MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Friday, April 22, 2011

PRINCE 2 - Niccolò Machiavelli - QUÂN VƯƠNG




Rome and Sparta stood for many ages armed and free. The Switzers are completely armed and quite free. Of ancient mercenaries, for example, there are the Carthaginians, who were oppressed by their mercenary soldiers after the first war with the Romans, although the Carthaginians had their own citizens for captains. After the death of Epaminondas, Philip of Macedon was made captain of their soldiers by the Thebans, and after victory he took away their liberty. Duke Filippo being dead, the Milanese enlisted Francesco Sforza against the Venetians, and he, having overcome the enemy at Caravaggio, allied himself with them to crush the Milanese, his masters. His father, Sforza, having been engaged by Queen Johanna of Naples, left her unprotected, so that she was forced to throw herself into the arms of the King of Aragon, in order to save her kingdom. And if the Venetians and Florentines formerly extended their dominions by these arms, and yet their captains did not make themselves princes, but have defended them, I reply that the Florentines in this case have been favoured by chance, for of the able captains, of whom they might have stood in fear, some have not conquered, some have been opposed, and others have turned their ambitions elsewhere. One who did not conquer was Giovanni Acuto, 2 and since he did not conquer his fidelity cannot be proved; but every one will acknowledge that, had he conquered, the Florentines would have stood at his discretion. Sforza had the Bracceschi always against him, so they watched each other. Francesco turned his ambition to Lombardy; Braccio against the Church and the kingdom of Naples. But let us come to that which happened a short while ago. The Florentines appointed as their captain Paolo Vitelli, a most prudent man, who from a private position had risen to the greatest renown. If this man had taken Pisa, nobody can deny that it would have been proper for the Florentines to keep in with him, for if he became the soldier of their enemies they had no means of resisting, and if they held to him they must obey him. The Venetians, if their achievements are considered, will be seen to have acted safely and gloriously so long as they sent to war their own men, when with armed gentlemen and plebeians they did valiantly. This was before they turned to enterprises on land, but when they began to fight on land they forsook this virtue and followed the custom of Italy. And in the beginning of their expansion on land, through not having much territory, and because of their great reputation, they had not much to fear from their captains; but when they expanded, as under Carmignola, they had a taste of this mistake; for, having found him a most valiant man (they beat the Duke of Milan under his leadership), and, on the other hand, knowing how lukewarm he was in the war, they feared they would no longer conquer under him, and for this reason they were not willing, nor were they able, to let him go; and so, not to lose again that which they had acquired, they were compelled, in order to secure themselves, to murder him. They had afterwards for their captains Bartolomeo da Bergamo, Roberto da San Severino, the Count of Pitigliano, and the like, under whom they had to dread loss and not gain, as happened afterwards at Vaila, where in one battle they lost that which in eight hundred years they had acquired with so much trouble. Because from such arms conquests come but slowly, long delayed and inconsiderable, but the losses sudden and portentous.

Thành Rome và Sparta trong nhiều thế kỷ đã được vũ trang và nhờ đó được tự do. Người Thụy Sỹ cũng có quân đội rất mạnh và hoàn toàn tự do. Một ví dụ từ thời xưa về việc sử dụng các đội quân đánh thuê là người Carthage. Sau cuộc chiến tranh đầu tiên với người La Mã, họ gần như đã bị chính những quân lính đánh thuê của mình đánh bại, mặc dù các sĩ quan cũng là người Carthage. Vua Philip của xứ Macedonia51 được người xứ Thebes đưa lên làm chỉ huy quân đội của họ sau khi Epaminondas52 chết, nhưng sau khi chiến thắng, ông ta lại tước đoạt tự do đó của họ. Sau cái chết của công tước Philip, người Milan cũng đã thuê Francesco Sforza để tiến hành chiến tranh chống lại người xứ Venice nhưng sau khi đánh bại kẻ thù tại Caravaggio, ông ta bắt tay với chúng quay lại chống người Milan, những người đã thuê ông. Sforza (Cha) được nữ hoàng Giovanna của vương quốc Naple53 thuê cũng đã bỏ rơi bà ta ngay lập tức nên để giữ được vương quốc của mình, bà buộc phải ngả vào vòng tay vua Aragon. Nếu trước đây, người Florence và Venice mở mang đất đai là nhờ vào lính đánh thuê và được chúng bảo vệ chứ không tiếm quyền thì tôi có thể nói rằng, chẳng qua người Florence đã gặp may. Nguyên do nằm ở chỗ những vị tướng đầy năng lực đó. Người thì có lý do để e sợ, người thì thất trận, người khác gặp sự chống đối và những người khác nữa thì lại đang âm mưu tham vọng ở chỗ khác. Người đã thất trận là John Hawkwood54. Ông ta không thành công nên chẳng ai biết đến lòng trung thành của ông ta. Nhưng bất kỳ ai cũng phải thừa nhận rằng nếu ông ta giành thắng lợi thì chắc hẳn người Florence đã nằm dưới sự định đoạt của ông ta. Sforza và gia tộc Bracceschi55 luôn là kẻ đối địch nên cả hai phải canh chừng nhau. Francesco thực hiện âm mưu ở xứ Lombardy, còn Braccio thì chống lại Giáo hội và vương quốc Naples. Bây giờ, chúng ta hãy bàn đến những sự kiện gần đây hơn. Người Florence đưa một người đầy năng lực là Paulo Vitelli56 lên làm chỉ huy quân đội. Từ một người thường dân, ông đã vươn đến danh tiếng lẫy lừng. Nếu ông chiếm được Pisa, không ai có thể phủ nhận rằng người Florence buộc phải làm đồng minh của ông bởi nếu kẻ thù thuê ông thì chẳng còn ai bảo vệ Florence. Còn nếu họ muốn giữ ông lại thì buộc phải tuân theo ông. Về phía người Venice, chúng ta có thể nhận thấy khi chiến đấu bằng chính quân đội của mình (trước khi họ bắt đầu các cuộc chiến trên bộ), họ rất vững vàng và đáng tôn vinh. Với giới quý tộc và những người dân thường được vũ trang, họ đã chiến đấu dũng cảm. Nhưng khi bắt đầu chiến tranh trên bộ, họ không sử dụng chiến lược đã thành công đó mà lại đi theo lối mòn chiến tranh ở Italia. Khi bắt đầu mở rộng lãnh thổ trên bán đảo này, bởi vì họ không có nhiều đất đai ở đây và trong khi có danh tiếng lẫy lừng nên họ chẳng có gì phải e sợ những viên sĩ quan. Nhưng khi lãnh thổ được mở rộng dưới thời viên tướng Carmagnola57, thì người Venice đã phải trả giá. Nhận thấy ông là người có năng lực (dưới sự chỉ huy của ông, họ đã đánh bại công tước xứ Milan), nhưng không còn ý chí chiến đấu, người Venice cho rằng không nên chiến chinh cùng ông nữa, bởi vì ông cũng chẳng muốn như vậy. Thế nhưng họ lại không thể loại bỏ ông vì sợ mất đi những gì đã chiếm được. Bởi vậy, để được an toàn, họ buộc phải hành quyết ông. Sau đó, họ đưa Bartolomeo da Bergamo, Roberto da San Severino, bá tước xứ Ptigliano58 và nhiều người khác lên chỉ huy quân đội. Với những người này, họ phải lo sợ những vùng đất mất đi chứ không phải vùng đất họ giành được, và rốt cục điều đó cũng đã xảy ra sau này ở Vailà59, nơi chỉ trong một ngày, họ đã mất hết thành quả của tám trăm năm gian nan vất vả. Những chiến binh này đã tiến hành những cuộc chinh phạt chậm chạp, những thất bại đột ngột và bàng hoàng.

[51 Vua Philip của Macedonia : Vua Macedonia (359-336 TCN) cha của Alexander Đại đế. Nói một cách chặt chẽ thì Philip không phải là lính đánh thuê.]

[52 Epaminondas : Vị tướng người Thebes đã đánh bại người Sparta tại trận chiến Leuctra (371 BC) ]

[53 Nữ hoàng Giovanna của Naples : Người cai trị xứ Naples (1414-1435), đã dùng lính đánh thuê (Sforza và những người khác) để bảo vệ vương quốc của bà ]

[54 John Hawkwood : Một hiệp sỹ người Anh, tới Italia năm 1361 và đánh thuê cho Florence cho tới khi chết năm 1393 (được biết đến ở Italia với cái tên Giovanni Acuto) ]

[55 Gia tộc Bracceschi : là các đội quân đánh thuê do Braccio da Montone (1368-1424) chỉ huy chống lại các đội quân đánh thuê của Sforza được nữ hoàng Giovanna của Naples thuê ]

[56 Paulo Vitelli : Lính đánh thuê người Florence bị xử tử năm 1499 sau trận chiến bất thành tại cuộc vây hãm Pisa, là anh trai của Vitellozzo Vitelli bị Cesare Borgia treo cổ tại Sinigaglia.]

[57 Carmagnola : Francesco Bussone, bá tước Carmagnola (1380-1432), là người Venice. Ông bị Venice xử tử do nghi ngờ thông đồng với kẻ địch là Visconti]

[58 Bartolomeo Colleoni (1400-1475) đã chiến đấu phục vụ xứ Venice, được tưởng nhớ bằng bức tượng hiệp sỹ cưỡi ngựa Verrocchio dựng tại thành phố ; Roberto da San Severino chỉ huy quân đội Venice trong cuộc chiến với xứ Ferrara (1482-1484); Niccolò Orsini, bá tước Pitigliano (1442-1510) chỉ huy quân đội Venice trong cuộc chiến thảm khốc Vailà chống lại quân đội của Giáo hoàng Julius II.]

And as with these examples I have reached Italy, which has been ruled for many years by mercenaries, I wish to discuss them more seriously, in order that, having seen their rise and progress, one may be better prepared to counteract them. You must understand that the empire has recently come to be repudiated in Italy, that the Pope has acquired more temporal power, and that Italy has been divided up into more states, for the reason that many of the great cities took up arms against their nobles, who, formerly favoured by the emperor, were oppressing them, whilst the Church was favouring them so as to gain authority in temporal power: in many others their citizens became princes. From this it came to pass that Italy fell partly into the hands of the Church and of republics, and, the Church consisting of priests and the republic of citizens unaccustomed to arms, both commenced to enlist foreigners.

The first who gave renown to this soldiery was Alberigo da Conio, a native of the Romagna. From the school of this man sprang, among others, Braccio and Sforza, who in their time were the arbiters of Italy. After these came all the other captains who till now have directed the arms of Italy; and the end of all their valour has been, that she has been overrun by Charles, robbed by Louis, ravaged by Ferdinand, and insulted by the Switzers.

Từ những ví dụ này, tôi muốn xem xét trường hợp của Italia, đất nước đã nhiều năm nằm dưới sự thống trị của những đội quân đánh thuê. Tôi muốn thảo luận vấn đề này kỹ hơn, để khi đã làm sáng tỏ những nguồn gốc và diễn biến của vấn đề thì có thể sửa chữa dễ dàng.

Vì thế, ngài cần phải hiểu tại sao mà gần đây, khi đế chế La Mã bị đánh bật khỏi Italia, và uy danh của Giáo hoàng tăng lên thì đất nước Italia lại bị chia rẽ thành nhiều tiểu quốc. Nhiều thành phố lớn đã nổi dậy chống lại giới quý tộc từng cai trị họ với sự hậu thuẫn ban đầu của hoàng đế ; và Giáo hội lại ủng hộ việc gia tăng quyền thế tục của những thành phố này. Còn tại nhiều thành phố khác, nhiều công dân trở thành bậc quân vương.

Nhờ thế, Italia đã hầu như nằm trong tay Giáo hội và các chính phủ cộng hòa. Những thầy tu và những người dân vốn không quen cầm vũ khí này đã thuê quân lính nước ngoài. Alberigo xứ Conio60 – người xứ Romagna, là viên tướng đầu tiên đem lại tiếng tăm cho đội quân đánh thuê và sau đó là Braccio và Sforza, những người khi gặp thời đã từng làm mưa làm gió ở Italia. Cho tới nay, nhiều người khác vẫn chỉ huy các đội quân đánh thuê. Và kết quả là Italia đã bị vua Charles giày xéo, bị vua Louis cướp phá, bị vua Ferdinand quấy rối, bị người Thụy Sĩ sỉ nhục.

The principle that has guided them has been, first, to lower the credit of infantry so that they might increase their own. They did this because, subsisting on their pay and without territory, they were unable to support many soldiers, and a few infantry did not give them any authority; so they were led to employ cavalry, with a moderate force of which they were maintained and honoured; and affairs were brought to such a pass that, in an army of twenty thousand soldiers, there were not to be found two thousand foot soldiers. They had, besides this, used every art to lessen fatigue and danger to themselves and their soldiers, not killing in the fray, but taking prisoners and liberating without ransom. They did not attack towns at night, nor did the garrisons of the towns attack encampments at night; they did not surround the camp either with stockade or ditch, nor did they campaign in the winter. All these things were permitted by their military rules, and devised by them to avoid, as I have said, both fatigue and dangers; thus they have brought Italy to slavery and contempt.

Biện pháp của những viên tướng đánh thuê là trước tiên tăng uy danh cho đội quân bản bộ bằng cách hạ thấp vai trò của bộ binh. Chúng làm như vậy vì chúng là những kẻ không có tổ quốc và phải sống bằng nghề đánh thuê. Một lượng nhỏ bộ binh không thể đem lại thanh thế cho chúng và hơn nữa, chúng cũng chẳng có đủ tiền để thuê nhiều. Bởi vậy, chúng hoàn toàn dựa vào kỵ binh vì chỉ cần một ít quân cũng sẽ được kiêng nể. Chúng giảm thiểu lực lượng bộ binh đến mức trong hai mươi nghìn quân khó có thể tìm được hai nghìn bộ binh. Bên cạnh đó, chúng làm mọi cách để giảm bớt những khó khăn và lo sợ cho bản thân và quân bản bộ.

Trong các trận đánh, chúng không giết nhau mà chỉ bắt tù binh nhưng lại không đòi tiền chuộc. Chúng không tấn công các thành phố vào ban đêm; còn các lính đánh thuê trong thành cũng không tấn công các trại lính vây thành. Chúng chẳng đào hào đắp lũy xung quanh trại đóng quân, cũng không tiến hành chiến dịch vào mùa đông. Quân pháp do chúng tự đặt ra cho phép chúng làm tất cả những điều đó và giúp chúng thoát khỏi, như đã nói, mọi khó khăn và nguy hiểm.

Chính những viên tướng đánh thuê đó đã đưa Italia rơi vào tình trạng nhục nhã và cảnh nô lệ.

[59 Tại trận chiến Vailà hay Agnadello năm 1509, quân Pháp đã đánh bại người Venice ]

[60 Alberigo xứ Conio : Alberigo da Barbiano (chết năm 1409), người thành lập đội quân đánh thuê gồm toàn người Italia chứ không phải là người nước ngoài]

CHAPTER XIII

Concerning Auxiliaries, Mixed Soldiery, And One's Own

AUXILIARIES, which are the other useless arm, are employed when a prince is called in with his forces to aid and defend, as was done by Pope Julius in the most recent times; for he, having, in the enterprise against Ferrara, had poor proof of his mercenaries, turned to auxiliaries, and stipulated with Ferdinand, King of Spain, for his assistance with men and arms. These arms may be useful and good in themselves, but for him who calls them in they are always disadvantageous; for losing, one is undone, and winning, one is their captive.

13

QUÂN ĐỘI QUỐC GIA, NGOẠI BINH VÀ QUÂN HỖN HỢP

Ngoại binh, một loại quân vô dụng khác, là những kẻ mà ngài cầu viện một người có quyền lực sai tới để hỗ trợ và bảo vệ ngài, như Giáo hoàng Julius đã làm sau khi chứng kiến cuộc chiến đáng thất vọng của đội quân đánh thuê tại Ferrara. Giáo hoàng đã quay sang cầu viện ngoại binh và thỏa thuận với vua Ferdinand của Tây Ban Nha để điều quân hỗ trợ Giáo hoàng. Bản thân những tên lính này có thể là một đội quân tốt nhưng đối với người phải nhờ cậy thì chúng luôn chẳng đem lại gì tốt lành. Nếu chúng thua trận thì chỉ ngài bị đánh bại, nhưng nếu chúng thắng trận, thì ngài lại trở thành tù nhân của chúng.

And although ancient histories may be full of examples, I do not wish to leave this recent one of Pope Julius II, the peril of which cannot fall to be perceived; for he, wishing to get Ferrara, threw himself entirely into the hands of the foreigner. But his good fortune brought about a third event, so that he did not reap the fruit of his rash choice; because, having auxiliaries routed at Ravenna, and the Switzers having risen and driven out the conquerors (against all expectation, both his and others), it so came to pass that he did not become prisoner to his enemies, they having fled, nor to his auxiliaries, he having conquered by other arms than theirs.

The Florentines, being entirely without arms, sent ten thousand Frenchmen to take Pisa, whereby they ran more danger than at any other time of their troubles.

The Emperor of Constantinople, to oppose his neighbours, sent ten thousand Turks into Greece, who, on the war being finished, were not willing to quit; this was the beginning of the servitude of Greece to the infidels.

Mặc dù trong lịch sử có rất nhiều ví dụ như vậy, nhưng tôi muốn đi sâu vào trường hợp gần đây của Giáo hoàng Julius II – người có những chính sách vô cùng sai lầm. Để chiếm được xứ Ferrara, ông đã phó mặc cho ngoại bang. Vận may đã giúp ông tránh được hậu quả của quyết định sai lầm này vì sau khi ngoại binh tới Rravenna, người Thụy Sỹ đã vùng dậy và đánh đuổi những kẻ thắng trận trước sự kinh ngạc của Giáo hoàng và những người khác. Bởi vậy, ông không bị kẻ thù bắt, do chúng đã bỏ chạy, hay bị ngoại binh cầm tù. Như thế, ông đã chiến thắng nhờ người khác chứ không nhờ vào ngoại binh. Và người Florence, hoàn toàn không có quân đội, đã thuê mười nghìn quân Pháp để chiếm Pisa. Làm như thế, họ đã đem họa vào thân. Để chống lại các nước láng giềng, hoàng đế của Constantinople 61, đã mang mười ngàn quân Thổ Nhĩ Kỳ đến Hy lạp, nhưng khi chiến tranh kết thúc, đạo quân này lại không muốn trở về, và từ đó bắt đầu thời kỳ lệ thuộc của Hy Lạp vào những kẻ ngoại đạo.

[61 Hoàng đế của Constantinople : Hoàng đế Cantacuzenus (1292-1383), người thống trị đế chế Byzantine và đồng thời nắm giữ ngôi vị Giáo hoàng với tước danh John VI ]

Therefore, let him who has no desire to conquer make use of these arms, for they are much more hazardous than mercenaries, because with them the ruin is ready made; they are all united, all yield obedience to others; but with mercenaries, when they have conquered, more time and better opportunities are needed to injure you; they are not all of one community, they are found and paid by you, and a third party, which you have made their head, is not able all at once to assume enough authority to injure you. In conclusion, in mercenaries dastardy is most dangerous; in auxiliaries, valour. The wise prince, therefore, has always avoided these arms and turned to his own; and has been willing rather to lose with them than to conquer with others, not deeming that a real victory which is gained with the arms of others.

Chỉ người nào không muốn chinh phục mới dùng những đội quân này bởi chúng nguy hiểm hơn nhiều so với đám lính đánh thuê. Sử dụng chúng tất yếu sẽ khiến ngài bại vong. Chúng hoàn toàn thống nhất và chịu sự chỉ huy của kẻ khác. Lính đánh thuê thì cần nhiều thời gian và cơ hội hơn nếu chúng có ý định hãm hại ngài sau khi giành chiến thắng, vì chúng không phải là một khối thống nhất và chúng được ngài thuê và trả lương. Còn kẻ được ngài phong làm chỉ huy chúng thì không thể ngay lập tức tập trung đủ quyền lực để làm hại ngài. Tóm lại, điều nguy hiểm nhất ở lính đánh thuê là sự hèn nhát, còn ở ngoại binh là sự liều lĩnh. Quân vương khôn ngoan luôn tránh xa những loại quân này mà chỉ dựa vào chính thần dân của mình. Quân vương thà thất bại với quân đội của mình hơn là chiến thắng với quân đội của người khác, vì chiến thắng bằng ngoại binh không phải là chiến thắng thực sự.

I shall never hesitate to cite Cesare Borgia and his actions. This duke entered the Romagna with auxiliaries, taking there only French soldiers, and with them he captured Imola and Forli; but afterwards, such forces not appearing to him reliable, he turned to mercenaries, discerning less danger in them, and enlisted the Orsini and Vitelli; whom presently, on handling and finding them doubtful, unfaithful, and dangerous, he destroyed and turned to his own men. And the difference between one and the other of these forces can easily be seen when one considers the difference there was in the reputation of the duke, when he had the French, when he had the Orsini and Vitelli, and when he relied on his own soldiers, on whose fidelity he could always count and found it ever increasing; he was never esteemed more highly than when every one saw that he was complete master of his own forces.

Tôi không do dự trích dẫn Cesare Borgia và các chiến công của ông làm hình mẫu. Vị công tước này tiến vào Romagna bằng ngoại binh, một đội quân toàn lính Pháp và đã chiếm được Imola và Forlì. Nhưng khi thấy đội quân này không đáng tin cậy, ông quay sang dùng lính đánh thuê là gia tộc Orsini và Vitelli vì nghĩ rằng chúng ít nguy hiểm hơn.

Sau khi thấy chúng cũng không đáng tin, thiếu trung thành và đầy xảo trá, ông đã loại bỏ chúng và quay sang dùng quân đội quốc gia của mình. Thật dễ dàng nhìn thấy sự khác biệt giữa hai loại quân này khi ta so sánh tiếng tăm của công tước khi dùng quân Pháp, quân của gia tộc Orsini và Vitelli với khi ông dựa vào đội quân của chính mình. Khi dùng quân đội quốc gia, tiếng tăm của ông ngày một tăng. Khi thực sự thống lĩnh quân đội của chính mình, ông được kính nể hơn rất nhiều.

I was not intending to go beyond Italian and recent examples, but I am unwilling to leave out Hiero, the Syracusan, he being one of those I have named above. This man, as I have said, made head of the army by the Syracusans, soon found out that a mercenary soldiery, constituted like our Italian condottieri, was of no use; and it appearing to him that he could neither keep them nor let them go, he had them all cut to pieces, and afterwards made war with his own forces and not with aliens.

I wish also to recall to memory an instance from the Old Testament applicable to this subject. David offered himself to Saul to fight with Goliath, the Philistine champion, and, to give him courage, Saul armed him with his own weapons; which David rejected as soon as he had them on his back, saying he could make no use of them, and that he wished to meet the enemy with his sling and his knife. In conclusion, the arms of others either fall from your back, or they weigh you down, or they bind you fast.

Tôi không muốn đi quá xa khi nhắc đến những trường hợp gần đây của Italia, nhưng tôi cũng không muốn lại bỏ sót Hiero của Syracuse, người tôi đã từng nhắc đến ở trên. Là thống lĩnh quân đội của Syracuse, ông nhanh chóng nhận thấy đội quân đánh thuê thật vô dụng và gồm toàn những kẻ giống như lính đánh thuê người Italia. Nhưng dường như ông lại không thể duy trì hay sa thải chúng nên ông đã chia nhỏ chúng rồi sau đó tiến hành chiến tranh bằng quân đội của chính mình chứ không phải với đội quân nước ngoài. Tôi cũng xin trích một ví dụ từ Kinh Cựu Ước62. David yêu cầu Saul để mình giao đấu với Goliath, tên khổng lồ người Philistine. Để tăng thêm lòng can đảm cho David, Saul trao cho ông bộ áo giáp của mình nhưng David đã từ chối và nói rằng, với bộ áo giáp đó, ông không thể chứng tỏ được bản lãnh của mình và do vậy, ông muốn được đối mặt với kẻ thù bằng chính thanh gươm và cây cung của ông. Tóm lại, vũ khí của kẻ khác có thể chĩa vào lưng ngài, đè ngài xuống hoặc trói ngài lại.

[62 Hình tượng David có vai trò rất quan trọng trong hình ảnh của nền cộng hòa Florence bởi các bức tượng David nổi tiếng do Donatello, Verrocchio và Michelangelo làm đều được đặt gần Palazzo della Signoria, trụ sở chính phủ cộng hòa.]

Charles VII, the father of King Louis XI, having by good fortune and valour liberated France from the English, recognized the necessity of being armed with forces of his own, and he established in his kingdom ordinances concerning men-at-arms and infantry. Afterwards his son, King Louis, abolished the infantry and began to enlist the Switzers, which mistake, followed by others, is, as is now seen, a source of peril to that kingdom; because, having raised the reputation of the Switzers, he has entirely diminished the value of his own arms, for he has destroyed the infantry altogether; and his men-at-arms he has subordinated to others, for, being as they are so accustomed to fight along with Switzers, it does not appear that they can now conquer without them. Hence it arises that the French cannot stand against the Switzers, and without the Switzers they do not come off well against others. The armies of the French have thus become mixed, partly mercenary and partly national, both of which arms together are much better than mercenaries alone or auxiliaries alone, yet much inferior to one's own forces. And this example proves it, the kingdom of France would be unconquerable if the ordinance of Charles had been enlarged or maintained. But the scanty wisdom of man, on entering into an affair which looks well at first, cannot discern the poison that is hidden in it, as I have said above of hectic fevers.

Vua Charles VII-cha của vua Louis XI, đã giải phóng nước Pháp khỏi những người Anh bằng chính vận may và tài trí của ông. Nhận thấy cần phải vũ trang cho mình và dân chúng, ông đặt ra các quy định tuyển kỵ binh và bộ binh cho vương quốc của mình. Về sau, con trai ông là vua Louis đã hủy bỏ các quy định về bộ binh và bắt đầu thuê lính Thụy Sỹ. Sai lầm này cùng với những sai lầm khác, như ngày nay chúng ta đang chứng kiến, đã đem lại nhiều hiểm họa cho nước Pháp. Bằng cách đề cao người Thụy Sỹ, vua Louis đã hạ thấp quân đội của chính mình; vì ông hoàn toàn loại bỏ bộ binh và đặt kỵ binh phụ thuộc vào quân của người khác.

Chỉ quen chiến đấu cùng với lính Thụy Sỹ, kỵ binh Pháp cảm thấy không thể chiến đấu mà không có lính Thụy Sĩ nên thành ra quân Pháp không mạnh bằng quân Thụy Sỹ, và khi không có lính Thụy Sĩ, kỵ binh Pháp không dám chiến đấu. Và thế là quân Pháp luôn kết hợp cả lính đánh thuê với quân đội quốc gia. Quân đội được phối hợp như vậy mạnh hơn nhiều so với toàn là lính đánh thuê hoặc toàn là lính nước ngoài nhhưng kém xa khi so với quân đội toàn là người bản quốc. Ví dụ vừa dẫn đủ để khẳng định rằng nước Pháp lẽ ra là bất khả chiến bại nếu chính sách của vua Charles được duy trì và triển khai. Nhưng sự nông cạn của con người đã khiến người ta áp dụng những chính sách trông thì có vẻ tốt nhưng ẩn chứa biết bao hậu họa như tôi đã đề cập ở trên 63 [63 Xem chương 3].

Therefore, if he who rules a principality cannot recognize evils until they are upon him, he is not truly wise; and this insight is given to few. And if the first disaster to the Roman Empire should be examined, it will be found to have commenced only with the enlisting of the Goths; because from that time the vigour of the Roman Empire began to decline, and all that valour which had raised it passed away to others.

Do vậy, vị quân vương nào không nhận thấy được những tai ương còn trứng nước trong vương quốc của mình không thực sự là người khôn ngoan. Tuy nhiên, chỉ có rất ít người có được khả năng này. Nếu tìm hiểu nguyên nhân chính dẫn tới sự sụp đổ của đế chế La Mã thì người ta sẽ thấy sự sụp đổ này mở màn bằng việc những người Goths được thuê làm lính. Kể từ đó, sức mạnh của La Mã suy yếu và rút cạn để truyền sang người Goths.

I conclude, therefore, that no principality is secure without having its own forces; on the contrary, it is entirely dependent on good fortune, not having the valour which in adversity would defend it. And it has always been the opinion and judgment of wise men that nothing can be so uncertain or unstable as fame or power not founded on its own strength. And one's own forces are those which are composed either of subjects, citizens, or dependants; all others are mercenaries or auxiliaries. And the way to take ready one's own forces will be easily found if the rules suggested by me shall be reflected upon, and if one will consider how Philip, the father of Alexander the Great, and many republics and princes have armed and organized themselves, to which rules I entirely commit myself.

Tôi xin kết luận rằng không một vương quốc nào có thể an toàn nếu thiếu quân đội của chính mình. Nếu không, trong khó khăn sẽ chỉ có vận may chứ không thể có sức mạnh và sự trung thành nào bảo vệ cho vương quốc đó. Và một người khôn ngoan luôn tin tưởng và biết rằng “danh tiếng có được không nhờ năng lực của chính mình thì không thể bền lâu”. Quân đội quốc gia là đội quân được hình thành từ các thần dân hoặc từ những người được ngài bảo hộ, còn những đội quân khác đều là lính đánh thuê và lính nước ngoài. Có thể dễ dàng tìm ra cách tổ chức một đội quân của mình từ các phương pháp đã được bốn nhân vật mà tôi trích dẫn ở trên sử dụng. Tôi hoàn toàn tin tưởng và cách mà vua Philip (cha của Alexander Đại đế), nhiều nền cộng hòa và nhiều quân vương đã áp dụng để tự vũ trang và tổ chức quân đội.

CHAPTER XIV

That Which Concerns A Prince On The Subject Of The Art Of War

14

QUÂN VƯƠNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ QUÂN SỰ

A PRINCE ought to have no other aim or thought, nor select anything else for his study, than war and its rules and discipline; for this is the sole art that belongs to him who rules, and it is of such force that it not only upholds those who are born princes, but it often enables men to rise from a private station to that rank. And, on the contrary, it is seen that when princes have thought more of ease than of arms they have lost their states. And the first cause of your losing it is to neglect this art; and what enables you to acquire a state is to be master of the art.

Những điều duy nhất mà bậc quân vương phải làm và phải lo nghĩ là chiến tranh, các thiết chế và các quy tắc của chiến tranh, bởi đó là công việc của người trị vì. Điều này rất quan trọng vì không chỉ giúp những người sinh ra đã là quân vương duy trì được địa vị mà trong nhiều trường hợp, còn có thể đưa một người dân thường lên ngôi báu. Hiển nhiên, những quân vương nào quan tâm đến sự hưởng thụ cá nhân hơn là đến quân đội sẽ đánh mất vương quốc của mình. Nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới mất nước là bỏ qua binh pháp còn phương thức để mở mang bờ cõi đã được đúc kết vào binh pháp.

Francesco Sforza, through being martial, from a private person became Duke of Milan; and the sons, through avoiding the hardships and troubles of arms, from dukes became private persons. For among other evils which being unarmed brings you, it causes you to be despised, and this is one of those ignominies against which a prince ought to guard himself, as is shown later on. Because there is nothing proportionate between the armed and the unarmed; and it is not reasonable that he who is armed should yield obedience willingly to him who is unarmed, or that the unarmed man should be secure among armed servants. Because, there being in the one disdain and in the other suspicion, it is not possible for them to work well together. And therefore a prince who does not understand the art of war, over and above the other misfortunes already mentioned, cannot be respected by his soldiers, nor can he rely on them.

Từ một người dân thường, Francesco Sforza trở thành công tước xứ Milan là nhờ có binh lực. Những người kế nhiệm ông, do né tránh phiền toái của việc dùng binh nên từ địa vị công tước đã rơi xuống thành những kẻ thường dân. Không nói đến những hậu quả tai hại khác, việc không có quân đội khiến người ta bị coi thường, mà đây lại là điều bậc quân vương phải tránh, như sẽ bàn tới dưới đây 64 [64 Xem chương 15 và 16]. Không có gì để so sánh một người có vũ khí với một người không có vũ khí chẳng có lý do gì để một người có vũ khí tự nguyện tuân lệnh kẻ tay không và làm sao một người không được vũ trang lại có thể an toàn giữa đám tùy tùng vũ khí đầy mình. Khi người có vũ khí bị nghi ngờ, còn người không có vũ khí lại có thái độ khinh miệt thì họ làm sao có thể cùng hợp tác với nhau được. Và do vậy, vì quân vương không am hiểu binh pháp, ngoài những tai ương khác đã đề cập ở trên, sẽ không thể được binh sĩ tôn trọng và ông ta cũng chẳng thể tin tưởng họ.

He ought never, therefore, to have out of his thoughts this subject of war, and in peace he should addict himself more to its exercise than in war; this he can do in two ways, the one by action, the other by study. As regards action, he ought above all things to keep his men well organized and drilled, to follow incessantly the chase, by which he accustoms his body to hardships, and learns something of the nature of localities, and gets to find out how the mountains rise, how the valleys open out, how the plains lie, and to understand the nature of rivers and marshes, and in all this to take the greatest care.

Như vậy, không thể phớt lờ vấn đề quân sự. Thời bình, quân vương lại càng phải rèn luyện nhiều hơn thời chiến. Có hai phương thức rèn luyện: bằng hành động và bằng tư duy. Về mặt hành động, bên cạnh việc duy trì kỷ luật và sự luyện tập của binh lính, quân vương phải thường xuyên săn bắn, thích nghi với những hoàn cảnh khó khăn. Quân vương phải nắm được đặc tính các loại địa hình, phải nhớ được các sườn núi, thung lũng, đồng bằng, các dòng sông và đầm lầy, và phải bỏ phần lớn thời gian của mình để tìm hiểu những điều này.

Which knowledge is useful in two ways. Firstly, he learns to know his country, and is better able to undertake its defence; afterwards, by means of the knowledge and observation of that locality, he understands with ease any other which it may be necessary for him to study hereafter; because the hills, valleys, and plains, and rivers and marshes that are, for instance, in Tuscany, have a certain resemblance to those of other countries, so that with a knowledge of the aspect of one country one can easily arrive at a knowledge of others. And the prince that lacks this skill lacks the essential which it is desirable that a captain should possess, for it teaches him to surprise his enemy, to select quarters, to lead armies, to array the battle, to besiege towns to advantage.

Những kiến thức đó hữu ích về hai mặt : thứ nhất, hiểu về đất nước mình và có thể tìm ra cách tốt nhất để bảo vệ nó ; thứ hai, với hiểu biết và kinh nghiệm thực tế về địa hình, quân vương có thể dễ dàng nắm được đặc điểm của bất kỳ địa hình nào khác, điều này vô cùng cần thiết cho những cuộc khám phá và chinh phục. Chẳng hạn, những ngọn đồi,thung lũng, sông và đầm lầy của vùng Tuscany rất giống địa hình một số vùng khác. Bởi vậy, khi nắm được địa hình của một vùng đất có thể dễ dàng hiểu được địa hình những vùng còn lại. Quân vương nào thiếu khả năng này là thiếu phẩm chất quan trọng nhất của một người trị vì, bởi kỷ năng này dạy cho ông cách truy tìm kẻ địch; chọn nơi đóng quân, dẫn quân, bố trí trận đánh và vây hãm các thành phố một cách hữu hiệu nhất.

Philopoemen, Prince of the Achaeans, among other praises which writers have bestowed on him, is commended because in time of peace he never had anything in his mind but the rules of war; and when he was in the country with friends, he often stopped and reasoned with them: "If the enemy should be upon that hill, and we should find ourselves here with our army, with whom would be the advantage? How should one best advance to meet him, keeping the ranks? If we should wish to retreat, how ought we to set about it? If they should retreat, how ought we to pursue?" And he would set forth to them, as he went, all the chances that could befall an army; he would listen to their opinion and state his, confirming it with reasons, so that by these continual discussions there could never arise, in time of war, any unexpected circumstances that he could deal with.

Vua Philopoemen65 của người Achaea, , ngoài những lời ca ngợi khác còn được ca ngợi vì trong thời bình, ông không nghĩ đến điều gì khác ngoài chuyện binh pháp. Khi cùng bạn bè thăm thú các vùng quê, ông thường dừng lại và hỏi : “Nếu kẻ thù ở trên đỉnh đồi kia còn đội quân chúng ta ở đây thì bên nào có lợi thế ? Làm thế nào để tấn công chúng mà không phá vỡ đội hình ? Nếu muốn rút lui thì làm thế nào ? Nếu kẻ địchphải rút lui thì truy kích thế nào?” Vừa đi đường, ông vừa đặt ra những tình huống khó khăn mà một đội quân có thể gặp phải và lắng nghe ý kiến của họ, bày tỏ quan điểm của mình rồi cùng họ tranh luận. Nhờ sự kiên nhẫn đó, khi cầm quân ông luôn có giải pháp cho mọi tình huống bất ngờ.

But to exercise the intellect the prince should read histories, and study there the actions of illustrious men, to see how they have borne themselves in war, to examine the causes of their victories and defeat, so as to avoid the latter and imitate the former; and above all do as an illustrious man did, who took as an exemplar one who had been praised and famous before him, and whose achievements and deeds he always kept in his mind, as it is said Alexander the Great imitated Achilles, Caesar Alexander, Scipio Cyrus. And whoever reads the life of Cyrus, written by Xenophon, will recognize afterwards in the life of Scipio how that imitation was his glory, and how in chastity, affability, humanity, and liberality Scipio conformed to those things which have been written of Cyrus by Xenophon. A wise prince ought to observe some such rules, and never in peaceful times stand idle, but increase his resources with industry in such a way that they may be available to him in adversity, so that if fortune changes it may find him prepared to resist her blows.

Về mặt tư duy, quân vương cần nghiên cứu lịch sử và học hỏi các chiến công của những người vĩ đại ; quân vương cần lưu tâm đến cách họ tiến hành chiến tranh, đặt ra câu hỏi về nguyên nhân của thắng lợi và thất bại để tránh thất bại và tìm chiến thắng cho chính mình. Trước tiên, cần hành động như những người tôn vinh đã hành động, luôn làm theo những tấm gương được ca ngợi được tôn vinh và luôn nhớ đến những chiến công và hành động của họ, như Alexander Đại đế noi theo Achilles ; Caesar noi theo Alexander , và Scipio66 noi theo Cyrus. Bất kỳ ai đã đọc những gì Xenophon viết về cuộc đời của Cyrus67 hẳn sẽ nhận ra tầm quan trọng của tấm gương đó với các chiến công của Scipio. Scipio đã noi theo sự thanh bạch, lòng tốt, tính nhân đạo và sự hào hiệp mà Xenophon miêu tả về Cyrus. Đó là cách mà một quân vương khôn ngoan nên luyện tập để thời bình cũng như thời chiến không bao giờ cho phép mình nhàn rỗi. Sự luyện tập cần cù trong thời bình sẽ có ích khi gặp biến cố. Sống như vậy, quân vương sẽ luôn được chuẩn bị để đối phó với thời vận đổi thay.

[65 Philopoemen : Vị tướng người Hy Lạp (253-182 TCN) và là người lãnh đạo Liên minh Achae]

[66 Pubius Cornelius Scipio Africanus (236-184 TCN), Thống chế lừng danh của người La Mã, người đã chiến thắng Hannibal và xứ Carthage trong Chiến tranh Punic lần thứ hai.

[67 Xenophon (430?-354? TCN) đã viết một cuốn tiểu sử lý tưởng hóa Cyrus, cuốn Cyropaedia. Cuốn sách này được những người cùng thời Machiavelli rất ngưỡng mộ.]

CHAPTER XV

Concerning Things For Which Men, And Especially Princes, Are Praised Or Blamed

15

SỰ NGỢI CA VÀ PHÊ PHÁN ĐỐI VỚI QUÂN VƯƠNG

IT REMAINS now to see what ought to be the rules of conduct for a prince towards subject and friends. And as I know that many have written on this point, I expect I shall be considered presumptuous in mentioning it again, especially as in discussing it I shall depart from the methods of other people. But, it being my intention to write a thing which shall be useful to him who apprehends it, it appears to me more appropriate to follow up the real truth of a matter than the imagination of it; for many have pictured republics and principalities which in fact have never been known or seen, because how one lives is so far distant from how one ought to live, that he who neglects what is done for what ought to be done, sooner effects his ruin than his preservation; for a man who wishes to act entirely up to his professions of virtue soon meets with what destroys him among so much that is evil.

Bây giờ, hãy bàn đến những phương cách mà quân vương nên áp dụng trong xử thế với thần dân và bằng hữu. Điều này đã được nhiều người đề cập tới nên tôi e rằng nếu tôi lại viết về chủ đề đó thì mọi người sẽ cho tôi là kẻ kiêu ngạo. Tuy nhiên,khi bàn luận, xuất phát điểm của tôi khác xa so với họ. Vì ý định của tôi là viết ra những điều hữu ích cho ai hiểu biết, nên tôi cho rằng, tìm tòi về bản chất của một vấn đề thì phù hợp hơn là việc tưởng tượng ra vấn đề đó 68. Nhiều học giả đã tự mình tưởng tượng ra những nền cộng hòa hoặc những nền quân chủ mà sự tồn tại của chúng chưa từng được chứng kiến hoặc biết đến trên thực tế. Có khoảng cách giữa cách sống trên thực tế và cách mà người ta phải sống. Người nào từ bỏ những gì đáng lẽ đã làm trên thực tế để thực hiện những gì phải làm thì sẽ bị diệt vong chứ không phải là được bảo toàn, bởi vì người mà lúc nào cũng muốn sống tốt sẽ bị tiêu vong giữa biết bao kẻ xấu. Bởi vậy, quân vương nào muốn bảo vệ địa vị của mình thì cần học cách gác lòng tốt sang một bên, và có vận dụng điều đó hay không thì còn tùy theo thời thế.

[68 Ở đây, Machiavelli hàm ý tới những nhân vật trừu tượng là những người cai trị được lý tưởng hóa hoặc về các ông hoàng Cơ đốc giáo theo tác phẩm của các nhà hiền triết Latin và của Plato.]

Hence it is necessary for a prince wishing to hold his own to know how to do wrong, and to make use of it or not according to necessity. Therefore, putting on one side imaginary things concerning a prince, and discussing those which are real, I say that all men when they are spoken of, and chiefly princes for being more highly placed, are remarkable for some of those qualities which bring them either blame or praise; and thus it is that one is reputed liberal, another miserly, using a Tuscan term (because an avaricious person in our language is still he who desires to possess by robbery, whilst we call one miserly who deprives himself too much of the use of his own); one is reputed generous, one rapacious; one cruel, one compassionate; one faithless, another faithful; one effeminate and cowardly, another bold and brave; one affable, another haughty; one lascivious, another chaste; one sincere, another cunning; one hard, another easy; one grave, another frivolous; one religious, another unbelieving, and the like.

Do vậy, nếu gạt bỏ những điều tưởng tượng về một quân vương mà chỉ tính đến những sự thật, tôi cho rằng, khi nhận xét về bất kỳ ai, nhất là các quân vương-những người có địa vị cao sang, thì cần phải phán xét bởi những tính cách khiến họ được ca ngợi hay bị phê phán. Và đây là lý do vì sao người này được coi là hào phóng, còn kẻ khác là keo kiệt (ở đây tôi sử dụng từ “keo kiệt” theo thổ ngữ xứ Tuscan bởi vỉ từ “biển lận” trong ngôn ngữ của chúng ta được dùng để chỉ những người tham lam muốn chiếm đoạt của người khác, còn “keo kiệt” là để chỉ người không muốn dùng những gì mà mính có); người này biết cho, kẻ khác chỉ biết nhận ; người này bao dung, kẻ khác lại tàn bạo, người thì tận trung, kẻ thì bất trung ; người thì táo bạo cũng cảm, kẻ thì nhu nhược hèn nhát, người thì điềm đạm, kẻ thì ngạo mạn ; người thì thanh tịnh, kẻ thì dâm ô ; người thì chân thành, kẻ thì xảo trá ; người thì sùng đạo, kẻ thì vô thần ; v.v….

And I know that every one will confess that it would be most praiseworthy in a prince to exhibit all the above qualities that are considered good; but because they can neither be entirely possessed nor observed, for human conditions do not permit it, it is necessary for him to be sufficiently prudent that he may know how to avoid the reproach of those vices which would lose him his state; and also to keep himself, if it be possible, from those which would not lose him it; but this not being possible, he may with less hesitation abandon himself to them. And again, he need not make himself uneasy at incurring a reproach for those vices without which the state can only be saved with difficulty, for if everything is considered carefully, it will be found that something which looks like virtue, if followed, would be his ruin; whilst something else, which looks like vice, yet followed brings him security and prosperity.

Và theo tôi, mọi người đều thừa nhận rằng một quân vương với những phẩm chất được cho là tốt trong số những tính cách được nêu trên đây là người đáng được ca ngợi. Tuy nhiên, vì nhân vô thập toàn, các phẩm chất tốt đẹp đó thường không thể đầy đủ hoặc không thể nhận ra được hoàn toàn, nên một quân vương phải đủ khôn ngoan để biết cách tránh tai tiếng của những thói xấu có thể khiến ông mất nước và nếu có thể, ông phải tự mình tránh xa cả những thói xấu không đến mức làm cho ông mất nước. Nhưng nếu không thể tránh được, thì quân vương cũng không cần quá khắt khe với bản thân khi lờ đi những thói xấu không quá nghiêm trọng này.

Hơn nữa, bậc quân vương cũng không cần bận tâm khi phải mang tiếng về những thói xấu mà nếu không có những thói xấu này thì việc giữ được vương quốc có thể sẽ khó khăn ; bởi vì, khi xem xét mọi việc một cách kỹ lưỡng, ông sẽ nhận thấy rằng, nếu theo đuổi những việc có vẻ đúng đạo lý thì sẽ dẫn tới sự diệt vong của chính ông. Trong khi đó, những việc có vẻ tội lỗi, sẽ đem lại cho ông sự an toàn và phồn thịnh.

CHAPTER XVI

Concerning Liberality And Meanness

COMMENCING then with the first of the above-named characteristics, I say that it would be well to be reputed liberal. Nevertheless, liberality exercised in a way that does not bring you the reputation for it, injures you; for if one exercises it honestly and as it should be exercised, it may not become known, and you will not avoid the reproach of its opposite.

16

HÀO PHÓNG VÀ KEO KIỆT

Bàn về những đức tính đầu tiên kể trên, tôi có thể nói là, nếu được coi là người hào phóng thì cũng là điều tốt, nhưng nổi tiếng về sự hào phóng sẽ chẳng đem lại điều gì tốt đẹp. Nếu sự hào phóng được sử dụng một cách đúng mực như lẽ thường tình thì sự hào phòng đó sẽ không được công nhận và ngài sẽ không tránh khỏi những lời chỉ trích là keo kiệt. Thế nên, nếu quân vương muốn được tiếng hào phóng đối với những kẻ quanh mình thì ông khó lòng bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để thể hiện sự xa hoa.

Therefore, any one wishing to maintain among men the name of liberal is obliged to avoid no attribute of magnificence; so that a prince thus inclined will consume in such acts all his property, and will be compelled in the end, if he wish to maintain the name of liberal, to unduly weigh down his people, and tax them, and do everything he can to get money. This will soon make him odious to his subjects, and becoming poor he will be little valued by any one; thus, with his liberality, having offended many and rewarded few, he is affected by the very first trouble and imperilled by whatever may be the first danger; recognizing this himself, and wishing to draw back from it, he runs at once into the reproach of being miserly.

Nhưng khi làm vậy, quân vương sẽ tiêu sạch những gì mình có và cuối cùng, để duy trì cái tiếng tăm hào phóng của mình, ông sẽ buộc phải đè nặng dân chúng bằng những khoản thuê chồng chất, và không việc gì để thu được tiền bạc. Điều đó bắt đầu khiến ông bị thần dân ghét bỏ, và khi trở nên khánh kiệt, ông sẽ chẳng được ai kính trọng. Như vậy, hậu quả của sự hào phóng là làm cho nhiều kẻ thù ghét, một số ít kẻ được ban ơn, nên bất kỳ một bất ổn nhỏ nhặt nào cũng sẽ tác động đến quân vương và ông sẽ thấy mình sụp đổ ngay khi có dấu hiệu đầu tiên của hiểm nguy. Khi nhận ra điều này và muốn sửa đổi chính sách thì ngay lập tức, ông lại đứng trước mới đe dọa bị chỉ trích là kẻ keo kiệt.

Therefore, a prince, not being able to exercise this virtue of liberality in such a way that it is recognized, except to his cost, if he is wise he ought not to fear the reputation of being mean, for in time he will come to be more considered than if liberal, seeing that with his economy his revenues are enough, that he can defend himself against all attacks, and is able to engage in enterprises without burdening his people; thus it comes to pass that he exercises liberality towards all from whom he does not take, who are numberless, and meanness towards those to whom he does not give, who are few.

Do vậy, khi không thể lợi dụng tính hào phóng mà không bị nó làm hại, bậc quân vương khôn ngoan không nên lo lắng việc bị kẻ khác gọi là keo kiệt. Bởi vì dần dần các thần dân sẽ thấy ông hào phóng hơn một khi có các bằng chứng thực tế là nhờ sự tằn tiện, ông có đủ thu nhập nên có thể tự bảo vệ mình trước bất kỳ kẻ nào mưu toan gây chiến và có thể làm những việc lớn mà không cần bóc lột thần dân. Nhờ vậy, quân vượng trở nên hào phóng với tất cả những kẻ không bị ông cướp đoạt, mà những người này nhiều vô số. Nhưng ông sẽ trở thành kẻ keo kiệt với một số ít những kẻ không được ông cho gì.

We have not seen great things done in our time except by those who have been considered mean; the rest have failed. Pope Julius the Second was assisted in reaching the papacy by a reputation for liberality, yet he did not strive afterwards to keep it up, when he made war on the King of France; and he made many wars without imposing any extraordinary tax on his subjects, for he supplied his additional expenses out of his long thriftiness. The present King of Spain would not have undertaken or conquered in so many enterprises if he had been reputed liberal.

A prince, therefore, provided that he has not to rob his subjects, that he can defend himself, that he does not become poor and abject, that he is not forced to become rapacious, ought to hold of little account a reputation for being mean, for it is one of those vices which will enable him to govern.

Ngày nay, những chiến công vĩ đại mà chúng ta được chứng kiến đều là của những người đã từng bị coi là keo kiệt. Những kẻ được tiếng hào phóng đều đã thất bại. Giáo hoàng Julius II nhờ tiếng tăm hào phóng mà giành được ngôi Giáo hoàng nhưng để theo đuổi các cuộc chiến tranh, ông phải từ bỏ danh tiếng đó. Đức vua hiện thời của nước Pháp tiến hành nhiều cuộc chinh phạt mà không phải tăng thuế chính là nhờ sự tằn tiện của ông đã gánh đỡ những chi phí tăng lên. Đức vua hiện thời của Tây Ban Nha, nếu được tiếng là hào phóng thì đã chẳng thể tham gia vào nhiều cuộc chiến như vậy và cũng đã chẳng thể giành được nhiều chiến thắng như thế.

Để không phải cướp bóc các thần dân của mình, để có thể tự bảo vệ, và không tự biến mình thành kẻ nghèo khó và bần tiện, cũng như để tránh không bị buộc phải tham lam, bậc quân vương phải xem thường việc bị coi là kẻ bủn xỉn, bởi đó là một trong những thói xấu cho phép ngài giữ được quyền lực.

And if any one should say: Caesar obtained empire by liberality, and many others have reached the highest positions by having been liberal, and by being considered so, I answer: Either you are a prince in fact, or in a way to become one.

Nếu có ai đó lại nói rằng, Julius Caesar với sự hào phóng của mình đã giành được ngôi hoàng đế, và nhiều người khác nhờ lòng rộng rãi và được tiếng là rộng rãi đã giành được địa vị cao quý, thì tôi xin được trả lời là điều đó còn tùy thuộc ngài đã là quân vương hay đang trên đường trở thành quân vương.

In the first case this liberality is dangerous, in the second it is very necessary to be considered liberal; and Caesar was one of those who wished to become pre-eminent in Rome; but if he had survived after becoming so, and had not moderated his expenses, he would have destroyed his government. And if any one should reply: Many have been princes, and have done great things with armies, who have been considered very liberal, I reply: Either a prince spends that which is his own or his subjects' or else that of others. In the first case he ought to be sparing, in the second he ought not to neglect any opportunity for liberality.

Trường hợp thứ nhất, tính hào phóng chỉ gây tổn hại; còn ở trường hợp thứ hai, được tiếng hào phóng là một điều vô cùng cần thiết. Lúc đó, Julius Caesar là một trong những người muốn giành được địa vị tối cao ở thành Rome ; nhưng nếu sau khi giành được địa vị đó, ông vẫn sống xa hoa, không chi tiêu tằn tiện thì ông hẳn đã hủy hoại quyền lực của mình. Nếu lại có ai đó đáp lại rằng có nhiều quân vương đã lập nên những chiến công vĩ đại với những đội quân được tiếng là hoang phí, thì tôi xin được trả lời như sau. Quân vương có quyền tiêu tiền của chính mình và của thần dân hay những người khác. Đối với tiền của chính mình, ông phải tiết kiện nhưng đối với tiền của thần dân và những người khác thì chẳng việc gì phải kìm hãm sự hào phóng.

And to the price who goes forth with his army, supporting it by pillage, sack, and extortion, handling that which belongs to others, this liberality is necessary, otherwise he would not be followed by soldiers. And of that which is neither yours nor your subjects' you can be a ready giver, as were Cyrus, Caesar, and Alexander; because it does not take away your reputation if you squander that of others, but adds to it; it is only squandering your own that injures you.

Đối với những quân vương nuôi lính và sống bằng cách cướp bóc, bòn rút, đòi tiền chuộc, thâu tóm tài sản của người khác thì sự rộng rãi là cần thiết vì nếu không, binh lính chẳng theo ông làm gì. Đối với những của cải không phải của ngài hay thần dân của ngài thì ngài có thể thoải mái hơn khi ban phát, như Cyrus, Caesar và Alexander đã làm, bởi vì tiêu xài của cải của người khác không những không thiệt gì mà còn tăng thêm danh tiếng cho ngài. Chỉ có việc tiêu xài tiền bạc của chính ngài mới là điều làm hại ngài.

And there is nothing wastes so rapidly as liberality, for even whilst you exercise it you lose the power to do so, and so become either poor or despised, or else, in avoiding poverty, rapacious and hated. And a prince should guard himself, above all things, against being despised and hated; and liberality leads you to both. Therefore it is wiser to have a reputation for meanness which brings reproach without hatred, than to be compelled through seeking a reputation for liberality to incur a name for rapacity which begets reproach with hatred.

Chẳng có điều gì tự hủy hoại mình nhanh bằng sự hào phóng, bởi vì khi ngài hào phóng tức là ngài đang đánh mất phương tiện để sử dụng nó. Ngài sẽ nghèo túng rồi bị khinh thường, và để tránh sự khánh kiệt, ngài sẽ trở thành tham lam và đáng ghét. Điều quan trọng nhất là bậc quân vương cần tránh bị khinh miệt và thù ghét. Sự hào phong dẫn ngài đến cả hai điều này. Bởi vậy, Người khôn ngoan nên sống với cái tiếng là kẻ keo kiệt, bị chỉ trích nhưng không bị căm ghét, còn hơn là chuốc lấy cái tiếng tham tàn, đem lại cả sự chỉ trích lẫn căm ghét, chỉ vì muốn được coi là người hào phóng.

CHAPTER XVII

Concerning Cruelty And Clemency, And Whether It Is Better To Be Loved Than Feared

17

TÀN BẠO VÀ BAO DUNG

LÀM CHO DÂN YÊU HAY LÀM CHO DÂN SỢ

COMING now to the other qualities mentioned above, I say that every prince ought to desire to be considered clement and not cruel. Nevertheless he ought to take care not to misuse this clemency. Cesare Borgia was considered cruel; notwithstanding, his cruelty reconciled the Romagna, unified it, and restored it to peace and loyalty. And if this be rightly considered, he will be seen to have been much more merciful than the Florentine people, who, to avoid a reputation for cruelty, permitted Pistoia to be destroyed. Therefore a prince, so long as he keeps his subjects united and loyal, ought not to mind the reproach of cruelty; because with a few examples he will be more merciful than those who, through too much mercy, allow disorders to arise, from which follow murders or robberies; for these are wont to injure the whole people, whilst those executions which originate with a prince offend the individual only.

Tiếp theo những đức tính đã nêu trên, tôi xin nói rằng tất cả các quân vương đều muốn thần dân coi là người bao dung chứ không phải kẻ bạo tàn, nhưng ông cần phải cẩn trọng không đặt nhằm chỗ lòng bao dung đó. Ceasar Borgia bị cho là tàn bạo. Thế nhưng, sự tàn bạo đó đã đem lại ổn định cho xứ Romagna, thống nhất mảnh đất này, và khôi phục ở đó bình yên và trật tự. Nếu xem xét kỹ, ta sẽ thấy ngài còn nhân đạo hơn người Florence, những người để tránh tiếng tàn bạo đã cho phép phá hủy Pistoia.69 Bậc quân vương không việc gì phải bận tâm đến lời chỉ trích về sự tàn bạo nếu điều đó khiến các thần dân của ông đoàn kết và trung thành ; bởi dù chỉ ít lần tàn bạo, ông sẽ là người nhân đạo hơn kẻ có lòng bao dung quá đáng đã để xảy ra hỗn loạn, nguyên nhân của những vụ cướp bóc và giết chóc. Mà những hỗn loạn đó thì làm hại cả cộng đồng rộng lớn trong khi những vụ hành quyết của quân vương chỉ làm hại một số cá nhân nhất định mà thôi.

[69 Trong giai đoạn năm 1501-1502, khi những xung đột dữ dội giữa hai phe Cancellieri và Panciatichi của thành phố Pistoia, chư hầu của Florence nổ ra, Machiavelli đã được cử tới đây nhiều lần để khôi phục lại trật tự.]

And of all princes, it is impossible for the new prince to avoid the imputation of cruelty, owing to new states being full of dangers. Hence Virgil, through the mouth of Dido, excuses the inhumanity of her reign owing to its being new, saying:

Res dura, et regni novitas me talia cogunt

Moliri, et late fines custode tueri.

( ...against my will, my fate,

A throne unsettled, and an infant state,

Bid me defend my realms with all my pow'rs,

And guard with these severities my shores.)

Và so với tất cả những quân vương khác, vị quân vương vừa giành được quyền lực không thể tránh cái tiếng tàn bạo, bởi các quốc gia mới luôn tràn đầy hiểm nguy. Nhà thơ Virgil, qua nhân vật hoàng hậu Dido, đã nói rằng : “Những hoàn cảnh khó khăn và nền cai trị mới mẻ của tôi buộc tôi phải hành động như vậy, rải quân mọi nơi trên khắp cả nước”70. [70 Machiavelli trích đoạn thơ từ bài Aeneid của Virgil, nguyên văn tiếng Latin.]

Nevertheless he ought to be slow to believe and to act, nor should he himself show fear, but proceed in a temperate manner with prudence and humanity, so that too much confidence may not make him incautious and too much distrust render him intolerable.

Tuy nhiên, quân vương nên cẩn trọng khi tin tưởng và hành động. Ông không nên sợ ngay cả cái bóng của mình. Ông phải biết kết hợp tính thận trọng với lòng nhân ái, sao cho quá tin cũng không khiến ông thành người bất cẩn và quá nghi ngờ cũng không khiến ông thành kẻ không thể chấp nhận được.

Upon this a question arises: whether it be better to be loved than feared or feared than loved? It may be answered that one should wish to be both, but, because it is difficult to unite them in one person, is much safer to be feared than loved, when, of the two, either must be dispensed with. Because this is to be asserted in general of men, that they are ungrateful, fickle, false, cowardly, covetous, and as long as you succeed they are yours entirely; they will offer you their blood, property, life and children, as is said above, when the need is far distant; but when it approaches they turn against you. And that prince who, relying entirely on their promises, has neglected other precautions, is ruined; because friendships that are obtained by payments, and not by greatness or nobility of mind, may indeed be earned, but they are not secured, and in time of need cannot be relied upon; and men have less scruple in offending one who is beloved than one who is feared, for love is preserved by the link of obligation which, owing to the baseness of men, is broken at every opportunity for their advantage; but fear preserves you by a dread of punishment which never fails.

Từ bàn luận trên, một câu hỏi được đặt ra là nên làm cho dân yêu hay là cho dân sợ. Câu trả lời là bậc quân vương cần cả hai điều đó. Tuy nhiên, khó có thể kết hợp được cả hai điều này, nhưng được dân sợ thì an toàn hơn nhiều so với được dân yêu quý nếu chỉ được chọn một trong hai.

Con người thường là vô ơn, hay thay đổi, giả tạo, lừa dối, tránh né hiểm nguy, và hám lợi. Khi ngài hành động vì lợi ích của họ, họ là của ngài, họ cống hiến cho ngài máu của họ, tài sản của họ, cuộc sống của họ và con trai họ, như tôi đã nói ở trên71 [71 Xem chương 9], nhưng đó là khi hiểm nguy còn ở xa. Khi hiểm nguy cận kề ngài, họ sẽ trở mặt.

Quân vương nào hoàn toàn dựa quyền lực của mình vào những lời nói đó trong khi lại không hề có những phòng ngừa cần thiết thì tất sẽ suy vong, bởi tình thân hữu có được bằng một giá nào đó chứ không phải bằng sự vĩ đại và sự cao quý của nhân cách thì có thể mua được nhưng không thể sở hữu, và lúc cần đến, lại không thể dùng được.

Người ta thường ít ngần ngại khi làm hại người mà họ yêu mến hơn là làm hại người mà họ e sợ. Tình thân thiết được gắn với nhau bằng những mắt xích trách nhiệm, mà con người vốn là những kẻ tồi tệ sẽ sẳn sàng bẻ gẫy những mắt xích đó bất kỳ lúc nào vì lợi ích riêng. Thế nhưng nỗi e sợ lại được duy trì bởi sự sợ hãi những trừng phạt sẽ không bao giờ rời xa họ.

Nevertheless a prince ought to inspire fear in such a way that, if he does not win love, he avoids hatred; because he can endure very well being feared whilst he is not hated, which will always be as long as he abstains from the property of his citizens and subjects and from their women. But when it is necessary for him to proceed against the life of someone, he must do it on proper justification and for manifest cause, but above all things he must keep his hands off the property of others, because men more quickly forget the death of their father than the loss of their patrimony.

Besides, pretexts for taking away the property are never wanting; for he who has once begun to live by robbery will always find pretexts for seizing what belongs to others; but reasons for taking life, on the contrary, are more difficult to find and sooner lapse.

But when a prince is with his army, and has under control a multitude of soldiers, then it is quite necessary for him to disregard the reputation of cruelty, for without it he would never hold his army united or disposed to its duties.

Tuy nhiên, bậc quân vương cần khiến người khác e sợ nhưng không thù ghét mình, cho dù có thể không được yêu mến; bởi vì có thể kết hợp rất tốt giữa bị e sợ và không bị ghét, và điều đó hoàn toàn dễ dàng khi ông không xâm phạm đến của cải và vợ con của những kẻ bề tôi cũng như của thần dân. Nếu muốn hành quyết ai, ông nên tiến hành khi có những tội danh rõ ràng và phán quyết hợp lý. Nhưng quan trọng hơn hết, ông cần tránh xâm phạm tài sản của người khác. Thường thì con cái sẽ quên cái chết của cha mình nhanh hơn việc quên đi số tài sản thừa kế bị tước mất.

Hơn nữa, chẳng bao giờ thiếu lý do để chiếm đoạt tài sản của người khác, và kẻ bắt đầu sống bằng nghề trộm cắp luôn tìm ra mọi lý do để chiếm đoạt của cải của người khác. Ngược lại, hiếm có lý do để lấy đi mạng sống của ai đó và cơ hội này qua đi rất nhanh.

Khi phải chỉ huy đội quân đông đảo, quân vương hoàn toàn không cần để tâm đến việc bị coi là tàn bạo bởi nếu không có tiếng là tàn bạo, đội quân của ông sẽ không bao giờ thống nhất và không ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Among the wonderful deeds of Hannibal this one is enumerated: that having led an enormous army, composed of many various races of men, to fight in foreign lands, no dissensions arose either among them or against the prince, whether in his bad or in his good fortune. This arose from nothing else than his inhuman cruelty, which, with his boundless valour, made him revered and terrible in the sight of his soldiers, but without that cruelty, his other virtues were not sufficient to produce this effect. And shortsighted writers admire his deeds from one point of view and from another condemn the principal cause of them. That it is true his other virtues would not have been sufficient for him may be proved by the case of Scipio, that most excellent man, not of his own times but within the memory of man, against whom, nevertheless, his army rebelled in Spain; this arose from nothing but his too great forbearance, which gave his soldiers more licence than is consistent with military discipline. For this he was upbraided in the Senate by Fabius Maximus, and called the corrupter of the Roman soldiery. The Locrians were laid waste by a legate of Scipio, yet they were not avenged by him, nor was the insolence of the legate punished, owing entirely to his easy nature. Insomuch that someone in the Senate, wishing to excuse him, said there were many men who knew much better how not to err than to correct the errors of others. This disposition, if he had been continued in the command, would have destroyed in time the fame and glory of Scipio; but, he being under the control of the Senate, this injurious characteristic not only concealed itself, but contributed to his glory.

Trong số những chiến công đáng ngợi ca của Hannibal72 phải kể đến việc ông đã lãnh đạo một đội quân lớn, đủ mọi loại người chiến đấu ở nước ngoài nhưng không bao giờ bất đồng dù là nhỏ nhất giữa binh lính hay giữa binh lính với chỉ huy, cả khi thuận lợi lẫn lúc khó khăn. Điều này có được chẳng nhờ gì khác ngoài sự tàn bạo vô nhân tính của ông. Sự tàn bạo này cùng với nhiều phẩm chất khác đã khiến ông luôn được binh lính kính trọng và sợ hãi.

Nếu không tàn bạo mà chỉ với những phẩm chất còn lại thì ông đã không thể tạo ra một ảnh hưởng như vậy. Nhưng các sử gia không đánh giá cao vấn đề này. Một mặt, họ ca ngợi các chiến công của ông, mặt khác lại phê phán chính nguồn gốc của những chiến công đó.

Để chứng minh rằng chỉ các đức tính khác của ông thôi thì không đủ, ta có thể xem xét ví dụ về Scipio, người nổi bật nhất không chỉ tong thời đại ông mà còn trong cả những trang sử biên niên. Thế mà quân đội của ông đã nổi loạn chống lại ông ở Tây Ban Nha. Điều này xảy ra không vì nguyên nhân gì ngoài sự nhân từ quá mức đã khiến binh lính được tự do quá khuôn khổ cho phép.

Nguyên lão nghị viên Fabius Maximus 73 đã chỉ trích điều này, gọi ông là làm hư hỏng quân đội La Mã. Người Locri bị một trong các sĩ quan của Scipio giết hại nhưng Scipio cũng không trừng phạt hắn và sự kiêu ngạo của viên sỹ quan này cũng không bị khiển trách. Tất cả đều là do bản tính nhân từ của ông.

Một nguyên lão nghị viên khi cố gắng bào chữa cho Scipio đã nói rằng, có nhiều người biết cách tránh phạm tội hơn là sửa chữa những lỗi lầm. Bản tính này lẽ ra đã có lúc hủy hoại danh tiếng và vinh quang của Scipio nếu như ông vẫn tiếp tục cầm quân. Nhưng dưới sự kiểm soát của nghị viện, khía cạnh đáng ngại này trong tính cách của ông, không những được che giấu mà thậm chí còn được ca ngợi.

Returning to the question of being feared or loved, I come to the conclusion that, men loving according to their own will and fearing according to that of the prince, a wise prince should establish himself on that which is in his own control and not in that of others; he must endeavour only to avoid hatred, as is noted.

Để kết luận, tôi xin trở lại vấn đề nên làm cho dân yêu hay làm cho dân sợ. Được yêu là lạc thú của con người, còn được dân sợ là lạc thú của bậc quân vương. Quân vương khôn ngoan cần xây nền tảng của mình trên những gì thuộc về ông chứ không phải trên những gì thuộc về người khác. Ông chỉ phải tránh không bị thù ghét mà thôi.

[72 Hannibal : Thống chế đội quân của người Carthage (249-183 TCN), bị Scipio đánh bại tại trận chiến Zama năm 202 TCN. Trận chiến này đã kết thúc Chiến tranh Punic lần thứ hai.]

[73 Fabius Maximus : Quan chấp chính tối cao, nhà độc tài La Mã vào năm 217 TCN, chết năm 203 TCN]

CHAPTER XVIII

Concerning The Way In Which Princes Should Keep Faith

EVERY one admits how praiseworthy it is in a prince to keep faith, and to live with integrity and not with craft. Nevertheless our experience has been that those princes who have done great things have held good faith of little account, and have known how to circumvent the intellect of men by craft, and in the end have overcome those who have relied on their word. You must know there are two ways of contesting, the one by the law, the other by force; the first method is proper to men, the second to beasts; but because the first is frequently not sufficient, it is necessary to have recourse to the second. Therefore it is necessary for a prince to understand how to avail himself of the beast and the man. This has been figuratively taught to princes by ancient writers, who describe how Achilles and many other princes of old were given to the Centaur Chiron to nurse, who brought them up in his discipline; which means solely that, as they had for a teacher one who was half beast and half man, so it is necessary for a prince to know how to make use of both natures, and that one without the other is not durable.

18

CHỮ TÍN CỦA QUÂN VƯƠNG

Ai cũng biết là, thật đáng ca ngợi một quân vương biết giữ lời, sống chính trực và không lừa dối. Tuy nhiên, từ thực tế thời đại của chúng ta, có thể thấy rằng những quân vương làm nên những chiến công vĩ đại lại là những người không hề để tâm đến việc giữ lời hứa mà là những người biết dùng mưu mô để đánh lừa kẻ khác. Kết quả là những quân vương này vượt xa những người chỉ khăng khăng cố giữ chữ tín. Bởi vậy, ngài cần phải biết có hai phương thức đấu tranh 74. Cách thứ nhất là bằng luật pháp, cách thứ hai là bằng vũ lực. Cách thứ nhất thích hợp với người, còn cách thứ hai dành cho dã thú. Nhưng cách thứ nhất trong nhiều trường hợp vẫn chưa đủ nên phải cần đến cách thứ hai. Bậc quân vương cần phải vận dụnng thật khôn ngoan những bản tính của người và của dã thú. Các tác gia cổ đại đã khéo lúc dạy cho các bậc quân vương điều đó qua câu chuyện về việc Achilles và nhiều vương hầu thời xưa đã được gửi cho Chiron the Centaur75 nuôi dưỡng và giáo dục theo các nguyên tắc riêng. Có nghĩa rằng, với một thầy giáo nửa người nửa thú, bậc quân vương phải biết cách vận dụng bản năng của cả hai phần đó, và người nào thiếu một trong hai sẽ không thể trụ được.

[74 Hai phương thức đấu tranh : Machiavelli lấy ý này trong tác phẩm Deofficiis của Cicero, nhưng thay đổi khá nhiều.]

[75 Chiron the Centaur : Theo thần thoại Hy Lạp, đây là loài thú nửa người, nửa ngựa ]

A prince, therefore, being compelled knowingly to adopt the beast, ought to choose the fox and the lion; because the lion cannot defend himself against snares and the fox cannot defend himself against wolves. Therefore, it is necessary to be a fox to discover the snares and a lion to terrify the wolves. Those who rely simply on the lion do not understand what they are about. Therefore a wise lord cannot, nor ought he to, keep faith when such observance may be turned against him, and when the reasons that caused him to pledge it exist no longer. If men were entirely good this precept would not hold, but because they are bad, and will not keep faith with you, you too are not bound to observe it with them. Nor will there ever be wanting to a prince legitimate reasons to excuse this nonobservance. Of this endless modern examples could be given, showing how many treaties and engagements have been made void and of no effect through the faithlessness of princes; and he who has known best how to employ the fox has succeeded best. But it is necessary to know well how to disguise this characteristic, and to be a great pretender and dissembler; and men are so simple, and so subject to present necessities, that he who seeks to deceive will always find someone who will allow himself to be deceived. One recent example I cannot pass over in silence. Alexander VI did nothing else but deceive men, nor ever thought of doing otherwise, and he always found victims; for there never was a man who had greater power in asserting, or who with greater oaths would affirm a thing, yet would observe it less; nevertheless his deceits always succeeded according to his wishes, because he well understood this side of mankind.

Bậc quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo76. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy,còn cáo thì không thể chống lại sói. Vì thế, cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẫy và là sư tử để dọa sói. Những người chỉ học theo sư tử sẽ không hiểu được điều này. Do vậy, một người cai trị khôn ngoan không thể và không nên giữ lời khi sự trung tín này đem lại bất lợi cho ông và khi những lý do của lời hứa đã không còn nữa. Nếu tất cả mọi người đều tốt thì nguyên tắc này vô dụng, nhưng bản tính con người lại đáng chê trách và chẳng biết giữ lời nên ngài cũng không cần phải giữ lời với họ. Bậc quân vương chẳng bao giờ thiếu lý do chính đáng để phá vỡ một giao ước. Về điều này, bất kỳ ai cũng có thể dẫn ra vô số ví dụ rằng gần đây có biết bao hiệp ước, giao ước đã trở thành vô hiệu vì sự bội tín của các quân vương. Ai biết cách sử dụng tốt nhất bản tính của con cáo sẽ có một tương lai tốt hơn. Nhưng điều cần thiết là phải biết ngụy trang, phải làm một kẻ đạo đức giả và một kẻ dối trá. Con người thường suy nghĩ đơn giản và bị chi phối bởi nhu cầu trước mắt đến mức một kẻ dối trá luôn có thể tìm ra người tự cho phép mình bị lừa dối. Tôi không thể không nói về một trong những ví dụ gần đây. Giáo hoàng Alexander VI không làm gì, nghĩ gì ngoại trừ việc lừa dối người khác và ông luôn tìm được cơ hội để làm điều đó. Người ta sẽ chẳng bao giờ tìm được người nào hùng hồn hơn ông khi tuyên thệ, quả quyết một việc với nhiều hứa hẹn hơn nhưng cũng hay nuốt lời hứa hơn ông. Tuy nhiên, những thủ đoạn của ông luôn thành công một cách hoàn hảo vì ông đã quá thành thạo.

[76 Machiavelli đã tìm thấy ý tưởng cáo và sư tử nhanh chóng nổi tiếng này trong tác phẩm De officiis của Cicero, nhưng ông sửa đổi hoàn toàn luận điểm của Cicero. Cicero cho rằng cả bạo lực lẫn xảo trá là phi nhân tính và bởi vậy là những biện pháp đáng khinh ]

Therefore it is unnecessary for a prince to have all the good qualities I have enumerated, but it is very necessary to appear to have them. And I shall dare to say this also, that to have them and always to observe them is injurious, and that to appear to have them is useful; to appear merciful, faithful, humane, religious, upright, and to be so, but with a mind so framed that should you require not to be so, you may be able and know how to change to the opposite.

Bậc quân vương không cần phải có tất cả những phẩm chất kể trên, nhưng phải làm ra vẻ như có tất cả. Hình như tôi quá táo bạo khi khẳng định rằng : có tất cả những phẩm chất đó và lúc nào cũng sống đúng như thế thì thật là nguy hại, còn chỉ làm ra vẻ như có chúng tôi thì lại rất hữu ích. Chẳng hạn như nên làm ra vẻ bao dung, trung thành, nhân từ, đáng tin cậy, sùng đạo và đại khái thế nhưng đầu óc lại phải luôn hành động ngược lại nếu cần.

And you have to understand this, that a prince, especially a new one, cannot observe all those things for which men are esteemed, being often forced, in order to maintain the state, to act contrary to faith, friendship, humanity, and religion. Therefore it is necessary for him to have a mind ready to turn itself accordingly as the winds and variations of fortune force it, yet, as I have said above, not to diverge from the good if he can avoid doing so, but, if compelled, then to know how to set about it.

Nguyên tắc cơ bản phải hiểu được là : Bậc quân vương, đặc biệt là quân vương mới giành được ngôi báu, không thể làm tất cả những điều mà con người vẫn cho là tốt, bởi để cai trí đất nước, ông thường phải hành động ngược lại với lời hứa của mình, ngược với tính nhân đạo, lòng nhân từ và trái với đạo giáo. Chính vì thế, ông cần phải có một trí tuệ luôn sẵn sàng tùy cơ ứng biến theo vận mệnh và sự biến đổi của thời thế. Và như tôi đã đề cập ở trên,chừng nào còn có thể thì quân vương nên là người tốt, nhưng ông phải biết cách thực hiện những điều xấu xa khi hoàn cảnh đòi hỏi.

For this reason a prince ought to take care that he never lets anything slip from his lips that is not replete with the above-named five qualities, that he may appear to him who sees and hears him altogether merciful, faithful, humane, upright, and religious. There is nothing more necessary to appear to have than this last quality, inasmuch as men judge generally more by the eye than by the hand, because it belongs to everybody to see you, to few to come in touch with you. Every one sees what you appear to be, few really know what you are, and those few dare not oppose themselves to the opinion of the many, who have the majesty of the state to defend them; and in the actions of all men, and especially of princes, which it is not prudent to challenge, one judges by the result.

Bậc quân vương phải luôn cẩn trọng để mọi người đều thấy rằng, tất cả lời nói của ông đều chứa đựng đầy đủ năm phẩm chất đã nói: bao dung, trung thành, nhân từ, đáng tin cậy và sùng đạo. Và điều cần thiết nhất là phải ra vẻ như có đức tính cuối cùng. Con người thì thường phán xử bằng mắt nhiều hơn là bằng tay, vì ai cũng có thể nhìn nhưng rất ít người có thể cảm nhận. Mọi người thấy điều mà ngài có vẻ là có, rất ít người hiểu được ngài thực chất là người thế nào, và thiểu số đó không dám đi ngược lại quan điểm của số đông những người được quân vương bảo vệ và che chở. Không có ai phán xử công bằng hành động của con người, nhất là của bậc quân vương nên chỉ kết quả cuối cùng mới là đáng phải quan tâm đến.

For that reason, let a prince have the credit of conquering and holding his state, the means will always be considered honest, and he will be praised by everybody because the vulgar are always taken by what a thing seems to be and by what comes of it; and in the world there are only the vulgar, for the few find a place there only when the many have no ground to rest on.

Vậy, hãy để bậc quân vương được tự do hành động để chinh phạt và cai trị đất nước. Các phương cách của ông sẽ luôn được kính trọng và toàn thể dân chúng gợi ca. Vì những người bình thường luôn bị lừa dối bởi vẻ bề ngoài và kết quả của sự việc, mà trên thế giới này còn có ai ngoài những người bình thường.

One prince 1 of the present time, whom it is not well to name, never preaches anything else but peace and good faith, and to both he is most hostile, and either, if he had kept it, would have deprived him of reputation and kingdom many a time.

1. Maximilian I, Holy Roman Emperor.

Không có chỗ cho thiểu số khi mà số đông đã có nơi để đặt lòng tin. Một vị quân vương thời nay77, tôi xin không nhắc tên, không rao giảng điều gì khác ngoài hòa bình và lòng trung thành nhưng ông hoàn toàn bác bỏ cả hai điều này. Nếu như ông đã từng thực hiện cả hai điều này thì hẳn đã rất nhiều lần chúng khiến ông trả giá bằng danh tiếng hoặc vương quốc của mình.

[77 Có thể là Ferdinand II của Aragon]

CHAPTER XIX

That One Should Avoid Being Despised And Hated

19

TRÁNH BỊ KHINH MIỆT VÀ THÙ GHÉT

NOW, concerning the characteristics of which mention is made above, I have spoken of the more important ones, the others I wish to discuss briefly under this generality, that the prince must consider, as has been in part said before, how to avoid those things which will make him hated or contemptible; and as often as he shall have succeeded he will have fulfilled his part, and he need not fear any danger in other reproaches.

Cho đến giờ, tôi đã nói về những phẩm chất quan trọng nhất trong số các phẩm chất được đề cập ở phần trên. Tôi muốn bàn về các phẩm chất khác một cách ngắn gọn. Như đã lưu ý, bậc quân vương nên chú trọng vào việc tránh những gì khiến ông bị thù ghét và khinh miệt và khi tránh được điều đó, ông sẽ thực hiện được các công việc của mình mà không gặp bất kỳ nguy hiểm nào dù phạm những lỗi còn lại. Như tôi đã nói, điều khiến bậc quân vương bị thù ghét nhất là lòng tham lam và việc chiếm đoạt tài sản, vợ con của thần dân. Vì thế, bậc quân vương phải tránh xa những điều đó.

It makes him hated above all things, as I have said, to be rapacious, and to be a violator of the property and women of his subjects, from both of which he must abstain. And when neither their property nor honour is touched, the majority of men live content, and he has only to contend with the ambition of a few, whom he can curb with ease in many ways. It makes him contemptible to be considered fickle, frivolous, effeminate, mean-spirited, irresolute, from all of which a prince should guard himself as from a rock; and he should endeavour to show in his actions greatness, courage, gravity, and fortitude; and in his private dealings with his subjects let him show that his judgments are irrevocable, and maintain himself in such reputation that no one can hope either to deceive him or to get round him.

Trong hầu hết các trường hợp, chừng nào còn chưa bị tước đoạt tài sản hoặc thanh danh thì đa số sẽ sống hạnh phúc, nên ngài chỉ phải đối phó với tham vọng của một số người, những kẻ có thể bị kiềm chế không mấy khó khăn và bằng nhiều cách. Quân vương thường bị khinh miệt vì tính khí thất thường, phù phiếm, yếu mềm, hèn nhát và thiếu quyết đoán. Bậc quân vương phải tránh những điều này như thể thuyền phải tránh đá ngầm, và ông phải cố làm cho mọi người nhận thấy sự vĩ đại, nghị lực, sự tôn nghiêm và sức mạnh trong các hành động của mình. Đối với các vấn đề cá nhân của thần dân, ông phải chứng tỏ được rằng các quyết định của mình không thể đảo ngược, và ông phải giữ mình sao cho không kẻ nào có thể ảo tưởng sẽ lừa phỉnh hay dắt mũi ông.

That prince is highly esteemed who conveys this impression of himself, and he who is highly esteemed is not easily conspired against; for, provided it is well known that he is an excellent man and revered by his people, he can only be attacked with difficulty. For this reason a prince ought to have two fears, one from within, on account of his subjects, the other from without, on account of external powers. From the latter he is defended by being well armed and having good allies, and if he is well armed he will have good friends, and affairs will always remain quiet within when they are quiet without, unless they should have been already disturbed by conspiracy; and even should affairs outside be disturbed, if he has carried out his preparations and has lived as I have said, as long as he does not despair, he will resist every attack, as I said Nabis the Spartan did.

Quân vương nào tạo được tiếng tăm như vậy sẽ giành được sự kính trọng rất lớn; và khó có thể mưu hại hay tấn công một người có danh tiếng lớn khi người đó lại có những phẩm chất vĩ đại và được thần dân kính yêu.

Bậc quân vương chỉ có hai nỗi sợ hãi: một, về đối nội, là các thần dân; hai, về đối ngoại, là những lực lượng ngoại bang. Để bảo vệ mình chống lại lực lượng ngoại bang, ông cần đồng minh và binh sĩ giỏi, và ông luôn có đồng minh tốt nếu ông có binh sĩ giỏi. Việc đối nội sẽ luôn ổn định khi đối ngoại ổn định, trừ khi có những âm mưu phản nghịch.

Ngay cả khi các điều kiện bên ngoài biến đổi, nếu quân vương có sự chuẩn bị tốt và hành xử như vừa nói, đồng thời giữ được sự tự chủ của mình thì ông sẽ luôn chống chọi được mọi cuộc tấn công như vua Nabis xứ Sparta đã làm.

But concerning his subjects, when affairs outside are disturbed he has only to fear that they will conspire secretly, from which a prince can easily secure himself by avoiding being hated and despised, and by keeping the people satisfied with him, which it is most necessary for him to accomplish, as I said above at length.

Nhưng đối với thần dân của mình, khi tình hình đối ngoại không có gì biến đổi, ông cần đề phòng những âm mưu bí mật. Quân vương bảo vệ mình tránh bị mưu hại bằng cách tránh bị thù ghét hoặc khinh miệt và đảm bảo rằng, dân chúng hài lòng với ông. Điều này là vô cùng cần thiết.

And one of the most efficacious remedies that a prince can have against conspiracies is not to be hated and despised by the people, for he who conspires against a prince always expects to please them by his removal; but when the conspirator can only look forward to offending them, he will not have the courage to take such a course, for the difficulties that confront a conspirator are infinite. And as experience shows, many have been the conspiracies, but few have been successful; because he who conspires cannot act alone, nor can he take a companion except from those whom he believes to be malcontents, and as soon as you have opened your mind to a malcontent you have given him the material with which to content himself, for by denouncing you he can look for every advantage; so that, seeing the gain from this course to be assured, and seeing the other to be doubtful and full of dangers, he must be a very rare friend, or a thoroughly obstinate enemy of the prince, to keep faith with you.

Trên đây, tôi đã trình bày khá cụ thể về vấn đề này. Một trong những biện pháp mạnh mẽ nhất để chống lại những âm mưu là đừng để bị dân chúng thù ghét, vì kẻ bày mưu luôn tin rằng hắn sẽ làm dân chúng hài lòng khi giết vua. Nhưng khi thấy việc làm này có thể khiến dân chúng tức giận, hắn sẽ không có đủ bản lĩnh để làm một việc như thế vì có vô số rắc rối đối với những kẻ bày mưu. Kinh nghiệm cho thấy, âm mưu có nhiều nhưng thành công thì rất ít, bởi vì âm mưu không thể chỉ hành động đơn thương độc mã và cũng không thể tìm đồng bọn ở đâu ngoài số những kẻ hắn tin là cũng đang bất mãn. Khi hắn bộc lộ ý định của mình với kẻ bất mãn tức là hắn đã trao cho kẻ đó phương tiện để được thỏa mãn, bởi kẻ đó sẽ có mọi thứ hằng thèm khát bằng cách tiết lộ âm mưu của hắn. Thật quá rõ ràng, một bên là lợi ích chắc chắn, bên kia không những bấp bênh mà còn đầy hiểm nguy. Nếu kẻ đó trung thành với kẻ bày mưu thì chắc đây hẳn phải là một người bạn tốt đặc biệt hoặc một kẻ thù không đội trời chung của quân vương.

And, to reduce the matter into a small compass, I say that, on the side of the conspirator, there is nothing but fear, jealousy, prospect of punishment to terrify him; but on the side of the prince there is the majesty of the principality, the laws, the protection of friends and the state to defend him; so that, adding to all these things the popular goodwill, it is impossible that any one should be so rash as to conspire. For whereas in general the conspirator has to fear before the execution of his plot, in this case he has also to fear the sequel to the crime; because on account of it he has the people for an enemy, and thus cannot hope for any escape.

Nói một cách ngắn gọn, về phía những kẻ âm mưu thì chẳng có gì ngoài nỗi sợ hãi, ghen ghét và lo lắng về sự trừng phạt đang bóp nghẹt trái tim hắn. Trong khi đó, về phía Quân vương lại là sự tôn nghiệm, là quyền uy, là luật pháp, là sự bảo vệ của bè bạn và cả đất nước. Cho nên, nếu dân chúng mến phục quân vương thì âm mưu chống lại ông là điều không thể và hết sức ngu xuẩn. Thường là kẻ bày mưu phải sợ hãi trước khi thực hiện tội ác nhưng trong trường hợp này thì ngay cả khi tội ác đã được thực hiện, hắn sẽ vẫn phải sợ hãi, vì hắn là kẻ thù của dân chúng nên hắn cũng chẳng hy vọng gì tìm được một nơi nương tựa.

Endless examples could be given on this subject, but I will be content with one, brought to pass within the memory of our fathers. Messer Annibale Bentivoglio, who was prince in Bologna (grandfather of the present Annibale), having been murdered by the Canneschi, who had conspired against him, not one of his family survived but Messer Giovanni, who was in childhood: immediately after his assassination the people rose and murdered all the Canneschi.

Có vô số ví dụ về những trường hợp như thế nhưng tôi cho rằng, chỉ cần trích dẫn một trường hợp ở thế hệ trước là đủ. Annibale Bentivogli78, Quận công xứ Bologna và là ông nội của Annibale hiện thời, bị gia tộc Canneschi mưu sát. Lúc đó, ông không có ai kế vị ngoài Giovanni còn thơ dại. Ngay khi vụ mưu sát xảy ra, dân chúng đã nổi dậy giết cả gia tộc Canneschi.

This sprung from the popular goodwill which the house of Bentivoglio enjoyed in those days in Bologna; which was so great that, although none remained there after the death of Annibale who were able to rule the state, the Bolognese, having information that there was one of the Bentivoglio family in Florence, who up to that time had been considered the son of a blacksmith, sent to Florence for him and gave him the government of their city, and it was ruled by him until Messer Giovanni came in due course to the government.

Lý do chính là nhờ thời đó mà gia tộc Bentivogli đã giành được cảm tình của họ. Lòng yêu mến lớn đến mức khi Annibale Bentivogli chết, do dòng họ không còn người nào trong thành phố để nắm vương quyền, nên khi nghe đồn rằng, ở Florence có một người mang dòng máu Bentivogli, người mà đến tận giờ, vẫn được cho là con người thợ rèn, người dân Bologna đã tới tận Florence để tìm và trao cho anh ta quyền cai trị thành phố. Người này đã cai trị Bologna cho tới khi Giovanni đến tuổi trưởng thành.

[78 Annibale Bentivogli bị kẻ thù giết năm 1445, con trai ông là Giovanni nắm quyền ở Bologna năm 1462. Giovanni chết năm 1508, con trai là Annibale (1469-1540) kế vị.]

For this reason I consider that a prince ought to reckon conspiracies of little account when his people hold him in esteem; but when it is hostile to him, and bears hatred towards him, he ought to fear everything and everybody. And well-ordered states and wise princes have taken every care not to drive the nobles to desperation, and to keep the people satisfied and contented, for this is one of the most important objects a prince can have.

Có thể kết luận rằng, khi được dân chúng yêu mến thì quân vương không việc gì phải sợ những âm mưu. Nhưng khi dân chúng có thái độ thù địch và căm ghét thì ông phải dè chừng tất cả mọi thứ và tất cả mọi người. Điều quan trọng nhất mà quân vương cần lưu tâm là phải có một quốc gia được tổ chức tốt và phải là một quân vương khôn ngoan, không gây thù oán với giới quý tộc, làm hài lòng dân thường và giúp họ luôn được mãn nguyện.

Among the best ordered and governed kingdoms of our times is France, and in it are found many good institutions on which depend the liberty and security of the king; of these the first is the parliament and its authority, because he who founded the kingdom, knowing the ambition of the nobility and their boldness, considered that a bit in their mouths would be necessary to hold them in; and, on the other side, knowing the hatred of the people, founded in fear, against the nobles, he wished to protect them, yet he was not anxious for this to be the particular care of the king; therefore, to take away the reproach which he would be liable to from the nobles for favouring the people, and from the people for favouring the nobles, he set up an arbiter, who should be one who could beat down the great and favour the lesser without reproach to the king.

Trong số các vương quốc ở thời đại chúng ta thì Pháp là nước được tổ chức và cai trị tốt. Tại quốc gia này, ta có thể tìm thấy vô số những thiết chế tốt đẹp làm chỗ dựa sự tự do và an toàn của đức vua. Trong số đó, đầu tiên phải kể đến nghị viện và thẩm quyền của nghị viện. Đức vua ý thức được tham vọng và sự ngạo mạn của giới quý tộc, hiểu được rằng cần phải có mồi nhử để giữ bọn chúng lại với mình nhưng cũng phải hiểu được sự thù ghét do nỗi sợ hãi của dân chúng đối với giới quý tộc và việc cần phải vỗ về dân chúng sẽ không để điều đó thành trách nhiệm của riêng đức vua. Để giải thoát mình khỏi sự phẫn nộ của giới quý tộc nếu ông ủng hộ dân chúng và sự phẫn nộ của dân chúng nếu ông ủng hộ giới quý tộc, ông đã lập ra một cơ quan tư pháp có vai trò trung gian để kiềm chế giới quý tộc và che chở dân lành mà không tạo ra áp lực đối với đức vua.

Neither could you have a better or a more prudent arrangement, or a greater source of security to the king and kingdom. From this one can draw another important conclusion, that princes ought to leave affairs of reproach to the management of others, and keep those of grace in their own hands. And further, I consider that a prince ought to cherish the nobles, but not so as to make himself hated by the people.

Không thể có một thiết chế nào tốt đẹp và an toàn hơn hình thức này, và cũng không thể có biện pháp nào an toàn hơn cho đức vua và cho cả vương quốc. Từ minh họa trên, ta cũng có thể rút ra được một bài học quý giá. Bậc quân vương phải giao những nhiệm vụ đáng ghét cho người khác và giữ cho mình những nghĩa vụ nhẹ nhàng. Tôi xin được nhắc lại, bậc quân vương cần tôn trọng giới quý tộc nhưng không được để dân chúng thù ghét.

It may appear, perhaps, to some who have examined the lives and deaths of the Roman emperors that many of them would be an example contrary to my opinion, seeing that some of them lived nobly and showed great qualities of soul, nevertheless they have lost their empire or have been killed by subjects who have conspired against them. Wishing, therefore, to answer these objections, I will recall the characters of some of the emperors, and will show that the causes of their ruin were not different to those alleged by me; at the same time I will only submit for consideration those things that are noteworthy to him who studies the affairs of those times.

Có thể những người từng nghiên cứu về cuộc đời và cái chết của các hoàng đế La Mã sẽ đưa ra những ví dụ trái ngược với quan điểm của tôi ; vì chúng ta thấy rằng một số vị hoàng đế đã luôn sống cao qúy, thể hiện tính cách mạnh mẽ tuyệt vời nhưng vẫn bị lật đổ và bị chính thần dân của mình mưu hại. Để đáp lại, tôi xin phân tích các tính cách tiêu biểu của một số hoàng đế để làm rõ những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của họ, những nguyên nhân cũng không khác mấy so với những gì tôi đã nói , và tôi cũng xin chỉ ra những điểm đáng để những người đọc về lịch sử thời này cần lưu ý.

It seems to me sufficient to take all those emperors who succeeded to the empire from Marcus the philosopher down to Maximinus; they were Marcus and his son Commodus, Pertinax, Julian, Severus and his son Antoninus Caracalla, Macrinus, Heliogabalus, Alexander, and Maximinus

Để đề cập đầy đủ, tôi sẽ chọn tất cả các hoàng đế đã trị vì từ thời Marcus tới thời Maximinus: đó là Marcus, Commodua (con trai của Marcus), Pertinax, Julian, Severus, Antonius Caracalla (con trai của Severus), Macrinus, Heliogabalus, Alexander va Maximinus79.

[79 Machiavelli liệt kê những người kế vị ngôi hoàng đế La Mã từ năm 161 đến 238: Marcus Aurelius (121-180); con trai là Commodus (180-193) ; Pertinax (193); Julian (193); Severus (193-211); con trai là Caracalla (211-217); Macrinus (217-218); Heliogabalus (218-222); Alexander (222-235) và Maximius (235-238) ]

There is first to note that, whereas in other principalities the ambition of the nobles and the insolence of the people only have to be contended with, the Roman emperors had a third difficulty in having to put up with the cruelty and avarice of their soldiers, a matter so beset with difficulties that it was the ruin of many; for it was a hard thing to give satisfaction both to soldiers and people; because the people loved peace, and for this reason they loved the unaspiring prince, whilst the soldiers loved the warlike prince who was bold, cruel, and rapacious, which qualities they were quite willing he should exercise upon the people, so that they could get double pay and give vent to their greed and cruelty. Hence it arose that those emperors were always overthrown who, either by birth or training, had no great authority, and most of them, especially those who came new to the principality, recognizing the difficulty of these two opposing humours, were inclined to give satisfaction to the soldiers, caring little about injuring the people. Which course was necessary, because, as princes cannot help being hated by someone, they ought, in the first place, to avoid being hated by every one, and when they cannot compass this, they ought to endeavour with the utmost diligence to avoid the hatred of the most powerful. Therefore, those emperors who through inexperience had need of special favour adhered more readily to the soldiers than to the people; a course which turned out advantageous to them or not, accordingly as the prince knew how to maintain authority over them.

Truớc tiên, cần phải lưu ý là, trong khi ở những vương quốc khác, các bậc quân vương chỉ phải làm hài lòng tham vọng của giới quý tộc và sự kiêu ngạo của dân chúng thì các hoàng đế La Mã còn có một việc thứ ba : họ phải chịu đựng sự tàn bạo và tham lam của binh lính. Điều này đã khiến nhiều hoàng đế phải mất ngôi. Hoàng đế khó có thể làm hài lòng cả binh lính lẫn dân thường, khi dân chúng yêu sự thanh bình và yêu những vị hoàng đế giản dị, còn binh lính thì thích những vị hoàng đế quân phiệt, ngạo mạn, tàn bạo và tham lam.

Chúng muốn hoàng đế tham lam và tàn bạo với dân thường để chúng nhận đôi các khoản bổng lộc. Kết quả là mâu thuẫn này thường dẫn tới sự sụp đổ của những vị hoàng đế mà bản tính hoặc mưu mô không đủ tạo danh tiếng lớn để kiềm chế được cả dân chúng lẫn binh lính. Hầu hết các hoàng đế, nhất là những người mới lên ngôi, khi nhận thấy những rắc rối nảy sinh giữa hai phe này đã quay ra nhân nhượng binh lính mà không hiểu rằng mình đã làm tổn thương dân thường.

Quyết định này là cần thiết vì các hoàng đế không thể tránh khỏi việc có kẻ thù ghét nên trước tiên, họ phải tránh bị dân chúng ghét. Nếu không thể thực hiện được thì phải bằng mọi cách để không bị nhóm có thế lực nhất thù ghét mình. Chính bởi vậy, những vị hoàng đế đó, những người cần sự hỗ trợ lớn lao do mới cầm quyền,phải đứng về phía binh lính chứ không phải dân thường. Tuy nhiên, điều này có phát huy tác dụng hay không lại phụ thuộc vào việc vị hoàng đế đó có biết cách duy trì uy tín của mình trước binh lính hay không .

From these causes it arose that Marcus [Aurelius], Pertinax, and Alexander, being all men of modest life, lovers of justice, enemies to cruelty, humane, and benignant, came to a sad end except Marcus; he alone lived and died honoured, because he had succeeded to the throne by hereditary title, and owed nothing either to the soldiers or the people; and afterwards, being possessed of many virtues which made him respected, he always kept both orders in their places whilst he lived, and was neither hated nor despised.

But Pertinax was created emperor against the wishes of the soldiers, who, being accustomed to live licentiously under Commodus, could not endure the honest life to which Pertinax wished to reduce them; thus, having given cause for hatred, to which hatred there was added contempt for his old age, he was overthrown at the very beginning of his administration.

Marcus, Pertinax và Alexander đều là những người khiêm tốn, yêu công bằng, ghét sự tàn bạo, tốt bụng, nhân từ nhưng tất cả các hoàng đế này, ngoại trừ Marcus, đều có một kết cục đáng buồn. Chỉ có Marcus là cả cuộc sống và cái chết đều được tôn vinh tuyệt đối, bởi vì ông kế vị ngôi hoàng đế của dòng họ nên không mắc nợ ai, cả binh lính hay dân chúng. Với rất nhiều phẩm chất đáng kính, khi còn sống, ông luôn kiềm giữ cả hai phe ở trong giới hạn của họ, và ông chưa bao giờ bị thù ghét hay khinh thường.

Nhưng Pertinax lại được đưa lên ngôi hoàng đế trái với nguyện vọng của binh lính, những kẻ quen sống phóng túng dưới thời Commodus. Chúng không thể sống cuộc sống lương thiện mà Perinax muốn ép buộc. Khiến mình bị thù ghét khi tuổi tác đã cao, ông đã bị lật đổ ngay khi mới lên cầm quyền.

And here it should be noted that hatred is acquired as much by good works as by bad ones, therefore, as I said before, a prince wishing to keep his state is very often forced to do evil; for when that body is corrupt whom you think you have need of to maintain yourself — it may be either the people or the soldiers or the nobles — you have to submit to its humours and to gratify them, and then good works will do you harm.

But let us come to Alexander, who was a man of such great goodness, that among the other praises which are accorded him is this, that in the fourteen years he held the empire no one was ever put to death by him unjudged; nevertheless, being considered effeminate and a man who allowed himself to be governed by his mother, he became despised, the army conspired against him, and murdered him.

Và giờ đây, người ta phải hiểu được rằng các hành động tốt đem lại nhiều sự thù ghét chẳng kém gì những hành động xấu. Do vậy, như tôi đã nói ở trên, để cai trị vương quốc của mình, bậc quân vương thường bắt buộc phải làm người không tốt. Khi nhóm người mà ngài tin rằng cần ở họ sự hỗ trợ thì cho dù đó là dân thường, binh lính hay giới quý tộc, thì vì lợi ích của chính mình, ngài nên nghiêng về phía họ để làm họ hài lòng, và khi đó, những việc tốt chính là kẻ thù của ngài.

Chúng ta hãy thử xem trường hợp của hoàng đế Alexander. Ông là người tốt bụng đến mức trong những việc làm đáng ca ngợi của ông phải kể đến việc khi cai trị ở tuổi mười bốn, ông chưa hề ra lệnh giết ai mà không xét xử. Tuy nhiên, ông bị cho là yếu mềm và bị người mẹ điều khiển. Chính vì thế, người ta coi thường ông và quân đội đã bày mưu chống lại ông, cuối cùng đã hạ sát ông.

Turning now to the opposite characters of Commodus, Severus, Antoninus Caracalla, and Maximinus, you will find them all cruel and rapacious — men who, to satisfy their soldiers, did not hesitate to commit every kind of iniquity against the people; and all, except Severus, came to a bad end; but in Severus there was so much valour that, keeping the soldiers friendly, although the people were oppressed by him, he reigned successfully; for his valour made him so much admired in the sight of the soldiers and people that the latter were kept in a way astonished and awed and the former respectful and satisfied. And because the actions of this man, as a new prince, were great, I wish to show briefly that he knew well how to counterfeit the fox and the lion, which natures, as I said above, it is necessary for a prince to imitate.

Bây giờ chúng ta lại xem xét trường hợp ngược lại. Hãy xét tính cách của Commodus, Severus, Antoninus Caracalla và Maximinus. Ngài sẽ thấy tất cả các hoàng đế này đều vô cùng tàn bạo và tham lam. Để thỏa mãn những đội quân của mình, họ không ngần ngại gây ra cho dân chúng mọi nỗi mất mát, và tất cả họ ngoại trừ Severus đều phải chịu kết cục bi thảm. Trong con người Severus có quá nhiều phẩm chất khiến ông luôn giành được tình cảm của binh lính và mặc dù bị áp chế, dân chúng vẫn yên ổn dưới sự cai trị khôn khéo của ông. Những phẩm chất đó khiến ông trở nên vô cùng đáng kính trọng trong mắt của cả binh lính lẫn dân thường, khiến binh lính thì khiếp sợ ông, còn dân chúng thì hài lòng và tôn kính ông. Do các hành động của con người này thật vĩ đại, đáng để vị quân vương mới giành được quyền lực phải lưu tâm, tôi rất muốn trình bày ngắn gọn về sự khéo léo của ông trong việc kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo, những bản năng mà bậc quân vương nên bắt chước.

Knowing the sloth of the Emperor Julian, he persuaded the army in Sclavonia, of which he was captain, that it would be right to go to Rome and avenge the death of Pertinax, who had been killed by the praetorian soldiers; and under this pretext, without appearing to aspire to the throne, he moved the army on Rome, and reached Italy before it was known that he had started. On his arrival at Rome, the Senate, through fear, elected him emperor and killed Julian.

Ngay khi nhận thấy sự thiếu quyết đoán của hoàng đế Julian, Severus đã thuyết phục quân đội do ông thống lĩnh tại Slavonia rằng cần phải kéo quân đến thành Rome để báo thù cho cái chết của Pertinax, người đã bị cận vệ hoàng đế sát hại. Dưới chiêu bài này và giấu đi tham vọng đoạt ngôi hoàng đế, Severus bất thần đưa quân tới thành Rome. Khi ông tới thành Rome, nghị viện quá khiếp sợ đã bầu ông làm hoàng đế và Julian bị giết.

After this there remained for Severus, who wished to make himself master of the whole empire, two difficulties; one in Asia, where Niger, head of the Asiatic army, had caused himself to be proclaimed emperor; the other in the west where Albinus was, who also aspired to the throne. And as he considered it dangerous to declare himself hostile to both, he decided to attack Niger and to deceive Albinus.

Sau sự khởi đầu đó, còn hai trở ngại đối với Severus nếu ông muốn trở thành người thống trị toàn bộ vương quốc. Thứ nhất là ở châu Á, nơi Pescennius Niger, người thống lĩnh các đạo quân châu Á, nơi Albinus cũng có tham vọng trở thành hoàng đế. Nhận thấy rằng nếu để lộ mình kẻ thù của cả hai người này thì quả là nguy hiểm nên ông quyết định tấn công Niger và lừa phỉnh Albinus.

To the latter he wrote that, being elected emperor by the Senate, he was willing to share that dignity with him and sent him the title of Caesar; and, moreover, that the Senate had made Albinus his colleague; which things were accepted by Albinus as true. But after Severus had conquered and killed Niger, and settled oriental affairs, he returned to Rome and complained to the Senate that Albinus, little recognizing the benefits that he had received from him, had by treachery sought to murder him, and for this ingratitude he was compelled to punish him. Afterwards he sought him out in France, and took from him his government and life.

Ông viết thư cho Albinus nói rằng mình đã được nghị viện bầu làm hoàng đế và muốn được chia sẻ niềm vinh dự đó với Albinus, ông gửi tới Albinus ngôi vị hoàng đế và bằng một sắc lệnh của nghị viện, đưa Albinus lên ngang hàng với ông. Albinus đã tin vào những điều đó. Nhưng sau khi tiêu diệt được Niger, bình định được phía Đông, lúc trở về thành Rome, ông đã lớn tiếng tố cáo với nghị viện rằng Albinus không những không cảm kích trước những gì ông đã ban cho mà còn âm mưu ám hại ông, và bởi vậy, ông buộc phải trừng phạt Albinus vì sự vô ơn đó. Rồi ông bắt sống Albinus ở Pháp và lấy đi cả mạng sống lẫn vương quốc của Albinus.

He who will, therefore, carefully examine the actions of this man will find him a most valiant lion and a most cunning fox; he will find him feared and respected by every one, and not hated by the army; and it need not be wondered at that he, the new man, well, because his supreme renown always protected him from that hatred which the people might have conceived against him for his violence.

Bất kỳ ai khi xem xét kỹ các việc làm của Severus đều nhận thấy ở ông là một con sư tử hung dữ và một con cáo khôn ngoan. Ai cũng kính sợ ông và binh lính không thù ghét ông. Và chẳng ai phải ngạc nhiên về việc một vị tân vương như ông lại có thể trị vì một cách đầy quyền uy như thế. Tiếng tăm lừng lẫy của ông luôn bảo vệ ông khỏi sự thù ghét của những người dân thường đối với sự cướp phá của ông.

But his son Antoninus was a most eminent man, and had very excellent qualities, which made him admirable in the sight of the people and acceptable to the soldiers, for he was a warlike man, most enduring of fatigue, a despiser of all delicate food and other luxuries, which caused him to be beloved by the armies. Nevertheless, his ferocity and cruelties were so great and so unheard of that, after endless single murders, he killed a large number of the people of Rome and all those of Alexandria.

Hoàng đế Antoninus, con trai của Severus, cũng là người có những khả năng tuyệt vời khiến ông vô cùng được ngưỡng mộ trong mắt dân thường và được binh lính yêu mến. Ông là một nhà quân sự có khả năng chịu đựng mọi gian khổ, coi thường cuộc sống an nhàn với những bữa ăn ngon; điều khiến binh lính yêu mến ông. Nhưng sự tàn bạo, man rợ của ông thật kinh khủng và quá ác độc. Sau vô số những vụ giết người, ông đã xử tử hầu hết dân thành Rome và tất cả dân Alexandria- nên đã trở thành kẻ bị toàn thế giới ghê tởm.

He became hated by the whole world, and also feared by those he had around him, to such an extent that he was murdered in the midst of his army by a centurion. And here it must be noted that such-like deaths, which are deliberately inflicted with a resolved and desperate courage, cannot be avoided by princes, because any one who does not fear to die can inflict them; but a prince may fear them the less because they are very rare; he has only to be careful not to do any grave injury to those whom he employs or has around him in the service of the state. Antoninus had not taken this care, but had contumeliously killed a brother of that centurion, whom also he daily threatened, yet retained in his bodyguard; which, as it turned out, was a rash thing to do, and proved the emperor's ruin.

Ông khiến ngay cả những người thân cận cũng phải khiếp sợ đến mức bị một viên tướng giết ngay giữa ba quân. Ta có thể thấy rằng những cái chết như vừa nêu được thực hiện dựa trên ý chí của một người, là không thể tránh khỏi đối với các quân vương, vì bất kỳ ai không sợ chết đều có thể ám hại họ. Tuy nhiên, bậc quân vương không nên quá sợ những kẻ như thế vì họ rất hiếm. Quân vương chỉ cần tránh đừng gây những thương tổn nghiêm trọng lên những người phụng sự ông và những người được chọn tham gia điều hành vương quốc Antoninus lại dẫm vào chính vết chân đó. Ông đã giết anh trai của viên tướng nói trên một cách hèn hạ và hàng ngày còn đe dọa hắn nhưng vẫn giữ hắn làm cận vệ. Đấy là một quyết định thiếu suy nghĩ và điều gì phải đến đã đến.

But let us come to Commodus, to whom it should have been very easy to hold the empire, for, being the son of Marcus, he had inherited it, and he had only to follow in the footsteps of his father to please his people and soldiers; but, being by nature cruel and brutal, he gave himself up to amusing the soldiers and corrupting them, so that he might indulge his rapacity upon the people; on the other hand, not maintaining his dignity, often descending to the theatre to compete with gladiators, and doing other vile things, little worthy of the imperial majesty, he fell into contempt with the soldiers, and being hated by one party and despised by the other, he was conspired against and killed.

Bây giờ ta hãy bàn về hoàng đế Commodus, người đã cai trị vô cùng dễ dàng do được kế thừa ngôi hoàng đế với tư cách là con trai của Marcus. Ông chỉ cần noi gương cha làm hài lòng binh lính và dân chúng là đủ. Nhưng với bản chất tàn bạo và dâm loạn, để thoả mãn lòng tham của mình, ông quay sang nuông chiều binh lính, biến chúng thành một lũ vô kỷ luật. Mặt khác, không giữ gìn sự tôn nghiêm của mình, ông thường thượng đài tỉ thí với các đấu sĩ và làm nhiều việc hèn hạ khác không xứng đáng với một bậc đế vương, nên ông trở nên tầm thường trong mắt của binh lính. Vừa bị khinh miệt vừa bị thù ghét, ông đã bị người ta bày mưu sát hại.

It remains to discuss the character of Maximinus. He was a very warlike man, and the armies, being disgusted with the effeminacy of Alexander, of whom I have already spoken, killed him and elected Maximinus to the throne. This he did not possess for long, for two things made him hated and despised; the one, his having kept sheep in Thrace, which brought him into contempt (it being well known to all, and considered a great indignity by every one), and the other, his having at the accession to his dominions deferred going to Rome and taking possession of the imperial seat; he had also gained a reputation for the utmost ferocity by having, through his prefects in Rome and elsewhere in the empire, practised many cruelties, so that the whole world was moved to anger at the meanness of his birth and to fear at his barbarity.

Cũng cần phải miêu tả đôi chút về tính cách của hoàng đế Maximinus. Ông là người hiếu chiến và do quân đội đã chán ghét sự yếu đuối của hoàng đế Alexander, như tôi đã trình bày, nên sau khi Alexander chết, ông được họ chọn làm hoàng đế. Ông cũng chẳng ở ngôi cao được lâu, vì có hai điều khiến ông bị thù ghét và khinh bỉ. Trước tiên là do nguồn gốc thấp hèn của ông. Ông đã từng là một tên chăn cừu ở Thrace (ai cũng biết điều này và nó khiến ông mất đi sự tôn nghiêm cần thiết trong mắt mọi người) ; thứ hai là do khi mới lên ngôi, ông đã trì hoãn không tới đăng quang tại thành Rome. Ông khét tiếng là kẻ tàn bạo và thông qua các viên thống sứ của mình tại thành Rome và các vùng trên toàn đế chế, ông đã có nhiều hành động tàn ác. Kết quả là đâu đâu người ta cũng coi khinh nguồn gốc xuất thân ti tiện của ông và căm ghét ông do e sợ sự tàn bạo.

First Africa rebelled, then the Senate with all the people of Rome, and all Italy conspired against him, to which may be added his own army: this latter, besieging Aquileia and meeting with difficulties in taking it, were disgusted with his cruelties, and fearing him less when they found so many against him, murdered him.

Đầu tiên là châu Phi nổi loạn, sau đó là nghị viện và toàn thể dân chúng thành Rome và cuối cùng là cả Italia chống lại ông. Thêm vào đó là quân đội của chính ông. Khi bao vây Aquileia, binh lính thấy rằng rất khó chiếm thành, lại bị sự tàn bạo của ông làm họ tức giận nhiều hơn là sợ hãi, và nhận thấy ông có nhiều kẻ thù, nên họ đã ám sát ông.

I do not wish to discuss Heliogabalus, Macrinus, or Julian, who, being thoroughly contemptible, were quickly wiped out; but I will bring this discourse to a conclusion by saying that princes in our times have this difficulty of giving inordinate satisfaction to their soldiers in a far less degree, because, notwithstanding one has to give them some indulgence, that is soon done; none of these princes have armies that are veterans in the governance and administration of provinces, as were the armies of the Roman Empire; and whereas it was then more necessary to give satisfaction to the soldiers than to the people, it is now more necessary to all princes, except the Turk and the Soldan, to satisfy the people rather than the soldiers, because the people are the more powerful.

Tôi không bàn về Heliogabalus hoặc Macrinus hay Julian, những vị hoàng đế do bị tất cả mọi người khinh miệt nên đã sớm bị tiêu diệt. Tôi xin được đưa ra lời kết cho phần bàn luận này. Các quân vương thời đại chúng ta gặp ít rắc rối hơn khi làm thỏa mãn binh lính bằng những biện pháp khác thường. Mặc dù vẫn phải trông chừng bọn chúng nhưng các quân vương này đều nhanh chóng giải quyết vấn đề, bởi không quân vương nào lại giữ quân thường trú lâu dài song song với chính quyền tại các vùng đất bị thống trị như cách các triều đại La Mã thường làm. Bởi vậy, nếu cần phải thõa mãn binh lính hơn là thoã mãn dân chúng thì chẳng qua là binh lính được việc hơn dân chúng. Giờ đây, đối với tất cả các quân vương, ngoại trừ hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ và quốc vương Ai Cập80, thì điều cần thiết là phải làm hài lòng dân chúng chứ không phải binh lính vì dân chúng đang được việc hơn binh lính.

[80 Tức là hoàng đế Ottoman Selim I đang cai trị Thổ Nhĩ Kỳ và quốc vương Mamluk của Ai Cập, người được lựa chọn từ các chỉ huy đội quân nô lệ. Hoàng đế Selim I đã lật đổ triều đại Mamluk vào năm 1517.]

From the above I have excepted the Turk, who always keeps round him twelve infantry and fifteen thousand cavalry on which depend the security and strength of the kingdom, and it is necessary that, putting aside every consideration for the people, he should keep them his friends. The kingdom of the Soldan is similar; being entirely in the hands of soldiers, follows again that, without regard to the people, he must keep them his friends.

Tôi coi hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ là một ngoại lệ vì ông luôn duy trì bên mình mười hai nghìn lính bộ binh và mười lăm nghìn kỵ binh và dựa vào những đội quân này để đảm bảo sự an toàn và sự hùng mạnh của đế chế. Và điều cần làm, đối với ông là gạt bỏ mọi mối quan tâm khác, ông phải thân thiện với binh lính của mình. Cũng như vậy, vương quốc của Quốc vương Ai Cập hoàn toàn nằm trong tay quân đội và đối với ông thì điều cần thiết cũng là duy trì sự thân thiện của binh lính mà không cần phải đếm xỉa đến dân chúng.

But you must note that the state of the Soldan is unlike all other principalities, for the reason that it is like the Christian pontificate, which cannot be called either an hereditary or a newly formed principality; because the sons of the old prince not the heirs, but he who is elected to that position by those who have authority, and the sons remain only noblemen. And this being an ancient custom, it cannot be called a new principality, because there are none of those difficulties in it that are met with in new ones; for although the prince is new, the constitution of the state is old, and it is framed so as to receive him as if he were its hereditary lord.

Ngài cũng cần lưu ý rằng chính thể của quốc vương Ai Cập không giống với các chính thể khác, mặc dù có một số đặc điểm tương tự như hình thức Giáo hoàng của Cơ Đốc giáo nên không thể gọi đó là một nền quân chủ thế tập hay một nên quân chủ mới. Con trai của quốc vương cũ không phải là người nối ngôi mà chỉ là vương tôn, còn người nối ngôi sẽ được những người có thẩm quyền lựa chọn. Và do hệ thống này lại tuận theo những truyền thống cổ xưa nên không thể gọi nó là vương quốc mới, ở đây không tồn tại những khó khăn kiểu vẫn xảy ra ở các vương quốc mới. Mặc dù quốc vương hoàn toàn mới nhưng các thiết chế lại vẫn là những thiết chế cũ và chỉ được tổ chức lại để đón nhận quốc vương mới như thể vị quốc vương mới là người trị vì được truyền ngôi.

But returning to the subject of our discourse, I say that whoever will consider it will acknowledge that either hatred or contempt has been fatal to the above-named emperors, and it will be recognized also how it happened that, a number of them acting in one way and a number in another, only one in each way came to a happy end and the rest to unhappy ones.

Because it would have been useless and dangerous for Pertinax and Alexander, being new princes, to imitate Marcus, who was heir to the principality; and likewise it would have been utterly destructive to Caracalla, Commodus, and Maximinus to have imitated Severus, they not having sufficient valour to enable them to tread in his footsteps. Therefore a prince, new to the principality, cannot imitate the actions of Marcus, nor, again, is it necessary to follow those of Severus, but he ought to take from Severus those parts which are necessary to found his state, and from Marcus those which are proper and glorious to keep a state that may already be stable and firm.

Bây giờ, hãy quay lại chủ đề của chúng ta. Bất kỳ ai quan tâm đến phần thảo luận trên đây đều nhận thấy sự thù ghét và khinh miệt gây ra sự sụp đổ của những hoàng đế đời trước như thế nào, và hẳn phải nhận thấy rằng mặc dù một số người hành động thế này, còn số khác cư xử hoàn toàn ngược lại thì ở mỗi nhóm, bao giờ cũng có những người có kết cục tốt và những người phải chịu kết cục xấu.

Đối với những vị tân vương như Pertinax và Alexander thì thật nguy hại và vô ích nếu muốn bắt chước Marcus, người có được đất nước nhờ quyền thế tập. Tương tự như vậy, đối với Caracalla, Commodus và Maximinus thì việc bắt chước Severus là tai họa, bởi những vị hoàng đế này không đủ năng lực để hành động theo cách của Severus. Thế nên, vị tân vương ở một vương quốc mới không thể học theo những hành động của Marcus nhưng cũng không thể theo bước Severus. Thay vào đó, tân vương cần học ở Severus những điều cần thiết để lập quốc và ở Marcus những điều phù hợp và vẻ vang để bảo vệ vương quốc đã được thành lập và đang ổn định.

CHAPTER XX

Are Fortresses, And Many Other Things To Which Princes Often Resort, Advantageous Or Hurtful?

20

PHÁO ĐÀI VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC PHÒNG THỦ KHÁC: CÓ ÍCH HAY CÓ HẠI

1. SOME princes, so as to hold securely the state, have disarmed their subjects; others have kept their subject towns by factions; others have fostered enmities against themselves; others have laid themselves out to gain over those whom they distrusted in the beginning of their governments; some have built fortresses; some have overthrown and destroyed them. And although one cannot give a final judgment on all one of these things unless one possesses the particulars of those states in which a decision has to be made, nevertheless I will speak as comprehensively as the matter of itself will admit.

Một số bậc quân vương không vũ trang cho dân chúng nhằm đảm bảo cho đất nước được an toàn, một số bậc quân vương chia nhỏ những vùng đất chinh phục được, còn một số bậc quân vương lại kích động sự chống đối. Một số quân vương khác lại cố giành được sự ủng hộ của những người trước đây không tin tưởng vào sự trị vì của họ. Một số quân vương xây các pháo đài trong khi số khác lại phá bỏ. Không thể đưa ra một nguyên tắc bất di bất dịch mà không tính đến những đặc điểm riêng biệt của từng quốc gia nơi người ta đã đưa ra những quyết định khác nhau. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn đề cập khái quát về vấn đề này.

2. There never was a new prince who has disarmed his subjects; rather when he has found them disarmed he has always armed them, because, by arming them, those arms become yours, those men who were distrusted become faithful, and those who were faithful are kept so, and your subjects become your adherents. And whereas all subjects cannot be armed, yet when those whom you do arm are benefited, the others can be handled more freely, and this difference in their treatment, which they quite understand, makes the former your dependants, and the latter, considering it to be necessary that those who have the most danger and service should have the most reward, excuse you. But when you disarm them, you at once offend them by showing that you distrust them, either for cowardice or for want of loyalty, and either of these opinions breeds hatred against you. And because you cannot remain unarmed, it follows that you turn to mercenaries, which are of the character already shown; even if they should be good they would not be sufficient to defend you against powerful enemies and distrusted subjects. Therefore, as I have said, a new prince in a new principality has always distributed arms. Histories are full of examples. But when a prince acquires a new state, which he adds as a province to his old one, then it is necessary to disarm the men of that state, except those who have been his adherents in acquiring it; and these again, with time and opportunity, should be rendered soft and effeminate; and matters should be managed in such a way that all the armed men in the state shall be your own soldiers who in your old state were living near you.

Chưa từng có vị tân vương nào lại tước vũ khí của các thần dân mà trái lại, khi thấy thần dân không được vũ trang, quân vương còn trao vũ khí cho họ. Khi được vũ trang, lực lượng đó sẽ thuộc về ngài, cả những người trung thành lẫn những người ngài hy vọng sẽ trở nên trung thành. Khi ấy, họ không còn là dân thường mà đã là người thuộc phe của ngài. Vũ khí không thể trang bị cho tất cả mọi người nên những người được trang bị là những người được hưởng ân sủng, còn ngài sẽ dễ đối phó hơn với những người không được vũ trang.

Sự phân biệt đối xử mà ngài dành cho họ sẽ khiến họ mắc nợ ngài. Những người không được trang bị vũ khí sẽ miễn thứ cho ngài với ý nghĩ rằng những người chịu nhiều hiểm nguy hơn, gánh nhiều trách nhiệm hơn thì xứng đáng với nhiều sự ban thưởng hơn. Nhưng khi ngài tước vũ khí của họ thì ngài đã bắt đầu xúc phạm họ. Ngài thể hiện sự không tin tưởng vào họ vì họ hèn nhát hay vì thiếu tin tưởng.

Cả hai điều đó đều khiến người ta căm ghét ngài. Và bởi vì không thể không có quân đội nên ngài sẽ phải thuê lính đánh thuê với những tính xấu đã được bàn ở các phần trước. Và cho dù chúng là những binh lính tốt đi nữa thì cũng không đủ mạnh để bảo vệ ngài trước những kẻ địch hùng mạnh và những thần dân thiếu trung thành. Bởi vậy, như tôi đã nói, một quân vương mới giành được ngôi báu ở một vương quốc mới luôn xây dựng quân đội và trong lịch sử có rất nhiều những ví dụ như vậy.

Nhưng khi một quân vương giành được một vương quốc mới và sáp nhập vào vương quốc cũ của mình thì cần phải tước vũ khí của những thần dân bị chinh phục, trừ những kẻ đã đứng về phía ngài trong cuộc chiến. Tuy nhiên, cùng với thời gian và khi có cơ hội, ngài cũng cần phải làm cho bọn họ suy yếu và khiếp nhược dần. Ngài phải tổ chức mọi việc sao cho sức mạnh vũ trang của toàn bộ đất nước tập trung ở chính binh lính của ngài-những người sống bên cạnh ngài tại vương quốc cũ.

3. Our forefathers, and those who were reckoned wise, were accustomed to say that it was necessary to hold Pistoia by factions and Pisa by fortresses; and with this idea they fostered quarrels in some of their tributary towns so as to keep possession of them the more easily. This may have been well enough in those times when Italy was in a way balanced, but I do not believe that it can be accepted as a precept for to-day, because I do not believe that factions can ever be of use; rather it is certain that when the enemy comes upon you in divided cities you are quickly lost, because the weakest party will always assist the outside forces and the other will not be able to resist. The Venetians, moved, as I believe, by the above reasons, fostered the Guelph and Ghibelline factions in their tributary cities; and although they never allowed them to come to bloodshed, yet they nursed these disputes amongst them, so that the citizens, distracted by their differences, should not unite against them. Which, as we saw, did not afterwards turn out as expected, because, after the rout at Vaila, one party at once took courage and seized the state. Such methods argue, therefore, weakness in the prince, because these factions will never be permitted in a vigorous principality; such methods for enabling one the more easily to manage subjects are only useful in times of peace, but if war comes this policy proves fallacious.

Tổ tiên chúng ta là những người thông thái, từng nói rằng phải giữ Pistoia bằng những phe phái và phải giữ Pisa bằng các pháo đài. Chính vì thế, những xung đột phe phái được kích động ở một số thị trấn phụ thuộc nhằm kiểm soát những vùng này dễ dàng hơn. Mặc dù, vào thời điểm hiện nay, khi Italia đang ở trạng thái cân bằng quyền lực, lời khuyên này có thể là một chính sách tốt nhưng tôi không cho rằng nên coi đó là một nguyên tắc. Theo tôi,các phe phái, không đem lại điều gì tốt đẹp cả mà ngược lại, khi kẻ thù đến, các thành phố bị chia rẽ luôn thất thủ, vì những phe yếu hơn luôn liên kết với các lực lượng bên ngoài và những phe còn lại sẽ không kháng cự nổi .

Tôi cho rằng người Venice, với những lý do nêu trên, đã kích động phe Guelf và phe Ghibelline81 tại các thành phố phụ thuộc. Mặc dù không bao giờ để xảy ra đổ máu nhưng họ nuôi dưỡng xung đột giữa các phe phái sao cho những thành phố này do bận bịu với các tranh chấp của chính mình sẽ không thể đoàn kết chống lại họ. Điều này, như chúng ta thấy, không đem lại kết quả.

Khi người Venice bị đánh bại tại Vailà, một phe đã ngay lập tức lấy lại dũng khí và chiếm lại toàn bộ lãnh thổ. Hơn nữa, những biện pháp kiểu này chỉ thể hiện yếu ớt của quân vương. Tại những vương quốc vững mạnh, người ta không bao giờ cho phép tồn tại những phe nhóm bởi điều này chỉ có lợi trong thời bình khi giúp cho việc cai trị các thần dân trở nên dễ dàng hơn, nhưng khi chiến tranh đến thì chính sách kiểu này sẽ bộc lộ tác hại.

[81 Trong cuộc xung đột giữa hoàng đế La Mã và Giáo hoàng tại Italia thời Trung cổ, những người theo phe Guelf ủng hộ Giáo hoàng. Trong khi đó, những người theo phe Ghibelline hậu thuẫn hoàng đế. Tuy nhiên, những tranh đoạt giữa các nước đã hoà lẫn với các mâu thuẫn cục bộ nên một phe sẽ tấn công với sự ủng hộ của Giáo hoàng nếu đối thủ của họ nhận sự giúp đỡ của hoàng đế, và ngược lại.]

4. Without doubt princes become great when they overcome the difficulties and obstacles by which they are confronted, and therefore fortune, especially when she desires to make a new prince great, who has a greater necessity to earn renown than an hereditary one, causes enemies to arise and form designs against him, in order that he may have the opportunity of overcoming them, and by them to mount higher, as by a ladder which his enemies have raised. For this reason many consider that a wise prince, when he has the opportunity, ought with craft to foster some animosity against himself, so that, having crushed it, his renown may rise higher.

Rõ ràng là các quân vương chỉ trở nên vĩ đại khi họ vượt qua được những trở ngại trên con đường họ đi. Bởi vậy, với mong muốn tăng thêm danh tiếng cho vị tân vương – người cần giành được sự tôn kính nhiều hơn là một quân vương được thừa kế ngôi báu, thần số mệnh đã tạo ra những kẻ thù và xui khiến chúng chống lại ông để ông có cơ hội tiêu diệt chúng và leo lên những bậc cao hơn trong chiếc thang mà kẻ thù đã đem lại cho ông. Chính vì thế, nhiều người cho rằng, một quân vương khôn ngoan khi có cơ hội phải khéo léo nuôi dưỡng sự chống đối để khi nghiền nát nó, ông sẽ giành thêm những vinh quang cho mình.

5. Princes, especially new ones, have found more fidelity and assistance in those men who in the beginning of their rule were distrusted than among those who in the beginning were trusted. Pandolfo Petrucci, Prince of Siena, ruled his state more by those who had been distrusted than by others. But on this question one cannot speak generally, for it varies so much with the individual; I will only say this, that those men who at the commencement of a princedom have been hostile, if they are of a description to need assistance to support themselves, can always be gained over with the greatest ease, and they will be tightly held to serve the prince with fidelity, inasmuch as they know it to be very necessary for them to cancel by deeds the bad impression which he had formed of them; and thus the prince always extracts more profit from them than from those who, serving him in too much security, may neglect his affairs. And since the matter demands it, I must not fail to warn a prince, who by means of secret favours has acquired a new state, that he must well consider the reasons which induced those to favour him who did so; and if it be not a natural affection towards him, but only discontent with their government, then he will only keep them friendly with great trouble and difficulty, for it will be impossible to satisfy them. And weighing well the reasons for this in those examples which can be taken from ancient and modern affairs, we shall find that it is easier for the prince to make friends of those men who were contented under the former government, and are therefore his enemies, than of those who, being discontented with it, were favourable to him and encouraged him to seize it.

Các quân vương, nhất là những tân vương vừa giành được ngôi báu, thường nhận thấy những kẻ mà họ nghi ngại khi mới lên ngôi thường tỏ ra trung thành và hữu ích hơn những kẻ được tin cậy ngay từ đầu. Pandolfo Petrucci 82 vua xứ Siena, đã cai trị đất nước với sự giúp đỡ của những người từng bị ngờ vực nhiều hơn bất kỳ ai khác.

Tuy nhiên, ở trường hợp này, khó có thể nói một cách tổng quát vì các quốc gia có tình hình khác nhau. Tôi chỉ có thể nói rằng, quân vương có thể dễ dàng giành được sự hỗ trợ của những kẻ đã từng là kẻ thù của ông vào buổi đầu lên ngôi. Chúng giúp ông để bảo vệ mạng sống của chính bọn chúng. Và thậm chí chúng còn có nhiều trách nhiệm hơn trong việc phụng sự ông, phụng sự một cách trung thành vì chúng thấy cần phải thể hiện qua các hành động của mình để xóa bỏ mối nghi ngờ vốn có trong lòng quân vương. Sử dụng chúng sẽ đem lại nhiều ích lợi hơn so với những kẻ quá cẩn trọng mà thành ra không hết lòng đối với công việc của ông.

Do đòi hỏi của chủ đề đang bàn luận, tôi không thể không nhắc nhở quân vương vừa chinh phục được một vương quốc bằng sự giúp đỡ của dân bản xứ rằng, ông cần phải thật cẩn trọng xem xét nguyên nhân đã khiến những người này giúp đỡ ông. Nếu không phải do cảm tình vốn dĩ của họ đối với ông mà là do bất mãn với chính quyền trước thì việc duy trì những đồng minh đó sẽ là một gánh nặng rất khó khăn, bởi ông không thể nào làm hài lòng họ.

Khi xem xét kỹ nguyên nhân của vấn đề, ta có thể thấy các ví dụ thời xưa cũng như thời nay cho thấy tân vương có thể dễ dàng giành được nhiều cảm tình của những người vẫn hài lòng với chế độ cũ, và bởi vậy, từng là kẻ thù của ông hơn là từ những người do bất mãn với chế độ cũ mà trở thành đồng minh và giúp ông chiếm được vương quốc của họ.

[82 Pandolfo Petrucci : Cai trị Siena từ cuối thế kỷ 15 cho tới khi chết năm 1512. Machiavelli đã tới lâu đài của Pandolfo Petrucci nhiều lần khi thực hiện các sứ mệnh ngoại giao.]

6. It has been a custom with princes, in order to hold their states more securely, to build fortresses that may serve as a bridle and bit to those who might design to work against them, and as a place of refuge from a first attack. I praise this system because it has been made use of formerly. Notwithstanding that, Messer Nicolo Vitelli in our times has been seen to demolish two fortresses in Citta di Castello so that he might keep that state; Guidubaldo, Duke of Urbino, on returning to his dominion, whence he had been driven by Cesare Borgia, razed to the foundations all the fortresses in that province, and considered that without them it would be more difficult to lose it; the Bentivoglio returning to Bologna came to a similar decision. Fortresses, therefore, are useful or not according to circumstances; if they do you good in one way they injure you in another. And this question can be reasoned thus: the prince who has more to fear from the people than from foreigners ought to build fortresses, but he who has more to fear from foreigners than from the people ought to leave them alone. The castle of Milan, built by Francesco Sforza, has made, and will make, more trouble for the house of Sforza than any other disorder in the state. For this reason the best possible fortress is — not to be hated by the people, because, although you may hold the fortresses, yet they will not save you if the people hate you, for there will never be wanting foreigners to assist a people who have taken arms against you.

Để bảo vệ vương quốc một cách an toàn hơn, các quân vương thường xây các pháo đài và coi đây như là phương tiện chế ngự những kẻ muốn tấn công họ, và cũng là nơi trú ẩn an toàn trước một cuộc bạo loạn bất ngờ. Tôi ngợi ca phương pháp này, vì nó được áp dụng từ cổ xưa tới nay. Tuy nhiên, ngay trong thời đại ngày nay, Niccolò Vitelli83 đã phá hủy hai pháo đài ở Città di Castello nhằm giữ được vương quốc này. Khi giành lại được quyền cai trị xứ Urbino mà Cesare Borgia đã đoạt của mình, Guido Ubaldo84 , công tước xứ Urbino, đã phá hủy hoàn toàn các pháo đài của xứ này.

Ông đã quyết định rằng khi không có các pháo đài này, việc tái chiếm xứ này sẽ khó hơn nhiều. Gia tộc Bentivogli85 [85 Gia tộc Bentivogli : bị Giáo hoàng Julius II đuổi khỏi Bologna năm 1506, quay lại nắm quyền năm 1511 ] cũng áp dụng các biện pháp đó khi trở lại nắm quyền ở Bologna. Bởi vậy, các pháo đài hữu dụng hay không đều tùy vào hoàn cảnh. Pháo đài đem lại lợi ích cho ngài theo cách này nhưng lại làm hại ngài theo cách khác.

Vấn đề này có thể được giải quyết như sau : Vị quân vương nào e sợ thần dân của mình hơn là quân ngoại bang thì nên dựng lên pháo đài, còn vị quân vương nào sợ quân ngoại bang hơn là thần dân của mình thì đừng bận tâm đến việc xây dựng pháo đài. Lâu đài ở Milan mà Francesco Sforza xây đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh chống lại gia tộc Sforza hơn bất kỳ một sự rối loạn nào ở đó. Dù sao đi nữa thì pháo đài vững chãi nhất đó là không bị thần dân thù ghét. Cho dù ngài có thể có các pháo đài nhưng chúng cũng không thể bảo vệ được ngài nếu dân chúng căm thù ngài, vì khi dâng chúng đã cầm vũ khí nổi dậy thì không bao giờ thiếu những kẻ ngoại bang sẵn sàng hỗ trợ họ.

[83 Niccolò Vitelli : Người bị Giáo hoàng Sixtus IV đuổi khỏi Città di Castello năm 1474. Vitelli đã giành lại quyền lực vào năm 1482 nhờ sự giúp đỡ của người Florence và ông đã phá hủy hai pháo đài do Giáo hoàng xây dựng]

[84 Guido Ubaldo : Guidobaldo da Montefeltro, Công tước Urbino (1472-1508) bị Cesare Borgia tống khỏi Urbino năm 1502 chỉ sau một thời gian ngắn đã trở lại phá hủy các pháo đài của thành phố này. Triều đình của ông là nguồn cảm hứng cho cuốn Câu chuyện triều thần của Castiglione. ]

It has not been seen in our times that such fortresses have been of use to any prince, unless to the Countess of Forli, when the Count Girolamo, her consort, was killed; for by that means she was able to withstand the popular attack and wait for assistance from Milan, and thus recover her state; and the posture of affairs was such at that time that the foreigners could not assist the people. But fortresses were of little value to her afterwards when Cesare Borgia attacked her, and when the people, her enemy, were allied with foreigners. Therefore it would have been safer for her, both then and before, not to have been hated by the people than to have had the fortresses. All these things considered then, I shall praise him who builds fortresses as well as him who does not, and I shall blame whoever, trusting in them, cares little about being hated by the people.

Ngày nay, có thể thấy các pháo đài chẳng đem lợi ích cho ai ngoài nữ bá tước Forli86 sau khi đức ông chồng là bá tước Girolamo bị giết hại. Nhờ có lâu đài của mình, bà mới trốn thoát khỏi cuộc nổi dậy của dân chúng và trông chờ sự giúp đỡ từ Milan để giành lại vương quốc. Cũng may mắn là tại thời điểm đó, không một kẻ ngoại bang nào có thể giúp các thần dân của bà. Nhưng rồi các pháo đài cũng chẳng giúp bà được nhiều khi bị Cesare Borgia tấn công và khi các thần dân thù địch bắt tay với ngoại bang. Bởi vậy, lần này cũng như lần trước, bà hẳn đã an toàn hơn nếu không bị thần dân ghét bỏ chứ không phải là chỉ nhờ vào những pháo đài.

Do vậy, xét tới tất cả những điều vừa bàn tới, tôi xin được ngợi ca cả những vị quân vương dựng lên các pháo đài, cả những vị quân vương không làm như vậy và tôi dành lời chỉ trích cho những vị quân vương tin tưởng vào các pháo đài mà xem thường sự thù ghét của dân chúng.

[86 Nữ bá tước Frolì : tên thật là Caterina Sforza Riaro, cháu gái của Ludovico Sforza II Moro, đã trốn tại pháo đài Forlì sau khi chồng bà là Girolamo bị ám sát năm 1498 cho đến khi người anh em họ tới cứu. Cesare Borgia chiếm Forlì và Imola từ tay bà năm 1500. ]

CHAPTER XXI

How A Prince Should Conduct Himself As To Gain Renown

21

ĐỂ GIÀNH ĐƯỢC LÒNG KÍNH TRỌNG

NOTHING makes a prince so much esteemed as great enterprises and setting a fine example. We have in our time Ferdinand of Aragon, the present King of Spain. He can almost be called a new prince, because he has risen, by fame and glory, from being an insignificant king to be the foremost king in Christendom; and if you will consider his deeds you will find them all great and some of them extraordinary. In the beginning of his reign he attacked Granada, and this enterprise was the foundation of his dominions. He did this quietly at first and without any fear of hindrance, for he held the minds of the barons of Castile occupied in thinking of the war and not anticipating any innovations; thus they did not perceive that by these means he was acquiring power and authority over them. He was able with the money of the Church and of the people to sustain his armies, and by that long war to lay the foundation for the military skill which has since distinguished him. Further, always using religion as a plea, so as to undertake greater schemes, he devoted himself with a pious cruelty to driving out and clearing his kingdom of the Moors; nor could there be a more admirable example, nor one more rare. Under this same cloak he assailed Africa, he came down on Italy, he has finally attacked France; and thus his achievements and designs have always been great, and have kept the minds of his people in suspense and admiration and occupied with the issue of them. And his actions have arisen in such a way, one out of the other, that men have never been given time to work steadily against him.

Không gì có thể khiến quân vương được kính trọng hơn là những hành động cao cả và những biểu hiện về tài năng siêu việt. Trong thời đại của chúng ta, người xứng đáng với điều đó là Ferdinand xứ Aragon, đức vua hiện nay của Tây Ban Nha. Có thể coi ông gần như một vị tân vương mới, vì ông-từ một người cai trị yếu ớt, đã trở thành vị vua đầu tiên của một vương quốc Cơ đốc giáo một cách vinh quang và danh tiếng, và khi xem xét, ta có thể thấy các hành động của ông rất vĩ đại và phi thường.

Buổi đầu nắm quyền, ông đã tấn công Granada, hành động này đã tạo cơ sở cho danh tiếng của ông. Đầu tiên, ông hành động khi thiên hạ đang yên bình và khi đó, ông không sợ bị chống đối. Ông khiến tâm trí các lãnh chúa xứ Castile lúc nào cũng lo lắng không yên, và do mải mê tập trung vào cuộc chiến, các lãnh chúa này chẳng quan tâm gì đến những thay đổi ngay dưới mái nhà của mình. Bằng biện pháp này, ông đã giành được danh tiếng và quyền lực vượt xa họ mà họ không hề hay biết.

Ông duy trì quân đội bằng tiền của Giáo hội và dân chúng. Với cuộc chiến tranh dai dẳng này ông từng bước thiết lập nền tảng quân đội của chính mình, và đây chính là điều đã đem lại vinh quang cho ông. Bên cạnh đó, để có thể thực hiện những công cuộc vĩ đại hơn , ông luôn sử dụng tôn giáo cho những mục đích riêng của mình, ông trở thành một người sùng đạo tàn bạo, ông xua đuổi người Moor khỏi đất nước họ và không có trường hợp nào thê thảm và quái dị hơn.

Đội lốt tôn giáo, ông tấn công châu Phi, xâm chiếm Italia, và cuối cùng là tấn công nước Pháp. Với cách hành động như vậy, ông luôn thực hiện và chuẩn bị cho những chiến công vĩ đại khiến cho tâm trí các thần dân của ông luôn ở trong trạng thái lo lắng, kinh ngạc và choáng ngợp bởi thắng lợi mà họ đạt được. Một hành động của ông được nảy sinh từ một hành động khác và thời gian chuyển từ hành động này sang hành động kia không bao giờ đủ dài cho kẻ khác kịp bình tĩnh chống đối ông.

Again, it much assists a prince to set unusual examples in internal affairs, similar to those which are related of Messer Bernabo da Milano, who, when he had the opportunity, by any one in civil life doing some extraordinary thing, either good or bad, would take some method of rewarding or punishing him, which would be much spoken about. And a prince ought, above all things, always to endeavour in every action to gain for himself the reputation of being a great and remarkable man.

Đối với bậc quân vương, việc thể hiện sự khôn khéo của mình trong các quan hệ đối nội là rất hữu ích, ta có thể thấy điều đó qua các câu chuyện về Bernabò Visconti87 của Milan. [87 Bernabò Visconti : Cai trị Milan từ 1354 đến 1385, nổi tiếng là tàn bạo nhưng rất khôn khéo]. Khi bất kỳ ai trong xã hội thể hiện những hành động khác thường, tốt hoặc xấu, thì quân vương cần phải tìm ra cách khen thưởng hoặc trừng phạt để tạo một dư luận rộng lớn. Trên hết, quân vương phải luôn thể hiện ấn tương của một người vĩ đại với trí tuệ siêu việt trong mọi hành động của mình.

A prince is also respected when he is either a true friend or a downright enemy, that to say, when, without any reservation, he declares himself in favour of one party against the other; which course will always be more advantageous than standing neutral; because if two of your powerful neighbours come to blows, they are of such a character that, if one of them conquers, you have either to fear him or not. In either case it will always be more advantageous for you to declare yourself and to make war strenuously; because, in the first case, if you do not declare yourself, you will invariably fall a prey to the conqueror, to the pleasure and satisfaction of him who has been conquered, and you will have no reasons to offer, nor anything to protect or to shelter you. Because he who conquers does not want doubtful friends who will not aid him in the time of trial; and he who loses will not harbour you because you did not willingly, sword in hand, court his fate.

Quân vương chỉ được kính trọng khi là một người bạn thực sự hoặc một kẻ thù đúng nghĩa. Đó là khi ông không hề do dự tuyên bố ủng hộ vô điều kiện một ông vua này chống lại một ông vua khác. Một chính sách như vậy luôn hữu ích hơn sự trung lập bởi khi hai nước láng giềng hùng mạnh của ngài xung đột với nhau thì kết cục là khi một bên thắng trận, ngài sẽ ở một trong hai trường hợp : có hoặc không có lý do để e sợ người chiến thắng.

Trong bất cứ trường hợp nào thì việc ngài tự mình tuyên bố ủng hộ và công khai tham chiến cũng đều tốt hơn bởi nếu ngài không tuyên bố ý định của mình thì ngài sẽ trở thành nạn nhân của kẻ thắng trận trong khi kẻ bại trận hả hê, và khi đó, ngài thừa hiểu tại sao không có ai cứu giúp mình. Người chiến thắng không ưa những đồng minh miễn cưỡng, những kẻ không hề giúp họ lúc hoạn nạn. Còn kẻ bại trận cũng không bao giờ cho ngài nương tựa bởi ngài đã không sẵn lòng chấp nhận rủi ro để giúp đỡ họ.

Antiochus went into Greece, being sent for by the Aetolians to drive out the Romans. He sent envoys to the Achaeans, who were friends of the Romans, exhorting them to remain neutral; and on the other hand the Romans urged them to take up arms. This question came to be discussed in the council of the Achaeans, where the legate of Antiochus urged them to stand neutral. To this the Roman legate answered: "As for that which has been said, that it is better and more advantageous for your state not to interfere in our war, nothing can be more erroneous; because by not interfering you will be left, without favour or consideration, the guerdon of the conqueror." Thus it will always happen that he who is not your friend will demand your neutrality, whilst he who is your friend will entreat you to declare yourself with arms. And irresolute princes, to avoid present dangers, generally follow the neutral path, and are generally ruined. But when a prince declares himself gallantly in favour of one side, if the party with whom he allies himself conquers, although the victor may be powerful and may have him at his mercy, yet he is indebted to him, and there is established a bond of amity; and men are never so shameless as to become a monument of ingratitude by oppressing you. Victories after all are never so complete that the victor must not show some regard, especially to justice. But if he with whom you ally yourself loses, you may be sheltered by him, and whilst he is able he may aid you, and you become companions in a fortune that may rise again.

Khi được ngươi Aetolia cử tới Hy Lạp để đánh đuổi người La Mã, Antiochus đã cử sứ thần tới gặp người Achaea vốn thân thiện với người La Mã để thuyết phục họ giữ chính sách trung lập ; còn người La mã thúc giục họ cầm vũ khí đứng về phía La Mã. Vấn đề này đã gây ra một cuộc tranh cãi tại hội đồng của người Achaea, khi đại diện của Antiochus thuyết phục họ giữ thái độ trung lập, còn đại diện của La Mã đã bác lại rằng : “ Lời những người này khuyên các bạn đừng tham chiến hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của chính các bạn ; không có lòng tự trọng cũng như phẩm giá của mình các bạn sẽ trở thành nạn nhân của kẻ thắng trận”.

Một điều thường thấy là kẻ không phải là bạn ngài luôn yêu cầu ở ngài sự trung lập, còn bạn của ngài sẽ yêu cầu ngài cầm vũ khí. Để tránh những hiểm nguy trước mắt, những quân vương thiếu quyết đoán sẽ theo đuổi chính sách trung lập và rốt cuộc cũng sẽ bị hủy diệt. Khi tuyên bố rõ ràng ủng hộ một bên nào đó, nếu bên đó chiến thắng, thì cho dù họ có trở nên hùng mạnh và số phận của ngài hoàn toàn do họ định đoạt thì họ vẫn cảm thấy có nghĩa vụ với ngài và tình hữu nghị sẽ khăng khít.

Con người không bao giờ lại bất lương đến mức nỡ hạ gục ngài bằng sự vô ơn. Hơn nữa, chiến thắng lại không bao giờ tuyệt đối đến mức người thắng trận không còn gì phải lo lắng cả, đặc biệt là khi người ta cũng phải lưu tâm đến sự công bằng. Nhưng nếu người mà ngài ủng hộ bại trận, ngài sẽ được họ cưu mang và chừng nào còn có khả năng, người đó sẽ giúp đỡ ngài và ngài sẽ là bạn hữu của một cơ đồ có thể sẽ được gây dựng lại.

In the second case, when those who fight are of such a character that you have no anxiety as to who may conquer, so much the more is it greater prudence to be allied, because you assist at the destruction of one by the aid of another who, if he had been wise, would have saved him; and conquering, as it is impossible that he should not with your assistance, he remains at your discretion. And here it is to be noted that a prince ought to take care never to make an alliance with one more powerful than himself for the purpose of attacking others, unless necessity compels him, as is said above; because if he conquers you are at his discretion, and princes ought to avoid as much as possible being at the discretion of any one. The Venetians joined with France against the Duke of Milan, and this alliance, which caused their ruin, could have been avoided. But when it cannot be avoided, as happened to the Florentines when the Pope and Spain sent armies to attack Lombardy, then in such a case, for the above reasons, the prince ought to favour one of the parties.

Trường hợp thứ hai , khi hai bên đánh nhau và ngài không có lý do gì để e sợ kẻ nào giành chiến thắng thì việc đứng về phía một bên dẩu sao vẫn là một hành động an toàn. Khi ấy, ngài tiêu diệt ông vua này với sự giúp đở của ông vua kia - người mà nếu khôn ngoan hơn đã có thể tự cứu lấy mình. Nên khi chiến thắng, ông ta sẽ phảu chịu sự định đoạt của ngài vì nếu không được ngài trợ giúp hẳn ông ta không thể là người thắng trận .

Cũng cần lưu ý rằng, quân vương nên tránh liên minh với một người mạnh hơn mình chống lại những người khác, trừ phi buộc phải làm vậy, vì ông sẽ tiếp tục chịu sự định đoạt của người đó nếu ngài thắng trận, mà bậc quân vương thì lại nên hết sức tránh phải phụ thuiộc vào lòng bao dung của người khác. Người Venice liên minh với nước Pháp chống lại công tước xứ Milan; trong khi lẽ ra họ đã có thể khước từ sự liên minh này, điều đã dẫn tới sự sụp đổ của chính họ. Nhưng khi một liên minh như vậy là điều không thể tránh khỏi (như xảy ra với người Florence khi Giáo hoàng và Tây Ban Nha đem quân tấn công xứ Lombardy) thì quân vương nên tham gia với những lý do đã nói.

Never let any Government imagine that it can choose perfectly safe courses; rather let it expect to have to take very doubtful ones, because it is found in ordinary affairs that one never seeks to avoid one trouble without running into another; but prudence consists in knowing how to distinguish the character of troubles, and for choice to take the lesser evil.

Không một quốc gia nào có thể đi theo một con đường hoàn toàn an toàn. Nhưng ngược lại, quân vương phải đối mặt và tận dụng mọi nghi ngại và bất trắc. Vì chúng ta đều thấy rằng, khi cố gắng tránh một bất lợi này, chúng ta lại đương đầu với một thế bất lợi khác. Sự khôn ngoan chính là ở chỗ nhận biết được bản chất của những bất lợi và lựa chọn bất lợi nhỏ nhất như là một giải pháp tốt nhất.

A prince ought also to show himself a patron of ability, and to honour the proficient in every art. At the same time he should encourage his citizens to practise their callings peaceably, both in commerce and agriculture, and in every other following, so that the one should not be deterred from improving his possessions for fear lest they be taken away from him or another from opening up trade for fear of taxes; but the prince ought to offer rewards to whoever wishes to do these things and designs in any way to honour his city or state.

Quân vương cũng nên thể hiện là người mến chuộng tài năng bằng cách công nhận những người có năng lực và vinh danh cho những người xuất sắc trong các lĩnh vực cụ thể. Hơn nữa, ông phải khuyến khích các thần dân tự do và bình yên theo đuổi các ngành nghề, cho dù là thương mại, nông nghiệp hay bất kỳ ngành nghề nào khác.

Và ông phải hành động sao cho người dân kiếm tiền mà không bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ bị tướt đoạt, những người làm thương nghiệp không phải lo sợ thuế má, mà ông phải thưởng cho những ai có các nguyện vọng đó, và cho bất kỳ ai tìm được cách làm giàu cho thành phố và đất nước của ông. Vào những dịp thích hợp trong năm, ông phải tổ chức các cuộc hội hè, các buổi trình diễn cho dân chúng.

Further, he ought to entertain the people with festivals and spectacles at convenient seasons of the year; and as every city is divided into guilds or into societies, he ought to hold such bodies in esteem, and associate with them sometimes, and show himself an example of courtesy and liberality; nevertheless, always maintaining the majesty of his rank, for this he must never consent to abate in anything.

Do mỗi thành phố thường được chia thành các phường hội hoặc thị tộc, nên ông cũng cần quan tâm đến những nhóm người này. Thỉnh thoảng ông cần gặp gỡ họ, thể hiện mình là tấm gương về lòng nhân từ và hào phóng. Nhưng trong mọi trường hợp, ông phải giữ được sự tôn nghiêm của đấng quân vương, vì đây là điều không thể thiếu.

CHAPTER XXII

Concerning The Secretaries Of Princes

22

CÁC VỊ QUÂN SƯ

THE choice of servants is of no little importance to a prince, and they are good or not according to the discrimination of the prince. And the first opinion which one forms of a prince, and of his understanding, is by observing the men he has around him; and when they are capable and faithful he may always be considered wise, because he has known how to recognize the capable and to keep them faithful. But when they are otherwise one cannot form a good opinion of him, for the prime error which he made was in choosing them.

Việc chọn các quân sư cũng không kém phần quan trọng đối với quân vương. Các quân sư này hữu dụng hay không là phụ thuộc vào sự sáng suốt của vị quân vương đó.

Để đánh giá sự sáng suốt của người cai trị thì điều đầu tiên là phải xem xét những người thân cận của ông, và khi những cận thần là những người có năng lực và trung thành thì có thể coi quân vương đó là người khôn ngoan, vì ông biết cách nhận ra năng lực của họ và giữ được lòng trung thành của họ. Nhưng khi các cận thần là những kẻ có xấu xa và phản trắc thì người ta có thể coi thường quân vương, bởi lỗi lầm đầu tiên mà ông có thể phạm phải chính là sự lựa chọn những cận thần.

There were none who knew Messer Antonio da Venafro as the servant of Pandolfo Petrucci, Prince of Siena, who would not consider Pandolfo to be a very clever man in having Venafro for his servant. Because there are three classes of intellects: one which comprehends by itself; another which appreciates what others comprehend; and a third which neither comprehends by itself nor by the showing of others; the first is the most excellent, the second is good, the third is useless. Therefore, it follows necessarily that, if Pandolfo was not in the first rank, he was in the second, for whenever one has judgment to know good or bad when it is said and done, although he himself may not have the initiative, yet he can recognize the good and the bad in his servant, and the one he can praise and the other correct; thus the servant cannot hope to deceive him, and is kept honest.

Những ai đã từng biết đến Antonio da Venafro88, quân sư của Pandolfo Petrucci, vua xứ Siena, thì đều ca ngợi Pandolfo vì đã có một cận thần tài năng. Thường có ba loại trí tuệ : loại thứ nhất có thể tự mình hiểu được sự việc, loại thứ hai nhận thức được những gì người khác hiểu, loại thứ ba thì dù nhờ người khác hay tự mình thì cũng chẳng hiểu được gì. Loại thứ nhất siêu việt hơn cả, loại thứ hai cũng tuyệt vời, còn loại thứ ba thì vô dụng. Có thể thấy trí tuệ của Pandolfo nếu không thuộc loại thứ nhất thì cũng thuộc loại thứ hai ; bởi khi một quân vương đủ khôn ngoan để nhận ra cái xấu và cái tốt trong hành động, lời nói của người khác thì cho dù ông có thể tự mình không có ý tưởng, nhưng ông vẫn có thể hiểu được những việc tốt và việc xấu của vị quân sư. Khi ấy, ông có thể ca ngợi cái tốt, chấn chỉnh cái xấu, còn vị quân sư không hy vọng gì vào việc lừa dối thì tất sẽ phải giữ thái độ tốt.

[88 Antonio da Venafro: Antonio Giordani tới từ Vanefro (sinh năm 1459) là một trong những quân sư được tin cẩn nhất của Petrucci. ]

But to enable a prince to form an opinion of his servant there is one test which never falls; when you see the servant thinking more of his own interests than of yours, and seeking inwardly his own profit in everything, such a man will never make a good servant, nor will you ever be able to trust him; because he who has the state of another in his hands ought never to think of himself, but always of his prince, and never pay any attention to matters in which the prince is not concerned.

Có một cách luôn luôn đúng để bậc quân vương có thể thấu hiểu người quân sư của mình. Khi ngài thấy người quân sư nghĩ cho bản thân mình nhiều hơn cho ngài, và thấy rằng trong tất cả các hành động, ông ta chỉ tìm kiếm lợi ích riêng thì một người như thế không bao giờ là một quân sư tốt, nên ngài đừng bao giờ tin tưởng hắn. Một người nắm trong tay giang sơn của quân vương thì không bao giờ được nghĩ đến bản thân mình mà phải luôn nghĩ cho quân vương , và không bao giờ được bận tâm đến bất kỳ điều gì không phải là mối bận tâm của quân vương.

On the other to keep his servant honest the prince ought to study him, honouring him, enriching him, doing him kindnesses, sharing with him the honours and cares; and at the same time let him see that he cannot stand alone, so that many honours not make him desire more, many riches make him wish for more, and that many cares may make him dread changes. When, therefore, servants, and princes towards servants, are thus disposed, they can trust each other, but when it is otherwise, the end will always be disastrous for either one or the other.

Trong khi đó, quân vương cũng phải quan tâm đến quân sư của mình nhằm duy trì những điều tốt trong con người đó. Quân vương phải tôn trọng, phải ban phát danh vọng, tiền bạc cho người đó, để khiến ông ta chịu ơn huệ trong việc chia sẻ với ngài những vinh quang và trách nhiệm- sao cho người quân sư thấy được rằng mình không thể tồn tại nếu không có ngài, và sự giàu sang sẽ khiến ông ta không thèm khát tiền bạc, và nhiều bổn phận sẽ khiến ông ta e sợ những thay đổi.

Do đó, khi cả quân sư và quân vương đều cần đến nhau trong mối tương quan như vậy, họ có thể tin cậy được nhau; còn nếu không, kết quả sẽ chẳng tốt đẹp gì cho cả hai bên.

CHAPTER XXIII

How Flatterers Should Be Avoided

I DO NOT wish to leave out an important branch of this subject, for it is a danger from which princes are with difficulty preserved, unless they are very careful and discriminating. It is that of flatterers, of whom courts arc full, because men are so self-complacent in their own affairs, and in a way so deceived in them, that they are preserved with difficulty from this pest, and if they wish to defend themselves they run the danger of falling into contempt. Because there is no other way of guarding oneself from flatterers except letting men understand that to tell you the truth does not offend you; but when every one may tell you the truth, respect for you abates.

23

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRÁNH NHỮNG KẺ XU NỊNH

Tôi không muốn bỏ sót một vấn đề quan trọng, và một sai lầm mà các quân vương nếu không thật sự khôn ngoan và sáng suốt thì khó có thể tránh khỏi. Đó là nơi triều đình đầy rẫy những kẻ xu nịnh. Con người thường chỉ quan tâm đến bản thân, tự phỉnh nịnh mình nên khó tránh khỏi căn bệnh đó. Và mong muốn tự vệ thoát khỏi căn bệnh này có thể khiến họ bị khinh thường. Bởi vì không có cách nào khác để tránh những lời xu nịnh ngoài cách bày tỏ cho mọi người hiểu rằng nói cho ngài sự thật không phải là xúc phạm ngài. Thế nhưng khi một người nào dám nói với ngài sự thật thì ngài sẽ đánh mất sự tôn kính của họ đối với ngài.

Therefore a wise prince ought to hold a third course by choosing the wise men in his state, and giving to them only the liberty of speaking the truth to him, and then only of those things of which he inquires, and of none others; but he ought to question them upon everything, and listen to their opinions, and afterwards form his own conclusions. With these councillors, separately and collectively, he ought to carry himself in such a way that each of them should know that, the more freely he shall speak, the more he shall be preferred; outside of these, he should listen to no one, pursue the thing resolved on, and be steadfast in his resolutions. He who does otherwise is either overthrown by flatterers, or is so often changed by varying opinions that he falls into contempt.

Bởi vậy, bậc quân vương khôn ngoan nên chọn một cách thứ ba, chọn những người khôn ngoan đảm nhiệm việc đó. Chỉ trao cho những người này quyền được nói sự thật với ông và chỉ về những vấn đề ông yêu cầu chứ không về bất kỳ vấn đề nào khác. Nhưng nên hỏi họ về mọi thứ và lắng nghe quan điểm của họ để sau đó, ông có thể tự mình quyết định theo cách riêng. Đối với những lời khuyên này và đối với mỗi quân sư, quân vương phải hành động sao cho tất cả họ hiểu rằng họ càng trình bày một cách thoải mái bao nhiêu, họ càng được ông tán thưởng bấy nhiêu. Ngoài ra, ông phải kiên quyết không nghe bất kỳ ai khác, phải tuân thủ chính sách đã đề ra và vững vàng trong các quyết định. Nếu không hành xử như vậy, quân vương sẽ trở thành con mồi của những kẻ xu nịnh hoặc thành kẻ “đẽo cày giữa đường”, và như thế, lòng kính trọng của mọi người đối với ông sẽ không còn nữa.

I wish on this subject to adduce a modern example. Fra Luca, the man of affairs to Maximilian, the present emperor, speaking of his majesty, said: He consulted with no one, yet never got his own way in anything. This arose because of his following a practice the opposite to the above; for the emperor is a secretive man — he does not communicate his designs to any one, nor does he receive opinions on them. But as in carrying them into effect they become revealed and known, they are at once obstructed by those men whom he has around him, and he, being pliant, is diverted from them. Hence it follows that those things he does one day he undoes the next, and no one ever understands what he wishes or intends to do, and no one can rely on his resolutions.

Tôi muốn đưa ra một ví dụ thời nay. Cha Luca89 đại diện của hoàng đế Maximilian hiện nay, khi nói về hoàng đế của mình đã bình phẩm việc vị hoàng đế này không bao giờ tìm kiếm lời khuyên của bất kỳ ai cũng như không làm bất kỳ cái gì theo cách riêng của ông. Đó là do bản chất kín đáo của ông, một chính sách trái ngược với chính sách nói trên - Ông không cho ai biết dự định của mình và cũng không chấp nhận bất kỳ lời khuyên nào đối với những dự định đó. Chỉ khi nào những dự định của ông bắt đầu được thực hiện thì người ta mới biết đến và nhận ra, và những người xung quanh hoàng đế bắt đầu bình luận, chỉ trích. Vì là người dễ bị tác động, ông đã nhanh chóng từ bỏ các kế hoạch của mình. Kết cục là ông đã thiêu đốt tất cả những gì ông đã đạt được của ngày hôm qua, và chẳng ai có thể hiểu được là ông muốn hay định làm gì, và cũng chẳng ai có thể tin được vào các quyết định của ông.

[89 Cha Luca : Machiavelli đã chạm trán với Luca Rainaldi, một trong những bộ trưởng chủ chốt của hoàng đế Maximilian I (1459-1519) khi ông thực hiện sứ mạng ngoại giao tại nước ngoài]

A prince, therefore, ought always to take counsel, but only when he wishes and not when others wish; he ought rather to discourage every one from offering advice unless he asks it; but, however, he ought to be a constant inquirer, and afterwards a patient listener concerning the things of which he inquired; also, on learning that any one, on any consideration, has not told him the truth, he should let his anger be felt.

Do vậy, quân vương luôn luôn nên tìm kiếm lời khuyên nhưng chỉ khi ông muốn chứ không phải khi người khác muốn. Trái lại, quân vương cũng phải hạn chế người ta khuyên bảo cho mình trừ phi chính quân vương yêu cầu. Ông phải là người giỏi về dò hỏi, và đối với những vấn đề đang được hỏi ý kiến, ông phải kiên nhẫn lắng nghe sự thật. Hơn nữa, ông phải học cách nổi giận khi bất kỳ ai, vì bất cứ lý do gì, đã không nói với ông sự thật.

And if there are some who think that a prince who conveys an impression of his wisdom is not so through his own ability, but through the good advisers that he has around him, beyond doubt they are deceived, because this is an axiom which never fails: that a prince who is not wise himself will never take good advice, unless by chance he has yielded his affairs entirely to one person who happens to be a very prudent man. In this case indeed he may be well governed, but it would not be for long, because such a governor would in a short time take away his state from him.

Nhiều người thấy những quân vương khôn ngoan thường được nổi danh nhờ những quân sư xung quanh hơn là nhờ những đức tính riêng của ông, nhưng họ hoàn toàn nhầm lẫn. Có một nguyên tắc chung không bao giờ sai : vị quân vương nào mà tự bản thân không khôn ngoan thì không thể biết lắng nghe một cách khôn ngoan những lời khuyên, trừ phi nhờ may mắn, ông thân thiết với vị quân sư, một người khôn ngoan và thao dúng ông trong mọi việc. Trong trường hợp này, ông có thể nhận được những lời khuyên tốt, nhưng điều đó không thể kéo dài vì người quân sư sẽ nhanh chóng đoạt mất vương quốc của ông.

But if a prince who is not experienced should take counsel from more than one he will never get united counsels, nor will he know how to unite them. Each of the counsellors will think of his own interests, and the prince will not know how to control them or to see through them. And they are not to be found otherwise, because men will always prove untrue to you unless they are kept honest by constraint. Therefore it must be inferred that good counsels, whencesoever they come, are born of the wisdom of the prince, and not the wisdom of the prince from good counsels.

Nhưng nếu quân vương không khôn ngoan tìm kiếm lời khuyên từ nhiều người, thì ông sẽ không bao giờ có được những ý kiến thống nhất hoặc ông cũng không biết cách vận dụng những ý kiến đó một cách thống nhất. Mỗi một vị quân sư đều chỉ nghĩ đến lợi ích riêng, còn quân vương khó lòng uốn nắn và hiểu thấu lòng họ hay điều khiển được họ. Không thể tìm được những quân sư khôn ngoan hơn, bởi họ luôn trở mặt nếu không có điều gì buộc họ phải đối xử tốt.

Do vậy, có thể kết luận rằng, sự khôn ngoan củ quân vương mang lại những lời khuyên tốt chứ không phải lời khuyên tốt mang lại sự khôn ngoan của quân vương.

CHAPTER XXIV

The Princes Of Italy Have Lost Their States

24

LÝ DO CÁC QUÂN VƯƠNG ITALIA

ĐÁNH MẤT VƯƠNG QUỐC

THE previous suggestions, carefully observed, will enable a new prince to appear well established, and render him at once more secure and fixed in the state than if he had been long seated there. For the actions of a new prince are more narrowly observed than those of an hereditary one, and when they are seen to be able they gain more men and bind far tighter than ancient blood; because men are attracted more by the present than by the past, and when they find the present good they enjoy it and seek no further; they will also make the utmost defence for a prince if he fails them not in other things. Thus it will be a double glory to him to have established a new principality, and adorned and strengthened it with good laws, good arms, good allies, and with a good example; so will it be a double disgrace to him who, born a prince, shall lose his state by want of wisdom.

Nếu những nguyên tắc đã nói được tuân thủ một cách cẩn trọng thì các vị quân vương mới giành được ngôi báu sẽ thấy địa vị của mình được thiết lập vững càng và an toàn hơn so với những quân vương được truyền ngôi. Mặc dù tân vương mới giành được ngôi báu thường bị xét nét nhiều hơn so với quân vương được truyền ngôi, nhưng khi các việc làm của tân vương được thừa nhận là những hành động tốt thì dân chúng sẽ bị lôi cuốn mạnh mẽ hơn và ràng buộc chặt chẽ hơn vào vị quân vương này. Vì con người thường bị chi phối bởi những mối bận tâm hiện thời hơn là những lo lắng của quá khứ, nên khi thực tại làm họ hài lòng thì họ tận hường sự hài lòng này mà không mưu cầu gì hơn. Trên thực tế, họ sẽ hết mình bảo vệ vị tân vương miễn là ông đừng sao nhãng các trách nhiệm của mình. Chính bởi vậy, vị tân vương sẽ giành được hai lần vinh quang, khai sinh ra một vương quốc mới và xây dựng, củng cố vương quốc đó bằng những luật lệ tốt, quân đội tốt và những tấm gương sáng. Còn người nào sinh ra đã là một quân vương nhưng lại để mất đi vương quốc của mình do thiếu khôn ngoan thì sẽ bị hai lần hổ nhục.

And if those seigniors are considered who have lost their states in Italy in our times, such as the King of Naples, the Duke of Milan, and others, there will be found in them, firstly, one common defect in regard to arms from the causes which have been discussed at length; in the next place, some one of them will be seen, either to have had the people hostile, or if he has had the people friendly, he has not known how to secure the nobles. In the absence of these defects states that have power enough to keep an army in the field cannot be lost.

Và khi nhìn lại những quân vương Italia để mất vương quốc của mình trong thời đại của chúng ta, như vua xứ Naples, công tước xứ Milan và những vương hầu khác, ta sẽ thấy họ đều mắc sai lầm giống nhau trong việc sử dụng quân đội với những nguyên nhân chúng ta đã bàn đến khá nhiều ở phần đầu cuốn sách này. Còn có thể thấy rằng một số quân vương bị dân chúng thù ghét, số khác được dân chúng ủng hộ nhưng giới quý tộc lại không ưa. Nếu không mắc những sai lầm trên, những vương quốc đó hẳn đã đủ mạnh để đương đầu với kẻ thù và hẳn đã không rơi vào tay người khác.

Philip of Macedon, not the father of Alexander the Great, but he who was conquered by Titus Quintius, had not much territory compared to the greatness of the Romans and of Greece who attacked him, yet being a warlike man who knew how to attract the people and secure the nobles, he sustained the war against his enemies for many years, and if in the end he lost the dominion of some cities, nevertheless he retained the kingdom.

Vua Philip xứ Macedonia90 [90 Ở đây chỉ vua Philip V của xứ Macedonia (221-179 TCN) bị đánh bại tại trận chiến Cynoscephalate (197 TCN) ] – người bị Titus Quinctius đánh bại chứ không phải vua Philip- cha của Alexander Đại đế, không có nhiều đất đai như đế chế La Mã và đế chế Hy Lạp, là những nước tấn công ông nhưng bằng tài quân sự cũng như bằng sự hiểu biết về cách tổ chức dân chúng và cách tự bảo vệ trước giới quý tộc, ông đã đủ sức theo đuổi chiến tranh chống lại những đế chế này trong nhiều năm. Cho dù bị mất một số thành, nhưng cuối cùng, ông vẫn bảo toàn được vương quốc.

Therefore, do not let our princes accuse fortune for the loss of their principalities after so many years' possession, but rather their own sloth, because in quiet times they never thought there could be a change (it is a common defect in man not to make any provision in the calm against the tempest), and when afterwards the bad times came they thought of flight and not of defending themselves, and they hoped that the people, disgusted with the insolence of the conquerors, would recall them. This course, when others fail, may be good, but it is very bad to have neglected all other expedients for that, since you would never wish to fall because you trusted to be able to find someone later on to restore you. This again either does not happen, or, if it does, it will not be for your security, because that deliverance is of no avail which does not depend upon yourself; those only are reliable, certain, and durable that depend on yourself and your valour.

Bởi vậy, những quân vương của Italia, những người trị vì nhiều năm nhưng lại để mất vương quốc mình, không nên đổ lỗi cho số phận mà phải tự trách mình ngu dốt. Trong thời bình, họ chẳng bao giờ nghĩ đến việc thời thế đổi thay (lỗi thường thấy ở con người là khi trời yên gió lặng, thì không nghĩ tới bão dông), nên cuối cùng khi khó khăn tới, họ chỉ nghĩ tới việc bỏ chạy chứ không lo tìm cách tự vệ.

Họ hy vọng dân chúng rốt cuộc sẽ mời họ trở lại do căm ghét sự tàn bạo của kẻ chiến thắng. Khi không còn giải pháp nào khác thì đây là một chính sách tốt. Nhưng nếu chỉ nghĩ đến chính sách này mà không đếm xỉa đến bất kỳ cách nào khác thì đây là giải pháp tồi tệ. Vì ngài không bao giờ muốn bị thất bại nên ngài luôn tin rằng sẽ tìm được ai đó sẽ cứu giúp mình.

Nhưng dù cho điều đó có xảy ra hay không thì cũng không giúp ngài được an toàn. Biện pháp bảo vệ hèn nhát này chứng tỏ rằng ngài không thể tự bảo vệ mình. Nhưng biện pháp tốt, vững chắc và lâu dài chính là dựa vào bản thân, vào sự khôn khéo của chính ngài.

CHAPTER XXV

What Fortune Can Effect In Human Affairs, And How To Withstand Her

25 VAI TRÒ CỦA SỐ PHẬN

VÀ CÁCH ĐƯƠNG ĐẦU VỚI SỐ PHẬN

IT is not unknown to me how many men have had, and still have, the opinion that the affairs of the world are in such wise governed by fortune and by God that men with their wisdom cannot direct them and that no one can even help them; and because of this they would have us believe that it is not necessary to labour much in affairs, but to let chance govern them. This opinion has been more credited in our times because of the great changes in affairs which have been seen, and may still be seen, every day, beyond all human conjecture. Sometimes pondering over this, I am in some degree inclined to their opinion. Nevertheless, not to extinguish our free will, I hold it to be true that Fortune is the arbiter of one-half of our actions, but that she still leaves us to direct the other half, or perhaps a little less.

Tôi không biết có bao nhiêu người đã và vẫn cho rằng mọi sự việc trên thế giới này đều do Chúa và số phận định đoạt, còn con người với trí tuệ của mình không những không thể kiểm soát số phận mà thậm chí còn không thể đối phó được với số phận. Vịn vào lý do này, họ cho rằng hãy để mặc số mệnh quyết định tương lai.

Quan điểm này thậm chí còn có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn trong thời đại của chúng ta do những biến động lớn lao xảy ra hàng ngày đã vượt quá sự suy đoán của con người. Đôi lúc, khi nghĩ đến những điều này, tôi cũng phần nào nghiêng về ý kiến đó. Tuy nhiên, quyền tự định đoạt của chúng ta sẽ không mất đi, tôi xét thấy sự thật là số phận chỉ chi phối một nửa những hành động của chúng ta, một nửa hoặc gần một nửa còn lại là do chính chúng ta quyết định.

I compare her to one of those raging rivers, which when in flood overflows the plains, sweeping away trees and buildings, bearing away the soil from place to place; everything flies before it, all yield to its violence, without being able in any way to withstand it; and yet, though its nature be such, it does not follow therefore that men, when the weather becomes fair, shall not make provision, both with defences and barriers, in such a manner that, rising again, the waters may pass away by canal, and their force be neither so unrestrained nor so dangerous. So it happens with fortune, who shows her power where valour has not prepared to resist her, and thither she turns her forces where she knows that barriers and defences have not been raised to constrain her.

Và tôi xin được so sánh số phận với những dòng sông mang theo sự tàn phá, khi nổi giận chúng tràn ngập đồng bằng, quật đổ cây cối và nhà cửa, cuốn trôi đất cát, ai ai cũng phải tháo chạy, ai ai cũng phải chịu sự thịnh nộ của chúng mà không có cách gì chống đỡ được. Nhưng cho dù thiên nhiên có như vậy cũng không có nghĩa là khi trời quang mây tạnh, chúng ta lại không phòng bị trước bằng cách đắp đê và khơi mương để khi nước lại dâng lên thì dòng nước có thể bị dẫn đi nơi khác hoặc bớt phần ghê gớm. Số phận cũng vậy thôi, sẽ thể hiện sức mạnh tàn bạo khi không gặp sự kháng cự, và số phận sẽ tấn công những nơi nó biết không hề đắp đê hay đào kênh.

And if you will consider Italy, which is the seat of these changes, and which has given to them their impulse, you will see it to be an open country without barriers and without any defence. For if it had been defended by proper valour, as are Germany, Spain, and France, either this invasion would not have made the great changes it has made or it would not have come at all. And this I consider enough to say concerning resistance to fortune in general.

Và khi ngài xem kỹ nước Italia, cội nguồn của vô vàn biến động cũng như của dân tộc đã tạo nên những biến động đó, ngài sẽ thấy đây là một đất nước không hề có đê bao và chẳng có lấy một thành lũy. Nếu như nước Italia được bảo vệ bằng những lực lượng cần thiết, giống như Đức, Tây Ban Nha và Pháp, thì nước lũ đã không thể gây ra những đổi thay ghê gớm hay thậm chí cũng đã không có nước lũ tràn về. Tôi cho rằng thế là khá đủ khi nói một cách tổng quát về số phận.

But confining myself more to the particular, I say that a prince may be seen happy to-day and ruined to-morrow without having shown any change of disposition or character. This, I believe, arises firstly from causes that have already been discussed at length, namely, that the prince who relies entirely upon fortune is lost when it changes. I believe also that he will be successful who directs his actions according to the spirit of the times, and that he whose actions do not accord with the times will not be successful. Because men are seen, in affairs that lead to the end which every man has before him, namely, glory and riches, to get there by various methods; one with caution, another with haste; one by force, another by skill; one by patience, another by its opposite; and each one succeeds in reaching the goal by a different method. One can also see of two cautious men the one attain his end, the other fail; and similarly, two men by different observances are equally successful, the one being cautious, the other impetuous; all this arises from nothing else than whether or not they conform in their methods to the spirit of the times. This follows from what I have said, that two men working differently bring about the same effect, and of two working similarly, one attains his object and the other does not.

Đề cập sâu hơn vào những vấn đề cụ thể, tôi nói rằng người ta chứng kiến một quân vương thành công ngày hôm nay nhưng ngày mai lại tụi tàn mà không hề có thay đổi nào về tính cách hay bất kỳ nguyên nhân nào đã thảo luận ở phần trước.

Nghĩa là vị quân vương nào hoàn toàn dựa vào số phận sẽ thất bại ngay khi số phận đổi thay. Tôi cũng tin rằng ai biết lựa theo thời thế mà hành động sẽ là người thành công và tương tự như vậy, người nào hành động không hợp thời sẽ chuốc lấy tai họa.

Ta có thể thấy khi con người hành động với cái đích mưu cầu là vinh quang và của cải đều dùng nhiều cách thức khác nhau. Người thì thận trọng, kẻ thì táo bạo, người dùng bạo lực, kẻ dùng thủ đoạn, người này kiên nhẫn, kẻ kia nóng nảy, và mỗi người với các biện pháp khác nhau đều đạt được mục đích của mình. Ta cũng thấy rằng, ngay khi cả hai cùng thận trọng thì vẫn có kẻ thắng người thua, và tương tự, hai người thành công như nhau vẫn có thể sử dụng hai phương pháp khác nhau, mà nguyên nhân ở đây chính là hành động của họ có phù hợp với thời thế hay không. Như tôi vừa đề cập, hai người hành động trái ngược nhau có thể cùng thu được kết quả như nhau trong khi hai người hành động giống nhau vẫn có kẻ được người mất.

Changes in estate also issue from this, for if, to one who governs himself with caution and patience, times and affairs converge in such a way that his administration is successful, his fortune is made; but if times and affairs change, he is ruined if he does not change his course of action. But a man is not often found sufficiently circumspect to know how to accommodate himself to the change, both because he cannot deviate from what nature inclines him to, and also because, having always prospered by acting in one way, he cannot be persuaded that it is well to leave it; and, therefore, the cautious man, when it is time to turn adventurous, does not know how to do it, hence he is ruined; but had he changed his conduct with the times fortune would not have changed.

Sự khác biệt về quan niệm “cái gì là tốt” cũng tùy thuộc vào thời thế, bởi nếu một quân vương thận trọng và kiên nhẫn, và thời thế biến đổi theo chiều hướng phù hợp với sách lược của ông thì ông sẽ thành công, nhưng nếu thời thế thay đổi theo chiều hướng ngược lại, ông sẽ thất bại do không chịu thay đổi phương pháp hành động.Nhưng chúng ta cũng không thể tìm được một người thận trọng đến mức có thể tự điều chỉnh bản thân phù hợp với thời thế, bởi ông không thể đi chệch khỏi thiên hướng bẩm sinh cũng như không thể bị thuyết phục rời bỏ con đường vẫn luôn đem lại danh vọng và của cải. Và bởi vậy, người cẩn trọng, khi thời cơ đòi hỏi phải hành động một cách táo bạo mà không dám quyết đoán, tất yếu sẽ bị hủy diệt, nhưng nếu ông thay đổi theo thời thế thì số phận cũng sẽ chẳng đổi thay.

Pope Julius II went to work impetuously in all his affairs, and found the times and circumstances conform so well to that line of action that he always met with success. Consider his first enterprise against Bologna, Messer Giovanni Bentivogli being still alive. The Venetians were not agreeable to it, nor was the King of Spain, and he had the enterprise still under discussion with the King of France; nevertheless he personally entered upon the expedition with his accustomed boldness and energy, a move which made Spain and the Venetians stand irresolute and passive, the latter from fear, the former from desire to recover all the kingdom of Naples; on the other hand, he drew after him the King of France, because that king, having observed the movement, and desiring to make the Pope his friend so as to humble the Venetians, found it impossible to refuse him soldiers without manifestly offending him. Therefore Julius with his impetuous action accomplished what no other pontiff with simple human wisdom could have done; for if he had waited in Rome until he could get away, with his plans arranged and everything fixed, as any other pontiff would have done, he would never have succeeded. Because the King of France would have made a thousand excuses, and the others would have raised a thousand fears.

Giáo hoàng Julius II hành động rất táo bạo trong mọi việc làm của ngài. Ngài nhận thấy thời thế và bối cảnh rất phù hợp với cách hành động này nên ngài luôn giành được những thành công phi thường. Hãy xét tới cuộc chiến tranh đầu tiên ngài tiến hành chống lại xứ Bologna khi Giovanni Bentivogli còn sống. Lúc này , người xứ Vencia và vua Tây Ban Nha đều bất bình và Giáo hoàng Julius II vẫn còn đang đàm phán với nước Pháp.

Tuy vậy, ngài vẫn tự mình tiến hành cuộc chinh phạt với sự tàn bạo và liều lĩnh quen thuộc. Những hành động này dồn người Tây Ban Nha và người Vencie vào thế bí, người Venice thì hoảng sợ, người Tây Ban Nha thì thèm khát giành lại toàn bộ vương quốc Naples, và vào cùng thời điểm đó, vua nước Pháp bị lôi kéo vào cuộc chiến bởi ông ta muốn giành được sự ủng hộ của Giáo hoàng để đánh bại người Venice. Khi biết Giáo hoàng tiến hành chiến tranh, ông ta không thể từ chối việc ngài sử dụng quân đội của ông ta vì điều đó sẽ gây tổn hại cho ngài.

Nhờ vậy, bằng sự táo bạo của mình, Giáo hoàng Julius II đã giành được điều mà không giáo hoàng nào đạt được với trí tuệ siêu việt nhất. Nếu ngài đợi đến khi rời thành Rome với những thỏa thuận và mọi việc được sắp đặt trật tự như bất kỳ một giáo hoàng nào khác có thể đã làm, thì ngài đã không thể thành công, bởi vì vua nước Pháp sẽ tìm được cả ngàn lời cáo lỗi và những kẻ khác sẽ đe dọa ngài với hàng ngàn mối lo ngại.

I will leave his other actions alone, as they were all alike, and they all succeeded, for the shortness of his life did not let him experience the contrary; but if circumstances had arisen which required him to go cautiously, his ruin would have followed, because he would never have deviated from those ways to which nature inclined him.

I conclude therefore that, fortune being changeful and mankind steadfast in their ways, so long as the two are in agreement men are successful, but unsuccessful when they fall out. For my part I consider that it is better to be adventurous than cautious, because fortune is a woman, and if you wish to keep her under it is necessary to beat and ill-use her; and it is seen that she allows herself to be mastered by the adventurous rather than by those who go to work more coldly. She is, therefore, always, woman-like, a lover of young men, because they are less cautious, more violent, and with more audacity command her.

Tôi không bàn đến những chiến công khác của ngài bởi tất cả chúng đều như vậy và đều thành công. Nhưng sự ngắn ngủi của cuộc đời ngài91 đã không để ngài phải nếm trải những thất bại. Khi thời thế đòi phải cẩn trọng thì sự bại vong của ngài chắc không thể tránh khỏi bởi ngài sẽ không thể hành động khác với bản chất của ngài.

Tóm lại, tôi xin kết luận rằng, do số phận thì mang tính thay đổi còn con người thường không chịu thay đổi nên người ta sẽ thành công khi hai yếu tố trên hòa hợp, và thất bại khi chúng không thuận nhau. Tôi cũng tin rằng táo bạo thì hơn là cẩn trọng, vì số phận cũng giống như người đàn bà92 , để chế ngự nàng thì cần phải nặng tay và cương quyết với nàng. Có thể thấy rằng nàng thường dành cho người đàn ông táo bạo chứ không phải người vẫn tán tỉnh nàng một cách cứng nhắc. Hơn nữa, là đàn bà, nàng luôn thân thiện với bọn thanh niên vì chúng ít thận trọng hơn, hung hăn hơn và đòi hỏi ở nàng nhiều sự táo bạo hơn.

[91 Một lần nữa, cũng như khi bàn về Giáo hoàng Alexander VI (chương 7), Machiavelli ám chỉ tới sự ngắn ngủi của thời gian nắm quyền Giáo hoàng của Julius II chứ không phải tuổi thọ ngắn ngủi của ngài.]

[92 Ở đây Machiavelli làm phép so sánh giữa sức mạnh cho một cuộc giao hoan thô bạo với sức mạnh xác định động cơ quyền lực chính trị.]

CHAPTER XXVI

An Exhortation To Liberate Italy From The Barbarians

26

LỜI KÊU GỌI GIẢI PHÓNG IATILA

HAVING carefully considered the subject of the above discourses, and wondering within myself whether the present times were propitious to a new prince, and whether there were the elements that would give an opportunity to a wise and virtuous one to introduce a new order of things which would do honour to him and good to the people of this country, it appears to me that so many things concur to favour a new prince that I never knew a time more fit than the present.

Xét tất cả những điều đã bàn đến và cân nhắc xem liệu thời điểm hiện nay có phù hợp để tôn vinh một vị tân vương ở Italia không, liệu đã có cơ hội nào cho vị tân vương tài trí và khôn ngoan xác lập một chính quyền có thể đem vinh quang đến cho ông và những điều tốt đẹp đến cho người dân Italia hay không, tôi thấy dường như có quá nhiều điều thuận lợi cho vị tân vương mới đến mức tôi không còn thấy thời điểm nào thích hợp hơn.

And if, as I said, it was necessary that the people of Israel should be captive so as to make manifest the ability of Moses; that the Persians should be oppressed by the Medes so as to discover the greatness of the soul of Cyrus; and that the Athenians should be dispersed to illustrate the capabilities of Theseus: then at the present time, in order to discover the virtue of an Italian spirit, it was necessary that Italy should be reduced to the extremity she is now in, that she should be more enslaved than the Hebrews, more oppressed than the Persians, more scattered than the Athenians; without head, without order, beaten, despoiled, torn, overrun; and to have endured every kind of desolation.

Và như tôi đã nói, nếu dân Israel cần phải chịu cảnh làm nô lệ ở Ai Cập để nhận ra tài năng phi thường của Moses, người Ba Tư phải bị người Medes áp bức mới thấy được tinh thần vĩ đại của Cyrus, và người Athens phải bị chia ly mới thấy được tài năng kiệt xuất của Theseus thì cũng vậy, ngày nay, để tìm ra một tài năng và trí tuệ siêu việt của Italia, đất nước Italia cần phải bị chìm đắm và phải tủi nhục hơn cả người Do Thái, bị áp bức hơn người Ba Tư, bị ly tán hơn người Athens, không lãnh tụ, không tổ chức, bị đánh đập, bị cướp đoạt, bị xé lẻ, bị giày xéo và trở thành nạn nhân của bất kỳ tai họa nào.

Although lately some spark may have been shown by one, which made us think he was ordained by God for our redemption, nevertheless it was afterwards seen, in the height of his career, that fortune rejected him; so that Italy, left as without life, waits for him who shall yet heal her wounds and put an end to the ravaging and plundering of Lombardy, to the swindling and taxing of the kingdom and of Tuscany, and cleanse those sores that for long have festered.

Mặc dù vậy, trước đây cũng đã có vài tia sáng le lói trong một cá nhân đơn lẻ93 [93 Có thể Machiavelli ám chỉ Cesare Borgia, nhưng cũng có thể ám chỉ Giuliano de Medici, công tước xứ Nemours, cái chết đột ngột của ông năm 1516 đã khiến Machiavelli phải thay đổi lời đề tặng cuốn Quân vương] ,khiến cho người ta từng tin rằng Chúa đã trao cho ông bổn phận cứu vớt cho Italia nhưng thực tế lại phải chứng kiến vận may rời bỏ ông ngay đỉnh cao của sự nghiệp. Giờ đây, đất nước Italia vẫn tồn tại vô vọng chờ đợi một con người sẽ hàn gắn những vết thương, sẽ chấm dứt tình trạng cướp bóc xứ Lombardy, các khoản cống nạp của vương quốc Naples và xứ Tuscany và sẽ chữa lành những vết thương đã mưng mủ quá lâu.

It is seen how she entreats God to send someone who shall deliver her from these wrongs and barbarous insolencies. It is seen also that she is ready and willing to follow a banner if only someone will raise it.Nor is there to be seen at present one in whom she can place more hope than in your illustrious house, with its valour and fortune, favoured by God and by the Church of which it is now the chief, and which could be made the head of this redemption. This will not be difficult if you will recall to yourself the actions and lives of the men I have named. And although they were great and wonderful men, yet they were men, and each one of them had no more opportunity than the present offers, for their enterprises were neither more just nor easier than this, nor was God more their friend than He is yours.

Hãy xem, đất nước Itlia đang cầu xin Chúa gởi đến một con người cứu vớt cả dân tộc khỏi sự tàn bạo và láo xược man rợ. Hãy xem, Italia vẫn sẵn sàng và hăng hái bước theo ngọn cờ khi có người chủ xướng phất lên. Giờ đây, liệu còn có ai mà đất nước Italia có thể đặt vào nhiều hy vọng hơn là dòng họ huy hoàng của ngài, dòng họ với thời vận và tài năng của mình được Chúa và Giáo hội che chở, dòng họ đang có bậc quân vương thời nay có thể lãnh đạo cuộc cứu rỗi này.

Điều đó cũng không quá khó nếu ngài luôn noi theo những hành động và cuộc đời của những bậc anh hùng được nhắc đến trong cuốn sách này. Mặc dù đều tài ba xuất chúng, những nhân vật nổi tiếng này cũng chỉ là con người và không ai trong số họ gặp được thời cơ tốt đẹp như ngài đang có bởi sự nghiệp của ngài chính đáng hơn nên dễ dàng hơn94 .

[94 Vào năm 1516, thời gian giả định của lời đề tặng cuốn Quân vương, các thành viên dòng họ Medici nắm giữ chức Giáo hoàng (Giáo hoàng Leo X), và Lorenzo de Medici được Giáo hoàng Leo chỉ định làm công tước xứ Urbino trong năm đó, tương lai có dự kiến trở thành người cai trị của Florence. Khi Machiavelli viết Quân vương năm 1513, đầu tiên ông mường tượng sự tập trung quyền lực của dòng họ Medici vào Giuliano de Medici, công tước xứ Nemours, và Giáo hoàng Leo. Sau cái chết của Giuliano vào năm 1516, khả năng này vẫn tồn tại với sự xuất hiện ngắn ngủi của Lorenzo de Medici. Cơ hội này cũng giống như cơ hội từng có với Giáo hoàng Borgia, Alexander VI, và con trai là Cesare, cho đến khi Giáo hoàng đột ngột qua đời năm 1503. Với cái chết của cả Giuliano và Lorenzo năm 1519, hy vọng của dòng họ Medici lụi tắt và điều này giải thích lý do khi còn sống, Machiavelli đã không xuất bản cuốn Quân vương, bởi sau năm 1519 mục đích ban đầu của cuốn sách này không còn thực hiện nữa.]

With us there is great justice, because that war is just which is necessary, and arms are hallowed when there is no other hope but in them. Here there is the greatest willingness, and where the willingness is great the difficulties cannot be great if you will only follow those men to whom I have directed your attention. Further than this, how extraordinarily the ways of God have been manifested beyond example: the sea is divided, a cloud has led the way, the rock has poured forth water, it has rained manna, everything has contributed to your greatness; you ought to do the rest. God is not willing to do everything, and thus take away our free will and that share of glory which belongs to us.

Hơn nữa, ngài lại được Chúa che chở nhiều hơn. Ở đây, công lý là toàn năng : “Chỉ những cuộc chiến tranh nào là không thể tránh khỏi mới là những cuộc chiến tranh chính đáng và vũ khí trở nên thiêng liêng khi không còn gì ngoài vũ khí”95.

Đó là một ý nguyện vĩ đại và khi đã có một ý nguyện vĩ đại thì mọi khó khăn đều có thể vượt qua nếu ngài noi theo tấm gương của những bậc tiền nhân mà tôi đã lưu ý.

Hơn thế nữa, giờ đây, chúng ta đang chứng kiến nhữngdấu hiệu lạ thường chưa từng có mà Chúa đã mang lại : thủy triều rút cạn, mây mù dẫn lối, đá tuôn nước mát, lộc thánh như mưa, mọi thứ đều quy tụ để tạo nên sự vĩ đại của ngài. Phần còn lại ngài phải tự mình làm. Chúa không làm mọi việc vì không muốn lấy đi ý chí tự do của chúng ta và vinh quang đó là của chúng ta.

[95 Machiavelli trích nguyên văn từ bản gốc bằng chữ Latin của nhà sử gia vĩ đại Livy ].

And it is not to be wondered at if none of the above-named Italians have been able to accomplish all that is expected from your illustrious house; and if in so many revolutions in Italy, and in so many campaigns, it has always appeared as if military virtue were exhausted, this has happened because the old order of things was not good, and none of us have known how to find a new one. And nothing honours a man more than to establish new laws and new ordinances when he himself was newly risen. Such things when they are well founded and dignified will make him revered and admired, and in Italy there are not wanting opportunities to bring such into use in every form.

Chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu người ta hy vọng dòng họ huy hoàng của ngài làm được điều mà bao nhiêu người Italia đã không thể làm được và cũng chẳng ngạc nhiên nếu trong những cuộc nổi loạn và chiến tranh, dường như tinh thần thượng võ của Italia đã cạn kiệt. Đó là vì trên thực tế, các thiết chế cổ xưa của Italia không còn hợp lý nữa và không ai biết cách tìm ra những thiết chế mới.

Đối với một quân vương mới nổi lên, không gí có thể đem lại vinh dự cho ông hơn là những luật lệ và thiết chế mới do chính ông đề ra. Khi có nền móng vững vàng và chứa đựng những điều lớn lao,các luật lệ và thiết chế này sẽ đem lại cho ông sự kính trọng và ngưỡng mộc. Đất nước Italia có đầy đủ mọi điều kiện để ước vọng đó biến thành hiện thực. Người đân Italia có khả năng vô bờ bến và chỉ còn thiếu các lãnh tụ mà thôi.

Here there is great valour in the limbs whilst it fails in the head. Look attentively at the duels and the hand-to-hand combats, how superior the Italians are in strength, dexterity, and subtlety. But when it comes to armies they do not bear comparison, and this springs entirely from the insufficiency of the leaders, since those who are capable are not obedient, and each one seems to himself to know, there having never been any one so distinguished above the rest, either by valour or fortune, that others would yield to him. Hence it is that for so long a time, and during so much fighting in the past twenty years, whenever there has been an army wholly Italian, it has always given a poor account of itself; as witness Taro, Alessandria, Capua, Genoa, Vaila, Bologna, Mestre.

Trong những cuộc đấu tay đôi và những cuộc giao tranh nhỏ chỉ liên quan đến một số ít người, thì các binh lính Italia luôn vượt trội về sự mạnh mẽ, sự khéo léo và khôn ngoan . Thế nhưng, trong một đạo quân, họ lại không phối hợp được với nhau. Tất cả là do sự bất tài vô dụng của những người lãnh đạo. Những kẻ có chút năng lực thì không đủ để thiên hạ phục tùng.

Cho tới nay, vẫn chưa tìm được ai biết cách vượt lên những người khác nhờ vận may hay tài trí để thiên hạ phải qui phục. Vì thế, trong suốt hai mươi năm qua với biết bao cuộc chiến, những đội quân gồm toàn người Italia đều chiến đấu vô cùng kém cỏi, Bằng chứng của điều đó trước tiên là Taro, sau đó là Alexandria, Capua, Genoa, Vailà, Bologna và Mestri 96.

[96 Machiavelli liệt kê danh sách các thất bại quân sự của Italia : Chales VIII đánh bại quân Italia tại Fornovo (1495) gần sông Taro; Louis VII chiếm Alexandria (1499), Capua (1501), Genoa (1507), Vailà (1509) và Bologna (1511). Năm 1513, người Venice bị ngoại bang đánh bại ở gần Vicenza khiến Mestri bị cuớp phá. ]

If, therefore, your illustrious house wishes to follow those remarkable men who have redeemed their country, it is necessary before all things, as a true foundation for every enterprise, to be provided with your own forces, because there can be no more faithful, truer, or better soldiers. And although singly they are good, altogether they will be much better when they find themselves commanded by their prince, honoured by him, and maintained at his expense. Therefore it is necessary to be prepared with such arms, so that you can be defended against foreigners by Italian valour.

Bởi vậy, nếu dòng họ huy hoàng của ngài ước vọng noi theo những con người kiệt xuất, những bậc anh hùng đã cứu vớt tổ quốc mình, thì điều cần thiết trước tiên, nền tảng thực sự cho bất kỳ hành động nào, là thiết lập đội quân của chính tổ quốc ngài vì không thể có được đội quân nào thiện chiến hơn, trung thành hơn, kiên định hơn.Từng người lính riêng lẻ đều là người dũng cảm và khi tập hợp lại, họ sẽ còn dũng cảm hơn khi thấy mình được chỉ huy, được tôn trọng, được đối xử thân ái bởi vị quân vương của chính họ. Do vậy, ngài cần phải tự thành lập những đội quân như vậy, để ngài có đủ khả năng bảo vệ trước những quân đội ngoại bang, bằng chính sức mạnh của người Italia.

And although Swiss and Spanish infantry may be considered very formidable, nevertheless there is a defect in both, by reason of which a third order would not only be able to oppose them, but might be relied upon to overthrow them. For the Spaniards cannot resist cavalry, and the Switzers are afraid of infantry whenever they encounter them in close combat. Owing to this, as has been and may again be seen, the Spaniards are unable to resist French cavalry, and the Switzers are overthrown by infantry. And although a complete proof of this latter cannot be shown, nevertheless there was some evidence of it at the battle of Ravenna, when the Spanish infantry were confronted by German battalions, who follow the same tactics as the Swiss; when the Spaniards, by agility of body and with the aid of their shields, got in under the pikes of the Germans and stood out of danger, able to attack, while the Germans stood helpless, and, if the cavalry had not dashed up, all would have been over with them. It is possible, therefore, knowing the defects of both these infantries, to invent a new one, which will resist cavalry and not be afraid of infantry; this need not create a new order of arms, but a variation upon the old. And these are the kind of improvements which confer reputation and power upon a new prince.

Mặc dù bộ binh Thụy Sỹ và Tây Ban Nha nổi tiếng là đáng sợ, thì cả hai đều có những nhược điểm mà một đội quân thứ ba có thể tận dụng không chỉ để chống lại mà còn có thể tự tin là đánh bại được họ. Bởi bộ binh Tây Ban Nha thì không thể chống chọi được kỵ binh, còn lính Thụy Sỹ lại sợ chiến đấu với những người lính bộ binh cũng dũng cảm như họ.

Do vậy, người ta đã và sẽ còn thấy lính Tây Ban Nha không thể chống cự kỵ binh Pháp và lính Thụy Sỹ thì bị bộ binh Tây Ban Nha tiêu diệt. Cho dù điểm cuối cùng này không được thực tế chiến trường khẳng định chắc chắn, nhưng ta cũng có thể thấy dấu hiệu của nó tại trận chiến Ravenna97. Tại đây, bộ binh Tây Ban Nha đã chiến đấu với những đạo quân Đức, những đạo quân được tổ chức giống như quân Thụy Sỹ.

Với những thân hình nhanh nhẹn và được bảo vệ bằng các tấm khiên gai, lính Tây Ban Nha đã tả xung hữu đột giữa rừng giáo mác của lính Đức mà vẫn bình an vô sự, và nếu không có kỵ binh kịp thời phá vỡ thì chắc hẳn lính Tây Ban Nha đã tàn sát toàn bộ quân Đức. Do vậy, khi đã xác định được những yếu điểm của cả hai loại quân này thì có thể xây dựng một loại quân mới để đương đầu với kỵ binh và cũng không phải e sợ bộ binh. Điều đó có thể thực hiện thông qua việc lập nên những đạo quân mới và thay đổi cách dàn quân. Và trong số những hành động tổ chức lại đất nước, đây cũng sẽ là những việc đem lại vinh quang và danh tiếng cho vị tân vương.

This opportunity, therefore, ought not to be allowed to pass for letting Italy at last see her liberator appear. Nor can one express the love with which he would be received in all those provinces which have suffered so much from these foreign scourings, with what thirst for revenge, with what stubborn faith, with what devotion, with what tears. What door would be closed to him? Who would refuse obedience to him? What envy would hinder him? What Italian would refuse him homage? To all of us this barbarous dominion stinks. Let, therefore, your illustrious house take up this charge with that courage and hope with which all just enterprises are undertaken, so that under its standard our native country may be ennobled, and under its auspices may be verified that saying of Petrarch:

Cơ hội này, xin đừng bỏ lỡ. Đất nước Italia sau đêm dài đen tối đã lại có thể nhìn thấy vị cứu tinh. Không một lời nào có thể diễn ta hết được sự yêu mến mà vị cứu tinh đó sẽ nhận được từ tất cả những miền đất đã phải chịu đựng sự xâm lấn của ngoại bang, với khát vọng báo thù nung nấu. Với lòng trung thành bền bỉ bấy lâu, với biết bao đau thương và nước mắt !

Có cánh cửa nào lại không rộng mở ? có người dân nào lại từ chối phục tùng ? kẻ nào dám ghen tị và chống đối ngài ? Người Italia nào dám không tôn kính ? Đối với toàn dân, sự thống trị của lũ man rợ kia thật là nhức nhối ! Bởi vậy, dòng họ huy hoàng của ngài hãy nhận lấy sứ mạng này với tinh thần và niềm hy vọng là nơi khởi đầu những sự nghiệp chính nghĩa, để đất nước này lại được vinh quang dưới ngọn cờ của ngài và, dưới sự lãnh đạo của ngài, để những câu thơ của Petrarch98 sẽ trở thành sự thật .

Virtu contro al Furore

Prendera l'arme, e fia il combatter corto:

Che l'antico valore

Negli italici cuor non e ancor morto. 1

THE END

Khôn ngoan thắng bạo tàn

Hãy lại cầm vũ khí, trận chiến sẽ ngắn thôi

Lòng dũng cảm ngàn xưa

Trong trái tim người Italia, sẽ không bao giờ chết.99


[97 Trận chiến Ravenna : Ngày 11 tháng 4 năm 1512, kỵ binh Pháp dưới sự chỉ huy của Gasron de Foix đã truy đuổi bộ binh Tây Ban Nha.]

[98 Petrarch (1304-1374), tên thật của ông là Francesco Petrarca, nhà thơ và nhà nhân văn người Italia. Ông được coi là nhà thơ hiện đại đầu tiên của thế giới.]

[99 Lời trích từ đoản khúc của Petrarch, “Italia mia”. Bằng việc trích dẫn bài thơ yêu nước của Petrarch, Machiavelli hướng sự chú ý của chúng ta vào sự so sánh tương phản của Petrarch về Virtù và Furore. Qua đó khẳng định Virtù, như cách hiểu của riêng ông (sự khôn ngoan, một sức mạnh có kỷ luật), sẽ chiến thắng những sức mạnh bạo tàn vô lối trong công cuộc thống nhất đất nước Italia do một ông hoàng gia tộc Medici khởi xướng.. ]


Chỉ trong 1 cuốn sách nhỏ của Machiavelli đã hội tụ những nguyên tắc làm nền móng cho khoa học quản trị nói chung & chính trị học nói riêng.

Đọc Quân vương, các độc giả ham thích chính trị học không khỏi ngạc nhiên vì sự giống nhau giữa những nhận xét lạnh lùng của Machiavelli về bản tính con người & những luận điểm trong tác phẩm Hàn Phi Tử - một trong những tác phẩm chính trị học đầu tiên của thế giới ra đời trước Quân Vương 1700 năm.

Người ta sẽ luôn luôn đọc Quân Vương chừng nào con người vẫn chưa thôi trò chơi nguy hiếm nhưng hấp dẫn có cái tên là “chính trị”.

Qua cuốn sách, độc giả sẽ tìm ra chân dung một vị Quân Vương hình mẫu:

- Keo kiệt hay rộng lượng,

- Độc ác hay nhân từ,

- Thất hứa hay giữ lời hứa nếu lời hứa đi ngược lại lợi ích của mình.

- Phải làm gì để tránh bị dân chúng căm ghét.

- Phải thực thi những hành động lớn lao để nâng cao uy tín của mình.

Cho đến nay, dù đã hơn 500 năm trôi qua kể từ khi Quân Vương được viết ra, chính trị vẫn không hề thay đổi và tác phẩm này vẫn luôn là cẩm nang về thuật trị nước và trị người. Có thể ví Machiavelli như một Hàn Phi ở Phương tây, một bậc thầy vè nghệ thuật tranh giành và chiếm giữ quyền lực.

Những điều Machiavelli viết trong tác phẩm này sẽ làm say mê bất kỳ ai, từ những bạc quân vương, những chính khách, những nhà hành pháp cho tới những người dân thường nhất. Vì Quân vương không chỉ là một cuốn sách về các biện pháp chính trị, ngoại giao mà còn là một cuốn sách về con người.

Quân vương là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất thế giới bàn về chính trị và sách tham khảo chính thức cho các sinh viên của trường Đại học Harvard.


Translated by Vũ Mạnh Hồng & Nguyễn Hiền Chi



PART 1 - PHẦN 1

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn