc tính hay không đã được bàn luận từ giai đoạn đầu của thời hiện đại. Bản chất là tập hợp các thuộc tính làm cho một đối tượng về cơ bản là chính nó và nếu không có nó thì đối tượng mất đi tính đồng nhất của nó. Bản chất tương phản với tùy thể: một thuộc tính mà bản thể ngẫu nhiên có; nếu không có tùy thể, bản thể có thể vẫn còn trong trạng thái đồng nhất với chính nó.

2.2. Logic

Logic is the study of the principles of correct reasoning. Arguments use either deductive reasoning or inductive reasoning. Deductive reasoning is when, given certain statements (called premises), other statements (called conclusions) are unavoidably implied. Rules of inferences from premises include the most popular method, modus ponens, where given “A” and “If A then B”, then “B” must be concluded. A common convention for a deductive argument is the syllogism. An argument is termed valid if its conclusion does indeed follow from its premises, whether the premises are true or not, while an argument is sound if its conclusion follows from premises that are true. Propositional logic uses premises that are propositions, which are declarations that are either true or false, while predicate logic uses more complex premises called formulae that contain variables. These can be assigned values or can be quantified as to when they apply with the universal quantifier (always apply) or the existential quanlifier (applies at least once). Inductive reasoning makes conclusions or generalizations based on probabilistic reasoning. For example, if “90% of humans are right-handed” and “Joe is human” then “Joe is probably right-handed”. Fields in logic include mathematical logic (formal symbolic logic) and philosophical logic.

2.2. Logic học
Logic học là khoa học nghiên cứu các nguyên tắc lập luận đúng. Những luận cứ sử dụng hoặc là lập luận diễn dịch hoặc là lập luận quy nạp. Lập luận diễn dịch là khi, giả sử có những phát biểu nào đó (được gọi là những tiền đề), những phát biểu khác (được gọi là những kết luận) được bao hàm một cách không thể tránh khỏi. Các quy tắc suy diễn từ những tiền đề gồm phương pháp thông dụng nhất, modus ponens [dạng thức khẳng định], ở đó giả sử “A” và “Nếu A thì B”, thì “B” phải được kết luận. Một quy ước chung cho luận cứ diễn dịch là phép tam đoạn luận. Một luận cứ được coi là có giá trị hiệu lực nếu kết luận của nó quả thực rút ra từ những tiền đề của nó, cho dù những tiền đề ấy đúng hay không đúng, trong khi đó một luận cứ [được coi là] vững chắc nếu kết luận của nó rút ra từ những tiền đề đúng đắn. Logic mệnh đề sử dụng những tiền đề là các mệnh đề, những mệnh đề ấy là những lời tuyên bố hoặc đúng hoặc sai, trong khi đó logic vị từ sử dụng những tiền đề phức tạp hơn được gọi là biểu thức chứa các biến. Các biến này có thể được gán các giá trị hay có thể được định lượng ở chỗ khi chúng áp dụng với lượng từ phổ quát (luôn luôn áp dụng)  hay lượng từ tồn tại (áp dụng ít nhất là một lần). Lập luận quy nạp đưa ra những kết luận hay những sự khái quát hóa dựa trên lập luận xác suất. Ví dụ: nếu “90% con người đều thuận tay phải” và “Joe là con người” thì “Joe có thể thuận tay phải”. Các lĩnh vực trong logic học gồm: logic toán học (logic ký hiệu hình thức) và logic triết học.

EPISTEMOLOGY
Epistemology is concerned with the nature and scope of knowledge, such as the relationships between truth, belief, and theories of justification.
NHẬN THỨC LUẬN
Nhận thức luận bàn về bản tính và phạm vi của nhận thức, như các quan hệ giữa chân lý, lòng tin và các lý thuyết về biện minh.

Skepticism is the position which questions the possibility of completely justifying any truth. The regress argument, a fundamental problem in epistemology, occurs when, in order to completely prove any statement P, its justification itself needs to be supported by another justification. This chain can do three possible options, all of which are unsatisfactory according to the Münchhausen Trilemma. One option is infinitism, where this chain of justification can go on forever. Another option is foundationalism, where the chain of justifications eventually relies on basic beliefs or axioms that are left unproven. The last option, such as in coherentism, is making the chain circular so that a statement is included in its own chain of justification.

Thuyết hoài nghi là lập trường truy vấn khả thể của việc biện minh đầy đủ bất cứ chân lý nào. Luận cứ quy thoái, một vấn đề nền tảng trong nhận thức luận, diễn ra khi, để chứng minh đầy đủ bất cứ phán đoán P nào, bản thân sự biện minh của nó cần được nâng đỡ bằng một biện minh khác. Chuỗi này có thể thực hiện ba sự lựa chọn có thể có, mà theo thế tam nan Münchhausen thì cả ba lựa chọn này đều không thỏa mãn. Lựa chọn thứ nhất là vô tận luận: chuỗi biện minh này có thể đi đến vô cùng tận. Lựa chọn thứ hai là duy căn luận: chuỗi biện minh rốt cuộc phải lấy những lòng tin cơ bản hay những tiên đề không thể chứng minh làm căn cứ. Lựa chọn cuối cùng, như ở cố kết luận, là tạo ra chuỗi vòng luẩn quẩn sao cho một phát biểu được bao gồm trong chuỗi biện minh của chính nó.

Rationalism is the emphasis on reasoning as a source of knowledge. Empiricism is the emphasis on observational evidence via sensory experience over other evidence as the source of knowledge. Rationalism claims that every possible object of knowledge can be deduced from coherent premises without observation. Empiricism claims that at least some knowledge is only a matter of observation. For this, Empiricism often cites the concept of tabula rasa, where individuals are not born with mental content and that knowledge builds from experience or perception. Epistemological solipsism is the idea that the existence of the world outside the mind is an unresolvable question.
Thuyết duy lý là sự nhấn mạnh đến lập luận như là một nguồn suối của nhận thức. Thuyết duy nghiệm là sự nhấn mạnh đến bằng chứng quan sát qua kinh nghiệm của giác quan hơn so với bằng chứng khác như là nguồn suối của nhận thức. Thuyết duy lý yêu sách rằng mọi đối tượng khả hữu của nhận thức có thể được rút ra từ những tiền đề mạch lạc, không cần đến sự quan sát. Thuyết duy nghiệm yêu sách rằng ít ra một nhận thức nào đó chỉ là một vấn đề quan sát. Đối với yêu sách này, thuyết duy nghiệm thường dẫn ra khái niệm tabula rasa: con người ta được sinh ra thì trong đầu chưa có nội dung nào cả, và nhận thức hình thành từ kinh nghiệm hay tri giác. Thuyết duy ngã nhận thức luận là ý niệm cho rằng sự tồn tại của thế giới ở bên ngoài tinh thần là một vấn đề không thể giải quyết.


Parmenides (fl. 500 BC) argued that it is impossible to doubt that thinking actually occurs. But thinking must have an object, therefore something beyond thinking really exists. Parmenides deduced that what really exists must have certain properties—for example, that it cannot come into existence or cease to exist, that it is a coherent whole, that it remains the same eternally (in fact, exists altogether outside time). This is known as the third man argument. Plato (427–347 BC) combined rationalism with a form of realism. The philosopher's work is to consider being, and the essence (ousia) of things. But the characteristic of essences is that they are universal. The nature of a man, a triangle, a tree, applies to all men, all triangles, all trees. Plato argued that these essences are mind-independent "forms", that humans (but particularly philosophers) can come to know by reason, and by ignoring the distractions of sense-perception.

Parmenides (khoảng 500 TCN) cho rằng điều không thể nghi ngờ là tư duy đang thực sự diễn ra. Nhưng tư duy phải có một đối tượng, do đó cái gì đó vượt khỏi tư duy đang tồn tại thực. Parmenides suy ra rằng cái tồn tại thực phải có những thuộc tính nhất định – chẳng hạn: nó không thể xuất hiện hay mất đi, nó là một cái toàn bộ cố kết, nó vĩnh viễn vẫn là như vậy (quả vậy, nó hoàn toàn nằm ở bên ngoài thời gian). Điều này được ta biết đến với tên gọi luận cứ đệ tam nhân. Platon (427-347 TCN) kết hợp thuyết duy lý với một hình thức của thuyết duy thực. Công việc của triết gia là phải xem xét cái tồn tại và bản chất (ousia) của các sự vật. Nhưng các bản chất có đặc trưng: chúng là phổ quát. Bản tính của một người, một hình tam giác, một cái cây, áp dụng cho mọi người, mọi hình tam giác, mọi cái cây. Platon cho rằng các bản chất này là “các mô thức” độc lập với tinh thần, rằng con người (nhất là các triết gia) có thể đi đến chỗ biết [các mô thức ấy] bằng lý tính và bằng cách bỏ qua những phiền lụy của tri giác cảm tính.

Modern rationalism begins with Descartes. Reflection on the nature of perceptual experience, as well as scientific discoveries in physiology and optics, led Descartes (and also Locke) to the view that we are directly aware of ideas, rather than objects. This view gave rise to three questions:

Thuyết duy lý hiện đại bắt đầu với Descartes. Khi suy ngẫm về bản tính của kinh nghiệm của tri giác, cũng như những phát hiện của khoa học trong sinh lý học và quang học, Descartes (cũng như Locke) đi đến chỗ quan niệm rằng ta ý thức trực tiếp về các ý niệm, chứ không phải các đồ vật. Quan niệm này làm nảy sinh ba vấn đề:

(1). Is an idea a true copy of the real thing that it represents? Sensation is not a direct interaction between bodily objects and our sense, but is a physiological process involving representation (for example, an image on the retina). Locke thought that a "secondary quality" such as a sensation of green could in no way resemble the arrangement of particles in matter that go to produce this sensation, although he thought that "primary qualities" such as shape, size, number, were really in objects.

(1). Một ý niệm có phải là bản sao đúng thật của cái thực tồn mà nó trình bày? Cảm giác không phải là sự tương tác trực tiếp giữa các đối tượng hữu hình và giác quan của ta, mà là một quá trình sinh lý học có bao hàm biểu tượng (chẳng hạn, một hình ảnh trên võng mạc). Locke cho rằng một “tính chất hạng hai” như cảm giác về màu xanh lá cây có thể không hề giống với sự sắp xếp của các phân tử trong vật chất vốn là cái đi đến chỗ tạo ra cảm giác này, cho dù ông nghĩ rằng “các tính chất hạng một” như hình dạng, kích thước, con số đều thực sự ở nơi các đồ vật.

(2). How can physical objects such as chairs and tables, or even physiological processes in the brain, give rise to mental items such as ideas? This is part of what became known as the mind-body problem.

(2). Làm thế nào các vật thể vật lý như bàn, ghế hay thậm chí các quá trình sinh lý học trong bộ não, tạo ra các đơn vị tinh thần như các ý niệm được? Đây là một phần của cái mà ta gọi là vấn đề tinh thần-thể xác.

(3). If all the contents of awareness are ideas, how can we know that anything exists apart from ideas?

(3). Nếu mọi nội dung của ý thức đều là các ý niệm, làm thế nào ta có thể biết được cái gì đó tồn tại tách biệt với các ý niệm?

Descartes tried to address the last problem by reason. He began, echoing Parmenides, with a principle that he thought could not coherently be denied: I think, therefore I am (Cogito erfo sum). From this principle, Descartes went on to construct a complete system of knowledge (which involves proving the existence of God, using a version of the ontological argument). His view that reason alone could yield substantial truths about reality strongly influenced those philosophers usually considered modern rationalists (such as Baruch Spinoza, Gottfried Leibniz, and Christian Wolff), while provoking criticism from other philosophers who have retrospectively come to be grouped together as empiricists.

Descartes cố gắng bàn luận vấn đề thứ ba bằng lý tính. Ông bắt đầu, mang hơi hướng Parmenides, với nguyên lý mà ông nghĩ là không thể bị bác bỏ một cách mạch lạc: Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại (Cogito ergo sum). Từ nguyên lý này, Descartes đã đi đến chỗ xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh về nhận thức (gồm cả việc chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế, bằng cách sử dụng một phiên bản của luận cứ bản thể học). Quan niệm chỉ có lý tính mới có thể mang lại những chân lý trọng yếu về thực tại ở nơi ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các triết gia thường được coi là các nhà duy lý hiện đại (như Baruch Spinoza, Gottfried Leibniz, và Christian Wolff), trong khi đó lại gây ra sự phê phán từ các triết gia khác, những người mà ngày nay ta tập hợp lại gọi là các nhà duy nghiệm

II. ESSENTIAL TERMS
II. THUẬT NGỮ CƠ BẢN
Reality is the state of things as they actually exist, rather than as they may appear or might be imagined. In a wider definition, reality includes everything that is and has been, whether or not it is observable or comprehensible. A still more broad definition includes everything that has existed, exists, or will exist. (Wiki)

Thực tại là trạng thái của các sự vật xét như là chúng đang tồn tại thực sự, chứ không phải như là chúng có thể xuất hiện ra hay có thể được hình dung ra. Theo nghĩa rộng, thực tại bao gồm tất cả những gì đã và đang tồn tại, cho dù chúng có thể được quan sát hay lĩnh hội hay không. Theo nghĩa còn rộng hơn nữa, thực tại bao gồm tất cả những gì đã, đang và sẽ tồn tại.

Argument is an attempt to persuade someone of something, by giving reasons or evidence for accepting a particular conclusion. (Wiki)

Luận cứ là sự cố gắng thuyết phục ai đó về điều gì đó, bằng cách nêu ra những lý do hay bằng chứng để người ta chấp nhận một kết luận riêng biệt.

Syllogism is a kind of logical argument in which one propositon (the conclusion) is inferred from two or more others (the premises) of a specific form. (Wiki)

Tam đoạn luận là một loại luận cứ logic trong đó một mệnh đề (kết luận) được rút ra từ hai hay nhiều mệnh đề khác (các tiền đề) của một dạng suy luận cụ thể.

Universal quantification is a type of quantifier, a logical constant which is interpreted as "given any" or "for all." It expresses that a propositional function can be sastified by every member of a domain of discourse. In other terms, it is the predication of a property or relation to every member of the domain. It asserts that a predicate within the scope of a universal quantifier is true of every value of a predicate variable. It is usually denoted by the turned A () logical operator symbol, which, when used together with a predicate variable, is called a universal quantifier ("x", "(x)", or sometimes by "(x)" alone). Universal quantification is distinct from existential quantification ("there exists"), which asserts that the property or relation holds only for at least one member of the domain. (Wiki)

Lượng từ hóa phổ quát là một kiểu lượng từ, một hằng số logic được diễn giải như là “bất cứ cái nào” hay “với mọi”. Nó phát biểu rằng một hàm mệnh đề có thể được thỏa mãn bởi mọi phần tử trong miền đề cập (domain of discourse). Nói cách khác, nó là vị từ hóa của một thuộc tính hay quan hệ của bất cứ phần tử nào trong miền. Nó khẳng định rằng một vị từ trong phạm vi của một lượng từ phổ quát đúng với mọi giá trị của một biến vị từ. Nó thường được biểu thị bằng ký hiệu tác tử logic là chữ A viết ngược (), ký hiệu này, khi được sử dụng cùng với một biến vị từ, được gọi là lượng từ phổ quát (“x”, "(x)", hay đôi khi chỉ mỗi một chữ “(x)”). Lượng từ hóa phổ quát khác với lượng từ hóa tồn tại (“tồn tại”) vốn là cái khẳng định rằng thuộc tính hay quan hệ chỉ đúng ít nhất cho một phần tử trong miền

The Münchhausen trilemma (after Baron Münchhausen, who allegedly pulled himself and the horse on which he was sitting out of a swamp by his own hair), also called Agrippa's trilemma (after Agrippa the Skeptic), is a philosophical term coined to stress the purported impossibility to prove any truth even in the fields of logic and mathematics.

Thế tam nan Münchhausen (gọi theo tên của Bá tước Münchhausen, theo truyền thuyết, là người cầm tóc kéo mình và ngựa ra khỏi bãi lầy), còn được gọi là thế tam nan Agrippa (gọi theo tên của triết gia phái hoài nghi là Agrippa), là một thuật ngữ triết học được đề ra để nhấn mạnh cái được gọi là tính bất khả trong việc chứng minh bất cứ chân lý nào ngay cả trong lĩnh vực lôgíc học và toán học.

Belief is the psychological state in which an individual holds a proposition or premise to be true.

Lòng tin là trạng thái tâm lý trong đó một cá nhân cho một mệnh đề hay tiền đề nào đó là đúng.

The third man argument (commonly referred to as TMA), first offered by Plato in his dialogue Parmenides, is a philosophical criticism of Plato's own theory of Forms. This argument was furthered by Aristotle who used the example of a man (hence the name of the argument) to explain this objection to Plato's theory; he posits that if a man is a man because he partakes in the form of man, then a third form would be required to explain how man and the form of man are both man, and so on, so on, ad infinitum.

Luận cứ đệ tam nhân (thường gọi tắt là TMA), được đưa ra đầu tiên bởi Platon trong đối thoại Parmenides, là một sự phê phán triết học về lý thuyết các Mô thức của chính Platon. Luận chứng này được Aristoteles, người đã lấy một con người làm ví dụ (do đó luận cứ mới có cái tên này) để giải thích cho lối bác bỏ lý thuyết của Platon nói trên,  cải tiến thêm; ông nêu thành định đề rằng nếu một người là một người vì anh ta thông dự vào mô thức con người, thì ắt ta sẽ phải cần đến mô thức thứ ba để giải thích làm thế nào con người và mô thức con người đều là người được, và vân vân, cứ thế đến vô tận.

compiled and translated from Wikipedia by ĐINH HỒNG PHÚC
ĐINH HỒNG PHÚC soạn dịch
http://en.wikipedia.org/wiki/Philosophy

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn