|
THE BROKEN WINGS
|
UYÊN ƯƠNG GÃY CÁNH
|
by Khalil Gibran
|
Khalil Gibran
|
Translated
from Arabic by Anthony R. Ferris
|
Dịch từ
bản tiếng Anh: Nguyễn Ngọc Minh
|
|
|
TO THE ONE who
stares at the sun with glazed eyes and grasps the fire with untrembling
fingers and hears the spiritual time of Eternity behind the clamorous shrieking
of the blind.
To M.E.H. I dedicate
this book.
Gibran.
|
Tặng người nhìn thẳng vào mặt trời
với cặp mắt sáng ngời, nắm giữ ngọn lửa bằng những ngón tay không hề run rẩy,
và nghe ra giọng điệu thiêng liêng của Vô Cùng đằng sau tiếng thét chói chang
của người mù.
Xin tặng cuốn sách
này cho M.E.H.
Gibran
|
|
FOREWORD
|
LỜI MỞ ĐẦU
|
I was eighteen years of age when love opened my eyes with
its magic rays and touched my spirit for the first time with its fiery
fingers, and Selma Karamy was the first woman who awakened my spirit with her
beauty and led me into the garden of high affection, where days pass like
dreams and nights like weddings.
|
Vào năm tôi mười tám tuổi, tình yêu đã mở
mắt cho tôi bằng
những tia sáng huyền ảo, ve vuốt linh hồn tôi lần đầu bằng những ngón tay cháy
bỏng. Selma Karamy là
người nữ đầu tiên mà nhan sắc đã khiến linh hồn tôi bừng tỉnh và dắt tôi
vào khu vườn tình ái tuyệt diệu nơi mỗi ngày trôi qua như giấc mơ, và mỗi
đêm như tân hôn.
|
Selma Karamy was the one who taught me to worship beauty
by the example of her own beauty and revealed to me the secret of love by her
affection; she was the one who first sang to me the poetry of real life.
|
Selma Karamy là người đã dạy tôi biết tôn thờ cái đẹp bằng
chính sắc đẹp của nàng, và đã tiết lộ cho tôi bí ẩn của tình yêu bằng chính
tình yêu của nàng. Nàng là người đầu tiên đã ngân lên cho tôi nghe những bài
thơ của đời sống đích thực.
|
Every young man remembers his first love and tries to
recapture that strange hour, the memory of which changes his deepest feeling
and makes him so happy in spite of all the bitterness of its mystery.
|
Người thanh niên nào cũng giữ trong ký ức mối tình đầu, cố
gắng níu kéo lại cái giờ khắc kỳ diệu đó, cái kỷ niệm đã làm thay đổi phần
sâu thẳm nhất của tâm hồn và giúp họ hạnh phúc bất chấp những nỗi đắng cay mà
bí ẩn tình yêu mang lại.
|
In every young man’s life there is a “Selma” who appears
to him suddenly while in the spring of life and transforms his solitude into
happy moments and fills the silence of his nights with music.
|
Trong đời mỗi chàng trẻ tuổi nào cũng có một nàng “Selma” bất
ngờ xuất hiện vào tuổi thanh xuân, biến cải nỗi cô đơn của họ thành những khoảnh
khắc hạnh phúc, lấp
đầy sự cô tịch của bóng đêm bằng những khúc nhạc tình.
|
I was deeply engrossed in thought and contemplation and
seeking to understand the meaning of nature and the revelation of books and
scriptures when I heard LOVE whispered into my ears through Selma’s lips. My
life was a coma, empty like that of Adam’s in Paradise, when I saw Selma
standing before me like a column of light. She was the Eve of my heart who
filled it with secrets and wonders and made me understand the meaning of
life.
|
Khi tôi nghe tình yêu thỏ thẻ bên tai qua đôi môi Selma,
tâm tư tôi tràn ngập suy tưởng và ngưỡng vọng; tôi đi tìm ý nghĩa sự sống
cùng những mặc khải trong sách vở và thánh thư. Đời sống của tôi đang lơ lửng
ở trạng thái vô hồn - trống rỗng như quãng đời Adam ở Địa đàng - thì tôi gặp
Selma xuất hiện trước mắt tôi như một khối ánh sáng. Selma là Eve của tim tôi, nàng
đã khiến tim tôi chan chứa những kỳ bí ảo diệu và giúp tôi hiểu
được ý nghĩa cuộc đời.
|
The first Eve led Adam out of Paradise by her own will,
while Selma made me enter willingly into the paradise of pure love and virtue
by her sweetness and love; but what happened to the first man also happened
to me, and the fiery word which chased Adam out of Paradise was like the one
which frightened me by its glittering edge and forced me away from paradise
of my love without having disobeyed any order or tasted the fruit of the
forbidden tree.
|
Nàng Eve thứ nhất đã dẫn Adam ra khỏi Địa đàng bằng chính
ý nàng, nhưng Selma đã khiến tôi tự nguyện đi vào Thiên đàng của tình yêu và
phẩm hạnh thanh khiết
và bằng sự khả ái và tấm tình của nàng. Nhưng việc gì xảy đến cho
người đàn ông đầu tiên cũng đã xảy đến cho tôi, và lời lẽ
giận dữ đuổi Adam ra
khỏi Địa đàng cũng giống thứ đã làm điếng hồn tôi vì cái lưỡi sáng quắc, đã xua
đuổi tôi khỏi Thiên đàng của tình yêu, dù rằng tôi chẳng vi phạm một điều
luật nào, cũng chẳng thử nếm vào trái cấm.
|
Today, after many years have passed, I have nothing left
out of that beautiful dream except painful memories flapping like invisible
wings around me, filling the depths of my heart with sorrow, and bringing
tears to my eyes; and my beloved, beautiful Selma, is dead and nothing is
left to commemorate her except my broken heart and tomb surrounded by cypress
trees. That tomb and this heart are all that is left to bear witness of
Selma.
|
Ngày nay sau bao năm trôi qua, tôi chẳng còn giữ được gì
trong giấc mơ đẹp đó, ngoại trừ những kỷ niệm đớn đau vỗ đập quanh tôi như
đôi cánh vô hình, chất chứa trong đáy tim tôi một mối hận lòng, và làm mắt
tôi nhòa lệ. Nàng Selma xinh, đẹp khả ái của tôi đã mất rồi; chẳng còn gì để tưởng
nhớ nàng ngoài trái tim tan vỡ của tôi và một nấm mồ có hàng cây bách vây quanh, nấm mồ ấy và trái tim
này là tất cả những gì còn lại để chứng giám cho Selma.
|
The silence that guards the tomb does not reveal God’s
secret in the obscurity of the coffin, and the rustling of the branches whose
roots suck the body’s elements do not tell the mysteries of the grave, by the
agonized sighs of my heart announce to the living the drama which love,
beauty, and death have performed.
|
Sự im lặng vây quanh nấm mồ không tiết lộ điều bí ẩn của
Thượng đế trong cái tăm tối của cỗ quan tài, và tiếng rì rào của những cành
cây mà gốc rễ đã hút những chất liệu của thể xác Selma không nói nên những
điều bí ẩn của cái chết đó, nhưng những tiếng thở dài ai oán từ tim tôi thông
báo cho người đời vở kịch mà tình yêu cái đẹp và cái chết đã trình diễn.
|
Oh, friends of my youth who are scattered in the city of
Beirut, when you pass by the cemetery near the pine forest, enter it silently
and walk slowly so the tramping of your feet will not disturb the slumber of
the dead, and stop humbly by Selma’s tomb and greet the earth that encloses
her corpse and mention my name with deep sigh and say to yourself, “here, all
the hopes of Gibran, who is living as prisoner of love beyond the seas, were
buried. On this spot he lost his happiness, drained his tears, and forgot his
smile.”
|
Than ôi! Hỡi những người bạn thời niên thiếu của tôi đang
sống rải rác trong thành Beirut, khi nào các bạn đi qua nghĩa trang gần rừng
thông, xin các bạn hãy lặng lẽ ghé vào và cất bước chậm rãi để tiếng chân
khỏi làm phiền giấc ngủ của người đã khuất; hãy kính cẩn dừng lại bên mồ
Selma, cất lời chào lòng đất bao bọc thể xác nàng, và nhắc tên tôi với tiếng
thở dài nặng nề rồi tự nhủ: “Chính tại nơi này mà Gibran - người tù đang
bị lưu đày biệt xứ vì tình - đã chôn vùi tất cả hy vọng của chàng. Tại nơi
này chàng đã đánh mất hạnh phúc, cạn khô nước mắt, và quên cả nụ cười”.
|
By that tomb grows Gibran’s sorrow together with the
cypress trees, and above the tomb his spirit flickers every night
commemorating Selma, joining the branches of the trees in sorrowful wailing,
mourning and lamenting the going of Selma, who, yesterday was a beautiful
tune on the lips of life and today is a silent secret in the bosom of the
earth.
|
Bên nấm mồ đó mối hận lòng của Gibran ngày một lớn
lên cùng hàng cây bách: trên nấm mồ hồn chàng nhấp nháy đêm đêm để tưởng niệm Selma, nhập vào cây cỏ để
cùng cất lời oán thán, nỉ non thương tiếc Selma ra đi, người hôm qua còn là một giai điệu thắm tươi trên làn môi trần
thế, nhưng hôm nay đã thành nỗi bí ẩn lặng thinh trong lòng đất.
|
Oh, comrades of my youth! I appeal to you in the names of
those virgins whom your hearts have loved, to lay a wreath of flowers on the
forsaken tomb of my beloved, for the flowers you lay on Selma’s tomb are like
falling drops of dew for the eyes of dawn on the leaves of withering rose.
|
Than ôi! Hỡi những người bạn trong thời niên thiếu của
tôi! Nhân danh những nàng thục nữ mà các bạn đã yêu bằng cả trái tim, tôi
khẩn cầu các bạn hãy đặt một vòng hoa trên nấm mồ bị rẻ rúng của người tôi
yêu, bởi những đóa hoa mà các bạn đặt lên mồ Selma sẽ giống những hạt sương
mai rơi từ đôi mắt của bình minh trên những cánh hồng khô héo.
|
CHAPTER ONE
SILENT SORROW
|
CHƯƠNG 1
NỖI BUỒN THẦM LẶNG
|
My neighbours, you remember the dawn of youth with
pleasure and regret its passing; but I remember it like a prisoner who
recalls the bars and shackles of his jail. You speak of those years between
infancy and youth as a golden era free from confinement and cares, but I call
those years an era of silent sorrow which dropped as a seed into my heart and
grew with it and could find no outlet to the world of Knowledge and wisdom
until love came and opened the heart’s doors and lighted its corners. Love
provided me with a tongue and tears. You people remember the gardens and
orchids and the meeting places and street corners that witnessed your games
and heard your innocent whispering; and I remember, too, the beautiful spot
in North Lebanon. Every time I close my eyes I see those valleys full of
magic and dignity and those mountains covered with glory and greatness trying
to reach the sky. Every time I shut my ears to the clamour of the city I hear
the murmur of the rivulets and the rustling of the branches. All those
beauties which I speak of now and which I long to see, as a child longs for
his mother’s breast, wounded my spirit, imprisoned in the darkness of youth,
as a falcon suffers in its cage when it sees a flock of birds flying freely
in the spacious sky. Those valleys and hills fired my imagination, but bitter
thoughts wove round my heart a net of hopelessness.
|
Các bạn thường hồi tưởng đến tuổi
hoa niên với niềm hân hoan, và nuối tiếc thời gian qua; nhưng tôi nhớ đến nó
như người tù nhớ những chấn song và xiềng xích nơi ngục thất. Các bạn thường
nhắc đến những năm giữa tuổi thơ ấu và tuổi thanh xuân như cả một thời vàng
son, không lo âu, không ràng buộc; nhưng tôi gọi những năm đó là thời kỳ u
sầu thầm lặng gieo hạt, nẩy mầm, rồi lớn lên trong tim tôi, và không thể vươn
ra tiếp xúc với thế giới kiến thức và lương tri mãi đến khi tình yêu đến mở
cửa con tim và thắp sáng những xó xỉnh bên trong. Tình yêu đã giúp tôi biết
ăn nói và biết nhỏ lệ. Các bạn nhớ đến những khu vườn, những cây hoa lan,
những nơi họp mặt, những góc phố đã chứng kiến nhiều trò chơi và nghe tiếng
thỏ thẻ ngây thơ của các bạn; về phần tôi, tôi cũng nhớ đến cái vùng thơ mộng
ở miền Bắc Liban. Khi nhắm mắt lại tôi thấy những thung lũng chứa chan huyền
ảo và huy hoàng, những ngọn núi hùng vĩ vươn lên đỉnh trời. Khi bịt tai để
ngăn tiếng huyên náo của thị thành, tôi nghe tiếng thì thầm của những con suối
nhỏ và tiếng rì rào của cỏ cây. Tất cả những vẻ đẹp mà tôi đang nói đến và
mong mỏi được thấy - như một hài nhi mong bầu sữa mẹ - đã làm tổn thương tâm
hồn tôi, đầy đọa tôi trong bóng tối của tuổi hoa niên, như con phượng hoàng
cảm thấy chua xót trong lồng khi thấy một đàn chim tung bay trên bầu trời cao
rộng. Những thung lũng, những ngọn núi đó đã nung nấu trí tưởng tượng của
tôi; nhưng ngược lại, những ý tưởng cay đắng cũng đan dệt quanh tôi một tấm
lưới vô vọng.
|
Every time I went to the fields I returned disappointed,
without understanding the cause of my disappointment. Every time I looked at
the grey sky I felt my heart contract. Every time I heard the singing of the
birds and babbling of the spring I suffered without understanding the reason
for my suffering. It is said that unsophistication makes a man empty and that
emptiness makes him carefree. It may be true among those who were born dead
and who exist like frozen corpses; but the sensitive boy who feels much and
knows little is the most unfortunate creature under the sun, because he is
torn by two forces. The first force elevates him and shows him the
beauty of existence through a cloud of dreams; the second ties him down to
the earth and fills his eyes with dust and overpowers him with fears and
darkness.
|
Sau mỗi lần rong chơi ngoài đồng nội, tôi trở về mang theo
nỗi thất vọng vô cớ. Mỗi khi nhìn ngắm bầu trời xám tôi cảm thấy con tim quặn
thắt. Mỗi khi nghe chim hót và suối nguồn róc rách tôi thấy đau khổ mà chẳng
hiểu nguyên do. Người ta báo rằng con người chất phác thì trống rỗng, và
trống rỗng thì vô tư. Điều này có thể đúng với những kẻ bẩm sinh đã mang theo
cái chết và những kẻ sống như những cái xác ướp; chứ còn một thiếu niên nhạy
cảm, rung động thật nhiều mà lại hiểu biết rất ít là một sinh vật bất hạnh
nhất trên đời; vì hắn bị sâu xé bởi hai mãnh lực. Mãnh lực thứ nhất nâng cao
hắn lên và phô với hắn vẻ đẹp của sự sống nhìn qua đám mây mộng ảo; mãnh lực
thứ hai trói chặt hắn dưới mặt đất và trát bụi vào mắt hắn, đè nén hắn bằng
lo âu và bóng tối.
|
Solitude has soft,
silky hands, but with strong fingers it grasps the heart and makes it ache
with sorrow. Solitude is the ally of sorrow as well as a companion of
spiritual exaltation.
|
Nỗi cô đơn có đôi
tay mềm mại lụa là, nhưng với những ngón vững chắc nó bóp lấy trái tim ta làm
tim ta nhói lên những cơn u sầu. Cô đơn là đồng minh của u sầu đồng thời là
bạn đường giúp tâm hồn thăng hoa.
|
The boy’s soul
undergoing the buffeting of sorrow is like a white lily just unfolding. It
trembles before the breeze and opens its heart to day break and folds its
leaves back when the shadow of night comes. If that boy does not have diversion or friends or
companions in his games his life will be like a narrow prison in which he
sees nothing but spider webs and hears nothing but the crawling of insects.
|
Tâm hồn một thiếu
niên đang bị u sầu hành hạ cũng như một bông huệ chớm nở. Nó run rẩy trước
cơn heo may, mở rộng con tim lúc rạng đông, và khép cánh khi bóng đêm buông
phủ. Nếu thiếu
niên đó không có thú tiêu khiển, không bằng hữu hoặc bầu bạn để nô đùa, cuộc
đời hắn sẽ giống như một ngục thất chật hẹp trong đó hắn chẳng thấy gì ngoài
mạng nhện, chẳng nghe gì ngoài tiếng côn trùng nỉ non.
|
That sorrow which obsessed me during my youth was not
caused by lack of amusement, because I could have had it; neither from lack
of friends, because I could have found them. That sorrow was caused by an
inward ailment which made me love solitude. It killed in me the inclination
for games and amusement. It removed from my shoulders the wings of youth and
made me like a pong of water between mountains which reflects in its calm
surface the shadows of ghosts and the colours of clouds and trees, but cannot
find an outlet by which to pass singing to the sea.
|
Nỗi u sáu đã ám ảnh tôi suốt thời niên thiếu chẳng phải vì
thiếu vui choi, bởi tôi có thể vui chơi thỏa thích; cũng chẳng phải vì thiếu
bè bạn, bởi tôi có thể tìm ra bè bạn. Mối u sầu đó do một thứ tâm bệnh khiến
tôi yêu sự cô đơn. Nó giết trong tôi cái khuynh hướng đi tìm các trò chơi và
vui thú. Nó cất đi trên vai tôi đôi cánh của tuổi trẻ, và khiến tôi như một
ao nước tù nằm giữa những hòn núi soi trên mặt nước phẳng lặng những bóng ma
và màu sắc của cỏ cây mây ráng, nhưng ao nước không tìm được một lối thoát để
vừa chảy vừa reo ca ra tận biển khơi.
|
Thus was my life before I attained the age of eighteen.
That year is like a mountain peak in my life, for it awakened knowledge in me
and made me understand the vicissitudes of mankind. In that year I was reborn
and unless a person is born again his
life will remain like a blank sheet in the book of existence. In that
year, I saw the angels of heaven looking at me through the eyes of a
beautiful woman. I also saw the devils of hell raging in the heart of an evil
man. He who does not see the angels
and devils in the beauty and malice of life will be far removed from
knowledge, and his spirit will be empty of affection.
|
Trước năm mười tám tuổi, đời tôi như thế đó. Năm đó giống
như một đỉnh núi trong đời tôi, vì nó thức tỉnh trí thức tôi và giúp tôi hiểu
những thăng trầm của loài người. Trong năm đó tôi được tái sinh, và nếu một người không được tái sinh ngay
trong cuộc đời thì đời họ sẽ vẫn
còn như một trang giấy trắng trong cuốn sổ đời. Trong năm đó tôi đã thấy Thiên
thần trên trời nhìn tôi qua đôi mắt một giai nhân. Tôi cũng thấy bầy ác quỷ
Địa ngục hung hăng cuồng nộ trong tim một kẻ bạc đức. Người nào không thấy thiên thần và ác quỷ trong cái đẹp và cái ác của cuộc đời thì tri thức
của họ quá đỗi nghèo nàn, và tâm hồn họ trống rỗng tình yêu.
|
CHAPTER TWO
THE HAND OF DESTINY
|
CHƯƠNG 2
BÀN TAY ĐỊNH MỆNH
|
In the spring of the that wonderful year, I was in Beirut.
The gardens were full of Nisan flowers and the earth was carpeted with green
grass, and like a secret of earth revealed to Heaven. The orange trees and
apple trees, looking like houris or brides sent by nature to inspire poets
and excite the imagination, were wearing white garments of perfumed blossoms.
|
Vào mùa xuân của năm kỳ diệu đó tôi
đang ở Beirut.
Những đóa hoa xuân nở đầy các vườn, mặt đất phủ thảm cỏ xanh rờn, tất cả cảnh
vật như một kỳ bí của trái đất thổ lộ cùng trời cao. Lũ cây cam cây táo khoác
xiêm y trắng toát kết bằng hoa thơm ngát, trông như những tiên nữ hay những
tân giai nhân, sứ giả của thiên nhiên gửi xuống trần thế để khơi động trí tưởng tượng và khơi
nguồn cảm hứng cho thi nhân.
|
Spring is beautiful everywhere, but it is most beautiful
in Lebanon. It is a spirit that roams round the earth but hovers over
Lebanon, conversing with kings and prophets, singing with the rives the songs
of Solomon, and repeating with the Holy Cedars of Lebanon the memory of
ancient glory. Beirut, free from the
mud of winter and the dust of summer, is like a bride in the spring, or like
a mermaid sitting by the side of a brook drying her smooth skin in the rays
of the sun.
|
Mùa xuân ở mọi nơi đều đẹp, nhưng không đâu đẹp bằng ở
Liban. Điều này có thể ví như một vị thần linh đi rong chơi trên khắp địa cầu
nhưng quyến luyến lượn lờ trên xứ Liban, trò chuyện với những vì vua chúa,
các đấng tiên tri, cùng các giòng sông hòa ca những bài hát của vua Salomon,
và nhắc nhở những cây tuyết tùng thiêng liêng của xứ Liban những
kỷ niệm huy hoàng thời xa xưa. Thành
phố Beirut, mùa Đông không lầy lội, mùa Hạ không bụi bậm, vào mùa Xuân giống
như một ngư nữ ngồi bên bờ suối hong làn da mịn dưới ánh mặt trời.
|
One day, in the month of Nisan, I went to visit a friend
whose home was at some distance from the glamorous city. As we were
conversing, a dignified man of about sixty-five entered the house. As I rose
to greet him, my friend introduced him to me as Farris Effandi Karamy and
then gave him my name with flattering words. The old man looked at me a
moment, touching his forehead with the ends of his fingers as if he were
trying to regain his memory. Then he smilingly approached me saying, “You are
the son of a very dear friend of mine, and I am happy to see that friend in
your person.”
|
Ngày nọ, giữa tiết Xuân, tôi đến thăm một người bạn nhà
ở khá xa cái thành
phố quyến rũ này. Khi chúng tôi đang trò chuyện thì một người trông khả kính trạc độ sáu lăm bước vào
nhà. Tôi đứng dậy chào và bạn tôi giới thiệu là viên ngoại Farris Karamy. Sau
đó anh giới thiệu tôi kèm những lời xưng tụng. Ông cụ nhìn tôi một lúc rồi đưa tay lên trán như cố lục lại trí nhớ. Rồi ông tươi cười
tiến lại phía tôi và bảo: “Cha anh là bạn rất thân của tôi, tôi sung sướng
được gặp lại ông ấy qua chính anh”.
|
Much affected by his words, I was attracted to him like a
bird whose instinct leads him to his nest before the coming of the tempest.
As we sat down, he told us about his friendship with my father, recalling the
time which they spent together. An old man likes to return in memory to the
days of his youth like a stranger who longs to go back to his own country. He
delights to tell stories of the past like a poet who takes pleasure in
reciting his best poem. He lives spiritually in the past because the present
passes swiftly, and the future seems to him an approach to the oblivion of
the grave. An hour full of old memories passed like the shadows of the trees
over the grass. When Farris Effandi started to leave, he put his left hand on
my shoulder and shook my right hand, saying, “I have not seen your father for
twenty years. I hope you will l take his place in frequent visits to my
house.” I promised gratefully to do my duty toward a dear friend of my
father.
|
Những lời đó khiến tôi xúc động và bị ông thu hút như bản
năng dẫn con chim về tổ trước cơn bão tố. Khi chúng tôi đã an vị, ông kể cho
tôi nghe tình bạn giữa ông và cha tôi, gợi lại thời gian hai người gần gũi
nhau. Một người lớn tuổi muốn hồi tưởng những ngày trai trẻ như một khách tha
hương mong trở lại quê nhà. Ông tỏ vẻ thích thú khi kể những mẩu chuyện thời
quá khứ, chẳng khác nào một thi sĩ sảng khoái tự ngâm lên bài thơ tuyệt tác.
Ông sống lại đời sống tinh thần của quá khứ vì hiện tại đối với ông như bóng
câu qua cửa, và tương lai như chặng đường đi vào cái chết hư vô. Một giờ đầy những kỷ niệm xưa trôi qua như
những bóng cây lướt trên bãi cỏ. Khi đứng dậy từ giã, ông đặt tay trái lên
vai tôi, vừa bắt tay tôi vừa bảo: “Đã hai mươi năm tôi không được gặp lại
thân phụ anh. Tôi mong anh sẽ thay ông năng lui tới thăm tôi tại tệ xá”. Tôi
cung kính hứa sẽ làm tròn bổn phận đối với một thân hữu của cha tôi.
|
Then the old man left the house, I asked my friend to tell
me more about him. He said, “I do not know any other man in Beirut whose
wealth has made him kind and whose kindness has made him wealthy. He is one
of the few who come to this world and leave it without harming any one, but
people of that kind are usually miserable and oppressed because they are not
clever enough to save themselves from the crookedness of others. Farris
Effandi has one daughter whose character is similar to his and whose beauty
and gracefulness are beyond description, and she will also be miserable
because her father’s wealth is placing her already at the edge of a horrible
precipice.”
|
Khi ông cụ đã đi khỏi, tôi yêu cầu anh bạn kể rõ thêm cho
tôi nghe về ông. Anh nói: “Tôi cho rằng ngoài ông ấy ra, ở Beirut này không
có ai mà phú quý sinh nhân từ và nhân từ sinh phú quý như thế. Ông là một trong những người
rất hiếm hoi đến với đời rồi từ biệt loài người mà chẳng làm hại một ai.
Nhưng những người loại này hay bị phiền lụy và khổ trí vì không đủ khôn ngoan
để đương đầu với thói đời nham hiểm. Viên ngoại Karamy có một ái nữ nhân cách
rất giống ông còn sắc đẹp và hiền thục thì không lời nào tả hết; và nàng cũng sẽ gặp nhiều
khổ lụy vì gia tài của ông cha đặt nàng bên vực thẳm ghê hồn”.
|
As he uttered these words, I noticed that his face
clouded. Then he continued, “Farris Effandi is a good old man with a noble
heart, but he lacks will power. People lead him like a blind man. His
daughter obeys him in spite of her pride and intelligence, and this is the
secret which lurks in the life of father and daughter. This secret was
discovered by an evil man who is a bishop and whose wickedness hides in the
shadow of his Gospel. He makes the people believe that he is kind and noble.
He is the head of religion in this land of the religions. The people obey and
worship him. he leads them like a flock of lambs to the slaughter house. This
bishop has a nephew who is full of hatefulness and corruption. The day will
come sooner or later when he will place his nephew on his right and Farris
Effandi’s daughter on this left, and, holding with his evil hand the wreath
of matrimony over their heads, will tie a pure virgin to a filthy degenerate,
placing the heart of the day in the bosom of the night. That is all I can
tell you about Farris Effandi and his daughter, so do not ask me any more
questions.”
|
Khi bạn tôi thốt những lời trên đây, tôi để ý thấy vẻ mặt
anh thoáng buồn. Anh nói tiếp: “Viên ngoại Karamy là một người tốt bụng và
tâm hồn cao thượng, nhưng ông thiếu sức mạnh ý chí. Ông bị người ta dẫn đi
như kẻ mù lòa. Cô con gái thì luôn luôn vâng lời cha bất chấp
lòng kiêu hãnh và và
trí tuệ của mình, đó là điều bí mật trong đời hai cha con ông. Nhưng nó đã bị
một người nham hiểm khám phá, đó là một vị Giám mục mà dã tâm che đậy dưới
bóng tôn giáo, ông ta khôn khéo làm thiên hạ tưởng ông là người nhân từ đạo
đức. Vị Giám mục đó là nhà lãnh đạo tôn giáo trong cái xứ sở mộ đạo này.
Thiên hạ tuân lời và sùng kính ông. Ông ta dẫn dắt họ như một bầy chiên đến
lò sát sinh. Ông ta có một đứa cháu thật khả ố và hư hỏng. Sớm muộn gì cũng
có ngày ông ta đặt đứa cháu bên tay phải, cô con gái ông viên ngoại bên tay
trái, nâng sợi dây hôn phối lên đầu họ, rồi trói buộc một nàng thục nữ trong
trắng vào một tên vô lại thô bỉ - đặt trái tim của rạng đông trong lòng đêm
tối. Đó là tất cả những gì tôi có thể cho anh biết về ông Karamy và con gái
ông. Xin anh đừng hỏi thêm gì nữa”.
|
Saying this, he turned his head toward the window as if he
were trying to solve the problems of human existence by concentrating on the
beauty of the universe.
|
Khi nói mấy câu sau cùng, bạn tôi quay đầu về phía cửa sổ,
tựa hồ như anh cố gỡ những khúc mắc của cuộc nhân sinh bằng cách chú tâm vào
vẻ đẹp của vũ trụ.
|
As I left the house I told my friend that I was going to
visit Farris Effandi in a few days for the purpose of fulfilling my promise
and for the sake of the friendship which had joined him and my father. He
stared at me for a moment, and I noticed a change in his expression as if my
few simple words had revealed to him a new idea. Then he looked straight
through my eyes in a strange manner, a look of love, mercy, and fear – the
look of a prophet who foresees what no one else can divine. Then his lips
trembled a little, but he said nothing when I started towards the door. That
strange look followed me, the meaning of which I could not understand until I
grew up in the world of experience, where hearts understand each other
intuitively and where spirits are mature with knowledge.
|
Trước khi từ giã, tôi cho bạn tôi biết trong vài ngày nữa
tôi sẽ đến viếng ông Karamy để làm tròn lời hứa và vì tình bằng hữu giữa ông
và cha tôi. Anh đăm đăm nhìn tôi một lúc; tôi nhận thấy vẻ mặt anh thay đổi,
tựa hồ những lời giản dị tôi thốt ra đã khiến anh khám phá được một tư tưởng
gì mới lạ. Rồi anh nhìn thẳng vào mắt tôi với một dáng điệu thật lạ lùng, cái
nhìn bao hàm tình thương, lòng trắc ẩn và sự lo âu - cái nhìn của một nhà
tiên tri trông thấy trước những điều sẽ xảy ra mà không ai dự đoán được. Rồi
đôi môi anh hơi mấp máy, nhưng anh không nói một lời nào khi tôi đi ra cửa.
Cái nhìn kỳ lạ đó đuổi theo tôi; tôi không hiểu nổi ý nghĩa của nó mãi cho
đến khi tôi trưởng thành trong thế giới kinh nghiệm nơi người ta hiểu nhau
bằng trực giác, nơi tâm hồn chín mùi bằng khôn ngoan.
|
CHAPTER THREE
ENTRANCE TO THE
SHRINE
|
CHƯƠNG 3
LỐI VÀO ĐỀN THỜ
|
In a few days, loneliness overcame me; and I tired of the
grim faces of books; I hired a carriage and started for the house of Farris
Effandi. As I reached the pine woods where people went for picnics, the
driver took a private way, shaded with willow trees on each side. Passing
through, we could see the beauty of the green grass, the grapevines, and the
many coloured flowers of Nisan just blossoming.
|
Vài ngày sau, bị cô đơn ức chế, và
chán chường những khuôn mặt buồn của sách vở, tôi thuê một cỗ xe ngựa hướng
về nơi cư ngụ của
viên ngoại Karamy. Tới khu rừng thông nơi người ta thường cắm trại, người xà ích rẽ
vào một lối đi riêng hai bên lề trồng dương liễu. Trên đường đi tôi thấy vẻ
đẹp của cỏ xanh, những ruộng nho và những đóa hoa xuân muôn màu đang khoe
sắc.
|
In a few minutes the carriage stopped before a solitary
house in the midst of a beautiful garden. The scent of roses, gardenia, and
jasmine filled the air. As I dismounted and entered the spacious garden, I
saw Farris Effandi coming to meet me. He ushered me into his house with a
hearty welcome and sat by me, like a happy father when he sees his son,
showering me with questions on my life, future and education. I answered him,
my voice full of ambition and zeal; for I heard ringing in my ears the hymn
of glory, and I was sailing the calm sea of hopeful dreams. Just then a
beautiful young woman, dressed in a gorgeous white silk gown, appeared from behind
the velvet curtains of the door and walked toward me. Farris Effandi and I
rose from our seats.
|
Vài phút sau chiếc xe ngừng trước một biệt thự đơn độc tọa
lạc giữa một hoa viên rực rỡ. Mùi hoa hồng, hoa sơn chi, và hoa nhài thoang
thoảng trong không khí. Lúc xuống xe và tiến vào khu vườn rộng tôi thấy chủ
nhân bước ra đón. Ông niềm nở dẫn tôi vào nhà rồi ngồi cạnh tôi như một người
cha mừng gặp đứa con trai đi xa về, ông không ngớt hỏi về cuộc sống, tương
lai và học vấn của tôi. Tôi trả lời ông, đầy cao vọng và nhiệt thành trong
giọng nói vì tôi nghe trong tai có tiếng hát ca ngợi vinh quang, và tôi đang
dự một hải trình trên mặt biển yên lành của những giấc mơ chứa chan hy vọng.
Ngay lúc ấy một thiếu nữ xinh đẹp, vận áo dài lụa trắng lộng lẫy, xuất hiện
từ sau tấm màn cửa bằng nhung tiến về phía tôi. Ông cụ và tôi cùng đứng dậy.
|
This is my daughter Selma,” said the old man. Then he
introduced me to her, saying, “Fate has brought back to me a dear old friend
of mine in the person of his son.” Selma stared at me a moment as if doubting
that a visitor could have entered their house. Her hand, when I touched it,
was like a white lily, and a strange pang pierced my heart.
|
Ông nói: “Đây là Selma, con gái bác”. Rồi ông giới thiệu
tôi cho nàng và nói thêm: “Số mệnh đã dun dủi giúp cha gặp lại một người bạn
cố tri do con trai ông thay mặt”. Selma nhìn tôi đăm đăm dường như không thể
ngờ rằng một người khách lạ lại có thể đến thăm nhà. Khi cầm tay nàng tôi có
cảm tưởng đó là một đóa huệ và tim tôi nhói lên một niềm đau lạ kỳ.
|
We all sat silent as if Selma had brought into the room
with her heavenly spirit worthy of mute respect. As she felt the silence she
smiled at me and said,” Many a times my father has repeated to me the stories
of his youth and of the old days he and your father spent together. If your
father spoke to you in the same way, then this meeting is not the first one
between us.”
|
Cả ba chúng tôi cùng ngồi lặng thinh, tựa hồ Selma đã đem
theo cùng nàng vào căn phòng một không khí thiêng liêng đáng âm thầm tôn
kính. Khi cảm thấy sự im lặng kéo dài, nàng mỉm cười với tôi và nói: “Cha tôi
đã nhiều lần kể cho tôi nghe những câu chuyện về thời niên thiếu
của người liên quan đến những ngày xa xưa cùng chia sẻ với cha anh. Nếu cha
anh cũng đã kể với anh những điều tương tự thì cuộc hội ngộ này không phải là
lần đầu đối với chúng ta”.
|
The old man was delighted to hear his daughter talking in
such a manner and said, “Selma is very sentimental. She sees everything
through the eyes of the spirit.” Then he resumed his conversation with care
and tact as if he had found in me a magic which took him on the wings of
memory to the days of the past.
|
Ông cụ lấy làm thích thú thấy con gái mình nói những lời
tế nhị đó, và ông bảo: “Selma rất đa cảm. Nó nhìn mọi việc qua cặp mắt tâm
linh”. Rồi ông lại tiếp nối câu chuyện với vẻ thận trọng và khéo léo, dường
như ông đã tìm thấy ở tôi một ma lực huyền bí giúp ông níu theo đôi
cánh ký ức bay trở lại những ngày quá khứ.
|
As I considered him, dreaming of my own later years, he
looked upon me, as a lofty old tree that has withstood storms and sunshine
throws its shadow upon a small sapling which shakes before the breeze of
dawn.
|
Trong khi tôi suy nghĩ về những điều ông nói, vừa thả hồn
theo những năm chính tôi mới trải qua, ông quan sát tôi như một cây cổ thụ
cao cả, đã từng chống trọi với bão táp và ánh nắng, rủ bóng mát xuống một cây
non đang run rẩy trong cơn heo may rạng đông.
|
But Selma was silent. Occasionally, she looked first at me
and then at her father as if reading the first and last chapters of life’s
drama. The day passed faster in that
garden, and I could see through the window the ghostly yellow kiss of sunset
on the mountains of Lebanon. Farris Effandi continued to recount his
experiences and I listened entranced and responded with such enthusiasm that
his sorrow was changed to happiness.
|
Selma vẫn ngồi im lặng. Thỉnh thoảng nàng nhìn tôi rồi lại
nhìn cha nàng, tựa hồ muốn đọc phần đầu và phần cuối của tấn kịch đời. Bên ngoài, thời gian trôi mau; nhìn qua
cửa sổ tôi có thể thấy nụ hôn vàng vọt ma quái của hoàng hôn trên những rặng
núi. Ông Karamy tiếp tục kể kinh nghiệm, tôi say sưa nghe và tỏ lộ hứng
thú đến nỗi sự tiếc nuối của ông biến thành niềm vui.
|
Selma sat by the window, looking on with sorrowful eyes
and not speaking, although beauty has
its own heavenly language, loftier than he voices of tongues and lips. It is
a timeless language, common to all humanity, a calm lake that attracts the
singing rivulets to its depth and makes them silent.
|
Selma ngồi bên cửa sổ, lặng lẽ nhìn với cặp mắt buồn mơ mà
chẳng hề lên tiếng; tuy nhiên cái đẹp
đã hàm chứa riêng một ngôn ngữ thiêng liêng, cao cả hơn tiếng nói thốt ra
bằng miệng lưỡi. Nó là thứ ngôn ngữ bất biến với thời gian và phổ quát trong
nhân loại, là cái hồ sâu thẳm có sức quyến rũ những nguồn nước huyên náo phải
chảy xuống tận đáy rồi lặng im.
|
Only our spirits can
understand beauty, or live and grow with it. It puzzles our minds; we are
unable to describe it in words; it is a sensation that our eyes cannot see,
derived from both the one who observes and the one who is looked upon. Real
beauty is a ray which emanates from the holy of holies of the spirit, and
illuminates the body, as life comes from the depths of the earth and gives
colour and scent to a flower.
|
Chỉ có phần tâm hồn
của chúng ta là có thể hiểu nổi cái đẹp, hoặc sống và trưởng thành với nó.
Ngược lại, nó làm trí tuệ chúng ta bối rối; vì ta không đủ khả năng diễn tả
nó bằng ngôn từ; nó là một cảm xúc mà mắt chúng ta không thể thấy,
xuất phát cả từ người quan sát lẫn người được nhìn ngắm. Cái đẹp chân chính
là một tia sáng phát sinh từ phần thiêng liêng nhất trong những phần thiêng liêng của
tâm hồn, nó soi sáng cho thể xác - tựa như cái nguồn sống đến từ lòng đất sâu
thẳm đem màu sắc và hương thơm cho một đóa hoa.
|
Real beauty lies in
the spiritual accord that is called love which can exist between a man and a
woman.
|
Cái đẹp chân chính
nằm trong sự hòa hợp tâm hồn mà người ta gọi là tình yêu, nó có thể sinh tồn
giữa hai người khác giới.
|
Did my spirit and Selma’s reach out to each other that day
when we met, and did that yearning make me see her as the most beautiful
woman under the sun? Or was I intoxicated with the wine of youth which made
me fancy that which never existed?
|
Phải chăng tâm hồn Selma và tôi đã tìm đến nhau ở buổi
hạnh ngộ đầu tiên đó, và phải chăng sự khát khao đã khiến tôi coi nàng như
người đàn bà đẹp nhất trên đời? Hay là tôi đã bị say men rượu của tuổi trẻ mà
tạo ra một ảo tưởng chẳng hề có thật?
|
Did my youth blind
my natural eyes and make me imagine the brightness of her eyes, the sweetness
of her mouth, and the grace of her figure? Or was it that her brightness,
sweetness, and grace opened my eyes and showed me the happiness and sorrow of
love?
|
Phải chăng tuổi trẻ
đã làm mờ mắt tôi, khiến tôi tưởng tượng ra vẻ tinh anh của cặp mắt nàng, vẻ
ngọt ngào của miệng nàng, và vẻ dịu dàng của hình dáng nàng? Hay là chính
vẻ tinh anh, ngọt ngào, dịu dàng của nàng đã mở mắt tôi và cho tôi thấy hạnh
phúc, cùng day dứt của tình yêu?
|
It is hard to answer these questions, but I say truly that
in that hour I felt an emotion that I had never felt before, a new affection
resting calmly in my heart, like the
spirit hovering over the waters at the creation of the world, and from that
affection was born my happiness and my sorrow. Thus ended the hour of my
first meeting with Selma, and thus the will of Heaven freed me from the
bondage of youth and solitude and let me walk in the procession of love.
|
Thật khó mà trả lời những câu hỏi này. Nhưng tôi xin thành
thật nói rằng trong giờ khắc đó tôi đã cảm thấy một mối xúc động mà từ trước
tôi chưa hề cảm thấy, một tình cảm mới
mẻ trú ngụ trong tim tôi, như phần tinh anh của đất trời lượn lờ trên mặt nước
thuở mới tạo thiên lập địa; và từ mối cảm tình đó mà hạnh phúc cùng đay dứt
đã nảy sinh trong tôi. Giờ khắc của cuộc hạnh ngộ giữa tôi và Selma đã kết thúc như thế đó;
và thế là ý muốn của đấng thiêng liêng đã giải thoát tôi khỏi tù túng của
tuổi trẻ và cô đơn, để tôi cất bước hành trình vào tình yêu.
|
Love is the only
freedom in the world because it so elevates the spirit that the laws of
humanity and the phenomena of nature do not alter its course.
|
Tình yêu là tự do
duy nhất trên thế gian bởi nó nâng cao tâm hồn đến độ những luật lệ của loài
người và những hiện tượng của thiên nhiên không làm chệch hướng đi của nó.
|
As I rose from my seat to depart, Farris Effandi came
close to me and said soberly, “Now my son, since you know your way to this
house, you should come often and feel that you are coming to your father’s
house. Consider me as a father and Selma as a sister.” Saying this, he turned
to Selma as if to ask confirmation of his statement. She nodded her head
positively and then looked at me as one who has found an old acquaintance.
|
Khi tôi đứng lên từ giã, ông Karamy tiến lại bên tôi trân
trọng nói: “Này con, con đã biết lối đến đây, vậy từ nay con hãy năng lui tới
và hãy xem như con về nhà của chính cha con. Hãy coi bác như cha và Selma như
em gái vậy”. Ông quay lại nhìn Selma như yêu cầu nàng xác nhận lời nói của
ông. Nàng gật đầu tỏ vẻ tán đồng rồi nhìn tôi như thể nàng đã tìm lại được
một người bạn cũ.
|
Those words uttered by Farris Effandi Karamy placed me
side by side with his daughter at the altar of love. Those words were a heavenly
song which started with exaltation and ended with sorrow; they raised our
spirits to the realm of light and searing flame; they were the cup from which
we drank happiness and bitterness.
|
Những lời viên ngoại Karamy vừa thốt đã đặt tôi đứng cạnh
con gái ông bên bệ thờ của tình yêu. Những lời đó đã trở thành một bài ca mở
đầu bằng phấn khởi và kết thúc trong u buồn, nó đã cất bổng tâm hồn chúng tôi
lên đến vùng hào quang cùng lửa cháy thiêu đốt; nó là chiếc bình trong đó
chúng tôi đã uống hạnh phúc cùng đẳng cay.
|
I left the house. The old man accompanied me to the edge
of the garden, while my heart throbbed like the trembling lips of a thirsty
man.
|
Tôi ra khỏi ngôi nhà. Ông cụ tiễn tôi ra cuối khu vườn,
trong khi tim tôi đập liên hồi như cặp môi run rẩy của một người đang khát
nước.
|
CHAPTER FOUR
THE WHITE TORCH
|
CHƯƠNG BỐN
NGỌN ĐUỐC TRẮNG
|
The month of Nisan had nearly passed. I continued to visit
the home of Farris Effendi and to meet Selma in that beautiful garden, gazing
upon her beauty, marvelling at her intelligence, and hearing the stillness of
sorrow. I felt an invisible hand drawing me to her.
|
Đất trời đi vào cuối xuân. Tôi tiếp
tục đến thăm ngôi nhà của viên ngoại Karamy và gặp gỡ Selma trong hoa viên,
chiêm ngưỡng nhan sắc nàng, say sưa vì sự thông minh của nàng, và nghe ra nỗi
thổn thức âm thầm. Tôi cũng cảm thấy một bàn tay vô hình kéo tôi lại gần
nàng.
|
Every visit gave me a new meaning to her beauty and a new
insight into her sweet spirit, Until she became a book whose pages I could
understand and whose praises I could sing, but which I could never finish
reading. A woman whom Providence has
provided with beauty of spirit and body is a truth, at the same time both
open and secret, which we can understand only by love, and touch only by
virtue; and when we attempt to describe such a woman she disappears like
vapour.
|
Mỗi lần gặp Selma là một lần tôi khám phá thêm một ý nghĩa
mới lạ từ nhan sắc đó, và thấu rõ thêm về vùng tâm linh dịu dàng của nàng,
đến nỗi nàng trở thành một quyển sách mà tôi có thể am tường nội dung và có
thể hát lên những lời ngợi ca ghi trong sách; nhưng không bao giờ tôi có thể
đọc hết. Một phụ nữ mà trời đã ban cho
cái đẹp của cả tâm hồn lẫn thể xác là một chân lý vừa tỏ lộ vừa bí ẩn mà
chúng ta chỉ có thể hiểu được bằng tình yêu và tiếp xúc bằng phẩm hạnh; khi
chúng ta cố công mô tả người nữ đó, nàng sẽ biến đi như mây khói.
|
Selma Karamy had bodily and spiritual beauty, but how can
I describe her to one who never knew her? Can a dead man remember the singing
of a nightingale and the fragrance of a rose and the sigh of a brook? Can a
prisoner who is heavily loaded with shackles follow the breeze of the dawn?
Is not silence more painful than death? Does pride prevent me from describing
Selma in plain words since I cannot draw her truthfully with luminous
colours? A hungry man in a desert will not refuse to eat dry bread if Heaven
does not shower him with manna and quails.
|
Selma Karamy có cả vẻ đẹp thể chất lẫn tâm hồn. Nhưng làm
sao tôi có thể mô tả nàng cho một người chưa bao giờ biết nàng? Một người
chết có thể nào nhớ được tiếng hót của một con họa mi, hương thơm của một
bông hồng, và tiếng thở than của một giòng suối? Một người tù mang nặng gông
cùm có thể nào đuổi theo cơn heo may lúc rạng đông? Phải chăng sự im lặng còn
đau buốt hơn cả cái chết? Có phải lòng kiêu hãnh không cho phép tôi mô tả
Selma bằng những ngôn từ mộc mạc, khi tôi không thể vẽ nàng trung thực bằng những
sắc màu lung linh? Một người đói trong sa mạc sẽ không từ chối chiếc bánh khô
nếu trời chẳng vung vãi xuống cho những thực phẩm ngon ngọt.
|
In her white silk dress, Selma was slender as a ray of
moonlight coming through the window. She
walked gracefully and rhythmically. Her voice was low and sweet; words fell
from her lips like drops of dew falling from the petals of flowers when they
are disturbed by the wind.
|
Trong váy lụa trắng, trông Selma tha thướt như một ánh trăng
soi qua cửa sổ. Nàng cất bước thật
khoan thai dịu dàng. Giọng nàng sao mà êm ái ngọt ngào, lời nói thốt ra từ
đôi môi nàng chẳng khác chi những hạt sương nhỏ từ những cánh hoa đong đưa
trong gió.
|
But Selma’s face! No words can describe its expression,
reflecting first great internal suffering, then heavenly exaltation.
|
Còn gương mặt Selma nữa! Không lời lẽ nào có thể mô tả
được sự biểu lộ của gương mặt đó, thoạt tiên là phản ảnh nỗi day dứt nội tâm,
rồi đến vẻ thoát tục tuyệt trần.
|
The beauty of Selma’s face was not classic; it was like a
dream of revelation which cannot be measured or bound or copied by the brush
of a painter or the chisel of a sculptor. Selma’s beauty was not in her golden hair, but in the virtue of
purity which surrounded it; not in her large eyes, but in the light which
emanated from them; not in her red lips, but in the sweetness of her words;
not in her ivory neck, but in its slight bow to the front. Nor was it in her
perfect figure, but in the nobility of her spirit, burning like a white torch
between earth and sky.
|
Vẻ đẹp ở gương mặt Selma không phải là nét đẹp cổ điển; nó
giống như một giấc mộng mở ra, không thể đo lường, gò bó hay sao chép lại
bằng ngọn bút của họa sĩ hay cái đục của nhà điêu khắc. Vẻ đẹp của Selma không phải ở mái tóc vàng của nàng, nhưng ở cái tinh
hoa và tinh khiết vây phủ chung quanh làn tóc; không phải trong đôi mắt to
của nàng mà ở tinh anh từ đó chiếu ra; không phải ở đôi môi hồng mà ở vị ngọt
ngào của lời nói. Không phải ở chiếc cổ ngà mà ở vẻ thanh thoát nghiêng
nghiêng về phía trước. Cũng chẳng phải ở tấm thân toàn hảo của nàng mà ở sự
cao đẹp của tâm hồn nàng, cháy sáng như một ngọn lửa thiêng giữa đất trời.
|
Her beauty was like a gift of
poetry. But poets care unhappy people, for, no matter how high their spirits
reach, they will still be enclosed in an envelope of tears.
|
Vẻ đẹp của nàng như một tặng phẩm của thi ca. Nhưng thi sĩ
là những kẻ bất hạnh; bởi, dù cho tâm hồn vươn cao tới đâu đi nữa, họ vẫn bị
vây tỏa trong một vòng nước mắt.
|
Selma was deeply thoughtful rather than talkative, and her
silence was a kind of music that carried one to a world of dreams and made
him listen to the throbbing of his heart, and see the ghosts of his thoughts
and feelings standing before him, looking him in the eyes.
|
Selma thường trầm tư chứ không hay nói; và sự im lặng của
nàng là một thứ âm nhạc đưa ta đến cõi mộng, khiến ta nghe được tiếng đập của
con tim, thấy những bóng ma của tư tưởng và cảm giác ta đứng sững nhìn thẳng
vào mắt ta.
|
She wore a cloak of deep sorrow through her life, which
increased her strange beauty and dignity, as a tree in blossom is more lovely
when seen through the mist of dawn.
|
Nàng khoác một tấm áo choàng dệt bằng u sầu để đi qua cuộc
đời, nó càng tăng thêm vẻ đẹp dị thường và nhân cách nàng, tựa như một cây
trổ đầy hoa càng đáng yêu thêm khi nhìn qua lớp sương mai.
|
Sorrow linked her spirit and mine, as if each saw in the
other’s face what the heart was feeling and heard the echo of a hidden voice.
God had made two bodies in one, and separation could be nothing but agony.
|
Chính nỗi u sầu day dứt đã ràng buộc tâm hồn chúng tôi,
tựa hồ người này nhìn thấy trên nét mặt người kia những gì trái tim đang cảm
và nghe ra dư âm của một tiếng nói bí ẩn từ chốn không tên. Trời đã tạo hai
nhân thể trong một, và sự chia lìa chẳng phải gì khác hơn là một hành hạ cực
kỳ đớn đau.
|
The sorrowful spirit
finds rest when united with a similar one. They join affectionately, as a
stranger is cheered when he sees another stranger in a strange land. Hearts
that are united through the medium of sorrow will not be separated by the
glory of happiness. Love that is cleansed by tears will remain externally
pure and beautiful.
|
Một tâm hồn buồn
thảm tìm thấy nơi nương tựa khi kết hợp với một cung đàn đồng điệu: Họ thân
ái cùng nhau xum vầy, như một khách tha hương cảm thấy hân hoan khi gặp một
khách tha hương khác trong một xứ lạ. Những trái tim kết hợp qua trung gian sầu não u
buồn sẽ không thể bị chia rẽ vì huy hoàng của hạnh phúc. Tình yêu một khi
được tẩy gội bằng nước mắt sẽ tinh khiết và cao đẹp mãi mãi.
|
CHAPTER FIVE
THE TEMPEST
|
CHƯƠNG 5
CƠN PHONG BA
|
One day Farris Effandi invited me to dinner at his home. I
accepted, my spirit hungry for the divine bread which Heaven placed in the
hands of Selma, the spiritual bread which makes our hearts hungrier the more
we eat of it. It was this bread which Kais, the Arabian poet, Dante, and
Sappho tasted and which set their hearts afar; the bread which the Goddess
prepares with the sweetness of kisses and the bitterness of tears.
|
Một hôm viên ngoại mời tôi đến nhà
ăn cơm chiều. Tôi nhận lời, tâm hồn khao khát những chiếc bánh thiêng liêng
mà trời đã đặt trong đôi tay Selma. Những chiếc bánh tinh thần càng ăn nhiều
tim ta càng thấy đói. Các nhà thơ Kais, Dante, Sappho đã từng nếm chính những
chiếc bánh này, và chúng đã đốt cháy tim họ; những chiếc bánh do tay tiên làm
bằng mật ngọt của nụ hôn và chất đắng của nước mắt.
|
As I reached the home of Farris Effandi, I saw Selma
sitting on a bench in the garden resting her head against a tree and looking
like a bride in her white silk dress, or like a sentinel guarding that place.
|
Khi tới nơi, tôi thấy Selma đang ngồi trên ghế trong hoa
viên đầu dựa vào thân cây, trông nàng như một cô dâu trong chiếc váy lụa trắng.
|
Silently and reverently I approached and sat by her. I
could not talk; so I resorted to silence, the only language of the heart, but
I felt that Selma was listening to my wordless call and watching the ghost of
my soul in my eyes.
|
Tôi lặng lẽ và trang trọng tiến lại ngồi bên nàng. Tôi
không cất tiếng nói nên tôi ẩn mình trong im lặng - thứ ngôn ngữ độc nhất của
con tim - nhưng tôi cảm thấy Selma đang lắng nghe tiếng gọi vô ngôn của tôi
và đang ngắm nhìn bóng dáng linh hồn tôi trong đôi mắt tôi.
|
In a few minutes the old man came out and greeted me as
usual. When he stretched his hand toward me, I felt as if he were blessing
the secrets that united me and his daughter. Then he said, “Dinner is ready,
my children; let us eat”. We rose and followed him, and Selma’s eyes
brightened; for a new sentiment had been added to her love by her father’s
calling us his children.
|
Một lát sau ông cụ đi ra chào đón tôi như thường lệ. Khi
ông dang tay về phía tôi, tôi cảm thấy như ông ban phép lành cho những điều
bí ẩn đã kết họp tôi và con gái ông. Rồi ông bảo: “Cơm đã dọn rồi, các con
ơi, vào ăn đi thôi!” Chúng tôi đứng dậy đi theo ông, và mắt Selma long lanh
vì khi gọi chúng tôi là “Các con” cha nàng đã gieo vào tình yêu nàng một tình
cảm mới.
|
We sat at the table enjoying the food and sipping the old
wine, but our souls were living in a world far away. We were dreaming of the
future and its hardships.
|
Chúng tội ngồi vào bàn thưởng thức những món ăn ngon và
nhấm nháp rượu nho đã ủ lâu ngày, nhưng chúng tôi đang thả hồn đến một thế
giới xa vời. Chúng tôi đang mơ đến tương lai và những trở ngại có thể xảy ra.
|
Three persons were separated in thoughts, but united in
love; three innocent people with much feeling but little knowledge; a drama
was being performed by an old man who loved his daughter and cared for her
happiness, a young woman of twenty looking into the future with anxiety, and
a young man, dreaming and worrying, who had tasted neither the wine of life
nor its vinegar, and trying to reach the height of love and knowledge but
unable to life himself up. We three sitting in twilight were eating and
drinking in that solitary home, guarded by Heaven’s eyes, but at the bottoms
of our glasses were hidden bitterness and anguish.
|
Ba người với ba tâm trạng, nhưng kết nối trong tình yêu.
Ba con người trong sạch vô tội giàu cảm xúc nhưng ít tri thức. Một bi kịch đang diễn ra
với một ông lão yêu thương, lo lắng cho con gái, một thiếu nữ hai mươi đang
ưu tư nhìn về tương lai, và một chàng trai vừa mộng mơ vừa e ngại; chàng ta
chưa được nếm cả men rượu ngọt lẫn vị giấm chua của cuộc đời; và chàng đang
gắng sức vươn lên tuyệt đỉnh của tình yêu và tri thức, nhưng lại chẳng tự
mình cất bổng lên được. Chúng tôi ngồi trong hoàng hôn, dùng bữa trong ngôi
nhà hiu quạnh được trời che chở; nhưng tận cùng đáy cốc của chúng tôi,
đắng cay và thổng khổ đang nằm chờ.
|
As we finished eating, one of the maids announced the
presence of a man at the door who wished to see Farris Effandi. “Who is he?”
asked the old man. “The Bishop’s messenger,” said the maid. There was a
moment of silence during which Farris Effandi stared at his daughter like a
prophet who gazes at Heaven to divine its secret. Then he said to the maid,
“Let the man in.”
|
Chúng tôi vừa xong bữa thì một người tớ gái vào báo rằng
có người muốn gặp viên ngoại. Ông cụ hỏi: “Ai vậy?” Người tớ gái thưa: “Dạ
phái viên của Đức Giám mục”. Trong một khoảnh khắc câm lặng viên ngoại chăm
chú nhìn con gái như
nhà tiên tri lặng ngắm trời cao để đoán tìm bí ẩn. Rồi ông bảo người tớ gái:
“Bảo ông ấy vào”.
|
As the maid left, a man, dressed in oriental uniform and
with big moustache curled at the ends, entered and greeted the old man,
saying “His Grace, the Bishop, has sent me for you with his private carriage;
he wishes to discuss important business with you.” The old man’s face clouded
and his smile disappeared. After a moment of deep thought he came close to me
and said in a friendly voice, “I hope to find you here when I come back, for Selma
will enjoy your company in this solitary place.”
|
Sau đó một người trang phục kiểu Đông phương để ria
mép rậm, quăn hai đầu
tiến vào, chào ông cụ và nói: “Ngài Giám mục sai tôi đem xe ngựa riêng đến
rước cụ; Đức Cha muốn bàn với cụ một việc quan trọng”. Ông cụ sa sầm nét mặt
và nụ cười bỗng tắt trên môi. Sau một lúc trầm ngâm, ông lại gần tôi thân mật
bảo: “Bác mong con ở đây đến lúc bác về, Selma hẳn sẽ an tâm nếu có con bên
cạnh trong ngôi nhà
hiu quạnh này”.
|
Saying this, he turned to Selma and, smiling, asked if she
agreed. She nodded her head, but her cheeks became red, and with a voice
sweeter than the music of the lyre she said, “I will do my best, Father, to
make our guest happy.”
|
Khi thốt những lời trên đây ông quay nhìn Selma mỉm cười
như hỏi ý nàng. Nàng gật đầu nhưng đôi má ửng đỏ; và với giọng nói ngọt ngào hơn
cả tiếng đàn lia, nàng đáp: “Thưa cha, con sẽ cố gắng làm hài lòng khách
quý”.
|
Selma watched the carriage that had taken her father and
the Bishop’s messenger until it disappeared. Then she came and sat opposite
me on a divan covered with green silk. She looked like a lily bent to the
carpet of green grass by the breeze of dawn. It was the will of Heaven that I
should be with Selma alone, at night, in her beautiful home surrounded by
trees, where silence, love, beauty and virtue dwelt together.
|
Selma nhìn theo chiếc xe chở cha nàng cho đến khi khuất
dạng. Rồi nàng tới ngồi đối diện tôi trên chiếc trường kỷ bọc lụa màu lục.
Trông nàng như một bông huệ bị cơn heo may buổi sớm thổi dạt xuống thảm cỏ
xanh. Trời muốn tôi một mình ở cạnh Selma trong đêm tối trông căn nhà tráng
lệ có cây cối vây quanh, ở đó sự tịch mịch, tình yêu, cái đẹp, và phẩm hạnh
cùng cư ngụ.
|
We were both silent,
each waiting for the other to speak, but speech is not the only means of
understanding between two souls. It is not the syllables that come from the
lips and tongues that bring hearts together.
|
Hai chúng tôi đều im
lặng, người nọ chờ người kia lên tiếng. Tuy nhiên, ngôn ngữ chẳng phải là
phương tiện duy nhất giúp hai linh hồn thông cảm. Đâu phải những âm thanh
phát ra từ miệng lưỡi kết hợp những con tim.
|
There is something
greater and purer than what the mouth utters. Silence illuminates our souls,
whispers to our hearts, and brings them together. Silence separates us from
ourselves, makes us sail the firmament of spirit, and brings us closer to
Heaven; it makes us feel that bodies are no more than prisons and that this
world is only a place of exile.
|
Có một cái gì vĩ
đại, thanh khiết hơn những điều từ cửa miệng thốt ra. Sự im lặng soi sáng tâm
linh chúng ta; thì thầm với những con tim và đem chúng đến gần nhau. Sự im
lặng làm ta tách khỏi chính bản ngã, giúp ta du hành trong vũ trụ tâm linh,
và đem ta đến gần trời; nó khiến ta cảm thấy rằng thân xác không khác chi
ngục tù, rằng thế gian này chỉ là chốn lưu đày.
|
Selma looked at me and her eyes revealed the secret of her
heart. Then she quietly said, “Let us go to the garden and sit under the
trees and watch the moon come up behind the mountains.” Obediently I rose
from my seat, but I hesitated.
|
Selma nhìn tôi đăm đăm, đôi mắt nàng bộc lộ điều bí ẩn
trong tim. Rồi nàng bình thản nói: “Chúng ta hãy ra ngoài vườn ngồi dưới gốc
cây để ngắm trăng lên sau dãy núi”. Tôi ngoan ngoãn đứng dậy, nhưng rồi do
dự.
|
Don’t you think we had better stay here until the moon has
risen and illuminates the garden?” And I continued, “The darkness hides the
trees and flowers. We can see nothing.” Then she said, “If darkness hides the trees and flowers from our eyes, it will not
hide love from our hearts.”
|
Tôi bảo nàng: “Tôi tưởng chúng ta nên ngồi đây cho đến lúc
trăng lên soi sáng khu vườn. Vì bóng tối che khuất cảnh vật, chúng ta chẳng
trông thấy gì cả”.
Nàng đáp: “Nếu bóng
tối che khuất cảnh vật đối với mắt chúng ta, nó không che nổi tình yêu trong
tim chúng ta”.
|
Uttering these words in a strange tone, she turned her
eyes and looked through the window. I remained silent, pondering her words,
weighing the true meaning of each syllable. Then she looked at me as if she
regretted what she had said and tried to take away those words from my ears
by the magic of her eyes. But those eyes, instead of making me forget what
she had said, repeated through the depths of my heart more clearly and
effectively the sweet words which had already become graven in my memory for
eternity.
|
Khi thốt những lời này bằng giọng khác lạ, nàng quay nhìn
ra cửa sổ. Tôi giữ im lặng suy nghĩ về những lời nàng nói, cân nhắc ý nghĩa
trung thực của từng tiếng. Lúc đó nàng nhìn tôi chăm chú, như thể hối tiếc đã
nói ra những lời đó, và cố gắng cướp lại chúng khỏi tay tôi bằng ma thuật
trong mắt nàng. Nhưng đôi mắt đó, thay vì làm tôi quên những lời nàng vừa
nói, lặp lại trong đáy tim tôi - rõ ràng và hiệu quả hơn - những lời ngọt
ngào mà từ giờ phút đó đã khắc sâu trong tâm khảm tôi ngàn đời.
|
Every beauty and
greatness in this world is created by a single thought or emotion inside a
man. Every thing we see today, made by past generation, was, before its
appearance, a thought in the mind of a man or an impulse in the heart of a
woman. The
revolutions that shed so much blood and turned men’s minds toward liberty
were the idea of one man who lived in the midst of thousands of men. The
devastating wars which destroyed empires were a thought that existed in the
mind of an individual. The supreme
teachings that changed the course of humanity were the ideas of a man whose
genius separated him from his environment. A single thought build the
Pyramids, founded the glory of Islam, and caused the burning of the library
at Alexandria.
|
Mọi cái đẹp và vĩ
đại trên thế giới đều được khai sinh do một tư tưởng hay cảm xúc đơn sơ nảy
nở trong một con người. Mỗi vật chúng ta trông thấy hôm nay - tạo bởi những
thế hệ đã qua - trước khi xuất hiện đều là một tư tưởng trong trí tuệ người nam, hoặc một cảm xúc
trong tâm hồn một người nữ. Những
cuộc cách mạng đổ rất nhiều máu và hướng tâm trí con người về tự do là tư
tưởng một người sống hòa trong muôn ngàn người khác. Những trận chiến tranh
tàn khốc hủy hoại những đế quốc là tư tưởng phát khởi trong trí óc của những
cá nhân. Những triết lý cao siêu đã
thay đổi hướng đi của nhân loại là tư tưởng của một người mà thiên tài đã
tách họ khỏi những người chung quanh. Một tư tưởng đơn sơ đã dựng nên Kim tự tháp, đặt nền móng
cho sự huy hoàng của Hồi giáo, và thiêu hủy thư viện thành Alexandrie.
|
One thought will come to you at night which will elevate
you to glory or lead you to asylum. One
look from a woman’s eye makes you the happiest man in the world. One word
from a man’s lips will make you rich or poor.
|
Một tư tưởng đến với bạn vào một đêm nào đó sẽ, hoặc nâng
bạn lên tới vinh quang, hoặc dẫn bạn đến chỗ mất
trí. Một cái nhìn của một người nữ có thể khiến bạn trở
thành người hạnh
phúc nhất thế gian. Một lời nói của một người nào đó sẽ làm bạn giàu
lên hay nghèo
đi.
|
That word which Selma
uttered that night arrested me between my past and future, as a boat which is
anchored in the midst of the ocean. That word awakened me from the slumber of
youth and solitude and set me on the stage where life and death play their
parts.
|
Lời nói mà Selma đã
thốt ra trong đêm đó đã giữ tôi đứng lại giữa quá khứ và tương lai, như một
con thuyền bỏ neo giữa đại dương. Lời nói đó đã thức tỉnh tôi từ mê muội của
tuổi trẻ và cô đơn, và đã đặt tôi đứng trên sân khấu nơi sự sống và cái chết
là những diễn viên.
|
The scent of flowers
mingled with the breeze as we came into the garden and sat silently on a
bench near a jasmine tree, listening to the breathing of sleeping nature,
while in the blue sky the eyes of heaven witnessed our drama.
|
Hương thơm của cỏ hoa
quyện heo làn gió nhẹ khi chúng tôi bước ra vườn, ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế dài cạnh một
cây hoa nhài, lắng nghe tiếng thở của thiên nhiên đang say giấc; trong khi
trên không trung xanh thẳm, trời cao chứng kiến tấn bi kịch của chúng tôi.
|
The moon came out from behind Mount Sunnin and shone over
the coast, hills, and mountains; and we could see the villages fringing the
valley like apparitions which have suddenly been conjured from nothing. We
could see the beauty of Lebanon under the silver rays of the moon.
|
Trăng lên sau dãy núi Sunnin soi sáng cả bờ biển và núi
đồi. Chúng tôi trông thấy làng mạc rải rác trong thung lũng như những hiện
tượng siêu nhiên đột ngột xuất hiện từ hư vô. Chúng tôi có thể thấy vẻ đẹp
của toàn cõi Liban dưới ánh trăng bàng bạc.
|
Poets of the West think of Lebanon as a legendary place,
forgotten since the passing of David and Solomon and the Prophets, as the
Garden of Eden became lost after the fall of Adam and Eve. To those Western
poets, the word “Lebanon” is a poetical expression associated with a mountain
whose sides are drenched with the incense of the Holy Cedars. It reminds them
of the temples of copper and marble standing stern and impregnable and of a
herd of deer feeding in the valleys. That night I saw Lebanon dream-like with
the eyes of a poet.
|
Các thi sĩ Tây phương coi Liban như một xứ nằm trong huyền
sứ, bị lãng quên sau thời đại của những vua David, Salomon và các bậc tiên
tri, cũng như vườn Địa đàng đã mất tích sau cuộc đổ vỡ của Adam và Eve. Đối
với họ chữ “Liban” là một từ ngữ thi ca đồng nghĩa với một dãy núi mà hai bên
sườn thơm nức bách hương. Nó gợi trong trí họ hình ảnh những đền đài bằng
đồng và cẩm thạch đứng uy nghi thách đố thời gian, và một đàn nai chạy đùa
trong thung lũng. Buổi tối hôm đó tôi nhìn Liban như cảnh thần tiên mộng ảo
bằng cặp mắt của thi nhân.
|
Thus, the appearance
of things changes according to the emotions, and thus we see magic and beauty
in them, while the magic and beauty are really in ourselves.
|
Ngoại diện của mọi
vật đổi thay tùy theo cảm xúc của chúng ta, bởi vậy có lúc chúng ta thấy sự
huyền ảo và mỹ lệ ở cảnh vật trong khi kỳ thật chúng nằm trong chính con
người chúng ta.
|
As the rays of the moon shone on the face, neck, and arms
of Selma, she looked like a statue of ivory sculptured by the fingers of some
worshiper of Ishtar, goddess of beauty and love. As she looked at me, she
said, “Why are you silent? Why do you not tell me something about your past?”
As I gazed at her, my muteness vanished, and I opened my lips and said, “Did you
not hear what I said when we came to this orchard? The spirit that hears the
whispering of flowers and the singing of silence can also hear the shrieking
of my soul and the clamour of my heart.”
|
Khi ánh trăng chiếu trên mặt, trên cổ, và trên cánh tay
Selma, trông nàng giống một pho tượng ngà do bàn tay một tín đồ của Ishtar,
nữ thần sắc đẹp và tình yêu, điêu khắc. Nhìn tôi nàng nói: “Tại sao anh im
lặng? Sao anh không kể cho em nghe chuyện gì về quá khứ của anh?” Khi đăm đăm
nhìn nàng, sự câm nín trong tôi tan biến, và tôi trả lời: “Khi anh đến khu
vườn này em đã chẳng nghe thấy những gì anh nói sao? Một tâm linh nghe được
cả tiếng thì thầm của loài hoa và khúc ca của im vắng hẳn cũng nghe thấy tiếng
gào của hồn anh và tiếng thét của tim anh”.
|
She covered her face with her hands and said in a
trembling voice, “Yes, I heard you – I
heard a voice coming from the bosom of night and a clamour raging in the
heart of the day.”
|
Nàng lấy tay che mặt run rẩy trả lời tôi: “Vâng, em đã nghe anh - em nghe thấy tiếng nói phát ra từ lòng đêm thâu và tiếng gào thét giữa tim ban
ngày”.
|
Forgetting my past, my very existence – everything but
Selma – I answered her, saying, “And I heard you, too, Selma. I heard exhilarating
music pulsing in the air and causing the whole universe to tremble.”
|
Tôi quên hết cả quá khứ, ngay cả sự hiện hữu của tôi - tất
cả, trừ Selma - tôi trả lời nàng: “Và anh cũng nghe em, Selma ạ. Anh nghe
thấy khúc hoan ca chan hòa trong không trung, khiến cả vũ trụ phải run
rẩy”.
|
Upon hearing these words, she closed her eyes and her lips
I saw a smile of pleasure mingled with sadness. She whispered softly, “Now I know that there is something
higher than heaven and deeper than the ocean and stranger than life and death
and time. I know now what I did not know before.”
|
Nghe tôi nói những lời này nàng khép mắt lại, trên môi
điểm một nụ cười nửa vui nửa buồn. Nàng thì thầm: “Bây giờ em biết rằng trên đời còn có một cái cao hơn trời xanh, sâu
hơn biển cả, lạ hơn sống chết và thời gian... Giờ đây em mới biết những điều
trước kia em chưa hề tưởng đến”.
|
At that moment Selma
became dearer than a friend and closer than a sister and more beloved than a
sweetheart. She became a supreme thought, a beautiful, an overpowering
emotion living in my spirit.
|
Trong giây phút đó,
đối với tôi Selma trở nên thân hơn một người bạn, gần hơn một người em gái và
đáng yêu hơn một bạn lòng. Nàng trở thành một tư tưởng tối thượng, một giấc
mộng tuyệt vời, một cảm xúc mãnh liệt sống động trong tâm hồn tôi.
|
It is wrong to think
that love comes from long companionship and persevering courtship. Love is
the offspring of spiritual affinity and unless that affinity is created in a
moment, it will not be created in years or even generations.
|
Không đúng nếu cho rằng tình yêu
đến bằng tình bạn lâu dài và sự theo đuổi bền bĩ. Tình yêu nảy nở từ
sức hút tâm hồn và nếu sức
hút đó không được tạo ra trong khoảnh khắc, nó không thể được
tạo ra trong nhiều năm hay nhiều thế hệ.
|
Then Selma raised her head and gazed at the horizon where
Mount Sunnin meets the sky, and said, “Yesterday you were like a brother to
me, with whom I lived and by whom I sat calmly under my father’s care. Now, I
feel the presence of something stranger and sweeter than brotherly affection,
an unfamiliar commingling of love and fear that fills my heart with sorrow
and happiness.”
|
Selma ngước nhìn về phía chân mây, nơi núi Sunnin tiếp bầu
trời và nói: “Hôm qua đối với em, anh giống như một người anh mà em đã sống
gần gũi và bình yên dưới sự săn sóc của cha. Giờ đây em cảm
thấy có một tình cảm kỳ lạ, ngọt ngào hơn cả tình anh em, một sự cấu kết lạ
lùng giữa tình yêu và nỗi sợ, làm tim em vừa tràn đầy hạnh phúc vừa day dứt
khôn cùng”.
|
I responded, “This
emotion which we fear and which shakes us when it passes through our hearts
is the law of nature that guides the moon around the earth and the sun around
the God.”
|
Tôi trả lời: “Mối
cảm xúc làm ta lo sợ, lay chuyển ta khi nó chạy qua tim, chính là luật thiên
nhiên dẫn mặt trăng chạy vòng trái đất, và mặt trời chạy vòng trời cao”.
|
She put her hand on my head and wove her fingers through
my hair. Her face brightened and tears came out of her eyes like drops of dew
on the leaves of a lily, and she said, “Who would believe our story – who
would believe that in this hour we have surmounted the obstacles of doubt?
Who would believe that the month of Nisan which brought us together for the
first time, is the month that halted us in the Holy of Holies of life?”
|
Nàng đặt tay lên đầu tôi và đan các ngón trong tóc. Mặt
nàng rạng rỡ, nhưng nước mắt tuôn như sương rơi trên cánh huệ. Nàng nói: “Ai
có thể tin được chuyện tình chúng mình - ai tin được rằng trong giờ phút này
chúng mình đã chế ngự được hoài nghi ngăn trở, rằng chính trong tháng này
giữa mùa xuân chúng mình gặp nhau lần đầu cũng là lúc chúng mình dừng chân
trong chốn thiêng liêng nhất của cuộc đời?”
|
Her hand was still
on my head as she spoke, and I would not have preferred a royal crown or a
wreath of glory to that beautiful smooth hand whose fingers were twined in my
hair.
|
Nàng vẫn đặt tay
trên đầu tôi khi nói, và tôi sẵn sàng gạt bỏ một chiếc vương miện hay một
vòng hoa vinh quang để đổi lấy bàn tay mềm xinh thon thon búp tháp kia đang
đan dệt tóc tôi.
|
Then I answered her: “People will not believe our story
because they do not know what love is
the only flower that grows and blossoms without the aid of seasons, but
was it Nisan that brought us together for the first time, and is it this hour
that has arrested us in the Holy of Holies of life? Is it not the hand of God that brought our souls close together
before birth and made us prisoners of each other for all the days and nights?
Man’s life does not commence in the womb and never ends in the grave; and
this firmament, full of moonlight and stars, is not deserted by loving souls
and intuitive spirits.”
|
Tôi trả lời nàng: “Thiên hạ sẽ không tin chuyện tình của
chúng ta vì họ không biết rằng tình
yêu là loài hoa duy nhất sinh trưởng và trổ bông không cần sự trợ giúp của
tiết mùa. Nhưng phải chăng mùa xuân đã đem ta đến gần nhau lần đầu, và có
phải đây là giờ phút chúng ta dừng chân trong chốn thiêng liêng nhất của cuộc
đời? Phải chăng bàn tay trời đã đưa
hồn ta đến gần nhau trước khi chúng ta chào đời và đã an bài cho chúng ta
thành tù nhân của nhau đến thiên thu? Đời người không khởi đầu tự lòng mẹ và
không tận cùng trong nấm mồ. Bầu trời này, tràn đầy ánh trăng với muôn vì sao, không bị hoang vắng
bởi những linh hồn
yêu đương và những tâm linh trực giác”.
|
As she drew her hand
away from my head, I felt a kind of electrical vibration at the roots of my
hair mingled with the night breeze. Like a devoted worshiper who receives his
blessing by kissing the altar in a shrine, I took Selma’s hand, placed my burning
lips on it, and gave it a long kiss, the memory of which melts my heart and
awakens by its sweetness all the virtue of my spirit.
|
Khi bàn tay Selma
rút khỏi đầu tôi, tôi cảm thấy một rung cảm như có điện ở chân tóc hòa với
gió mây ban đêm. Như một kẻ tín mộ nhận ân điển qua chiếc hôn trên bệ thánh,
tôi cầm tay Selma đặt lên đó đôi môi nóng bỏng và hôn thật lâu. Giờ đây hồi
tưởng cái hôn đó tim tôi đập mạnh như muốn tan đi, và vị ngọt của nụ hôn thức
tỉnh mọi phẩm hạnh trong hồn tôi.
|
An hour passed, every minute of which was a year of love.
The silence of the night, moonlight, flowers, and trees made us forget all
reality except love, when suddenly we heard the galloping of horses and
rattling of carriage wheels. Awakened from our pleasant swoon and plunged
from the world of dreams into the world of perplexity and misery, we found
that the old man had returned from his mission. We rose and walked through
the orchard to meet him.
|
Một giờ trôi qua, mỗi phút là một năm trường tình yêu. Đêm
im trăng sáng, hoa lá cỏ cây làm chúng tôi quên tất cả thực tại chỉ còn tình
yêu; chính lúc ấy chúng tôi nghe tiếng vó ngựa và tiếng bánh xe nghiến mặt
đường. Thức giấc trong cơn mê hoan, bàng hoàng từ cõi mộng sang cõi ưu phiền,
chúng tôi thấy cha già đã trở về. Selma cùng tôi đứng lên đi qua vườn cây để
gặp người.
|
|
|
Then the carriage reached the entrance of the garden,
Farris Effandi dismounted and slowly walked towards us, bending forward slightly
as if he were carrying a heavy load. He approached Selma and placed both of
his hands on her shoulders and stared at her. Tears coursed down his wrinkled
cheeks and his lips trembled with sorrowful smile. In a choking voice, he
said, “My beloved Selma, very soon you will be taken away from the arms of
your father to the arms of another man. Very soon fate will carry you from
this lonely home to the world’s spacious court, and this garden will miss the
pressure of your footsteps, and your father will become a stranger to you.
All is done; may God bless you.”
|
Khi cỗ xe vào đến lối đi trong vườn, viên ngoại xuống xe
và bước chậm chậm về phía chúng tôi, người hơi cúi về đằng trước tựa hồ ông
đang vác một gánh nặng. Đến gần Selma ông đặt hai tay trên vai nàng và nhìn
nàng đăm đăm, nước mắt ông rơi lã chã xuống đôi má nhăn, đôi môi run rẩy
trong nụ cười buồn gượng gạo. Ông nghẹn ngào nói: “Selma yêu quý của cha,
chẳng bao lâu nữa con sẽ lìa tay cha sang tay người khác. Số mệnh sắp đem con
ra khỏi ngôi nhà hiu quạnh này để đi vào trường đời bao la; và khu vườn này
sẽ nhớ bước chân con, cha sẽ trở thành một kẻ xa lạ đối với con. Mọi sự đã an
bài; cầu trời phù hộ cho con”.
|
Hearing these words, Selma’s face clouded and her eyes
froze as if she felt a premonition of death. Then she screamed, like a bird
shot down, suffering, and trembling, and in a choked voice said, “What do you
say? What do you mean? Where are you sending me?”
|
Khi nghe những lời này, nét mặt Selma tối sầm và mắt nàng
giá băng như nàng cảm thấy một điểm chết. Rồi nàng gào khóc, như một con chim
trúng tên, đau đớn, run rẩy; và nàng nói trong nghẹn uất: “Cha nói gì thế?
Cha bảo sao? Cha định đưa con đi đâu?”
|
Then she looked at him searchingly, trying to discover his
secret. In a moment she said, “I understand. I understand everything. The
Bishop has demanded me from you and has prepared a cage for this bird with
broken wings. Is this your will, Father?”
|
Rồi nàng nhìn cha một cách dò xét, cố tìm ra bí ẩn. Một
lát nàng nói: “Con hiểu. Con hiểu tất cả rồi. Đây là ý muốn Đức Giám mục và
ngài đã chuẩn bị sẵn một chiếc lồng để nhốt con chim với đôi cánh gẫy này. Có
phải đó cũng là ý cha không, cha ơi?”
|
His answer was a deep sigh. Tenderly he led Selma into the
house while I remained standing in the garden, waves of perplexity beating
upon me like a tempest upon autumn leaves. Then I followed them into the
living room, and to avoid embarrassment, shook the old man’s hand, looked at
Selma, my beautiful star, and left the house.
|
Câu trả lời của ông cụ là một tiếng thở dài não nề. Ông
nhẹ dắt Selnia đi vào nhà trong, còn tôi vẫn đứng sững ngoài vườn, những ngọn
sóng ưu phiền dồn dập đập vào tôi như bão tố trên lá thu. Rồi tôi theo hai
người vào phòng khách; và để tránh bối rối, tôi bắt tay ông cụ, lặng nhìn
Selma - vì sao đẹp của tôi - và bước ra khỏi ngôi nhà.
|
As I reached the end of the garden I heard the old man
calling me and turned to meet him. Apologetically he took my hand and said,
“Forgive me, my son. I have ruined your evening with the shedding of tears,
but please come to see me when my house is deserted and I am lonely and
desperate. Youth, my dear son, does not combine with senility, as morning
does not have meet the night; but you will come to me and call to my memory
the youthful days which I spent with your father, and you will tell me the
news of life which does not count me as among its sons any longer. Will you
not visit me when Selma leaves and I am left here in loneliness?”
|
Khi đã đến cuối vườn tôi nghe ông cụ gọi và quay lại gặp
ông. Ông cầm tay tôi như tạ lỗi và nói: “Xin con hãy tha lỗi cho bác. Bác đã
làm con mất vui vì nước mắt đã chảy. Nhưng mong con hãy đến thăm bác khi nhà
này vắng lặng, khi bác cô đơn và sống trong vô vọng. Con trai yêu quý của ta
ơi, tuổi trẻ không hòa hợp với già nua như bình minh không gặp đêm tối. Nhưng
con sẽ đến với bác để nhắc nhở bác những ngày thanh xuân mà bác đã sống cùng
cha con, và con sẽ cho bác biết những sự việc mới lạ trong cuộc đời giờ đây
không còn nhận bác trong đám con cái của nó nữa. Con có đến thăm bác nữa hay
không, khi Selma đã rời nơi đây, và bác bị bỏ rơi trong cô quạnh?”
|
While he said these sorrowful words and I silently shook
his hand, I felt the warm tears falling from his eyes upon my hand. Trembling
with sorrow and filial affection. I felt as if my heart were choked with
grief. When I raised my head and he saw the tears in my eyes, he bent toward
me and touched my forehead with his lips. “Good-bye, son, Good-bye.”
|
Tôi lặng lẽ nắm tay ông khi ông thốt những lời buồn thảm
đó. Tôi cảm thấy trên tay tôi đọng những giọt nước mắt từ mắt ông rơi xuống.
Run rẩy trong đớn đau và cảm thấy một mối cảm tình như tình phụ tử, tôi thấy
tim mình như tắc nghẹn những ưu phiền. Khi tôi ngẩng đầu lên, ông thấy mắt
tôi nhòa lệ và cúi đặt môi trên trán tôi: “Tạm biệt con. Thôi, tạm biệt”.
|
In old man’s tear is more potent than that of a young man
because it is the residuum of life in his weakening body. A young man’s tear
is like a drop of dew on the leaf of a rose, while that of an old man is like
a yellow leaf which falls with the wind at the approach of winter.
|
Nước mắt của một ông lão hàm chứa nhiều nhiệt tình hơn của
một thanh niên vì nó là tinh chất của đời sống trong cái thân thể cằn cỗi.
Nước mắt thanh niên giống như hạt sương trên cánh hoa hồng, trong khi nước
mắt người già nua giống như chiếc lá vàng rơi theo ngọn gió chớm Đông.
|
As I left the house of Farris Effandi Karamy, Selma’s
voice still rang in my ears, her beauty followed me like a wraith, and her
father’s tears dried slowly on my hand.
|
Khi tôi rời khỏi ngôi nhà của viên ngoại Karamy, tiếng nói
của Selma vẫn còn âm vang trong tai, sắc đẹp nàng theo tôi như một bóng thần
linh và nước mắt cha nàng khô dần trên tay tôi.
|
My departure was like Adam’s exodus from Paradise, but the
Eve of my heart was not with me to make the whole world an Eden. That night,
in which I had been born again, I felt that I saw death’s face for the first
time.
|
Lần đi đó giống như cuộc thiên cư của Adam khỏi Địa đàng,
nhưng nàng Eve của tim tôi không đi cùng để biến cả thế gian thành vườn Địa
đàng. Đêm đó là lúc tôi đã được tái sinh, cũng là lúc tôi có cảm tưởng lần
đầu giáp mặt Tử thần.
|
Thus the sun enlivens and kills the fields with its heat.
|
Như mặt trời vừa rọi sáng vừa thiêu đốt những cánh đồng.
|
CHAPTER SIX
THE LAKE OF FIRE
|
CHƯƠNG 6
HỒ LỬA
|
Everything that a man does secretly in the darkness of
night will be clearly revealed in the daylight. Words uttered in privacy will
become unexpectedly common conversation. Deed which we hide today in the
corners of our lodgings will be shouted on every street tomorrow.
|
Mọi việc thiên hạ làm lén lút trong
bóng đêm sẽ bị tiết lộ lúc thanh thiên bạch nhật. Những lời thốt ra ở nơi kín
đáo sẽ bất ngờ trở thành cuộc trò chuyện tầm phào. Những hành vi chúng ta
giấu kín hôm nay trong các xó xỉnh ở nhà, ngày mai sẽ bị thiên hạ nói bô bô
ngoài phường phố.
|
Thus the ghosts of darkness revealed the purpose of Bishop
Bulos Galib’s meeting with Farris Effandi Karamy, and his conversation was
repeated all over the neighbourhood until it reached my ears.
|
Vì thế, quỷ thần của bóng tối đã tiết lộ mục đích cuộc gặp
gỡ giữa Giám mục Bulos Galib và viên ngoại Karamy, và cuộc đàm đạo được người
ta truyền tụng cho đến khi nó lọt vào tai tôi.
|
The discussion that took place between Bishop Bulos Galib
and Farris Effandi that night was not over the problems of the poor or the
widows and orphans. The main purpose for sending after Farris Effandi and
bringing him in the Bishops’ private carriage was the betrothal of Selma to
the Bishop’s nephew, Mansour Bey Galib.
|
Cuộc bàn luận giữa Giám mục và viên ngoại trong đêm đó
không đề cập những vần đề nan giải của dân nghèo hay cô nhi quả phụ. Mục đích
chính khi cho vời viên ngoại và dùng xe ngựa riêng đón ông là để Giám mục cầu
hôn Selma cho cậu cháu, công tử Bey Galib.
|
Selma was the only child of the wealthy Farris Effandi,
and the Bishop’s choice fell on Selma, not on account of her beauty and noble
spirit, but on account of her father’s money which would guarantee Mansour
Bey a good and prosperous fortune and make him an important man.
|
Selma là con một của đại phú gia Farris Karamy; sự lựa
chọn của ông Giám mục chẳng phải vì nhan sắc và tâm hồn cao quý của Selma mà
vì tiền bạc của cha nàng sẽ hứa hẹn với cháu ông một gia tài kếch xù, đồng
thời giúp y trở thành một nhân vật quan trọng.
|
The heads of religion in the East are not satisfied with
their own munificence, but they must strive to make all members of their
families superiors and oppressors. The glory of a prince goes to his eldest
son by inheritance, but the exaltation of a religious head is contagious
among his brothers and nephews. Thus the Christian bishop and the Moslem imam
and the Brahman priest become like sea reptiles who clutch their prey with
many tentacles and suck their blood with numerous mouths.
|
Những nhà lãnh đạo tôn giáo ở phương Đông không thỏa mãn
với địa vị ưu đãi của riêng mình, họ phải cố sức giúp tất cả mọi người trong
gia đình trở thành những kẻ ăn trên ngồi trốc. Sự vinh hiển của một ông hoàng
được truyền lại cho người thừa kế là con trai cả, còn sự vẻ vang của một nhà
lãnh đạo tôn giáo phải lây sang các anh em trai và những đứa cháu. Bởi vậy,
các vị Giám mục Ki Tô giáo, các vị lãnh đạo Hồi giáo và Bà La Môn thành ra
giống như những con bạch tuộc xiết chặt con mồi bằng nhiều tua và dùng vô số
hấp khẩu để hút hết máu.
|
Then the Bishop demanded Selma’s hand for his nephew, the
only answer that he received from her father was a deep silence and falling
tears, for he hated to lose his only child. Any man’s soul trembles when he
is separated from his only daughter whom he has reared to young womanhood.
|
Khi ông Giám mục cầu hôn Selma cho cháu ông, cha nàng chỉ
trả lời bằng sự trầm mặc và những giọt nước mắt; vì viên ngoại Karamy không
muốn mất đứa con một của ông. Nhất là ông đã săn sóc dạy dỗ cô từ tấm bé cho
đến khi khôn lớn.
|
The sorrow of parents at the marriage of a daughter is
equal to their happiness at the marriage of a son, because a son brings to
the family a new member, while a daughter, upon her marriage, is lost to
them.
|
Nỗi buồn của bậc phụ mẫu trong hôn lễ của một ái nữ tương
đương với niềm vui của họ trong hôn lễ của người con trai; vì cậu con trai
đem về cho gia đình thêm một người thân thích, còn cô con gái sẽ ra khỏi nhà
vào ngày cưới.
|
Farris Effandi perforce granted the Bishop’s request,
obeying his will unwillingly, because Farris Effandi knew the Bishop’s nephew
very well, knew that he was dangerous, full of hate, wickedness, and
corruption.
|
Viên ngoại Karamy buộc lòng phải thuận lời yêu cầu của
Giám mục và miễn cưỡng tuân theo ý ông vì biết quá rõ về đứa cháu của Giám
mục, biết y là người nguy hiểm chứa đầy oán thù, ác độc và trụy lạc.
|
In Lebanon, no Christian could oppose his bishop and
remain in good standing. No man could disobey his religious head and keep his
reputation. The eye could not resist a
spear without being pierced, and the hand could not grasp a sword without
being cut off.
|
Ở Liban, không một tín đồ Ki Tô giáo nào có thể chống đối
lại vị Giám mục của mình mà vẫn giữ yên địa vị; không ai có thể bất tuân
người lãnh đạo tôn giáo của mình mà vẫn giữ vẹn thanh danh. Con mắt không thể kháng cự lại ngọn giáo
mà không bị đâm thủng, và bàn tay không thể nắm lưỡi kiếm mà không bị cắt
lìa.
|
Suppose that Farris Effandi had resisted the Bishop and
refused his wish; then Selma’s reputation would have been ruined and her name
would have been blemished by the dirt of lips and tongues. In the opinion of the fox, high bunches
of grapes that can’t be reached are sour.
|
Giả thử rằng Viên ngoại đã chống lại ông Giám mục và từ
chối ý muốn của vị này thì thế nào thanh danh của Selma cũng bị tiêu ma và
tên nàng tránh sao khỏi bị hoen ố vì miệng lưỡi thế gian nhơ nhuốc. Trong ý tưởng của con cáo, những chùm nho
ở trên cao không thể với tới là những chùm nho chua.
|
Thus destiny seized Selma and led her like a humiliated
slave in the procession of miserable oriental woman, and thus fell that noble
spirit into the trap after having flown freely on the white wings of love in
a sky full of moonlight scented with the odour of flowers.
|
Vậy là định mệnh đã chộp lấy Selma, lôi nàng đi như một nô
lệ nhục nhã trong đám phụ nữ Đông phương khổ sở; vậy là mảnh linh hồn cao đẹp
đã rơi vào bẫy sau khi tự do bay lượn trên đôi cánh trắng của tình yêu trong
một bầu trời ngợp ánh trăng và đượm hương hoa.
|
In some countries, the parent’s wealth is a source of
misery for the children. The wide strong box which the father and mother
together have used for the safety of their wealth becomes a narrow, dark
prison for the souls of their heirs. The Almighty Dinar which the people
worship becomes a demon which punished the spirit and deadens the heart.
Selma Karamy was one of those who were the victims of their parents’ wealth
and bridegrooms’ cupidity. Had it not been for her father’s wealth, Selma
would still be living happily.
|
Ở một vài xứ, sự giàu có của cha mẹ là nguồn bất hạnh cho
đám con cái. Chiếc tủ lớn và chắc chắn mà cha mẹ dùng để cất giữ tài sản sẽ
trở thành ngục tù chật hẹp và tối tăm để nhốt linh hồn những người thừa kế.
Đồng tiền vạn năng mà thiên hạ tôn thờ trở thành ác quỷ hành hạ linh hồn và
giết chết con tim. Selma Karamy là một trong số những nạn nhân của sản nghiệp
do cha mẹ gây dựng và dã tâm đào mỏ của chàng rể. Nếu chẳng vì sự
giàu sang của cha nàng thì Selma vẫn đang sống hạnh phúc.
|
A week had passed. The
love of Selma was my sole entertainer, singing songs of happiness for me at
night and waking me at dawn to reveal the meaning of life and the secrets of
nature. It is a heavenly love that is free from jealousy, rich and never
harmful to the spirit. It is deep affinity that bathes the soul in
contentment; a deep hunger for affection which, when satisfied, fills the
soul with bounty; a tenderness that creates hope without agitating the soul,
changing earth to paradise and life to a sweet and a beautiful dream. In
the morning, when I walked in the fields, I saw the token of Eternity in the
awakening of nature, and when I sat by the seashore I heard the waves singing
the song of Eternity. And when I walked in the streets I saw the beauty of
life and the splendour of humanity in the appearance of passers-by and
movements of workers.
|
Một tuần đã trôi qua. Tình
yêu của Selma là nguồn vui độc nhất của tôi, nó hát những lời ca ngợi hạnh
phúc cho tôi nghe về đêm, thức tỉnh tôi lúc bình minh để thổ lộ ý nghĩa cuộc
đời cùng những bí ẩn của thiên nhiên. Đó là một tình yêu cao vời vợi, không ghen
tuông, nó phong phú và không hề làm hư hỏng tâm hồn. Đó là lòng quyến
luyến sâu sắc tắm gội linh hồn trong an lạc; là
cơn đói khát thương yêu mà một khi được thỏa mãn, tâm hồn trở nên hào
phóng; là sự dịu dàng tạo nên hy vọng mà không khuấy động linh hồn; nó biến mặt đất thành Thiên đường, và cuộc sống thành một giấc mơ đẹp, ngọt ngào. Vào buổi
sáng, khi đi ngoài đồng nội tôi trông thấy bằng chứng của Vĩnh
hằng trong sự
thức giấc của thiên
nhiên; khi ngồi ở bờ biển tôi nghe thấy các con sóng hát khúc ca Vĩnh
hằng. Khi đi ngoài
đường phố tôi trông thấy vẻ đẹp của đời sống cùng vẻ huy hoàng của loài người trong
dáng điệu của những khách bộ hành và đi lại của những công nhân.
|
Those days passed like ghosts and disappeared like clouds,
and soon nothing was left for me but sorrowful memories. The eye with which I
used to look at the beauty of spring and the awakening of nature, could see
nothing but the fury of the tempest and the misery of winter. The ears with
which I formerly heard with delight the song of the waves, could hear only
the howling of the wind and the wrath of the sea against the precipice. The
soul which had observed happily the tireless vigour of mankind and the glory
of the universe, was tortured by the knowledge of disappointment and failure.
Nothing was more beautiful than those days of love, and nothing was more
bitter than those horrible nights of sorrow.
|
Những ngày đó đã mất hút như những bóng ma, tan biến như
phù vân; rồi sau đó chẳng còn gì cho tôi trừ những ký ức buồn thảm. Đôi mắt
tôi thường chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mùa xuân cùng sự trỗi giấc của thiên
nhiên, chẳng còn khả năng nhìn được gì ngoài sự cuồng nộ của phong ba và sự
nghiệt ngã của mùa đông. Đôi tai trước đây tôi thích thú nghe khúc ca của các
lượn sóng, chỉ còn nghe được tiếng gió hú và biển cả cuồng bạo vùi dập vách
đá. Mảnh linh hồn đã từng hân hoan thưởng ngoạn sức sống dũng mãnh của loài
người cùng vẻ huy hoàng của vũ trụ, đã phải chịu cực hình khi nêm mùi thất
vọng và thua thiệt. Không gì đẹp hơn những ngày yêu đương đó, và không gì
đắng cay hơn những đêm thảm sầu đầy kinh hoàng này.
|
When I could no longer resist the impulse, I went, on the
weekend, once more to Selma’s home – the shrine which Beauty had erected and
which Love had blessed, in which the spirit could worship and the heart kneel
humbly and pray. When I entered the garden I felt a power pulling me away
from this world and placing me in a sphere supernaturally free from struggle
and hardship. Like a mystic who receives a revelation of Heaven, I saw myself
amid the trees and flowers, and as I approached the entrance of the house I
beheld Selma sitting on the bench in the shadow of a jasmine tree where we
both had sat the week before, on that night which Providence had chosen for
the beginning of my happiness and sorrow.
|
Đến lúc tôi không còn có thể cưỡng lại sự thôi thúc, vào
một ngày cuối tuần, tôi đến nhà Selma thêm một lần nữa - nơi đó là thánh
đường do cái Đẹp xây dựng và được Ái tình phù hộ; ở chốn đó tâm linh có thể
hành lễ, và con tim có thể khiêm cung quỳ gối cầu nguyện. Khi tôi tiến vào
vườn, tôi cảm thấy một sức mạnh lôi tôi ra khỏi thế giới này và đặt tôi trong
một cảnh giới siêu nhiên thoát vòng tục lụy đua tranh và cam khổ. Như một
huyền sĩ nhận được mặc khải của đấng Thiêng liêng, tôi nhìn thấy chính tôi
hòa mình trong đám cây cối cỏ hoa; khi đến lối dẫn vào nhà, tôi thấy Selma
đang ngồi trên chiếc ghế dài cạnh gốc hoa nhài mà trước kia chúng tôi đã ngồi
vào buổi tối trong tuần trước - đấng Thiêng liêng đã chọn thời gian đó làm
khởi điểm cho hạnh phúc cùng khổ đau của tôi.
|
She neither moved nor spoke as I approached her. She
seemed to have known intuitively that I was coming, and when I sat by her she
gazed at me for a moment and sighed deeply, then turned her head and looked
at the sky. And, after a moment full of magic silence, she turned back toward
me and tremblingly took my hand and said in a faint voice, “Look at me, my
friend; study my face and I read in it that which you want to know and which
I can not recite. Look at me, my beloved... look at me, my brother.”
|
Nàng không nhúc nhích hay lên tiếng khi tôi lại gần. Dường
như nàng biết bằng trực giác rằng tôi đang đến. Khi tôi ngồi bên nàng. Selma
đăm đăm nhìn tôi một lúc lâu rồi thở dài não nề, ngước nhìn bầu trời. Sau một
khắc chứa đầy im lặng kỳ ảo, nàng quay về phía tôi, run run cầm tay tôi và
yếu ớt nói: “Hãy nhìn em đây, nhìn kỹ sắc mặt em và đọc trong đó những gì anh
muốn biết nhưng em không thể thốt lên lời. Hãy nhìn em, anh yêu... Nhìn em
đi!”
|
I gazed at her intently and saw that those eyes, which a
few days ago were smiling like lips and moving like the wings of a
nightingales, were already sunken and glazed with sorrow and pain. Her face,
that had resembled the unfolding, sun kissed leaves of a lily, had faded and
become colourless. Her sweet lips were like two withering roses that autumn
has left on their stems. Her neck, that had been a column of ivory, was bent
forward as if it no longer could support the burden of grief in her head.
|
Tôi chăm chú ngắm nàng, thấy đôi mắt nàng mấy ngày trước
đây còn mang nét cười như đôi môi tươi và linh động như đôi cánh chim họa mi,
nay đã trũng sâu và phản chiếu sầu muộn khổ đau. Khuôn mặt nàng trước đây như
đóa huệ hàm tiếu được ánh nắng ve vuốt, nay đã nhợt nhạt, không còn thần sắc.
Đôi môi ngọt ngào nay giống như hai bông hồng khô héo mà mùa Thu để sót lại
trên đế hoa. Chiếc cổ ngà ngọc bây giờ ngả về phía trước, tựa hồ không còn
nâng nổi khối u sầu nặng trĩu trong đầu.
|
All these changes I saw in Selma’s face, but to me they
were like a passing cloud that covered the face of the moon and makes it more
beautiful. A look which reveals inward stress adds more beauty to the face,
no matter how much tragedy and pain it bespeaks; but the face which, in silence,
does not announce hidden mysteries is not beautiful, regardless of the
symmetry of its features. The cup does
not entice our lips unless the wine’s colour is seen through the transparent
crystal.
|
Tôi nhận ra tất cả những biến đổi đó trong sắc mặt Selma,
nhưng đối với tôi những điều đó giống như một đám mây thoáng che phủ mặt
trăng làm trăng càng thêm đẹp. Một vẻ mặt biểu lộ nhưng day dứt nội tâm thường tăng
vẻ đẹp cho khuôn mặt, dù bi thảm và xâu xé trong lòng phũ phàng đến đâu; còn
như một gương mặt, trong im lặng, không nói lên được những bí ẩn thâm sâu
trong lòng thì dù cho đường nét có hòa họp cân xứng cũng không thể coi là
đẹp. Chiếc ly không quyến rũ nổi đôi
môi, trừ phi chúng ta trông thấy màu rượu nho qua lớp pha lê trong suốt.
|
Selma, on that evening, was like a cup full of heavenly
wine concocted of the bitterness and sweetness of life. Unaware, she
symbolized the oriental woman who never leaves her parents’ home until she
puts upon her neck the heavy yoke of her husband, who never leaves her loving
mother’s arms until she must live as a slave, enduring the harshness of her
husband’s mother.
|
Selma trong buổi chiều ấy ví như một cái ly chứa đầy rượu
nho Thiêng liêng pha chế bằng đắng cay cùng ngọt ngào của cuộc đời. Vô tình,
nàng tượng trưng cho một phụ nữ Đông phương cầm cung cho đến khi đeo cái ách
nặng chĩu của người chồng; chưa bao giờ cô nàng dời đôi tay bà mẹ thân yêu
cho kỳ đến lúc phải sống như một nô lệ, chịu sự khắc nghiệt của mẹ chồng.
|
I continued to look at Selma and listen to her depressed
spirit and suffer with her until I felt that time has ceased and the universe
had faded from existence. I could see only her two large eyes staring fixedly
at me and could feel only her cold, trembling hand holding mine.
|
Tôi không ngớt nhìn ngắm Selma, lắng nghe tâm hồn u uất
của nàng chia sớt khổ đau cùng nàng, cho đến khi cảm thấy thời gian ngừng
trôi và vũ trụ tan biến không còn gì. Tôi chỉ còn trông thấy cặp mắt to của
nàng đăm đăm nhìn tôi, và tôi không cảm thấy gì ngoài bàn tay lạnh giá run
rẩy nắm tay tôi.
|
I woke from my swoon hearing Selma saying quietly, “Come
by beloved, let us discuss the horrible future before it comes, My father has
just left the house to see the man who is going to be my companion until
death. My father, whom God chose for the purpose of my existence, will meet
the man whom the world has selected to be my master for the rest of my life.
In the heart of this city, the old man who accompanied me during my youth will
meet the young man who will be my companion for the coming years. Tonight the
two families will set the marriage date.
|
Tôi chợt tỉnh cơn mê khi nghe Selma trầm tĩnh nói “Anh ơi,
chúng ta hãy bàn tính về tương lai khủng khiếp trước khi nó tới. Cha em vừa
đi gặp người đàn ông sắp trở thành người bạn đường của em. Cha em, mà trời
đã phó thác việc sinh thành ra em, sẽ gặp người đàn ông mà đời đã chọn làm
chủ em từ đây cho đến mãn đời. Giữa thành phố này ông cụ đã dẫn dắt em suốt
thời tuổi trẻ, sẽ gặp người thanh niên sắp trở thành người đồng hành của em
trong những năm sắp đến. Tối nay hai gia đình sẽ định ngày cử hành hôn lễ”.
|
What a strange and impressive hour! Last week at this
time, under this jasmine tree, Love embraced my soul for the first time,
okay. While Destiny was writing the first word of my life’s story at the
Bishop’s mansion. Now, while my father and my suitor are planning the day of
marriage, I see your spirit quivering around me as a thirsty bird flickers
above a spring of water guarded by a hungry serpent. Oh, how great this night
is! And how deep is its mystery!”
|
“Ôi, cái giờ khắc kỳ lạ và đầy ấn tượng đó! Tuần trước
cũng vào giờ này, bên cây hoa nhài này, Tình yêu đã ấp ủ linh hồn em lần đầu
cùng lúc sổ Định Mệnh viết chữ đầu tiên cho số kiếp hồng nhan của em tại tư
dinh ông Giám mục. Giờ đây, trong khi cha em và người chồng sắp cưới của em
đang bàn định ngày hôn lễ, em thấy hồn anh đang run rẩy bên em như một con
chim khát đuối sức vỗ cánh lượn trên một mạch nước có con mãng xà đói đang
rình cạnh bên. Chao ôi, đêm tối kỳ diệu biết bao, và cũng bí ẩn độc địa không
biết đâu mà dò!”
|
Learning these words, I felt that dark ghost of complete
despondency was seizing our love to choke it in its infancy, and I answered
her, “That bird will remain flickering over that spring until thirst destroys
him or falls into the grasp of a serpent and becomes its prey.”
|
Nghe những lời này, tôi cảm thấy bóng ma của tuyệt vọng
đang chộp lấy tình yêu của chúng tôi để bóp nghẹt ngay khi nó vừa chào đời. Tôi
trả lời nàng: “Con chim đó sẽ còn vỗ cánh lượn lờ phía trên nguồn nước cho
đến khi nào cơn khát hủy diệt nó, hoặc nó sẽ rơi vào tầm mổ của con mãng xà
để thành con mồi”.
|
She responded, “No, my beloved, this nightingale should
remain alive and sing until dark comes, until spring passes, until the end of
the world, and keep on singing eternally. His voice should not be silenced,
because he brings life to my heart, his wings should not be broken, because
their motion removes the cloud from my heart.
|
Nàng đáp: “Không, anh yêu quý, con họa mi đó phải sống mãi
để ca hát cho đến bao giờ bóng tối vây tỏa, cho đến bao giờ mùa xuân đi qua,
cho đến ngày tận thế, và cứ còn ca hát mãi trong cõi đời đời. Tiếng chim hót
không thể bị dập tắt vì nó ban sức sống cho tim em. Cánh chim không thể bị bẻ
gẫy vì chúng vỗ tan mây trời che phủ tim em”.
|
When I whispered, “Selma, my beloved, thirst will exhaust
him, and fear will kill him.”
|
Tôi thì thầm: “Selma yêu dấu, cơn khát sẽ làm nó kiệt sức;
và lo âu sẽ giết chết nó mất thôi”.
|
She replied immediately with trembling lips, “The thirst
of soul is sweeter than the wine of material things, and the fear of spirit
is dearer than the security of the body. But listen, my beloved, listen
carefully, I am standing today at the door of a new life which I know nothing
about. I am like a blind man who feels his way so that he will not fall. My
father’s wealth has placed me in the slave market, and this man has bought
me. I neither know nor love him, but I shall learn to love him, and I shall
obey him, serve him, and make him happy. I shall give him all that a weak
woman can give a strong man.
|
Nàng trả lời ngay, đôi môi run rẩy: “Cơn khát tinh thần
ngọt ngào hơn rượu nho vật chất, và mối lo âu của linh hồn đáng quý hơn sự an
toàn của thể xác. Nhưng hãy nghe em, anh yêu, hãy lắng nghe em cẩn thận, hôm
nay em đang đứng trước ngưỡng cửa của một cuộc sống mới mà em chưa biết gì về
nó cả. Em đang giống như một người mù lòa dò dẫm từng bước đường để khỏi ngã.
Tài sản của cha em đã đẩy em vào chợ bán nô lệ, và người đàn ông đó đã mua
đứt em rồi. Em không quen biết và cũng chẳng yêu người ấy; nhưng em sẽ tập
yêu, em sẽ vâng lời, phục dịch và đem hạnh phúc đến cho người đó. Em sẽ cho
người đó những gì một phụ nữ yếu đuối có thể cho một người đàn ông đầy quyền
lực.
|
But you, my beloved, are still in the prime of life. You
can walk freely upon life’s spacious path, carpeted with flowers. You are
free to traverse the world, making of your heart a torch to light your way.
You can think, talk, and act freely; you can write your name on the face of
life because you are a man; you can live as a master because your father’s
wealth will not place you in the slave market to be bought and sold; you can
marry the woman of your choice and, before she lives in your home, you can
let her reside in your heart and can exchange confidences without
hindrances.”
|
Nhưng còn anh, anh yêu, anh còn đang ở trên đỉnh cao của
cuộc đời. Anh có thể tự do cất bước trên đường đời thênh thang có muôn hoa
kết thảm. Anh; được tự do đi lại khắp trần gian, lấy tâm anh làm ngọn đuốc
soi đường anh đi. Anh có thể suy tư, lên tiếng và hành động tự do; anh có thể
viết tên anh trên gương mặt cuộc đời, vì anh là một người đàn ông. Anh có thể
sống như một chủ nhân, vì tài sản của cha anh không đẩy anh vào chợ bán nô
lệ. Anh có thể kết hôn với một thiếu nữ mà anh ưng ý; và trước khi nàng cư
ngụ trong nhà anh, anh có thể cho nàng cư ngụ trong tim anh và cùng nhau tâm
sự mà không gặp điều gì cản trở!”
|
Silence prevailed for a moment, and Selma continued, “But,
is it now that Life will tear us apart so that you may attain the glory of a
man and I the duty of a woman? Is it for this that the valley swallows the
song of the nightingale in its depths, and the wind scatters the petals of
the rose, and the feet tread upon the wind cup? Were all those nights we
spent in the moonlight by the jasmine tree, where our souls united, in vain?
Did we fly swiftly toward the stars until our wings tired, and are we
descending now into the abyss? Or was Love asleep when he came to us, and did
he, when he woke, become angry and decide to punish us? Or did our spirits
turn the nights’ breeze into a wind that tore us to pieces and blew us like
dust to the depth of the valley? We disobeyed no commandment, nor did we
taste of forbidden fruit, so what is making us leave this paradise? We never
conspired or practised mutiny, then why are we descending to hell? No, no,
the moments which united us are greater than centuries, and the light that
illuminated our spirits is stronger than the dark; and if the tempest
separates us on this rough ocean, the waves will unite us on the calm shore;
and if this life kills us, death will unite us. A woman’s heart will
not change with time or season; even if it dies
eternally, it will never perish. A woman’s heart is
like a field turned into a battleground; after the trees are uprooted and the
grass is burned and the rocks are reddened with blood and the earth is
planted with bones and skulls, it is calm and silent as if nothing has
happened; for the spring and autumn come at their intervals and resume their
work.
|
Sau một lúc lặng thinh, Selma nói tiếp: “Nhưng phải chăng
bắt đầu từ đây cuộc đời sẽ chia rẽ đôi ta mỗi người một ngả, để anh đạt được
vinh quang của bậc trượng phu và em an phận nhi nữ? Phải chăng chỉ vì thế mà
vùng thung lũng nuốt chửng bài ca của con họa mi, và gió ngàn vung vãi những
cánh hồng, và gót chân chà đạp lên ly rượu bồ đào? Có lý nào tất cả những
buổi tối chúng ta ngồi bên nhau dưới ánh trăng bên khóm hoa nhài này, chính
là nơi tâm hồn ta hòa hợp, đều trở thành vô vị? Có phải chúng ta đã lướt bay
lên những vì tinh tú cho đến lúc mỏi cánh, và giờ đây chúng ta đang rơi xuống
vực sâu? Hay là Thần Ái tình đã đến với chúng ta khi đang mê ngủ, nên khi
thức giấc đã nổi cơn thịnh nộ và quyết hành hạ chúng ta? Hay là tâm linh
chúng ta đã biến cơn gió thoảng ban đêm thành ngọn cuồng phong có
sức mạnh xé vụn chúng ta ra từng mảnh và thổi chúng ta như cát bụi vào vực
sâu trong thung lũng? Chúng ta chẳng vi phạm giáo điều nào, cũng không nếm
thử trái cấm, vậy điều gì đã buộc chúng ta phải từ biệt chốn Thiên đường này?
Chúng ta chẳng bao giờ đồng lõa nổi loạn chống lại ai, vậy tại sao lại bị đày
xuống Địa ngục? Không, không, những giờ phút kết hợp chúng ta vĩ đại hơn hàng
thế kỷ, ánh hào quang soi sáng tâm linh chúng ta hùng mạnh hơn bóng tối; nếu
bóng tối chia rẽ chúng ta trên đại dương hung bạo này, thì những lượn sóng sẽ
kết hợp chúng ta nơi bờ bến thanh bình; và nếu cuộc đời này giết chết chúng
ta, cái chết sẽ đoàn tụ lại. Con tim
một người phụ nữ sẽ
không thay đổi theo thời gian hay tiết
mùa; dẫu cho nó có chết vĩnh viễn, nó sẽ không bao giờ lụi tàn. Trái tim một người nữ giống như một cánh đồng biến thành bãi chiên trường; sau khi cây tróc
rễ, cỏ bị cháy thiêu, đá nhuộm máu hồng, và đất đầy xương trắng, nó sẽ lặng
lẽ và im lìm như thể chắng có gì xảy ra; vì mùa Xuân và mùa Thu sẽ xoay vần
để tiếp nối công việc chúng.
|
And now, my beloved, what shall we do? How shall we part
and when shall we meet? Shall we consider love a strange visitor who came in
the evening and left us in the morning? Or shall we suppose this affection a
dream that came in our sleep and departed when we awoke?
|
Anh ơi, bây giờ mình phải làm gì? Mình từ biệt nhau cách
nào và khi nào gặp lại? Có thể nào mình sẽ coi tình yêu như một người khách
lạ ghé lúc ban chiều và từ biệt vào buổi sáng mai? Hoặc mình cầm bằng như
cuộc tình này là một cơn chiêm bao đến trong giấc ngủ và ra đi khi mình vừa
thức dậy?
|
Shall we consider this week an hour of intoxication to be
replaced by soberness? Raise your head and let me look at you, my beloved;
open your lips and let me hear your voice. Speak to me! Will you remember me
after this tempest has sunk the ship of our love? Will you hear the
whispering of my wings in the silence of the night? Will you hear my spirit
fluttering over you? Will you listen to my sighs? Will you see my shadow
approach with the shadows of dusk and disappear with the flush of dawn? Tell
me, my beloved, what will you be after having been magic ray to my eyes,
sweet song to my ears, and wings to my soul? What will you be?”
|
Mình có sẽ coi tuần lễ này như một giờ say men rượu và cần
thay bằng tỉnh táo? Ngẩng đầu lên cho em nhìn anh, anh yêu; lên tiếng đi cho
em nghe giọng nói của anh. Nói với em đi! Anh sẽ còn nhớ em nữa không, sau
khi cơn bão này đã làm đắm con tàu tình yêu của đôi ta? Anh có sẽ nghe thấy
tiếng linh hồn em khắc khoải vỗ cánh trên đầu anh? Anh có sẽ lắng nghe những
tiếng thở dài của em không? Anh sẽ có thấy bóng em về cùng với bóng hoàng hôn
và tan biến đi lúc rạng đông? Anh yêu, hãy cho em biết anh sẽ là gì, sau khi
anh đã là tia sáng huyền ảo trong mắt em, lời ca êm ái trong tai em, và đôi
cánh cho linh hồn em? Sau này anh sẽ là gì?”
|
Learning these words, my heart melted, and I answered her,
“I will be as you want me to be, my beloved.”
|
Nghe những lời này, tim tôi tan nát, tôi trả lời nàng:
“Anh sẽ làm những điều em muốn, em yêu quý!”
|
Then she said, “I
want you to love me as a poet loves his sorrowful thoughts. I want you to
remember me as a traveller remembers a calm pool in which his image was
reflected as he drank its water. I want you to remember me as a mother
remember her child that died before it saw the light, and I want you to
remember me as a merciful king remembers a prisoner who died before his
pardon reached him. I want you to be my companion, and I want you to
visit my father and console him in his solitude because I shall be leaving
him soon and shall be a stranger to him.
|
Nàng nói: “Em muốn
anh yêu em như một thi nhân yêu những tư tưởng sầu đau của mình. Em muốn anh
nhớ em như người lữ hành nhớ nước hồ phẳng lặng đã phản chiếu bóng mình cúi
xuống uống nước. Em muốn anh nhớ em như một bà mẹ nhớ đến đứa hài nhi chết
trước khi thấy ánh sáng cuộc đời. Em muốn anh nhớ đến em như một vì Vua nhân
từ nhớ đến một tù nhân đã thác oan trước khi lệnh ân xá kịp tới. Em muốn
anh là bạn chí thân của em, em muốn anh đến thăm cha em để an ủi người trong
cô đơn, vì chẳng còn bao lâu nữa em sẽ lìa xa người và trở thành một kẻ xa
lạ”.
|
I answered her, saying, “I will do all you have said and
will make my soul an envelope for your soul, and my heart a residence for
your beauty and my breast a grave for your sorrows. I shall love you, Selma, as the prairies love the spring, and I shall
live in you in the life of a flower under the sun’s rays. I shall sing your
name as the valley sings the echo of the bells of the village churches; I
shall listen to the language of your soul as the shore listens to the story
of the waves. I shall remember you as a stranger remembers his beloved
country, and as a hungry man remembers a banquet, and as a dethroned king
remembers the days of his glory, and as a prisoner remembers the hours of
ease and freedom. I shall remember you as a sower remembers the bundles of
wheat on his threshing flour, and as a shepherd remembers the green prairies
the sweet brooks.”
|
Tôi trả lời nàng: “Anh sẽ làm tất cả những điều em vừa nói
và sẽ lấy hồn anh phong kín hồn em, tim anh làm nơi cư ngụ của nhan sắc em,
và buồng ngực anh làm nấm mồ chôn những sầu đau của em. Selma, anh sẽ yêu em như cánh đồng cỏ yêu mùa
xuân, và anh sẽ sống trong em cuộc sống của một đóa hoa dưới ánh nắng mặt
trời. Anh sẽ hát tên em như thung lũng ca hát tiếng vọng của chuông thôn dã,
anh sẽ lắng nghe thứ ngôn ngữ của hồn em như bờ biển lắng nghe các lượn sóng
kể lể. Anh sẽ nhớ em như một khách tha hương nhớ quê nhà yêu dấu, như một
người đói nhớ một bữa tiệc, như một ông vua mất ngôi nhớ những ngày vàng son,
như một tù nhân nhớ những giờ khắc tự do thoải mái. Anh sẽ nhớ em như người
gieo hạt nhớ những bó lúa nằm trên sân đập, như một mục tử nhớ những cánh
đồng cỏ xanh tươi và những giòng suối ngọt ngào”.
|
Selma listened to my words with palpitating heart, and said
“Tomorrow the truth will become ghostly and the awakening will be like a
dream. Will a lover be satisfied embracing a ghost, or will a thirsty man
quench his thirst from the spring or a dream?”
|
Selma cảm động lắng nghe tôi nói, và nàng bảo: “Ngày mai sự
thật sẽ trở thành bóng ma, và sự thức giấc sẽ như cơn mê. Một tình nhân có
thấy thỏa mãn được ôm ấp một bóng ma không? Và một người khát có thể dập tắt
cơn khát bằng con suối trong cơn mê không?”
|
I answered her, “Tomorrow, destiny will put you in the midst
of a peaceful family, but it will send me into the world of struggle and
warfare. You will be in the home of a person whom chance has made most
fortunate through your beauty and virtue, while I shall be living a life of
suffering and fear. You will enter the gate of life, while I shall enter the
gate of death. You will be received hospitably, while I shall exist in
solitude, but I shall erect a statue of love and worship it in the valley of
death. Love will be my sole comforter, and I shall drink love like wine and
wear it like garment. At dawn, Love
will wake me from slumber and take me to the distant field, and at noon will
lead me to the shadows of trees, where I will find shelter with the birds
from the heat of the sun. In the evening, it will cause me to pause before
sunset to hear nature’s farewell song to the light of day and will show me
ghostly clouds sailing in the sky. At night, Love will embrace me, and I
shall sleep, dreaming of the heavenly world where the spirits of lovers and
poets abide. In the Spring I shall walk side by side with love among violets
and jasmines and drink the remaining drops of winter in the lily cups. In
Summer we shall make the bundles of hay our pillows and the grass our bed,
and the blue sky will cover us as we gaze at the stars and the moon.
|
Tôi trả lời nàng: “Ngày mai định mệnh sẽ đặt em vào một
gia đình êm ấm, nhưng nó sẽ đưa anh vào thế giới đấu tranh xâu xé. Em sẽ ở
trong nhà một người có diễm phúc được hưởng nhan sắc và đức hạnh của em,
trong khi anh gánh chịu một cuộc sống cay đắng và lo âu. Em sẽ đi vào ngưỡng
cửa cuộc đời, trong khi anh vào khung cửa của cõi chết. Em sẽ được tiếp đón
niềm nở trong khi anh sống trong cô độc; nhưng anh sẽ dựng một bức tượng tình
yêu và tôn thờ nó trong thung lũng của Tử thần. Tình yêu sẽ là niềm an ủi độc
nhất của anh, anh sẽ uống Tình yêu như uống rượu bồ đào và khoác nó như khoác
chiếc áo. Lúc rạng đông, Tình yêu sẽ
đánh thức anh trong cơn ngái ngủ và đem anh đến một cánh đồng xa; buổi trưa
nó sẽ đưa anh vào bóng mát gốc cây, ở đó anh sẽ cùng chim muông trú ẩn tránh
sức nóng mặt trời. Buổi chiều nó sẽ bảo anh ngồi nghỉ trước hoàng hôn để nghe
thiên nhiên ca khúc biệt ly chào ánh sáng ban ngày, nó sẽ chỉ cho anh những
đám mây kỳ ảo trôi trên nền trời. Tối đến, Tình yêu sẽ ôm ấp anh để anh an
giấc, mơ đến cõi thần tiên có linh hồn của các tình nhân và thi nhân nương
náu. Mùa Xuân anh sẽ sánh vai cùng Tình yêu đi trong rừng hoa và uống những
giọt sương đông đọng trong những chiếc ly hoa huệ. Mùa hạ, bọn anh sẽ lấy những bó rơm làm gối, thảm cỏ làm giường, và trời xanh sẽ
bao bọc hai đứa, trong khi anh và nó lặng ngắm trăng sao.
|
In Autumn, Love and
I will go to the vineyard and sit by the wine press and watch the grapevines
being denuded of their golden ornaments, and the migrating flocks of birds
will wing over us. In Winter, we shall sit by the fireside reciting stories
of long ago and chronicles of far countries. During my youth, Love will be my
teacher; in middle age, my help; and in old age, my delight. Love, my beloved
Selma, will stay with me to the end of my life, and after death the hand of
God will unite us again.”
|
Mùa Thu, Tình yêu và
anh sẽ đi vào vườn nho, ngồi bên máy ép nhìn những chùm nho bị lột lớp trang
sức vàng óng, trong khi những đàn chim nhạn bay ngang đầu. Mùa đông bọn anh sẽ ngồi bên lò
sưởi kể chuyện cổ tích và lịch
sử của những nước xa xôi. Trong thời thanh niên,
tình yêu sẽ là thầy học của anh; ở tuổi trung niên, nó là người giúp sức; và
thời xế bóng, nó sẽ là niềm vui của anh. Selma yêu dấu của anh ơi, Tình yêu
sẽ ở với anh cho đến mãn đời, và sau cái chết Trời sẽ tái hợp hai đứa”.
|
All these words came from the depths of my heart like
flames of fire which leap raging from the hearth and then disappear in the
ashes. Selma was weeping as if her eyes were lips answering me with tears.
|
Tất cả những lời trên đây tuôn tràn từ tâm khảm tôi như
những ngọn lửa hung hăng vươn lên từ lò sưởi rồi biến đi trong tro tàn. Trong
khi đó Selma khóc nức nở như thể mắt nàng là đôi môi trả lời tôi bằng những
giọt lệ.
|
Those whom love has not given wings cannot fly the cloud
of appearances to see the magic world in which Selma’s spirit and mine
existed together in that sorrowfully happy hour. Those whom Love has not
chosen as followers do not hear when Love calls. This story is not for them.
Even if they should comprehend these pages, they would not be able to grasp
the shadowy meanings which are not clothed in words and do not reside on
paper, but what human being is he who
has never sipped the wine from the cup of love, and what spirit is it that
has never stood reverently before that lighted altar in the temple whose pavement
is the hearts of men and women and whose ceiling is the secret canopy of
dreams? What flower is that on whose leaves the dawn has never poured a drop
of dew; what streamlet is that which lost its course without going to the
sea?
|
Những kẻ chưa hề được tình yêu ban cho đôi cánh, không thể
bay qua lớp mây ngoại diện để thấy thế giới thần tiên, nơi linh hồn của Selma
và tôi chung sống giờ khắc hạnh-phúc-sầu-đau đó. Những kẻ chưa được tình yêu
tuyển chọn làm môn đồ không nghe tiếng tình yêu gọi. Câu truyện này không
dành cho những kẻ đó. Dẫu cho họ có hiểu những trang sách này chăng nữa, họ
cũng không thể lĩnh hội được những nghĩa bóng không được trang phục bằng từ
ngữ và không nằm trên mặt giấy; nhưng nếu
một gã chưa bao giờ nhấm nháp rượu nho trong chén tình thì hắn là loại người
nào? Và một linh hồn chưa bao giờ trang trọng đứng trước bệ thờ rực sáng
trong ngôi đền có sàn lót bằng những trái tim thanh niên thiếu nữ, có trần là
màn rủ dệt bằng mộng mơ thì linh hồn đó là thứ gì? Một đóa hoa trên cánh chưa
bao giờ đọng một giọt sương mai là thứ hoa gì? Một con suối lạc đường không
chạy ra biển là thứ suối nguồn nào?
|
Selma raised her face toward the sky and gazed at the
heavenly stars which studded the firmament. She stretched out her hands; her
eyes widened, and her lips trembled. On her pale face, I could see the signs
of sorrow, oppression, hopelessness, and pain. Then she cried,
|
Selma ngước nhìn những vì sao đan dệt trên vòm trời. Nàng
duỗi hai tay, mở to mắt, và môi run rẩy, Trên gương mặt xanh xao của nàng tôi
có thể thấy dấu hiệu của nàng sầu não, uất ức, tuyệt vọng và đau đớn. Nàng
khóc than:
|
“Oh, Lord, what has a woman done that hath offended Thee?
What sin has she committed to deserve such a punishment? For what crime has
she been awarded everlasting castigation? Oh, Lord, Thou art strong, and I am
weak. Why hast Thou made me suffer pain? Thou art great and almighty, while I
am nothing but a tiny creature crawling before Thy throne. Why hast Thou
crushed me with Thy foot? Thou art a raging tempest, and I am like dust; why,
my Lord, hast Thou flung me upon the cold earth? Thou art powerful, and I am
helpless; why art Thou fighting me? Thou art considerate, and I am prudent;
why art Thou destroying me? Thou hast created woman with love, and why, with
love, dost Thou ruin her? With Thy right hand dost Thou lift her, and with
Thy left hand dost Thou strike her into the abyss, and she knows not why. In
her mouth Thou blowest the breath of Life, and in her heart Thou sowest the
seeds of death. Thou dost show her the path of happiness, but Thou leadest
her in the road of misery; in her mouth Thou dost place a song of happiness,
but then Thou dost close her lips with sorrow and dost fetter her tongue with
agony. With Thy mysterious fingers dost Thou dress her wounds, and with Thine
hands Thou drawest the dread of pain round her pleasures. In her bed Thou
hidest pleasure and peace, but beside it Thou dost erect obstacles and fear.
Thou dost excite her affection through Thy will, and from her affection does shame
emanate. By Thy will Thou showest her the beauty of creation, but her love
for beauty becomes a terrible famine. Thou dost make her drink life in the
cup of death, and death in the cup of life. Thou purifiest her with tears,
and in tears her life streams away. Oh, Lord, Thou hast opened my eyes with
love, and with love Thou hast blinded me. Thou hast kissed me with Thy lips
and struck me with Thy strong hand. Thou has planted in my heart a white
rose, but around the rose a barrier of thorns. Thou hast tied my present with
the spirit of a young man whom I love, but my life with the body of an
unknown man. So help me, my Lord, to be strong in this deadly struggle and
assist me to be truthful and virtuous until death. Thy will be done. Oh, Lord
God.”
|
“Lạy Chúa, một phụ nữ đã làm điều gì xúc phạm đến ngài?
Nàng đã phạm tội gì để đáng bị hành hạ như vậy? Vì trọng tội nào mà nàng bị
khổ hình chung thân? Lạy Chúa, ngài là đấng cao cả, con là kẻ hèn mọn. Sao
ngài nỡ làm con khốn đốn? Ngài là đấng vĩ đại toàn năng, trong khi con chỉ là
một sinh vật bé mọn lê lết bên bệ ngọc của ngài. Sao ngài nỡ chà đạp con dưới
gót chân? Ngài là trận cuồng phong, con như một hạt bụi; Chúa ơi, sao ngài nỡ
cuốn hút con vào nơi băng giá? Ngài là đấng quyền thế, con là kẻ yếu ớt. Sao
ngài nỡ vùi dập con? Ngài là đấng công bằng và con luôn luôn thận trọng; sao
ngài lại hủy hoại con? Ngài đã tạo người nữ và cho nàng tình yêu, vậy mà sao
ngài nỡ hủy hoại nàng bằng tình yêu? Bằng cánh tay phải, ngài nâng nàng lên
đỉnh cao, nhưng với cánh tay trái, ngài quăng nàng xuống vực sâu, và nàng
chẳng hiểu nguyên do. Ngài thổi sinh khí vào lòng nàng, đồng thời ngài gieo
trong tim nàng mầm của sự chết. Ngài đã chỉ cho nàng thấy con đường hạnh
phúc, nhưng ngài dắt nàng đi trên đường khổ đau. Ngài ban cho nàng một bài ca
hạnh phúc, nhưng ngài khóa đôi môi nàng bằng sầu thảm và thắt lưỡi nàng bằng
oán thương. Với những ngón tay huyền bí, ngài buộc những vết thương cho nàng,
nhưng ngài cũng dùng tay để vẽ những vết hằn đau buốt xung quanh niềm hoan lạc
của nàng. Trên giường ngài giấu hoan lạc và bình an, nhưng ở xung quanh ngài
dựng những chướng ngại và sợ hãi. Ngài khích động tình yêu của nàng, đồng
thời tủi nhục cũng xuất phát từ tình yêu đó. Ngài đã cho nàng thấy cái đẹp
trong sáng tạo, nhưng lòng yêu của nàng đối với cái đẹp trở thành một cơn đói
khủng khiếp. Ngài bắt nàng uống sự sống trong chiếc bình của sự chết, và uống
cái chết trong chiếc bình của sự sống. Ngài thanh lọc nàng bằng nước mắt; rồi
trong dòng nước mắt, cuộc đời nàng trôi đi mất hút. Hỡi Chúa, ngài đã mở mắt
con bằng tình yêu, và ngài cũng làm mù mắt con bằng tình yêu. Ngài hôn con
bằng môi ngài nhưng ngài cũng đánh con bằng cánh tay mạnh mẽ của ngài. Ngài
đã trồng trong tim con một bông hồng trắng, nhưng xung quanh bông hồng là một
hàng rào gai. Ngài buộc hiện tại con với linh hồn người thanh niên con yêu
dấu, nhưng trói cuộc đời con với thân xác một người đàn ông xa lạ. Vậy, Chúa
ôi, xin hãy giúp con đủ nghị lực trong cuộc tranh đấu cam go này, và giúp con
giữ được ngay thật và đức hạnh cho đến lúc chết. Ôi, lạy Chúa, ý Chúa sẽ
thành”.
|
Silence continued. Selma looked down, pale and frail; her
arms dropped, and her head bowed and it seemed to me as if a tempest had
broken a branch from a tree and cast it down to dry and perish.
|
Im lặng lại tiếp nối. Selma nhìn xuống đất, trông nàng
xanh xao yếu đuối; hai tay nàng buông thõng, đầu gục xuống; và tôi có cảm
tường như một trận bão vừa làm gẫy một cành cây, quăng nó xuống đất để rồi nó
sẽ khô héo và tàn lụi.
|
I took her cold hand and kissed it, but when I attempted
to console her it was I who needed consolation more than she did. I kept
silent, thinking of our plight and listening to my heartbeats. Neither of us
said more.
|
Tôi cầm bàn tay lạnh giá của nàng để hôn, như khi tôi định
an ủi nàng thì chính tôi lại cần được an ủi hơn. Tôi giữ im lặng, suy nghĩ về
cảnh huống bi đát của chúng tôi và lắng nghe tiếng tim đập trong lồng ngực.
Cả hai chúng tôi không nói thêm một lời nào.
|
Extreme torture is mute, and so we sat silent, petrified,
like columns of marble buried under the sand of an earthquake. Neither wished
to listen to the other because our heart-threads had become weak and even
breathing would have broken them.
|
Sự câm nín là một cực hình, chúng tôi ngồi lặng thinh, hóa
đá, như những cây cột cẩm thạch bị vùi chôn trong một trận động đất. Chẳng ai
mong được nghe người kia nói, vì những thớ tim của chúng tôi đã trở thành
mong manh, e rằng chỉ một hơi thở mạnh cũng có thể làm chúng đứt mất.
|
It was midnight, and we could see the crescent moon rising
from behind Mount Sunnin, and it looked in the midst of the stars, like the
face of a corpse, in a coffin surrounded by the dim lights of candles. And
Lebanon looked like an old man whose back was bent with age and whose eyes
were a haven for insomnia, watching the dark and waiting for dawn, like
asking sitting on the ashes of his throne in the debris of his palace.
|
Đã nửa đêm, chúng tôi thấy con trăng lưỡi liềm nhô lên sau
rặng núi Sunnin, giữa ngàn sao, như gương mặt một xác chết trong cỗ quan tài
có hàng nến heo hắt vây quanh. Còn xứ Liban thì giống như một ông già lưng
còng vì tuổi tác, đôi mắt thâm quầng vì mất ngủ; ông đang mải nhìn bóng tối
chờ rạng đông, như một vị hoàng đế ngồi trên tro tàn của ngai vàng giữa cung
điện nát tan.
|
The mountains, trees, and rivers change their appearance
with the vicissitudes of times and seasons, as a man changes with his experiences
and emotions. The lofty poplar that resembles a bride in the daytime, will
look like a column of smoke in the evening; the huge rock that stands
impregnable at noon, will appear to be a miserable pauper at night, with
earth for his bed and the sky for his cover; and the rivulet that we see
glittering in the morning and hear singing the hymn of Eternity, will, in the
evening, turn to a stream of tears wailing like a mother bereft of her child,
and Lebanon, that had looked dignified a week before, when the moon was full
and our spirits were happy, looked sorrowful and lonesome that night.
|
Sông núi, cỏ cây thay đổi bộ mặt theo những thăng trầm của
thời gian và tiết mùa, như một người thay đổi theo kinh nghiệm và cảm xúc.
Cây bạch dương cao vút ban ngày trông như một cô dâu, buổi tối sẽ giống như
một cột khói; tảng đá to lớn đứng bất khả xâm phạm lúc ban trưa, ban đêm sẽ
mang dáng vẻ của một gã hành khất khốn khổ trong cảnh màn trời chiếu đất; con
suối nhỏ chúng ta thấy long lanh vào buổi sáng và nghe nó hát lời ca tụng Vô
Cùng, đêm đến nó sẽ biến thành một giòng lệ khóc than ai oán như một bà mẹ
mất con. Và Liban một tuần trước trông thật uy nghi, khi con trăng đầy và tâm
hồn chúng tôi ngợp hạnh phúc; đêm nay trông sao mà thê lương và cô tịch.
|
We stood up and bade each other farewell, but love and
despair stood between us like two ghosts, one stretching his wings with his
fingers over our throats, one weeping and the other laughing hideously.
|
Chúng tôi đứng đậy trao nhau lời ly biệt, nhưng tình yêu
và tuyệt vọng đứng chắn giữa chúng tôi như hai bóng ma, một bóng dương đôi
cánh và xòe những ngón tay trên cổ họng chúng tôi, một bóng nức nở trong lúc
bóng kia cắt lên tiếng cười khả ố.
|
As I took Selma’s hand and put it to my lips, she came
close to me and placed a kiss on my forehead, then dropped on the wooden
bench. She shut her eyes and whispered softly, “Oh, Lord God, have mercy on
me and mend my broken wings!”
|
Khi tôi cầm tay Selma đưa lên môi, nàng lại sát bên tôi và
đặt một chiếc hôn lên trán tôi rồi thẫn thờ ngồi xuống ghế dài. Nàng nhắm mắt
lại và thì thầm: “Lạy Chúa, xin ngài thương xót con và chữa lành đôi cánh gẫy
của con”.
|
As I left Selma in the garden, I felt as if my senses were
covered with a thick veil, like a lake whose surface is concealed by fog.
|
Khi tôi bỏ Selma lại trong vườn, tôi cảm thấy như các
giác quan bị bao phủ bằng một tấm mạng dầy, như một hồ nước trên mặt bị đám
sương mù che khuất.
|
The beauty of trees, the moonlight, the deep silence,
everything about me looked ugly and horrible. The true light that had showed
me the beauty and wonder of the universe was converted to a great flame of
fire that seared my heart; and the Eternal music I used to hear became a
clamour, more frightening than the roar of a lion.
|
Cỏ cây, ánh trăng, sự im lặng tịch mịch... mọi vật quanh
tôi trông xấu xa và khủng khiếp. Ánh hào quang từng giúp tôi thấy vẻ đẹp và
sự kỳ diệu của vũ trụ đã biến thành ngọn lửa khổng lồ đốt chết tim tôi; và âm
nhạc của Vô Cùng tôi thường nghe đã trở thành một thanh âm chói tai, đáng sợ
hơn tiếng gầm của loài sư tử.
|
I reached my room, and like a wounded bird shot down by a
hunter, I fell on my bed, repeating the words of Selma: “Oh, Lord God, have
mercy on me and mend my broken wings!”
|
Tôi về đến phòng; như một con chim bị kẻ đi săn bắn rơi,
tôi ngã xuống giường, lặp lại những lời của Selma: “Lạy Chúa, xin ngài thương
xót con và chữa lành đôi cánh gẫy của con”.
|
CHAPTER SEVEN
BEFORE THE THRONE OF
DEATH
|
CHƯƠNG 7
TRƯỚC NGAI TỬ THẦN
|
Marriage in these days is a mockery whose management is in
the hands of young men and parents. In most countries the young men win while
the parents lose. The woman is looked upon as a commodity, purchased and
delivered from one house to another. In time her beauty fades and she becomes
like an old piece of furniture left in a dark corner.
|
Vào thời đó hôn nhân chỉ là một sự
mỉa mai diễu cợt sắp đặt do tay bọn nam giới và các bậc phụ mẫu. Ở hầu hết mọi nơi,
thanh niên chiếm phần thắng trong khi những bậc cha mẹ thua thiệt. Người phụ
nữ bị coi như một món hàng mà người ta mua bán chuyển giao từ nhà này sang
nhà nọ. Với thời gian, nhan sắc của nàng tàn tạ và nàng trở thành món đồ dùng
cũ kỹ bị bỏ vào xó tối.
|
Modern civilization
has made woman a little wiser, but it has increased her suffering because of
man’s covetousness. The woman of yesterday was a happy wife, but the woman of
today is a miserable mistress. In the past she walked blindly in the light,
but now she walks open-eyed in the dark. She was beautiful in her ignorance,
virtuous in her simplicity, and strong in her weakness. Today she has become
ugly in her ingenuity, superficial and heartless in her knowledge. Will the
day ever come when beauty and knowledge, ingenuity and virtue, and weakness
of body and strength of spirit will be united in a woman?
|
Văn minh hiện đại đã
làm người phụ nữ khôn ngoan hơn đôi chút, nhưng nó càng làm họ đau khố hơn vì
sự biển lận của người đàn ông. Ngày xưa, người phụ nữ là người vợ hạnh phúc,
nhưng ngày nay họ là người nhân tình khốn khổ. Thời trước họ mù lòa cất bước
trong ánh sáng, nhưng bây giờ họ mở mắt bước đi trong bóng tối. Trước kia họ
đẹp trong chất phác, đức hạnh trong giản dị, và kiên cường trong yếu đuối.
Ngày nay họ xấu xí trong khôn ngoan của họ, hời hợt và giả dối trong kiến
thức của họ. Có chăng, đến một ngày nào đó, sắc đẹp và kiến thức, khôn ngoan
và đức hạnh, yếu đuối thể xác và mạnh mẽ tinh thần sẽ hòa hợp nơi người phụ
nữ?
|
I am one of those who believe that spiritual progress is a
rule of human life, but the approach to perfection is slow and painful. If a
woman elevates herself in one respect and is retarded in another, it is
because the rough trail that leads to the mountain peak is not free of
ambushes of thieves and lairs of wolves.
|
Tôi là một trong số những người tin tưởng rằng sự tiến
triển tinh thần là một định luật của đời sống nhân loại, nhưng con đường tiến
đến hoàn mỹ rất xa và đầy cam go. Nếu người phụ nữ tự thăng tiến ở một phương
diện và đứng lại ở phương diện khác ấy là vì con đường mòn đầy gai góc dẫn
lên đỉnh núi không phải không có những ổ mai phục của phường đạo tặc và sào
huyệt của lũ lang sói.
|
This strange generation exists between sleeping and
waking. It holds in its hands the soil of the past and the seeds of the
future. However, we find in every city a woman who symbolizes the future.
|
Cái thế hệ khác thường này sinh tồn giữa cơn ngái ngủ và
sự tỉnh táo. Nó cầm trong tay nắm đất quá khứ và hạt giống tượng lai. Nhưng
dù sao, chúng ta có thể tìm thấy trong mỗi thành phố một phụ nữ tượng trưng
cho tương lai.
|
In the city of Beirut, Selma Karamy was the symbol of the
future Oriental woman, but, like many who lie ahead of their time, she became
the victim of the present; and like a flower snatched from its stem and
carried away by the current of a river, she walked in the miserable
procession of the defeated.
|
Ở Beirut, Selma Karamy là tượng trưng của người phụ nữ
Đông phướng tương lai. Nhưng, giống như nhiều người đi trước thời đại, nàng
trở thành nạn nhân của hiện tại, để rồi giống như một đóa hoa bị bứt lìa cành
và giòng sông cuốn trôi đi, nàng cất bước trong hàng ngũ của những kẻ chiến
bại khốn đốn.
|
Mansour Bey Galib and Selma were married, and lived
together in a beautiful house at Ras Beyrouth, where all the wealthy
dignitaries resided. Farris Effandi Karamy was left in his solitary home in
the midst of his garden and orchards like a lonely shepherd amid his flock.
|
Công tử Bey Galib và Selma đã thành hôn và chung sống
trong một ngôi nhà mỹ lệ tại Ras Beyrouth, nơi hầu hết các danh gia vọng tộc
cư ngụ. Viên ngoại Karamy bị bỏ rơi trong căn nhà hiu quạnh giữa hoa viên và
vườn cây như một mục tử cô độc giữa đàn mục súc.
|
The days and merry nights of the wedding passed, but the
honeymoon left memories of times of bitter sorrow, as wars leave skulls and
dead bones on the battlefield. The dignity of an Oriental wedding inspires
the hearts of young men and women, but its termination may drop them like
millstones to the bottom of the sea. Their exhilaration is like footprints on
sand which remain only till they are washed away by the waves.
|
Những ngày đêm rộn ràng lễ cưới đã qua đi, nhưng tuần
trăng mật để lại kỷ niệm của thời gian u sầu đắng cay, như chiến trận bỏ lại
trên chiến trường những xương cùng sọ của tử sĩ. Sự trang trọng của một hôn
lễ Đông phương gây cảm hứng trong tim những người tuổi trẻ, nhưng khi cuộc
vui bế mạc, họ bị thả rơi như sỏi đá xuống lòng biển sâu. Sự phấn khởi trong
lòng họ giống như những dấu chân trên cát, chỉ tồn tại cho đến lúc những lượn
sóng biển xóa nhòa.
|
Spring departed, and so did summer and autumn, but my love
for Selma increased day by day until it became a kind of mute worship, the
feeling that an orphan has toward the soul of his mother in Heaven. My
yearning was converted to blind sorrow that could see nothing but itself, and
the passion that drew tears from my eyes was replaced by perplexity that
sucked the blood from my heart, and my sighs of affection became a constant
prayer for the happiness of Selma and her husband and peace for her father.
|
Mùa Xuân đã đi qua, cả Hạ vả Thu, nhưng tình yêu tôi dành
cho Selma lớn mãi cùng ngày tháng đến thành một ngưỡng vọng câm nín - thứ
tình cảm của một trẻ mồ côi hướng về linh hồn người hiền mẫu trên cõi trời.
Nỗi đam mê của tôi đổi thành mối sầu mù lòa không thấy gì khác ngoài chính
nó. Mối cảm xúc đã làm tôi rơi nước mắt nhường chỗ cho sự phiền não hút máu
từ tim tôi; và những tiếng thở dài của thương yêu trở thành lời nguyện cầu
bất tuyệt dành cho Selma cùng chồng, và sự bình an cho cha nàng.
|
My hopes and prayers were in vain, because Selma’s misery
was an internal malady that nothing but death could cure.
|
Hy vọng và nguyện cầu của tôi thành vô ích, vì nỗi khổ của
Selma là một căn bệnh triền miên không thứ gì ngoài cái chết có thể chữa
khỏi.
|
Mansour Bey was a man to whom all the luxuries of life
came easily; but, in spite of that, he was dissatisfied and rapacious. After
marrying Selma, he neglected her father in his loneliness and prayed for his
death so that he could inherit what was left of the old man’s wealth.
|
Công tử Bey là một người đàn ông mà mọi thứ xa hoa trên
đời tự nhiên đưa tới; nhưng dù vậy y vẫn chưa vừa lòng tham. Sau khi kết hôn
với Selma, y bỏ mặc cha nàng trong cô đơn và cầu mong cho ông cụ sớm chết đi
để thừa kế gia tài.
|
Mansour Bey’s character was similar to his uncle’s; the
only difference between the two was that the Bishop got everything he wanted
secretly, under the protection of his ecclesiastical robe and the golden
cross which he wore on his chest, while his nephew did everything publicly.
The Bishop went to church in the morning and spent the rest of the day
pilfering from the widows, orphans, and simple minded people. But Mansour Bey
spent his days in pursuit of sexual satisfaction. On Sunday, Bishop Bulos
Galib preached his Gospel; but during weekdays he never practiced what he
preached, occupying himself with political intrigues of the locality. And, by
means of his uncle’s prestige and influence, Mansour Bey made it his business
to secure political plums for those who could offer a sufficient bribe.
|
Tính tình công tử Bey giống hệt ông chú; chỉ khác mỗi một
điều là vị Giám mục đạt tham vọng một cách thầm kín, dưới sự che chở của bộ
áo tu sĩ và chiếc thánh giá vàng đeo trước ngực; trong khi cháu ông hành động
công khai. Vị Giám mục đến nhà thờ vào buổi sáng, thời giờ còn lại trong ngày
ông dùng để bòn rút những cô nhi quả phụ và những người chất phác chân
phương. Còn công tử Bey dùng ban ngày để đi tìm thỏa mãn nhục dục. Ngày chủ
nhật, Giám mục Bulos Galib giảng Phúc âm; nhưng suốt trong tuần ông chẳng bao
giờ thực hành những điều ông đã giảng, vì còn bận dự vào những thủ đoạn chính
trị. Lợi dụng thế lực và ảnh hưởng của ông chú, công tử Bey coi việc ăn hối
lộ của những kẻ mua danh cầu tước như một phương tiện kinh doanh.
|
Bishop Bulos was a thief who hid himself under the cover
of night, while his nephew, Mansour Bey, was a swindler who walked proudly in
daylight. However, the people of Oriental nations place trust in such as
they–wolves and butchers who ruin their country through covetousness and
crush their neighbours with an iron hand.
|
Giám mục Bulos là một đạo chích ẩn mình trong bóng tối,
còn cháu ông, công tử Bey, là một tên lưu manh kiêu hãnh cất bước giữa ban
ngày. Tuy nhiên, người dân Đông phương đặt tin cậy vào những người này - bầy
lảng sói và bọn đồ tể làm băng hoại xứ sở họ vì túi tham không đáy và đôi tay
sắt bóp nát đồng loại.
|
Why do I occupy these pages with words about the betrayers
of poor nations instead of reserving all the space for the story of a
miserable woman with a broken heart? Why do I shed tears for oppressed
peoples rather than keep all my tears for the memory of a weak woman whose
life was snatched by the teeth of death?
|
Tại sao trong mấy trang này tôi viết về những kẻ phản bội
ở những xứ nghèo khó thay vì dành tất cả những khoảng đó cho chuyện một phụ
nữ khốn khổ mang trái tim tan nát? Tại sao tôi dư nước mắt khóc những kẻ bị
áp bức thay vì dành tất cả nước mắt tôi để hoài niệm một phụ nữ yếu đuối đã
bị hàm răng Tử thần nghiến nát cuộc đời?
|
But my dear readers, don’t’ you think that such a woman is
like a nation that is oppressed by priests and rulers? Don’t you believe that
thwarted love which leads a woman to the grave is like the despair which
pervades the people of the earth? A
woman is to a nation as light is to a lamp. Will not the light be dim if the
oil in the lamp is low?
|
Nhưng, hỡi độc giả thân mến, quý vị có nghĩ rằng một phụ
nữ như thế chẳng khác nào một nước bị một số tăng lữ và những kẻ cầm quyển áp
bức? Quý vị có tin rằng mối tình bị phá đám đó đã dẫn một phụ nữ đến nằm mồ,
cũng giống như sự vô vọng hằng đeo đuổi loài người trên trái đất? Người phụ nữ đối với một nước giống như ánh áng với cây đèn. Nếu
dầu trong đèn cạn, ánh sáng
có mờ không?
|
Autumn passed, and the wind blew the yellow leaves form
the trees, making way for winter, which came howling and crying. I was still
in the City of Beirut without a companion save my dreams, which would lift my
spirit to the sky and then bury it deep in the bosom of the earth.
|
Thu đã đi qua, gió thổi lá vàng lìa cành dọn đường cho
Đông đến, nó vừa tới vừa tru tréo khóc than. Tôi lưu lại thủ đô Beirut, không
một bằng hữu, ngoài những giấc chiêm bao đem linh hồn tôi lên đỉnh trời rồi
chôn vùi thật sâu trong lòng đất.
|
The sorrowful spirit finds relaxation in solitude. It
abhors people, as a wounded deer deserts the herd and lives in a cave until
it is healed or dead.
|
Một tâm hồn buồn thảm tìm thấy thoải mái trong cô đơn. Nó
chán ngấy nhân thế, như một con nai bị thương lìa đàn để sống trong hang cho
đến khi lành vết thương hoặc là từ giã cõi đời.
|
One day I heard Farris Effandi was ill. I left my solitary
abode and walked to his home, taking a new route, a lonely path between olive
trees, avoiding the main road with its rattling carriage wheels.
|
Một hôm tôi nghe tin viên ngoại Karamy lâm bệnh. Tôi rời
nơi tru ẩn hiu quạnh và đi bộ đến nhà ông theo một lộ trình mới, một con
đường nhỏ nằm giữa rặng ô liu, tránh con đường chính rộn tiếng ngựa xe.
|
Arriving at the old man’s house, I entered and found
Farris Effandi lying on his bed, weak and pale. His eyes were sunken and
looked like two deep, dark valleys haunted by the ghosts of pain. The smile
which had always enlivened his face was choked with pain and agony; and the
bones of his gentle hands looked like naked branches trembling before the
tempest. As I approached him and inquired as to his health, he turned his
pale face toward me, and on his trembling lips appeared a smile, and he said
in a weak voice, “Go – go, my son, to the other room and comfort Selma and
bring her to sit by the side of my bed.”
|
Tới nơi, tôi thấy ông cụ nằm trên giường, yếu đuối xanh
xao. Đôi mắt ông sâu hoắm, trông như hai thung lũng u tối bị những hồn ma của
đớn đau ám chướng. Nụ cười trước kia vẫn làm rạng rỡ khuôn mặt ông, nay tắc
nghẹn những đau đớn dằn vặt; và những lóng xương bàn tay thanh nhã bây giờ
trông như những cành cây trụi lá run rẩy trong cơn bão. Khi tôi lại gần thăm
hỏi bệnh trạng, ông quay gương mặt xanh xao về phía tôi, đôi môi run run cố
nở một nụ cười, và ông nói thều thào: “Con ơi, hãy sang... sang phòng bên kia
an ủi Selma và đem nó sang đây ngồi bên giường bác”.
|
I entered the adjacent room and found Selma lying on a
divan, covering her head with her arms and burying her face in a pillow so
that her father would not hear her weeping. Approaching slowly, I pronounced
her name in a voice that seemed more like sighing than whispering. She moved
fearfully, as if she had been interrupted in a terrible dream, and sat up,
looking at me with glazed eyes, doubting whether I was a ghost or a living
being. After a deep silence which took us back on the wings of memory to that
hour when we were intoxicated with wine of love, Selma wiped away her tears
and said, “See how time has changed us! See how time has changed the course
of our lives and left us in these ruins. In this place spring united us in a
bond of love, and in this place has brought us together before the throne of
death. How beautiful was spring, and how terrible is this winter!”
|
Tôi sang phòng bên cạnh, thấy Selma nằm trên trường kỷ che
đầu bằng hai cánh tay và vùi mặt trên chiếc gối để cha nàng khỏi nghe tiếng
nàng thổn thức. Chậm chạp tiến đến gần, tôi gọi tên nàng như một tiếng thở
dài hơn là tiếng thì thầm. Nàng hốt hoảng cựa mình, như thể vừa bị đánh thức
trong cơn ác mộng, rồi ngồi dậy nhìn tôi với đôi mắt long lanh, ngỡ ngàng
không biết tôi là một bóng ma hay một người thực. Sau một hồi trầm lặng đưa
chúng tôi lên đôi cánh kỷ niệm của giờ phút đã dìm chúng tôi trong men rượu
tình, Selma gạt nước mắt và nói: “Anh thấy không, thời gian đã biến đổi chúng
ta nhiều quá! Cuộc bể dâu đã làm thay đổi dòng đời và bỏ chúng ta giữa những
đổ vỡ này. Chính nơi đây mùa Xuân đã kết hợp hai ta bằng sợi dây tình, và bây
giờ cũng chính nơi đây chúng ta đang đứng trước ngai của Tử thần. Mùa Xuân
tươi đẹp như thế, ngờ đâu mùa Đông lại khủng khiếp dường này”.
|
Speaking thus, she covered her face again with her hands
as if she were shielding her eyes from the spectre of the past standing
before her. I put my hand on her head and said, “Come, Selma, come and let us
be as strong towers before the tempest. Let us stand like brave soldiers
before the enemy and face his weapons. If we are killed, we shall die as
martyrs; and if we win, we shall live as heroes. Braving obstacles and
hardships is nobler than retreat to tranquillity. The butterfly that hovers
around the lamp until it dies is more admirable than the mole that lives in a
dark tunnel. Come, Selma, let us walk this rough path firmly, with our eyes
toward the sun so that we may not see the skulls and serpents among the rocks
and thorns. if fear should stop us in middle of the road, we would hear only
ridicule from the voices of the night, but if we reach the mountain peak
bravely we shall join the heavenly spirits in songs of triumph and joy. Cheer
up, Selma, wipe away your tears and remove the sorrow from your face. Rise,
and let us sit by the bed of your father, because his life depends on your
life, and your smile is his only cure.”
|
Khi thốt những lời trên, nàng lại lấy tay che mặt, tựa hồ nàng chắn cho đôi mắt
khỏi thấy con ma quá khứ phía trước nàng. Tôi đặt tay trên đầu nàng và bảo:
“Nào, Selma, nào, chúng ta phải như những ngọn tháp vững chắc trước cơn bão
táp. Chúng ta hãy hiên ngang như những chiến sĩ dũng cảm đối diện với kẻ địch
có vũ khí trong tay. Nếu bị giết, chúng ta sẽ chết như những kẻ tuẫn
tiết; và nếu thắng, chúng ta sẽ sống như những anh hùng. Chống chọi chướng
ngại và cam khổ cao cả hơn chạy trốn cầu an. Con thiêu thân bay lượn quanh
ngọn đèn cho đến lúc chết đáng khâm phục hơn con mọt suốt đời sống trong tăm
tối. Nào, Selma, chúng ta hãy vững vàng cất bước trên con đường cam go này
với đôi mắt hướng về mặt trời để khỏi trông thấy những đầu lâu và rắn độc
trong đám đá lởm chởm và trong gai góc. Nếu bị nỗi sợ chận lại giữa đường,
chúng ta sẽ chỉ nghe thấy lời diễu cợt từ tiếng nói của đêm tối; nhưng nếu
lên được đỉnh núi một cách can đảm, chúng ta sẽ đoàn tụ với những hồn thiêng
trong khúc khải hoàn, hoan ca. Hãy tươi tỉnh lên, Selma; lau sạch nước mắt và
xóa bỏ u sầu trên nét mặt em đi. Đứng lên em, chúng ta ra ngồi bên giường cha
em; sự sống của người tùy thuộc ở sự sống của em, và nụ cười của em là phương
thuốc duy nhất của người”.
|
Kindly and affectionately she looked at me and said, “Are
you asking me to have patience, while you are in need of it yourself? Will a
hungry man give his bread to another hungry man? Or will sick man give
medicine to another which he himself needs badly?”
|
Hiền từ và dịu dàng Selma nhìn tôi rồi nói: “Có phải trong khi anh khuyên
nhủ em phải nhẫn nại, chính anh cũng đang cần điều đó? Một kẻ đang đói có
nhường phần ăn của mình cho một người đói khác không anh? Hoặc một người bệnh
cho kẻ khác liều thuốc mà chính họ đang cần không anh?”
|
She rose, her head bent slightly forward and we walked to
the old man’s room and sat by the side of his bed. Selma forced a smile and
pretended to be patient, and her father tried to make her believe that he was
feeling better and getting stronger; but both father and daughter were aware
of each other’s sorrow and heard the unvoiced sighs. They were like two equal
forces, wearing each other away silently. The father’s heart was melting
because of his daughter’s plight. They were two pure souls, one departing and
the other agonized with grief, embracing in love and death; and I was between
the two with my own troubled heart. We were three people, gathered and
crushed by the hands of destiny; an old man like a dwelling ruined by flood,
a young woman whose symbol was a lily beheaded by the sharp edge of a sickle,
and a young man who was a weak sapling, bent by a snowfall; and all of us
were toys in the hands of fate.
|
Nàng đứng dậy, đầu hơi cúi về phía trước, và chúng tôi
sang phòng ông cụ ngồi bên cạnh người. Selma cố tạo một nụ cười và giữ điệu
bộ bình tâm; cha nàng thì cố làm cho con gái tưởng rằng bệnh tình của ông đã
khả quan hơn; nhưng cả hai cha con đều biết nỗi khổ của nhau và cùng nghe ra
những tiếng thở dài thầm lặng. Họ giống như hai sức quân bình làm mỏi mòn lẫn
nhau một cách ngấm ngầm. Trái tim người cha muốn chảy tan vì tình cảnh thương
tâm của con gái. Họ là hai linh hồn thanh khiết - một trong hai ra đi là hồn
kia sẽ bị đầy ải trong đau thương - quyến luyến nhau trong thương yêu và cái
chết; và tôi đứng giữa hai người với trái tim quằn quại của mình. Chúng tôi
là ba kẻ do bàn tay định mệnh quây quần rồi lại bị bàn tay định mệnh bóp nát;
một ông lão giống như một ngôi nhà bị cơn lụt hủy hoại, một người con gái
tượng trưng cho một bông huệ bị một lưỡi liềm sắc bén hớt ngang; một thanh
niên giống một cây non yếu ớt bị một trận mưa vùi dập; và cả ba chúng tôi đều
là những đồ chơi trong bàn tay định mệnh.
|
Farris Effandi moved slowly and stretched his weak hand
toward Selma, and in a loving and tender voice said, “Hold my hand, my
beloved.” Selma held his hand; then he said, “I have lived long enough, and I
have enjoyed the fruits of life’s seasons. I have experienced all its phases
with equanimity. I lost your mother when you were three years of age, and she
left you as a precious treasure in my lap. I watched you grow, and your face
reproduced your mother’s features as stars reflected in a calm pool of water.
Your character, intelligence, and beauty are your mother’s, even your manner
of speaking and gestures. You have been my only consolation in this life
because you were the image of your mother in every deed and word. Now, I grow
old, and my only resting place is between the soft wings of death. Be
comforted, my beloved daughter, because I have lived long enough to see you
as a woman. Be happy because I shall live in you after my death. My departure
today would be no different from my going tomorrow or the day after, for our
days are perishing like the leaves of autumn. The hour of my days are
perishing like the leaves of autumn. The hour of my death approaches rapidly,
and my soul is desirous of being united with your mother’s.”
|
Viên ngoại Karamy khẽ cử động, đuỗi bàn tay yếu đuối về
phía Seima, bằng một giọng thương cảm và dịu dàng ông bảo: “Hãy cầm tay cha,
con yêu quý” Selma nắm tay ông, đoạn ông nói: “Cha đã sống trọn đời người, và
cha cũng đã nếm đủ mùi đời. Cha đã bình tâm vượt qua các chặng đường đời. Cha
đã mất mẹ con khi con mới ba tuổi đầu. Người đã để con lại như một báu vật
trong tay cha. Cha nhìn con khôn lớn, và gương mặt con ghi tạc lại những nét
của mẹ con như những vì sao phản ảnh trong một hồ nước im lìm. Tính nết, sự
thông minh, và sắc đẹp của con là của mẹ con, ngay cả cách ăn nói và những cử
chỉ của con cũng vậy. Con là nguồn an ủi độc nhất của cha trong cuộc đời vì
con là hình bóng của mẹ con trong mọi hành vi và lời nói. Giờ đây cha đã già
rồi, chỉ còn chờ an nghỉ trong đôi cánh êm ái của Tử thần. Hãy yên tâm, con
gái yêu của cha ạ, cha đã thọ đủ để thấy con khôn lớn. Vui lên đi con, vì cha
còn sống trong con sau khi chết. Sự ra đi của cha hôm nay hay ngày mai, ngày
mốt nào có khác gì đâu. Vì ngày tháng mòn mỏi phôi pha, như lá mùa thu. Giờ
cuối cùng của đời cha đang vội tới và hồn cha khao khát được đoàn tụ cùng mẹ
con”.
|
As he uttered these words sweetly and lovingly, his face
was radiant. Then he put his hand under his pillow and pulled out a small
picture in a gold frame. With his eyes on the little photograph, he said,
“Come, Selma, come and see your mother in this picture.”
|
Khi ông nói những lời đầy thương cảm này, nét mặt ông rạng
rỡ. Rồi ông luồn tay dưới gối lấy ra một tấm ảnh nhỏ lồng khung vàng. Đôi mắt
không rời bức ảnh, ông nói: “Này, Selma, con hãy nhìn hình mẹ con đây”.
|
Selma wiped away her tears, and after gazing long at the
picture, she kissed it repeatedly and cried, “Oh, my beloved mother! Oh,
mother!” Then she placed her trembling lips on the picture as if she wished
to pour her soul into that image.
|
Selma chùi nước mắt, sau một hồi lâu lặng ngắm, nàng hôn
đi hôn lại bức ảnh và kêu lên: “Ôi mẹ yêu dấu của con! Mẹ ơi!” Rồi nàng áp
đôi môi run rẩy lên bức ảnh như muốn trút cả hồn nàng vào hình bóng đó.
|
The most beautiful
word on the lips of mankind is the word “Mother,” and the most beautiful call
is the call of “My mother.” it is a word full of hope and love, a sweet and
kind word coming from the depths of the heart. The mother is every thing –
she is our consolation in sorrow, our hope in misery, and our strength in
weakness. She is the source of love, mercy, sympathy, and forgiveness. He who
loses his mother loses a pure soul who blesses and guards him constantly.
|
Tiếng đẹp nhất trên
môi loài người là tiếng “Mẹ”, và lời gọi đẹp nhất là lời gọi “Mẹ ơi”. Một
tiếng chứa đầy hy vọng và thương yêu, một tiếng hiền từ êm ái xuất phát từ
đáy lòng. Mẹ là tất cả - người là nguồn an ủi của chúng ta trong u sầu, nguồn
hy vọng của chúng ta trong khốn đốn, và sức mạnh của chúng ta trong yếu đuối.
Người là nguồn thương yêu, bao dung, cảm mến và tha thứ. Kẻ nào mất mẹ tức là
mất một linh hồn thanh khiết phù trợ và che chở cho y không dời.
|
Every thing in
nature bespeaks the mother. The sun is the mother of earth and gives it its
nourishment of hear; it never leaves the universe at night until it has put
the earth to sleep to the song of the sea and the hymn of birds and brooks.
And this earth is the mother of trees and flowers. It produces them, nurses
them, and weans them. The trees and flowers become kind mothers of their
great fruits and seeds. And the mother, the prototype of all existence, is
the eternal spirit, full of beauty and love.
|
Mọi vật trong thiên
nhiên đều biểu dương hình ảnh người mẹ. Mặt trời là mẹ của đất và ban cho đất
sức nóng như nguồn dinh dưỡng; nó không chịu từ biệt bầu trời vào ban đêm
trước khi ru đất vào giấc ngủ bằng tiếng ca của biển cả cùng lời hát của chim
muông và suối nguồn. Đất lại là mẹ của cây cối và muôn hoa. Đất sinh sản ra
chúng, nuôi dưỡng, và bón mớm cho chúng. Cây và hoa trở thành mẹ hiền của quả
và mầm hạt. Mẹ, căn nguyên của mọi sự sống, là linh hồn bất diệt, tràn trề vẻ
đẹp và thương yêu.
|
Selma Karamy never knew her mother because she had died
when Selma was an infant, but Selma wept when she saw the picture and cried,
“Oh, mother!” The word mother is hidden in our hearts, and it comes upon our
lips in hours of sorrow and happiness as the perfume comes from the heart of
the rose and mingles with clear and cloudy air.
|
Selma Karamy chưa từng biết mẹ nàng, vì bà đã mất đi khi
Selma còn bé bỏng, nhưng Selma đã khóc khi nàng trông thấy tấm ảnh và kêu
than: “Mẹ ơi!” Tiếng “Mẹ” ẩn náu trong tim chúng ta, đến với đôi môi chúng ta
trong những giờ khắc buồn thảm và hạnh phúc, tựa như hương thơm tỏa ra. Từ
bông hồng hòa lẫn với bầu không khí khi nó trong sáng cũng như khi nó vẩn
đục.
|
Selma stared at her mother’s picture, kissing it
repeatedly, until she collapsed by her father’s bed.
|
Selma đăm đăm nhìn di ảnh mẹ, rồi hôn liên tiếp cho đến
khi mỏi mệt và gục xuống bên giường cha.
|
The old man placed both hands on her head and said, “I
have shown you, my dear child, a picture of your mother on paper. Now listen
to me and I shall let you hear her words.”
|
Ông cụ đặt hai tay lên đầu nàng và nói: “Con yêu quý, cha
vừa cho con thấy hình ảnh mẹ con. Bây giờ hãy nghe cha đây, cha sẽ cho con
nghe lời nói của người”.
|
She lifted her head like a little bird in the nest that
hears its mother’s wing, and looked at him attentively.
|
Nàng ngẩng đầu lên, như một con chim nhỏ trong tổ nghe
tiếng vỗ cánh của mẹ, và chăm chú nhìn cha nàng.
|
Farris Effandi opened his mouth and said, ‘Your mother was
nursing you when she lost her father; she cried and wept at his going, but
she was wise and patient. She sat by me in this room as soon as the funeral
was over and held my hand and said, ‘Farris, my father is dead now and you
are my only consolation in this world. The heart’s affections are divided
like the branches of the cedar tree; if the tree loses one strong branch, it
will suffer but it does not die. It will pour all its vitality into the next
branch so that it will grow and fill the empty place.’ This is what your
mother told me when her father died, and you should say the same thing when
death takes my body to its resting place and my soul to God’s care.’
|
Ông cụ nói: “Khi ông ngoại con mất thì mẹ con còn đang cho
con bú; người khóc than thương xót, nhưng người khôn ngoan và can đảm chịu
đựng. Sau khi xong tang lễ, người ngồi bên cha trong phòng này, cầm tay cha
và nói ‘Farris, cha em đã mất rồi. Từ nay mình là nguồn an ủi duy nhất của em
trên đời này. Tình thương của con tim phân chia ra như các cành của một cây
bách hương; nếu cây mất đi một cành lớn, nó sẽ đau đơn nhưng nó không chết.
Nó sẽ dồn tất cả sức sống vào cành bên cạnh để lớn lên bù vào khoảng trống’.
Đó là lời mẹ con nói với cha khi ông ngoại con mất, nay con cũng nên nói điều
tương tự khi Tử thần mang thể xác cha về nơi yên nghỉ và linh hồn cha về bàn
tay săn sóc của Trời”.
|
Selma answered him with falling tears and broken heart,
“When Mother lost her father, you took his place; but who is going to take
yours when you are gone? She was left in the care of a loving and truthful
husband; she found consolation in her little daughter, and who will be my
consolation when you pass away? You have been my father and mother and the
companion of my youth.”
|
Selma trả lời cha với nước mắt tuôn trào và trái
tim tan nát: “Khi mẹ
mất ông ngoại thì cha thay thế chỗ của ông; nhưng bây giờ ai thay chỗ của cha
khi cha đi rồi? Mẹ đã được hưởng sự săn sóc của người chồng yêu thương thành
thật, mẹ đã tìm thấy an ủi ở đứa con gái bé bỏng, và ai sẽ là nguồn an ủi của
con khi cha đi rồi? Cha đã vừa là cha vừa là mẹ vừa là người bạn thân của
con”.
|
Saying these words, she turned and looked at me, and,
holding the side of my garment, said, “This is the only friend I shall have
after you are gone, but how can he console me when he is suffering also? How
can a broken heart find consolation in a disappointed soul? A sorrowful woman
cannot be comforted by her neighbour’s sorrow, nor can a bird fly with broken
wings. He is the friend of my soul, but I have already placed a heavy burden
of sorrow upon him and dimmed his eyes with my tears till he can see nothing
but darkness. he is a brother whom I dearly love, but he is like all brothers
who share my sorrow and help me shed tears which increase my bitterness and burn
my heart.”
|
Rồi Selma quay lại nhìn tôỉ, cầm vạt áo tôi và nói: “Đây
là người bạn độc nhất của con sau khi cha đi, nhưng làm sao chàng có thể an
ủi con trong khi chính chàng cũng đang đau khổ? Làm sao con tim tan nát tìm
được an ủi trong một linh hồn thất vọng. Một phụ nữ đau buồn không thể tìm an
ủi trong nỗi buồn của một người bạn, hoặc con chim không thể bay bằng đôi
cánh gẫy. Chàng là người bạn của hồn con, nhưng con đã trót đặt cả gánh nặng
khổ đau lên vai chàng và lệ con làm mờ mắt chàng, đến nỗi chàng chẳng còn
trông thấy gì ngoài bóng tối. Chàng là người anh con yêu quý, nhưng con ái
ngại thấy chàng phải chia sớt cùng con nỗi buồn và giúp con vơi đi nước mắt;
điều này càng tăng thêm cay đắng và đốt cháy tim con”.
|
Selma’s words stabbed my heart, and I felt that I could
bear no more. The old man listened to her with depressed spirit. The old man
listened to her with depressed spirit, trembling like the light of a lamp
before the wind. Then he stretched out his hand and said, “Let me go
peacefully, my child. I have broken the bars of this cage; let me fly and do
not stop me, for your mother is calling me. The sky is clear and the sea is
calm and the boat is ready to sail; do not delay its voyage. Let my body rest
with those who are resting; let my dream end and my soul awaken with the
dawn; let your soul embrace mine and give me the kiss of hope; let no drops
of sorrow or bitterness fall upon my body lest the flowers and grass refuse
their nourishment. Do not shed tears of misery upon my hand, for they may
grow thorns upon my grave. Do not draw lines of agony upon my forehead, for
the wind may pass and read them and refuse to carry the dust of my bones to
the green prairies... I love you, my child, while I lived, and I shall love
you when I am dead, and my soul shall always watch over you and protect you.”
|
Lời Selma như những mũi kim chích vào tim tôi, tôi cảm
thấy hết chịu đựng nổi. Ông cụ ủ rũ lắng nghe nàng nói, và run rẩy như ngọn
đèn trước gió. Đoạn ông duỗi tay ra: “Con ơi, hãy để cha đi an lành. Cha đã
bẻ gẫy chấn song của cái lồng này rồi; để cha bay đi, đừng cản cha, vì mẹ con
đang gọi cha về. Bầu trời quang đãng, đại dương yên tĩnh, và con thuyền sẵn
sàng ra khơi; con đừng trì hoãn cuộc hành trình. Hãy để thể xác cha yên nghỉ
với những người đang yên nghỉ; hãy để giấc chiêm bao của cha kết thúc và hồn
cha thức giấc với bình minh. Linh hồn con hãy choàng lấy hồn cha trong phút
ly biệt và ban cho cha một nụ hôn hy vọng; chớ để một giọt u sầu, đắng cay
nào rơi xuống thân thể cha, e rằng cỏ hoa sẽ từ chối nguồn dinh dưỡng này.
Con đừng nhỏ lệ khổ lụy lên tay cha, sợ rằng trên mồ cha gai góc sẽ mọc lên.
Con cũng đừng vẽ trên trán cha những vết hằn khổ nhục, kẻo mai sau gió ngàn
đọc thấy sẽ từ chối mang bụi bậm của hài cốt cha về những cánh đồng cỏ xanh
tươi... Cha hằng yêu quý con lúc sinh thời, con ơi, cha sẽ yêu quý con khi
cha chết, và hồn cha sẽ luôn luôn trông nom bảo vệ con”.
|
When Farris Effandi looked at me with his eyes half closed
and said, “My son, be a real brother to Selma as your father was to me. Be
her help and friend in need, and do not let her mourn, because mourning for
the dead is a mistake. Repeat to her pleasant tales and sing for her the
songs of life so that she may forget her sorrows. Remember me to your father;
ask him to tell you the stories of your youth and tell him that I loved him
in the person of his son in the last hour of my life.”
|
Đoạn viên ngoại nhìn tôi với đôi mắt hé mở và nói: “Con
trai của bác, hãy thương yêu Selma như con là anh ruột nó, như cha con đã cư
xử với bác. Con hãy giúp em qua cơn đau khổ và đừng để nó khóc than, vì khóc
than cho người chết là sai lầm. Con hãy kể chuyện vui và hát những lời ca
ngợi cuộc sống cho nó nghe để họa may nó quên được nỗi buồn. Và con hãy nhắc nhở với cha con
về bác; hãy xin người kể cho con nghe những chuyện thời niên thiếu và hãy nói
rõ rằng bác đã yêu mến người, qua sự hiện diện của con, trong giờ phút cuối
cùng của đời bác”.
|
Silence prevailed, and I could see the pallor of death on
the old man’s face. Then he rolled his eyes and looked at us and whispered,
“Don’t call the physician, for he might extend my sentence in this prison by
his medicine. The days of slavery are gone, and my soul seeks the freedom of
the skies. And do not call the priest to my bedside, because his incantations
would not save me if I were a sinner, nor would it rush me to Heaven if I
were innocent. The will of humanity cannot change the will of God, as an
astrologer cannot change the course of the stars. But after my death let the
doctors and priest do what they please, for my ship will continue sailing
until it reaches its destination.”
|
Im lặng ngự một lúc, tôi có thể thấy vẻ xanh xao của cái
chết trên khuôn mặt ông cụ. Rồi ông mở mắt nhìn chúng tôi và thì thầm:
- Đừng gọi bác sĩ, kẻo họ có thể dùng thuốc thang kéo dài
thêm bản án của cha trong tù ngục này. Tháng ngày nô lệ qua rồi, hồn cha đi
tìm tự do trên các tầng trời. Và cũng đừng gọi linh mục đến bên giường cha,
vì những lời kinh cầu nguyện nào có cứu vớt được cha nếu cha là kẻ tội lỗi,
cũng đâu có giúp được cha mau lên Thiên đàng nếu cha vô tội. Ý con người
không thể thay ý trời, cũng như nhà thiên văn không đổi thay được hướng đi
của tinh tú. Nhưng sau khi cha chết, các con cứ để cho các y sĩ và linh mục
làm gì tùy họ, vì thuyền cha sẽ tiếp tục giong buồm đến khi tới bến.
|
At midnight Farris Effandi opened his tired eyes for the
last time and focused them on Selma, who was kneeling by his bedside. He
tried to speak, but could not, for death had already choked his voice; but he
finally managed to say, “The night has passed... Oh, Selma...Oh...Oh,
Selma...” Then he bent his head, his face turned white, and I could see a
smile on his lips as he breathed his last.
|
Đến nửa đêm viên ngoại mở đôi mi mắt mệt mỏi lần chót và
chú mục vào Selma; nàng đang quỳ bên giường cha. Ông cố cất tiếng mà không nổi vì thần chết đã
làm ông nghẹn lời; nhưng cuối cùng ông cụ cũng thều thào được: “Đêm tối đã
qua rồi... ôi, Selma... ôi... Ôi, Selma...”. Rồi ông gục đầu, sắc mặt trắng
bệch, và tôi có thể thấy một nụ cười phảng phất trên môi ông khi ông trút hơi
thở cuối cùng.
|
Selma felt her father’s hand. It was cold. Then she raised
her head and looked at his face. It was covered with the veil of death. Selma
was so choked that she could not shed tears, nor sigh, nor even move. For a
moment she stared at him with fixed eyes like those of a statue; then she
bent down until her forehead touched the floor, and said, “Oh, Lord, have
mercy and mend our broken wings.”
|
Selma cầm tay cha thăm dò. Bàn tay lạnh ngắt. Đoạn nàng
ngẩng đầu nhìn mặt ông. Gương mặt mơ hồ tấm mạng của cái chết. Selma uất
nghẹn đến độ nàng không thể nhỏ lệ, hoặc thở dài, hoặc dù chỉ cử động. Trong
một lúc lâu nàng nhìn ông đăm đăm không chớp mắt, như đôi mắt một pho tượng.
Rồi nàng khom lưng, trán chạm nền nhà và nói: “Chúa ơi! Xin ngài hãy xót
thương và chữa lành đôi cánh gãy của chúng con”.
|
Farris Effandi Karamy died; his soul was embraced by
Eternity, and his body was returned to the earth. Mansour Bey Galib got
possession of his wealth, and Selma became a prisoner of life–a life of grief
and misery.
|
Viên ngoại Karamy đã khuất bóng; linh hồn ông được ấp ủ
trong cõi Vô Cùng, thân xác ông trở về với lòng đất. Công tử Bey giành quyền
sở hữu gia tài của ông, và Selma trở thành người tù một đời - một đời hệ lụy
đắng cay.
|
I was lost in sorrow and reverie. Days and nights preyed
upon me as the eagle ravages its victim. Many a time I tried to forget my
misfortune by occupying myself with books and scriptures of past generation,
but it was like extinguishing fire with oil, for I could see nothing in the
procession of the past but tragedy and could hear nothing but weeping and
wailing. The Book of Job was more fascinating to me than the Psalms and I
preferred the Elegies of Jeremiah to the Song of Solomon. Hamlet was closer
to my heart than all other dramas of western writers. Thus despair weakens
our sight and closes our ears. We can see nothing but spectres of doom and
can hear only the beating of our agitated hearts.
|
Tôi lạc loài trong sầu não và ảo giác. Ngày đêm săn đuổi
tôi như chim ưng hành hạ con mồi. Nhiều lần tôi cố lãng quên nỗi bất hạnh
bằng cách miệt mài trong sách vở và kinh điển của bao đời trước, nhưng chẳng
khác nào lấy dầu dập lửa, bởi tôi chẳng thấy gì trong diễn trình của dĩ vãng
ngoài sự bi thảm, và chẳng nghe thấy gì khác hơn là những tiếng thổn thức,
oán than. Sách Job kể chuyện chiến đấu với thiên sứ làm tôi say mê hơn là tập
Nhã Ca, và tôi thích những bài Ai Vãn của tiên tri Jérémie hơn ca khúc của
vua Salomon. Vở bi kịch Hamlet gần gũi với tâm hồn tôi hơn mọi vở kịch khác
của các tác giả Tây phương. Bởi chưng sự vô vọng làm suy yếu thị giác và bưng
bít tai ta. Ta chẳng trông thấy gì ngoài bóng ma định mệnh đeo đẳng bên cạnh,
và chỉ có thể nghe được tiếng đập của con tim bứt rứt trong lồng ngực.
|
CHAPTER EIGHT
BETWEEN CHRIST AND
ISHTAR
|
CHƯƠNG 8
GIỮA CHÚA VÀ THẦN ÁI TÌNH
|
In the midst of the gardens and hills which connect the
city of Beirut with Lebanon there is a small temple, very ancient, dug out of
white rock, surrounded by olive, almond, and willow trees. Although this
temple is a half mile from the main highway, at the time of my story very few
people interested in relics and ancient ruins had visited it. It was one of
many interesting places hidden and forgotten in Lebanon. Due to its
seclusion, it had become a haven for worshippers and a shrine for lonely
lovers.
|
Giữa những khu vườn và những ngọn
đồi nối liền hải cảng Beirut
với nội địa Liban có một ngôi đền nhỏ rất cổ kính bằng đá hoa cương trắng,
có ô liu, hạnh, và dương liễu vây quanh. Dù ngôi đền này chỉ cách quốc lộ
chưa đầy một cây số, vào thời câu chuyện này xảy ra, ít người yêu cổ tích
chịu khó đến viếng thăm. Đó là một trong những nơi thanh cảnh, kín đáo và bị
lãng quên ở Liban. Chính nhờ cô tịch mà ngôi đền thành nơi nương tựa cho tín
đồ, chốn Thiêng Liêng của những người tình cô đơn.
|
As one enters this temple he sees on the wall at the east
side an old Phoenician picture, carved in the rock depicting Ishtar, goddess
of love and beauty, sitting on her throne, surrounded by seven nude virgins
standing in different posses. The first one carries a torch; the second, a
guitar; the third, a censer; the fourth a jug of wine; the fifth, a branch of
roses; the sixth, a wreath of laurel; the seventh, a bow and arrow; and all
of them look at Ishtar reverently.
|
Thoạt bước vào đền người ta thấy trên tường phía đông là
một bức tranh Phénicie tạc trong đá ảnh tượng Ishtar, nữ thần ái tình và sắc
đẹp, ngồi trên ngai, xung quanh có bầy trinh nữ khỏa thân đứng theo những tư
thế riêng. Nàng thứ nhất cầm một ngọn đuốc, nàng thứ hai một cây lục huyền
cầm, nàng thứ ba một lư trầm hương, nàng thứ tư một bình rượu bồ đào, nàng
thứ năm một cành hồng, nàng thứ sáu một vòng nguyệt quế, và nàng thứ bảy đeo
cung tên; tất cả đều cung kính chiêm ngưỡng nữ thần Ishtar.
|
In the second wall there is another picture, more modern
than the first one, symbolizing Christ nailed to the cross, and at His side
stand His sorrowful mother and Mary Magdalene and two other women weeping.
This Byzantine picture shows that it was carved in the fifteenth or sixteenth
century.*
|
Trên bức tường thứ nhì khắc một bức tranh khác mới hơn bức
tranh trước, biểu tượng Chúa Ki tô bị đóng đanh trên thập tự giá, bên cạnh
Ngài là Đức Mẹ sầu thảm, nàng Madelaine và hai người đàn bà khác đang khóc
lóc. Bức tranh kiểu Byzantine này chứng tỏ được khắc vào thế kỷ mười lăm hay
mười sáu.
|
In the west side wall there are two round transits through
which the sun’s rays enter the temple and strike the pictures and make them
look as if they were painted with gold water colour. In the middle of the
temple there is a square marble with old paintings on its sides, some of
which can hardly be seen under the petrified lumps of blood which show that
the ancient people offered sacrifices on this rock and poured perfume, wine,
and oil upon it.
|
Trên tường phía tây có hai ngách hình tròn đưa ánh sáng
vào đền rọi trên hai bức tranh, làm chúng trông như cẩn kim nhũ. Giữa đền là
một bệ cẩm thạch có những bức tranh cổ bao quanh; một vài bức khó nhận ra
dưới những khối huyết đã kết thạch, cho thấy người xưa đã dâng hiến những tế
vật trên phiến đá, và xức nước hoa, rượu nho, và dầu lên trên.
|
There is nothing else in that little temple except deep
silence, revealing to the living the secrets of the goddess and speaking
wordlessly of past generations and the evolution of religions. Such a sight
carries the poet to a world far away from the one in which he dwells and
convinces the philosopher that men were born religious; they felt a need for
that which they could not see and drew symbols, the meaning of which divulged
their hidden secrets and their desires in life and death.
|
Không còn gì khác trong ngôi đền nhỏ đó ngoài sự trầm
lặng, thổ lộ cùng người đời những bí ẩn của vị nữ thần, nói lên bằng vô ngôn
chuyện bao đời trước và bước thăng trầm của các tôn giáo. Một cảnh tượng như
vậy đưa thi sĩ đến một thế giới ngàn trùng cách biệt với thế giới đang sống
và làm cho triết gia tin rằng con người bẩm sinh đã mang lòng tín mộ; họ cảm
thấy một nhu cầu về điều họ không thể mục kích nên họ vẽ những hình tượng mà
ý nghĩa thổ lộ những bí ẩn sâu kín trong lòng cùng những khát vọng về cuộc
đời và cái chết.
|
In that unknown temple, I met Selma once every month and
spent the hours with her, looking at those strange pictures, thinking of the
crucified Christ and pondering upon the young Phoenician men and women who
lived, loved and worshipped beauty in the person of Ishtar by burning incense
before her statue and pouring perfume on her shrine, people for whom nothing
is left to speak except the name, repeated by the march of time before the
face of Eternity.
|
Trong ngôi đền hoang phế đó tôi gặp Selma mỗi tháng một
lần, cùng nàng hàng giờ ngắm những bức tranh trên tường, nghĩ về Chúa bị đóng
đinh và suy gẫm về những thanh niên thiếu nữ Phénicie đã sống, đã yêu, và đã
thờ phụng cái đẹp trong hình tượng Ishtar bằng cách đốt hương dưới chân nàng
và xức nước hoa lên bệ nàng, những người chẳng còn gì lưu lại ngoài cái tên
mà bước thời gian nhắc nhở trước khuôn mặt Vô Cùng.
|
It is hard to write down in words the memories of those
hours when I met Selma – those heavenly hours, filled with pain, happiness,
sorrow, hope, and misery.
|
Khó mà viết thành lời kỷ niệm của những giờ tôi gặp Selma
- những giờ thần thánh đầy đau đớn, hạnh phúc, sầu não, hy vọng, và khốn khổ.
|
We met secretly in the old temple, remembering the old
days, discussing our present, fearing our future, and gradually bringing out
the hidden secrets in the depths of our hearts and complaining to each other
of our misery and suffering, trying to console ourselves with imaginary hopes
and sorrowful dreams. Every now and then we would become calm and wipe our
tears and start smiling, forgetting everything except Love; we embraced each
other until our hearts melted; then Selma would print a pure kiss on my
forehead and fill my heart with ecstasy; I would return the kiss as she bent
her ivory neck while her cheeks became gently red like the first ray of dawn
on the forehead of hills. We silently looked at the distant horizon where the
clouds were coloured with the orange ray of sunset.
|
Chúng tôi gặp nhau âm thầm trong ngôi đền cổ, nhớ lại
những ngày xưa, bàn chuyện hiện tại, lo sợ tương lai, và dần dà bộc lộ những
bí ẩn giấu kín trong đáy lòng, cùng nhau than thở nỗi khổ đau; và cố an ủi
nhau bằng những hy vọng mơ hồ và những giấc mơ buồn thảm. Thỉnh thoảng chúng
tôi lại lặng lẽ lau nước mắt và mỉm cười quên hết chỉ biết có tình yêu; chúng
tôi hôn nhau đến chảy tan cả cõi lòng; rồi Selma sẽ ghi một cái hôn thanh
khiết trên trán tôi và rót đầy hoan lạc trong tim tôi. Tôi sẽ hôn lại khi
nàng nghiêng cổ ngà và gò má ửng hồng như tia bình minh thứ nhất trên trán
đồi. Chúng tôi yên lặng ngắm chân trời xa nơi mây nhuộm màu cam của ánh hoàng
hôn.
|
Our conversation was not limited to love; every now and
then we drifted on to current topics and exchanged ideas. During the course
of conversation Selma spoke of woman’s place in society, the imprint that the
past generation had left on her character, the relationship between husband
and wife, and the spiritual diseases and corruption which threatened married
life. I remember her saying: “The poets and writers are trying to understand
the reality of woman, but up to this day they have not understood the hidden
secrets of her heart, because they look upon her from behind the sexual veil
and see nothing but externals; they look upon her through the magnifying
glass of hatefulness and find nothing except weakness and submission.
|
Lời tâm sự của chúng tôi không phải chỉ giới hạn trong chuyện
yêu đương. Thỉnh thoảng chúng tôi lại lái sang những đề mục thường nhật và
trao đổi tư tưởng. Trong khi trò chuyện Selma nói về địa vị người phụ nữ
trong xã hội, vết hằn do các thế hệ trước in sâu trong cá tính họ, mối liên
hệ vợ chồng, những chứng bệnh tinh thần và những sa đọa đe dọa cuộc sống lứa
đôi. Tôi nhớ nàng nói: “Văn nhân thi sĩ cố tìm hiểu thực chất của người đàn
bà, nhưng tới ngày nay họ chưa hiểu những bí ẩn chôn giấu trong lòng nàng, vì
họ nhìn nàng qua tấm màn tình dục và chỉ thấy những khía cạnh bên ngoài. Họ
quan sát nàng qua tấm kính khuếch đại làm bằng đố kỵ nên chẳng thấy gì khác
hơn là sự yếu đuối và phục tòng”.
|
In another occasion she said, pointing to the carved
pictures on the walls of the temple, “In the heart of this rock there are two
symbols depicting the essence of a woman’s desires and revealing the hidden
secrets of her soul, moving between love and sorrow – between affection and
sacrifice, between Ishtar sitting on the throne and Mary standing by the
cross. The man buys glory and reputation, but the woman pays the price.”
|
Một lần khác nàng vừa chỉ vào những bức tranh khắc trên
tường đền vừa nói: “Trong lòng tấm đá này có hai biểu hiệu mô tả bản chất ước
vọng của người đàn bà và phơi bầy những bí ẩn chôn giấu của hồn nàng, giao
động giữa yêu đương và sầu thảm, giữa luyến ái và hy sinh, giữa nữ thần
Ishtar trên ngai và đức mẹ Maria bên thánh giá. Đàn ông mua vinh danh nhưng
đàn bà là người phải trả giá”.
|
No one knew about our secret meetings except God and the
flock of birds which flew over the temple. Selma used to come in her carriage
to a place named Pasha park and from there she walked to the temple, where
she found me anxiously waiting for her.
|
Chẳng ai biết những cuộc gặp gỡ bí mật của chúng tôi ngoài
Trời cao và những bầy chim bay qua đền. Selma thường đi xe đến một nơi gọi là
công viên Thượng Quan rồi từ đó đi bộ lại gặp tôi đang đợi chờ lo lắng tại
đền.
|
We feared not the observer’s eyes, neither did our
consciences bother us; the spirit which is purified by fire and washed by
tears is higher than what the people call shame and disgrace; it is free from
the laws of slavery and old customs against the affections of the human
heart. That spirit can proudly stand unashamed before the throne of God.
|
Chúng tôi không sợ cặp mắt của kẻ dòm ngó, cũng chẳng e
ngại lương tâm cắn rứt; tinh thần thanh lọc bằng lửa và tẩy gội bằng nước mắt
vượt trên những thứ người đời gọi là xấu hổ và ô nhục; nó thoát ra ngoài
những lề thói đầy tính chất nô lệ và những cổ tục phản lại tình tự của con
tim. Tinh thần đó có thể không hổ thẹn đến trước bệ Trời.
|
Human society has
yielded for seventy centuries to corrupted laws until it cannot understand
the meaning of the superior and eternal laws. A man’s eyes have become
accustomed to the dim light of candles and cannot see the sunlight. Spiritual disease is inherited
from one generation to another until it has become a part of people, who look
upon it, not as a disease, but as a natural gift, showered by God upon Adam.
If those people found someone free from the germs of this disease, they would
think of him with shame and disgrace.
|
Xã hội loài người đã
bảy ngàn năm quy phục những luật lệ hủ bại đến nỗi ngày nay không còn hiểu
nổi ý nghĩa của những luật tối thượng và bất diệt. Mắt một người đã quen với
ánh nến mờ không nhìn được ánh thái dương. Căn bệnh tâm linh lưu truyền từ đời này sang đời
khác đến trở thành một di sản của thiên hạ; người đời không nhìn nó như một
căn bệnh mà như một tặng phẩm tự nhiên Trời ban cho người đàn ông thứ nhất
Adam. Nếu thấy ai
không mắc phải mầm bệnh thì họ yên trí rằng người đó phải xấu hổ và ô nhục.
|
Those who think evil of Selma Karamy because she left her
husband’s home and met me in the temple are the diseased and weak-minded kind
who look upon the healthy and sound as rebels. They are like insects crawling
in the dark for fear of being stepped upon by the passer-by.
|
Những người nghĩ xấu cho Selma Karamy vì nàng dời nhà
chồng đến gặp tôi trong đền là loại người bệnh hoạn và yếu tinh thần, họ xem
kẻ khỏe mạnh an lành là phản loạn. Họ giống như loài sâu bọ bò trong bóng tối
vì sợ bước chân của khách qua đường xéo nát.
|
The oppressed
prisoners, who can break away from his jail and does not do so, is a coward. Selma, an innocent and oppressed
prisoner, was unable to free herself from slavery. Was she to blame because
she looked through the jail window upon the green fields and spacious sky?
Will the people count her as being untruthful to her husband because she came
from his home to sit by me between Christ and Ishtar? Let the people say what
they please; Selma had passed the marshes which submerge other spirits and
had landed in a world that could not be reached by the howling of wolves and
rattling of snakes. People may say what they want about me, for the spirit
who has seen the spectre of death cannot be scared by the faces of thieves;
the soldier who has seen the swords glittering over his head and streams of
blood under his feet does not care about rocks thrown at him by the children
on the streets.
|
Tù nhân bị áp bức
nào có thể phá ngục mà không làm là một người hèn. Selma, một tù nhân vô tội bị áp
bức, không thể giải thoát mình khỏi vòng nô lệ. Nàng có đáng trách không vì
đã dám nhìn những cánh đồng xanh và vòm trời rộng qua cửa sổ ngục thất? Người
ta có kể là nàng không chung thủy với chồng chăng khi nàng từ nhà đến ngồi
bên tôi giữa Chúa và nữ thần Tình Yêu? Hãy để người ta muốn nói gì thì nói;
Selma đã vượt qua những đầm lầy từng nhận chìm các linh hồn khác, và bước vào
một thế giới ngoài tầm tiếng tru của loài sói và tiếng rít của loài rắn.
Người ta có thể nói gì về tôi mặc lòng, vì một tâm linh đã thấy dáng dáng Tử
thần có bao giờ lại sợ mặt mũi phường đạo tặc; người lính đã thấy lưỡi gươm
lóe trên đầu và máu tuôn dưới chân lẽ nào lại đếm xỉa đến sỏi đá của lũ trẻ
bên đường ném ra.
|
CHAPTER NINE
THE SACRIFICE
|
CHƯƠNG 9
HY SINH
|
One day in the late part of June, as the people left the
city for the mountain to avoid the heat of summer, I went as usual to the
temple to meet Selma, carrying with me a little book of Andalusian poems. As
I reached the temple I sat there waiting for Selma, glancing at intervals at
the pages of my book, reciting those verses which filled my heart with
ecstasy and brought to my soul the memory of the kings, poets, and knights who
bade farewell to Granada, and left, with tears in their eyes and sorrow in
their hearts, their palaces, institutions and hopes behind. In an hour I saw
Selma walking in the midst of the gardens and I approaching the temple,
leaning on her parasol as if she were carrying all the worries of the world
upon her shoulders. As she entered the temple and sat by me, I noticed some
sort of change in her eyes and I was anxious to inquire about it.
|
Một ngày
vào cuối tháng sáu, khi thiên hạ dời thành thị lên núi để tránh cái nóng mùa
hè, như thường lệ tôi đến đến để gặp Selma,
mang theo một tập thơ Tây Ban Nha. Khi tới đền tôi ngồi đợi Selma, thỉnh
thoảng đọc lướt qua vài trang sách và ngâm nga những vần thơ rót đầy hoan lạc
trong lòng tôi, và mang đến hồn tôi những ký ức về các vua chúa, thi nhân và
hiệp sĩ đã từ biệt sứ Granada mắt rưng rưng lệ lòng chứa chan sầu, bỏ lại sau
họ những cung điện, những nền nếp cùng những hy vọng. Một giờ sau tôi thấy Selma bước giữa vườn cây
tiến về phía đền, nàng dựa dẫm vào cây dù che nắng như thể nàng đang mang tất
cả phiền não của thế gian trên đôi vai. Khi nàng vào đền và ngồi bên tôi, tôi
nhận thấy có gì khác lạ trong mắt nàng và lo lắng muốn tìm hiểu.
|
Selma felt what was going on in my mind, and she put her
hand on my head and said, “Come close to me, come my beloved, come and let me
quench my thirst, for the hour of separation has come.”
|
Selma
cảm thông những gì trong tâm trí tôi, nàng đặt tay lên đầu tôi và nói: “Hãy
lại gần em, anh yêu quý, giúp em dịu cơn khát vì giờ chia ly đã tới”.
|
I asked her, “Did your husband find out about our meeting
her?” She responded, “My husband does not care about me, neither does he know
how I spend my time, for he is busy with those poor girls whom poverty has
driven into the houses of ill fame; those girls who sell their bodies for
bread, kneaded with blood and tears.”
|
Tôi hỏi
nàng: “Phải chăng chồng em đã khám phá ra những cuộc gặp gỡ của chúng ta ở
đây?” Nàng trả lời: “Chồng em chả thiết gì đến em, cũng chẳng cần biết em
sống ra sao, vì ông ta còn bận bịu với những cô gái khốn khổ bị cảnh nghèo
túng đưa đẩy vào chốn ô danh, những cô gái bán thân nuôi miệng, máu hòa nước
mắt”.
|
I inquired, “What prevents you from coming to this temple
and sitting by me reverently before God? Is your soul requesting our
separation.?”
|
Tôi gạn
hỏi: “Vậy điều gì ngăn em tới đền này ngồi bên anh kính cẩn trước đấng Thiêng
Liêng? Có phải lòng em đòi chúng ta chia ly?”
|
She answered with tears in her eyes, “No, my beloved, my
spirit did not ask for separation, for you are a part of me. My eyes never
get tired of looking at you, for you are their light; but if destiny ruled
that I should walk the rough path of life loaded with shackles, would I be
satisfied if your fate should be like mine?” Then she added, “I cannot say
everything, because the tongue is mute with pain and cannot talk; the lips
are sealed with misery and cannot move; all I can say to you is that I am
afraid you may fall in the same trap I fell in.”
|
Nàng chan
hòa nước mắt trả lời: “Không đâu, anh yêu ơi! Hồn em lẽ nào đòi chia ly, vì
anh là một phần của em rồi. Cặp mắt em có bao giờ lại chán nhìn anh vì anh là
ánh sáng của chúng; nhưng nếu định mệnh bắt em phải bước nặng với cùm xích
trên đường đời, em nỡ lòng nào để số phận anh phải giống em?” Rồi nàng tiếp:
“Em không thể nói ra hết, bởi lưỡi em đã câm không thốt nên lời; môi em khép
kín vì khổ đau làm sao mấp máy; tất cả những gì em có thể nói được với anh là
em sợ anh cũng rơi vào cạm bẫy như em”.
|
When I asked, “What do you mean, Selma, and of whom are
you afraid?” She covered her face with her hands and said, “The Bishop has
already found out that once a month I have been leaving the grave which he
buried me in.”
|
Tôi hỏi:
“Em định nói gì thế Selma,
em sợ ai?” Nàng lấy tay che mặt và nói: “Ông Giám mục đã khám phá ra rằng mỗi
tháng một lần em ra khỏi ngôi mộ mà ông đã chôn em”.
|
I inquired, “Did the Bishop find out about our meetings
here?” She answered, “If he did, you would not see me here sitting by you,
but he is getting suspicious and he informed all his servants and guards to
watch me closely. I am feeling that the house I live in and the path I walk
on are all eyes watching me, and fingers pointing at me, and ears listening
to the whisper of my thoughts.”
|
Tôi gạn
hỏi: “Ông ta có biết chúng mình gặp gỡ ở đây không?” Nàng trả lời: “Nếu ông
biết anh đã chẳng thấy em ngồi bên anh; nhưng ông ngày càng nghi ngờ và dặn
gia nhân canh chừng em kỹ lưỡng. Em cảm thấy trong nhà em và trên đường em đi
toàn là những cặp mắt rình rập, những ngón tay chỉ trỏ và những đôi tai nghe
ngóng tiếng thì thầm của ý nghĩ em”.
|
She was silent for a while, and then she added, with tears
pouring down her cheeks, “I am not afraid of the Bishop, for wetness does not
scare the drowned, but I am afraid you might fall into the trap and become
his prey; you are still young and free as the sunlight. I am not frightened
of fate which has shot all its arrows in my breast, but I am afraid the
serpent might bite your feet and detain you from climbing the mountain peak
where the future awaits you with its pleasure and glory.”
|
Nàng im
lặng một lúc rồi nói tiếp, lệ tuôn trên má: “Em không sợ ông Giám mục vì
người chết đuối còn ngại gì bị ướt; nhưng em sợ anh có thể sa cạm bẫy và
thành con mồi của ông. Anh còn trẻ và tự do như mặt trời. Số phận không còn
làm em kinh hoàng vì nó đã bắn hết tên vào ngực em rồi, nhưng em ngại con rắn
có thể mổ chân anh, ngăn anh trèo lên đỉnh núi, ở đó tương lai đón chờ anh
với niềm vui và vinh quang”.
|
I said, “He who has not been bitten by the serpents of
light and snapped at by the wolves of darkness will always be deceived by the
days and nights. But listen, Selma, listen carefully; is separation the only
means of avoiding people’s evils and meanness? Has the path of love and
freedom been closed and is nothing left except submission to the will of the
slaves of death?”
She responded, “Nothing is left save separation and
bidding each other farewell.”
|
Tôi nói:
“Kẻ nào chưa bị loài rắn ánh sáng cắn và loài sói đêm tối ngoạm bao giờ cũng
bị ngày đêm lừa phỉnh. Nhưng này Selma
em hãy nghe đây, hãy cẩn thận lắng nghe. Có phải chia ly là cách độc nhất để
tránh những xấu xa đê tiện của thiên hạ? Có phải đường tình và tự do đã đóng
và chẳng còn đường nào khác ngoài sự tuân phục ý những tên đầy tớ của Tử thần?”
Nàng đáp:
“Chẳng còn gì ngoài chia ly và từ biệt nhau”.
|
With rebellious spirit I took her hand and said excitedly,
“We have yielded to the people’s will for a long time; since the time we met
until this hour we have been led by the blind and have worshipped with them
before their idols. Since the time I met you we have been in the hands of the
Bishop like two balls which he has thrown around as he pleased. Are we going
to submit to his will until death takes us away?
|
Tinh thần
xung phẫn, tôi cầm tay nàng, nói mê man: “Chúng ta đã chiều ý thiên hạ lâu
rồi; kể từ lúc gặp gỡ tới lúc này chúng ta đã bị những người mù dẫn dắt và đã
cùng họ quỳ lạy thần tượng của họ. Từ ngày tôi gặp em, chúng ta đã ở trong
tay ông Giám mục như những cục đất ông muốn ném đi đâu mặc tình. Chúng ta cứ
chịu chiều ý ông cho đến khi cái chết mang đi sao?
|
Did God give us the breath of life to place it under
death’s feet? Did He give us liberty to make it a shadow of slavery? He who
extinguishes his spirit’s fire with his own hands is an infidel in the eyes
of Heaven, for Heaven set the fire that burns in our spirits. He who does not
rebel against oppression is doing himself injustice. I love you, Selma, and
you love me, too; and Love is a precious treasure, it is God’s gift to sensitive
and great spirits. Shall we throw this treasure away and let the pigs scatter
it and trample on it? This world is full of wonder and beauty. Why are we
living in this narrow tunnel which the Bishop and his assistants have dug out
for us? Life is full of happiness and freedom; why don’t we take this heavy
yoke off our shoulders and break the chains tied to our feet, and walk freely
toward peace? Get up and let us leave this small temple for God’s great
temple. Let us leave this country and all its slavery and ignorance for
another country far away and unreached by the hands of the thieves. Let us go
to the coast under the cover of night and catch a boat that will take us
across the oceans, where we can find a new life full of happiness and
understanding. Do not hesitate, Selma for these minutes are more precious to
us than the crowns of kings and more sublime than the thrones of angels. Let
us follow the column of light that leads us from this arid desert into the
green fields where flowers and aromatic plants grow.”
|
Trời đâu
có ban cho ta sinh khí để ta đặt nó dưới chân thần chết? Trời đâu có ban cho
ta tự do để làm cái bóng cho nô lệ? Kẻ nào chính tay dập tắt ngọn lửa linh
hồn sẽ là một kẻ phản phúc dưới mắt Trời, vì ngài thắp sáng ngọn lửa hồn ta. Kẻ
nào không chống áp bức là bất công với chính mình. Tôi yêu em, Selma ạ, và em cũng yêu
tôi nữa. Tình yêu là một kho báu trời ban cho những tâm hồn nhạy cảm và cao
thượng. Trần gian chan chứa kỳ diệu và đẹp đẽ, sao chúng ta lại sống trong
đường hầm chật chội do ông Giám mục và những kẻ tùy tòng đào cho? Cuộc đời
đầy niềm vui và tự do, sao chúng ta không trút bỏ gông cùm trên vai và phá
tan xiềng xích dưới chân để thanh thản bước tới an lành? Hãy đứng lên em và
lìa bỏ ngôi đền nhỏ này để vào nhà Trời rộng lớn. Ta hãy bỏ xứ này cùng với
những xiềng xích của nô lệ và ngu dốt để đến một xứ xa ngoài tầm tay phường
trộm cướp. Chúng ta hãy đi ra bờ biển trong bóng đêm, lên một chiếc tầu đem
chúng ta vượt đại dương, tìm đời sống mới tràn trề hạnh phúc và cảm thông.
Đừng do dự, Selma
ạ, vì những giây phút này đối với chúng ta còn đáng quý hơn vương miện của
vua chúa và cao cả hơn bệ ngọc của thần thánh. Ta hãy theo luồng hào quang
dẫn ta ra khỏi sa mạc khô cằn tới đồng xanh có hoa thơm cỏ lạ”.
|
She shook her head and gazed at something invisible on the
ceiling of the temple; a sorrowful smile appeared on her lips; then she said,
“No, no my beloved. Heaven placed in my hand a cup, full of vinegar and gall;
I forced myself to drink it in order to know the full bitterness at the
bottom until nothing was left save a few drops, which I shall drink
patiently. I am not worthy of a new life of love and peace; I am not strong
enough for life’s pleasure and sweetness, because a bird with broken wings
cannot fly in the spacious sky. The eyes that are accustomed to the dim light
of a candle are not strong enough to stare at the sun. Do not talk to me of
happiness; its memory makes me suffer. Mention not peace to me; its shadow
frightens me; but look at me and I will show you the holy torch which Heaven
has lighted in the ashes of my heart – you know that I love you as a mother
loves her only child, and Love only taught me to protect you even from
myself. It is Love, purified with fire, that stops me from following you to
the farthest land. Love kills my desires so that you may live freely and
virtuously. Limited love asks for
possession of the beloved, but the unlimited asks only for itself. Love that
comes between the naiveté and awakening of youth satisfies itself with
possessing, and grows with embraces. But Love which is born in the
firmament’s lap and has descended with the night’s secrets is not contended
with anything but Eternity and immortality; it does not stand reverently
before anything except deity.
|
Nàng lắc
đầu và đăm đăm nhìn một điểm vô hình trên vòm đền; với nụ cười buồn nở trên
môi nàng nói: “Không, không anh ơi, Trời đã đặt trong tay em một chén dấm
chua hòa mật đắng. Em đã ép mình uống cạn để biết trọn nỗi đắng cay, nay
trong đáy chén chỉ còn vài giọt, em sẽ kiên tâm uống nốt. Em không xứng với
một cuộc đời mới có yêu đương và an lành. Em không còn đủ sức đón nhận hoan
lạc và ngọt bùi của đời, vì con chim gẫy cánh làm sao bay suốt khoảng trời
cao. Mắt đã quen ánh nèn mờ không đủ mạnh để nhìn ánh mặt trời. Đừng nhắc đến
hạnh phúc với em, nhớ đến kỷ niệm về nó lòng em đau đớn... Cũng đừng nói an
lành với em, bóng nó làm em sợ; nhưng hãy nhìn em và em sẽ tỏ cho anh thấy
ngọn đuốc thiêng nhà Trời đã thắp trong tro tàn lòng em - anh hẳn biết em yêu
anh như người mẹ yêu đứa con một, và tình yêu dạy em phải che chở cho anh
ngay cả với chính em. Chính Tình Yêu, thanh lọc trong lửa, đã ngăn em theo
anh đến chân mây góc biển, tình yêu dập tắt ước vọng của em để anh được sống
tự do và trong sạch. Tình yêu hạn hẹp
đòi chiếm hữu người yêu, nhưng tình yêu vô biên chẳng đòi hỏi gì ngoài chính
nó. Tình yêu đến giữa thời thơ dại và tuổi dậy thì thỏa mãn bằng chiếm hữu và
lớn theo vòng tay ôm. Nhưng tình yêu sinh trong lòng trời và giáng trần cùng
bí ẩn của đêm không bằng lòng với gì khác hơn là Vĩnh hằng và bất diệt; nó
chẳng chịu nghiêng mình trước gì ngoài thần tính.
|
When I knew that the Bishop wanted to stop me from leaving
his nephew’s house and to take my only pleasure away from me, I stood before
the window of my room and looked toward the sea, thinking of the vast
countries beyond it and the real freedom and personal independence which can
be found there. I felt that I was living close to you, surrounded by the
shadow of your spirit, submerged in the ocean of your affection. But all
these thoughts which illuminate a woman’s heart and make her rebel against
old customs and live in the shadow of freedom and justice, made me believe
that I am weak and that our love is limited and feeble, unable to stand
before the sun’s face. I cried like a king whose kingdom and treasure have
been usurped, but immediately I saw your face through my tears and your eyes
gazing at me and I remembered what you said to me once (Come, Selma, come and
let us be strong towers before the tempest. Let us stand like brave soldiers
before the enemy and face his weapons. If we are killed, we shall die as
martyrs; and if we win, we shall live as heroes. Braving obstacles and
hardships is nobler than retreat to tranquillity.) These words, my beloved,
you uttered when the wings of death were hovering around my father’s bed; I
remembered them yesterday when the wings of despair were hovering above my
head. I strengthened myself and felt, while in the darkness of my prison,
some sort of precious freedom easing our difficulties and diminishing our
sorrows. I found out that our love was as deep as the ocean and as high as
the stars and as spacious as the sky. I came here to see you, and in my weak
spirit there is a new strength, and this strength is the ability to sacrifice
a great thing in order to obtain a greater one; it is the sacrifice of my
happiness so that you may remain virtuous and honourable in the eyes of the
people and be far away from their treachery and persecution.
|
Khi em
biết ông Giám mục muốn ngăn em ra khỏi nhà cháu ông và cất đi niềm vui độc
nhất của em, em đứng bên cửa sổ trong phòng ngóng về biển, nghĩ tới những
miền đất bao la bên kia đại dương cùng tự do đích thực và độc lập riêng tư
người ta được hưởng tại đó. Lúc đó em cảm thấy đang được sống gần anh, được
vây bọc trong bóng hồn anh, chìm đắm trong biển tình anh. Nhưng tất cả những
ý nghĩ thắp sáng trái tim một phụ nữ và làm nàng nổi dậy chống hủ tục để sống
trong bóng tự do công lý này làm em tin rằng em yếu đuối và tình chúng ta hạn
hẹp và nhu nhược, không thể đứng trước mặt Trời. Em đã khóc như một ông vua
bị thoán đoạt ngai vàng và kho báu, nhưng ngay khi đó em thấy gương mặt anh
qua làn nước mắt, mắt anh đăm đăm nhìn em và em nhớ lại những lời đã một lần
anh nói với em: ‘Nào, Selma, nào, chúng ta phải như những ngọn tháp vững chắc
trước cơn bão táp. Chúng ta hãy hiên ngang như những chiến sĩ dũng cảm đối
diện với kẻ địch có vũ khí trong tay. Nếu bị giết, chúng ta sẽ chết như những
kẻ tuẫn tiết; và nếu thắng, chúng ta sẽ sống như những anh hùng. Chống chọi
chướng ngại và cam khổ cao cả hơn là chạy trốn cầu an’. Anh yêu những lời này
anh thốt ra khi đôi cánh Tử thần chập chờn trên đầu giường cha em; hôm qua em
nhớ lại chúng khi đôi cánh của tuyệt vọng chập chờn trên đầu em. Em thêm được
nghị lực và cảm thấy - trong cảnh tối tăm của ngục tù - một thứ tự do quý báu
cất nhẹ khó khăn và giải trừ phiền não của chúng ta. Em thấy rằng tình chúng
ta sâu như đại dương, cao như ngàn sao và rộng như bầu trời. Em đến đây gặp
anh và trong tâm hồn yếu đuối của em có một sức mạnh mới, sức mạnh đó là cái
khả năng hy sinh một điều trọng đại để đạt được một điều còn trọng đại hơn;
đó là hy sinh hạnh phúc em để anh được trong sạch và rạng rỡ trong mắt người
đời và xa cách sự lường gạt và ngược đãi của họ.
|
In the past, when I came to this place I felt as if heavy
chains were pulling down on me, but today I came here with a new
determination that laughs at the shackles and shortens the way. I used to
come to this temple like a scared phantom, but today I came like a brave
woman who feels the urgency of sacrifice and knows the value of suffering, a
woman who likes to protect the one she loves from the ignorant people and
from her hungry spirit. I used to sit by you like a trembling shadow, but
today I came here to show you my true self before Ishtar and Christ.
|
Trước đây,
khi em tới chốn này em cảm thấy như có xiềng xích nặng lôi em xuống, nhưng
hôm nay em tới đây với lòng cương quyết mới mẻ, cười khinh xiềng xích và rút
ngắn đường dài. Em thường đến đền này như một bóng ma nhút nhát, nhưng hôm
nay em đến như một phụ nữ can đảm cảm thấy cần hy sinh và biết giá trị của
khổ đau, một người đàn bà muốn che chở người yêu khỏi những kẻ u mê và khỏi
tâm hồn khao khát của nàng. Em thường đến ngồi bên anh như một chiếc bóng run
rẩy, nhưng hôm nay em đến đây để tỏ bầy cùng anh bản ngã chân thực của em
trước nữ thần Tình Yêu và Chúa.
|
I am a tree, grown in the shade, and today I stretched my
branches to tremble for a while in the daylight. I came here to tell you
good-bye, my beloved, and it is my hope that our farewell will be great and
awful like our love. Let our farewell be like fire that bends the gold and
makes it more resplendent.”
|
Em là một
thân cây lớn lên trong bóng đêm, hôm nay em vươn cành run rẩy một hồi trong
thanh thiên bạch nhật. Em đến để chào từ biệt anh, và em hy vọng rằng cuộc
chia tay của chúng ta sẽ cao cả và khả kính như mối tình đôi ta. Chúng ta hãy
khiến cuộc chia tay này giống như ngọn lửa thử vàng làm vàng càng thêm ngời
sáng”.
|
Selma did not allow me to speak or protest, but she looked
at me, her eyes glittering, her face retaining its dignity, seeming like an
angel worthy of silence and respect. Then she flung herself upon me,
something which she had never done before, and put her smooth arms around me
and printed a long, deep, fiery kiss on my lips.
|
Selma
không cho tôi lên tiếng hoặc phản đối, nàng nhìn tôi, đôi mắt long lanh,
gương mặt nàng nghiêm nghị khác nào một thiên thần buộc ta lặng thinh chiêm
ngưỡng. Đoạn nàng ôm chầm lấy tôi - một cử chỉ Selma từ trước chưa hề có - choàng đôi tay
êm ái quanh tôi, và in một cái hôn dài, nồng nàn, nóng bỏng, trên môi tôi.
|
As the sun went down, withdrawing its rays from those
gardens and orchards, Selma moved to the middle of the temple and gazed along
at its walls and corners as if she wanted to pour the light of her eyes on
its pictures and symbols. Then she walked forward and reverently knelt before
the picture of Christ and kissed His feet, and she whispered, “Oh, Christ, I
have chosen Thy Cross and deserted Ishtar’s world of pleasure and happiness;
I have worn the wreath of thorns and discarded the wreath of laurel and
washed myself with blood and tears instead of perfume and scent; I have drunk
vinegar and gall from a cup which was meant for wine and nectar; accept me,
my Lord, among Thy followers and lead me toward Galilee with those who have
chosen Thee, contended with their sufferings and delighted with their
sorrows.”
|
Khi mặt
trời xế bóng, thu ánh sáng trong hoa viên và vườn cây, Selma tiến lại giữa đền, chú mục nhìn từng
bức tường, từng góc tối, tựa hồ nàng muốn trút ánh sáng từ mắt nàng lên những
bức tranh và hình tượng. Đoạn nàng kính cẩn bước lại quỳ bên tượng Chúa, hôn
lên chân ngài và thì thào: “Chúa ơi! Con đã chọn thánh giá Chúa và từ bỏ thế
giới hoan lạc của Ishtar; con đã đội mão gai và vứt bỏ vòng nguyệt quế, tự
tắm gội bằng máu và nước mắt thay vì bằng hương hoa; con đã uống dấm chua với
mật đắng trong chiếc chén đáng lẽ phải đựng rượu nho và mật hoa. Chúa ơi! Xin
hãy thu nhận con làm môn đồ và đưa con về Đất Hứa cùng những kẻ đã chọn ngài,
những kẻ bằng lòng với đớn đau, và vui vẻ với khổ sầu của họ”.
|
When she rose and looked at me and said, “Now I shall
return happily to my dark cave, where horrible ghosts reside, Do not
sympathize with me, my beloved, and do not feel sorry for me, because the
soul that sees the shadow of God once will never be frightened, thereafter,
of the ghosts of devils. And the eye that looks on heaven once will not be
closed by the pains of the world.”
|
Đoạn nàng
đứng lên nhìn tôi nói: “Bây giờ em sung sướng trở về chiếc hang tăm tối của
em. Nơi đó có những bóng ma khủng khiếp. Đừng chia buồn cùng em, anh yêu;
cũng đừng thương hại em, vì mảnh linh hồn đã một lần thấy bóng Trời, về sau
sẽ chẳng bao giờ khiếp sợ ma quỷ. Con mắt đã một lần nhìn thấy cõi Trời, sẽ
không thể khép lại vì những đớn đau trần thế”.
|
Uttering these words, Selma left the place of worship; and
I remained there lost in a deep sea of thoughts, absorbed in the world of
revelation where God sits on the throne and the angels write down the acts of
human beings, and the souls recite the tragedy of life, and the brides of
Heaven sing the hymns of love, sorrow and immortality.
|
Nói xong
những lời này, Selma ra khỏi đền; còn tôi ở lại trong đó, hồn phách lạc vào
biển sâu tư tưởng, và nhập vào một thế giới ảo mộng, có Thượng Đế ngự trên
ngai và các thiên thần ghi chép cách hành động cảu con người, có những linh
hồn kể lể thảm kịch cuộc đời, và có những tiên nữ hát bài ca tình yêu, nỗi
buồn, và bất tử.
|
Night had already come when I awakened from my swoon and
found myself bewildered in the midst of the gardens, repeating the echo of
every word uttered by Selma and remembering her silence, ,her actions, her
movements, her expression and the touch of her hands, until I realized the
meaning of farewell and the pain of lonesomeness. I was depressed and
heart-broken. It was my first discovery of the fact that men, even if they
are born free, will remain slaves of strict laws enacted by their
forefathers; and that the firmament, which we imagine as unchanging, is the
yielding of today to the will of tomorrow and submission of yesterday to the
will of today – Many a time, since the night, I have thought of the spiritual
law which made Selma prefer death to life, and many a time I have made a
comparison between nobility of sacrifice and happiness of rebellion to find
out which one is nobler and more beautiful; but until now I have distilled
only one truth out of the whole matter, and this truth is sincerity, which makes
all our deeds beautiful and honourable. And this sincerity was in Selma
Karamy.
|
Khi tôi
tỉnh cơn mê thì trời đã tối. Tôi thấy mình đang mê sảng giữa vườn hoa, lặp
lại dư âm từng tiếng Selma
đã thốt, nhớ lại vẻ lặng thinh, hành vi, sắc diện nàng, tay nàng mơn trớn,
cho đến khi tôi nhận thức ý nghĩa cuộc chia ly cùng niềm nhức nhối của cô
đơn. Tôi thấy tuyệt vọng, cõi lòng tan tác. Đó là lần đầu tôi nghiệm ra rằng
con người, dù khi chào đời có tự do, vẫn là nô lệ cho những điều luật khắt
khe ông cha đã chấp nhận; rằng bầu trời mà ta tưởng chừng bất biến, là sự
thán phục của hôm nay với ý ngày mai, và sự quy thuận của hôm qua với ý nay.
Kể từ sau đêm đó, nhiều lần tôi suy gẫm về điều luật tinh thần đã khiến Selma
thà chọn cái chết hơn là sự sống, và rất nhiều lần tôi đã so sánh xem giữa
cái cao đẹp của hy sinh với cái khoái cảm của nổi loạn điều nào cao quý và
đẹp đẽ hơn; nhưng cho đến nay tôi chỉ mới gạn lọc được chân lý từ toàn thể
vấn đề đó; chân lý đó là lòng chân thành, nó làm mọi hành vi của ta đẹp đẽ và
đáng kính. Và lòng chân thành này đã hiện hữu trong Selma Karamy.
|
CHAPTER TEN
THE RESCUER
|
CHƯƠNG 10
KẺ GIẢI THOÁT
|
Five years of Selma’s marriage passed without bringing
children to strengthen the ties of spiritual relation between her and her husband
and bind their repugnant souls together.
|
Selma
đã chung sống với chồng nàng được năm năm trời mà vẫn chưa có con để thắt
chặt mối liên hệ tinh thần giữa nàng và người chồng và hòa giải hai linh hồn
đố kỵ.
|
A barren woman is looked upon with disdain everywhere
because of most men’s desire to perpetuate themselves through posterity.
|
Ở mọi nơi,
người đàn bà hiếm muộn đều bị miệt thị bởi đa số đàn ông đều khát vọng có con
nối giòng.
|
The substantial man considers his childless wife as an
enemy; he detests her and deserts her and wishes her death. Mansour Bey Galib
was that kind of man; materially, he was like earth, and hard like steel and
greedy like a grave. His desire of having a child to carry on his name and
reputation made him hate Selma in spite of her beauty and sweetness.
|
Một người
đàn ông khỏe mạnh coi người vợ không con như kẻ thù; y oán ghét nàng, ruồng
bỏ nàng, và cầu mong cho nàng chết đi. Công tử Bey thuộc loại người này; so
sánh theo vật chất, y giống như cục đất, cứng như thép, và tham lam như cái
huyệt. Cái khát vọng có con để nối dõi tông đường đã khiến y oán ghét Selma dù nàng đẹp và
hiền thục.
|
A tree grown in a cave does not bear fruit; and Selma, who
lived in the shade of life, did not bear children...
|
Một cái
cây sinh trong hang hốc không kết trái; và Selma, người đàn bà sống trong xó tối cuộc
đời không sinh con cái...
|
The nightingale does not make his nest in a cage lest
slavery be the lot of its chicks.... Selma was a prisoner of misery and it
was Heaven’s will that she would not have another prisoner to share her life.
The flowers of the field are the children of sun’s affection and nature’s
love; and the children of men are the flowers of love and compassion.....
|
Con họa mi
không làm tổ trong lồng, hầu tránh số phận tù đày cho lũ chim con... Selma là một tù nhân
khốn đốn nên Trời dạy rằng nàng không nên có một tù nhân khác chia sớt kiếp
nàng. Những đóa hoa đồng nội là đàn con sinh do lòng ưu ái của Trời và tình
yêu thiên nhiên; và con cái loài người là những đóa hoa kết tinh của tình yêu
thương...
|
The spirit of love and compassion never dominated Selma’s
beautiful home at Ras Beyrouth; nevertheless, she knelt down on her knees
every night before Heaven and asked God for a child in whom she would find
comfort and consolation... She prayed successively until Heaven answered her
prayers...
|
Vị thần
Yêu Thương chẳng bao giờ ngự trong ngôi nhà tráng lệ của Selma
ở ngoại thành Beirut;
dầu vậy mỗi tối nàng vẫn quỳ gối cầu xin Trời một mụn con để làm nguồn an
ủi... Nàng cầu hết ngày này sang tháng khác cho đến khi Trời đáp lại...
|
The tree of the cave blossomed to bear fruit at last. The
nightingale in the cage commenced making its nest with the feathers of its
wings.
|
Cái cây
trong hang rồi cũng được đơm hoa kết trái. Con họa mi trong lồng khởi công
xây tổ bằng những sợi lông cánh.
|
Selma stretched her chained arms toward Heaven to receive
God’s precious gift and nothing in the world could have made her happier than
becoming a potential mother.
|
Selma
dang đôi tay xiềng xích lên trời để nhận lãnh món quà quý báu, không gì trên
đời có thể làm nàng vui sướng hơn là thành người mẹ thai nghén...
|
She waited anxiously, counting the days and looking
forward to the time when Heaven’s sweetest melody, the voice of her child,
should ring in her ears....
|
Nàng bồn
chồn chờ đợi, đếm từng ngày và mong đến lúc điệu nhạc tuyệt diệu của Trời -
tiếng đứa con - ngân vang trong tai...
|
She commenced to see the dawn of a brighter future through
her tears.
|
Qua làn
nước mắt, Selma
bắt đầu trông thấy rạng đông của một tương lai sáng sủa hơn...
|
It was the month of Nisan when Selma was stretched on the
bed of pain and labour, where life and death were wrestling. The doctor and
the midwife were ready to deliver to the world a new guest. Late at night
Selma started her successive cry... a cry of life’s partition from life... a
cry of continuance in the firmament of nothingness.. a cry of a weak force
before the stillness of great forces... the cry of poor Selma who was lying
down in despair under the feet of life and death.
|
Đất trời
đang tiết xuân khi Selma
nằm trên chiếc giường cực nhọc đớn đau của sản phụ, nơi sự sống dằng co với
Tử thần. Bác sĩ và bà mụ đã sẵn sàng trao cho trần thế một người khách mới.
Đến nửa đêm Selma
bắt đầu rên la không ngớt... tiếng khóc của sự sống tách ra từ cuộc đời...
tiếng khóc của triền miên trong bầu trời hư vô... tiếng khóc của một sức mọn
trước cái vô tình của bao sức lớn lao... Tiếng khóc của nàng Selma đáng thương đang
nằm xuống trong tuyệt vọng dưới chân sự sống và thần chết.
|
At dawn Selma gave birth to a baby boy. When she opened
her eyes she saw smiling faces all over the room, then she looked again and
saw life and death still wrestling by her bed. She closed her eyes and cried,
saying for the first time, “Oh, my son.” The midwife wrapped the infant with
silk swaddles and placed him by his mother, but the doctor kept looking at
Selma and sorrowfully shaking his head.
|
Lúc rạng
đông Selma
cho ra đời một bé trai. Khi mở mắt nàng thấy những nét mặt tươi cười quanh
phòng, đoạn nàng nhìn lại và thấy sự sống đang vật nhau cùng thần chết bên
giường. Selma
nhắm mắt khóc, và lần đầu nàng nói: “Ô, con trai của tôi”. Bà mụ quấn tã cho
hài nhi và đặt nó nằm cạnh mẹ, nhưng người y sĩ cứ đăm chiêu nhìn Selma và lắc đầu buồn
bã.
|
The voices of joy woke the neighbours, who rushed into the
house to felicitate the father upon the birth of his heir, but the doctor
still gazed at Selma and her infant and shook his head....
|
Những
tiếng hân hoan đánh thức hàng xóm dậy, họ chạy sang chúc tụng người cha từ
nay có kẻ nối dõi, nhưng người y sĩ vẫn đăm đăm nhìn mẹ con Selma và lắc đầu...
|
The servants hurried to spread the good news to Mansour
Bey, but the doctor stared at Selma and her child with a disappointed look on
his face.
|
Gia nhân
vội vã đi báo tin mừng cho công tử Bey, nhưng người y sĩ lặng nhìn mẹ con Selma, mặt lộ đầy thất
vọng.
|
As the sun came out, Selma took the infant to her breast;
he opened his eyes for the first time and looked at his mother; then he
quivered and close them for the last time. The doctor took the child from
Selma’s arms and on his cheeks fell tears; then he whispered to himself, “He
is a departing guest.”
|
Khi mặt
trời lên Selma
cho con bú; nó mở mắt lần đầu nhìn mẹ; đoạn nó run lẩy bẩy khép mắt lần cuối.
Người y sĩ ẵm đứa trẻ trong tay Selma,
những giọt nước mắt lăn trên má ông, và ông thì thầm một mình: “Người khách
đi rồi”.
|
The child passed away while the neighbours were
celebrating with the father in the big hall at the house and drinking to the
health of their heir; and Selma looked at the doctor, and pleaded, “Give me
my child and let me embrace him.”
|
Đứa trẻ ra
đi trong lúc những người láng giềng đang mải chia vui cùng người cha ngoài
phòng khách; Selma
nhìn bác sĩ khẩn khoản: “Xin đưa con tôi cho tôi, để tôi ôm ấp nó”.
|
Though the child was dead, the sounds of the drinking cups
increased in the hall.....
He was born at dawn and died at sunrise...
He was born like a thought and died like a sigh and
disappeared like a shadow.
He did not live to console and comfort his mother.
His life began at the end of the night and ended at the
beginning of the day, like a drop of few poured by the eyes of the dark and
dried by the touch of the light.
|
Mặc dù đứa
trẻ đã chết, tiếng ly cốc va chạm cứ lớn dần ngoài phòng khách...
Đứa bé ra
đời lúc tinh sương, và chết lúc mặt trời lên...
Nó sinh ra
như một tư tưởng, rồi chết đi như một tiếng thở dài, và biến mất như một cái
bóng mờ.
Nó không
sống để an ủi vỗ về mẹ nó.
Cuộc đời
nó bắt đầu lúc đêm tối hầu tàn và chấm dứt lúc ban ngày mới chớm, như một
giọt sương rơi từ mắt đêm tối và khô đi khi gặp ánh ban mai.
|
A pearl brought by the tide to the coast and returned by
the ebb into the depth of the sea....
A lily that has just blossomed from the bud of life and is
mashed under the feet of death.
A dear guest whose appearance illuminated Selma’s heart
and whose departure killed her soul.
This is the life of men, the life of nations, the life of
suns, moons and stars.
|
Một viên
ngọc trai thủy triều đánh lên bãi cát, rồi lại trở về lòng biển thẳm khi con
nước rút đi...
Một bông
huệ từ nụ đời vừa mới nở đã bị ngay gót chân Tử thần chà đạp.
Một người
khách quý xuất hiện soi sáng trái tim Selma
và ra đi giết chết hồn nàng.
Đó là kiếp
người, kiếp nước, kiếp trời và kiếp trăng sao.
|
And Selma focused her eyes upon the doctor and cried,
“Give me my child and let me embrace him; give me my child and let me nurse
him.”
Then the doctor bent his head. His voice choked and he
said, “Your child is dead, Madame, be patient. Upon hearing her doctor’s
announcement, Selma uttered a terrible cry. Then she was quiet for a moment
and smiled happily. Her face brightened as if she had discovered something,
and quietly she said, “Give me my child; bring him close to me and let me see
him dead.”
|
Và Selma
nhìn người y sĩ rồi kêu lên: “Đưa con tôi cho tôi ẵm nó, đưa con tôi cho tôi
để tôi cho bú”.
Người y sĩ
gục đầu. Ông nghẹn ngào nói: “Thưa bà cháu bé đã đi rồi, xin bà bình tĩnh”.
Selma
bật khóc thảm thiết khi nghe bác sĩ báo tin dữ. Nàng im lặng một hồi lâu rồi
mỉm cười sung sướng... Gương mặt nàng chợt sáng lên như vừa giác ngộ điều gì,
và nàng bình thản nói: “Xin đưa con tôi cho tôi; đem nó lại gần tôi để tôi
thấy dù nó đã lìa đời”.
|
The doctor carried the dead child to Selma and placed him
between her arms. She embraced him, then turned her face toward the wall and
addressed the dead infant saying, “You have come to take me away my child;
you have come to show me the way that leads to the coast. Here I am my child;
lead me and let us leave this dark cave.
|
Người y sĩ
bồng xác đứa trẻ đặt vào tay Selma.
Nàng ôm lấy nó đoạn quay mặt vào tường và nói với cái xác không hồn: “Con ơi,
con đến đây để đưa mẹ đi xa; con đến đây để chỉ cho mẹ đường quay về bến. Mẹ
đây, con ơi; hãy dắt mẹ đi, chúng ta giã biệt cái hang tăm tối này”.
|
And in a minute the sun’s ray penetrated the window
curtains and fell upon two calm bodies lying on a bed, guarded by the
profound dignity of silence and shaded by the wings of death. The doctor left
the room with tears in his eyes, and as he reached the big hall the
celebrations was converted into a funeral, but Mansour Bey Galib never
uttered a word or shed a tear. He remained standing motionless like a statue,
holding a drinking cup with his right hand.
|
Một phút
sau, ánh nắng xuyên qua màn cửa sổ và đọng trên hai cái xác bất động trên
giường, chiếc giường được vẻ trang nghiêm của im lặng giữ gìn và đôi cánh Tử
thần che phủ. Người y sĩ rời khỏi căn phòng, nước mắt lưng tròng, và khi ông
ra đến phòng khách rộng lớn, thì tiệc mừng đã đổi thành tang lễ, nhưng Công
tử Bey Galib không hề thốt một lời, hoặc nhỏ một giọt lệ. Y vẫn đứng bất động
như một pho tượng, ly rượu trên tay.
|
The second day Selma was shrouded with her white wedding
dress and laid in a coffin; the child’s shroud was his swaddle; his coffin
was his mother’s arms; his grave was her calm breast. Two corpses were
carried in one coffin, and I walked reverently with the crowd accompanying
Selma and her infant to their resting place.
|
Ngày hôm
sau, Selma
được khâm liệm trong chiếc áo cưới màu trắng rồi được nhập quan. Áo liệm của
đứa trẻ là tấm lụa bà mụ đã quấn cho nó lúc ra đời; quan tài của nó là đôi
cánh tay người mẹ, huyệt chôn nó là ngực người mẹ. Hai cái xác nằm chung
trong một cỗ áo quan, và tôi kính cẩn bước đi trong đám đông đưa tiễn Selma và con nàng về nơi
an nghỉ.
|
Arriving at the cemetery, Bishop Galib commenced chanting
while the other priests prayed, and on their gloomy faces appeared a veil of
ignorance and emptiness.
|
Đến nghĩa
trang, Giám mục Galib bắt đầu đọc kinh trong khi các linh mục khác cầu
nguyện, và gương mặt ủ rũ của họ phảng phất một màn u tối và trống rỗng.
|
As the coffin went down, one of the bystanders whispered,
“This is the first time in my life I have seen two corpses in one coffin.”
Another one said, “It seems as if the child had come to rescue his mother
from her pitiless husband.”
|
Lúc hạ
huyệt, một người đi đưa đám thì thầm: “Lần đầu tiên trong đời tôi thấy hai
cái xác nằm chung một quan tài”. Người khác nói: “Dường như thế đứa nhỏ đến
để giải thoát mẹ nó khỏi tay người chồng bất nhân”.
|
A third one said, “Look at Mansour Bey: he is gazing at
the sky as if his eyes were made of glass. He does not look like he has lost
his wife and child in one day.” A fourth one added, “His uncle, the Bishop,
will marry him again tomorrow to a wealthier and stronger woman.
|
Người thứ
ba nói: “Kìa, nhìn công tử Bey: y đang ngước mắt nhìn trời, cặp mắt như bằng
thủy tinh; thật chẳng có vẻ gì là một người mất cả vợ lẫn con trong một ngày
cả”. Người thứ tư thêm: “Chú ông ta, ông Giám mục ngày mai sẽ kén cho ông ta
một người vợ khác, giầu có và khỏe mạnh hơn”.
|
The Bishop and the priests kept on singing and chanting
until the grave digger was through filing the ditch. Then, the people,
individually, approached the Bishop and his nephew and offered their respects
to them with sweet words of sympathy, but I stood lonely aside without a soul
to console me, as if Selma and her child meant nothing to me.
|
Ông Giám
mục cùng các linh mục tiếp tục đọc kinh cho đến khi bọn phu đào huyệt đắp
xong nấm mồ rồi nhưng người đưa đám từng người một tiến lại chỗ hai chú cháu
ông Giám mục ân cần và kính cẩn chia buồn; còn tôi đứng chơ vơ một góc, chẳng
ai an ủi, tựa hồ Selma và con nàng không nghĩa lý gì đối với tôi cả.
|
The farewell-bidders left the cemetery; the grave digger
stood by the new grave holding a shovel with his hand.
As I approached him, I inquired, “Do you remember where
Farris Effandi Karamy was buried?”
He looked at me for a moment, then pointed at Selma’s
grave and said, “Right here; I placed his daughter upon him and upon his
daughter’s breast rests her child, and upon all I put the earth back with
this shovel.”
Then I said, “In this ditch you have also buried my
heart.”
As the grave digger disappeared behind the poplar trees, I
could not resist anymore; I dropped down on Selma’s grave and wept.
|
Những
người tiễn đưa rời nghĩa trang; người phu đào huyệt đứng bên nấm mồ mới, tay
cầm sẻng.
Tôi lại
bên ông ta gạn hỏi: “Bác có nhớ mộ của viên ngoại Karamy ở đâu không?”
Ông nhìn
tôi đăm đăm một lúc rồi chỉ vào mộ Selma
nói: “Ngay chỗ này; tôi đã đặt con gái ông ấy phía trên, và trên ngực nàng là
đứa bé và trên cùng tôi lấy sẻng này đắp đất lên”.
Tôi liền
nói: “Trong huyệt này bác đã chôn cả trái tim tôi”.
Khi người
phu đã khuất sau rặng bạch dương, tôi không còn tự chủ được nữa; tôi gục
xuống mồ Seima và nức nở khóc.
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn