THE NOBEL PEACE
PRIZE 2000, KIM DAE-JUNG
AWARD CEREMONY
SPEECH
|
NOBEL HÒA BÌNH NĂM
2000, KIM DAE-JUNG
DIỄN VĂN TRAO GIẢI
|
|
|
Presentation Speech by Gunnar Berge, Chairman of
theNorwegian Nobel Committee, Oslo, December 10, 2000.
|
(Phát biểu của
Gunnar Berge, Chủ tịch hội đồng Nobel Na Uy, Oslo, tháng Mười năm 2000)
|
Your Majesty, Your Royal Highnesses, Excellencies, Ladies
and Gentlemen,
|
Thưa Bệ hạ, thưa các Hoàng
than quốc thích, Thưa
các Ngài, Thưa quý bà
và quý ông
|
The Norwegian Nobel Committee has decided to award the
Nobel Peace Prize for the year 2000 to Kim Dae-jung. He receives the prize
for his lifelong work for democracy and human rights in South Korea and East
Asia in general, and for peace and reconciliation with North Korea in
particular. We welcome the Laureate here today.
|
Hội đồng Nobel Na Uy quyết định trao giải Nobel Hòa bình
năm 2000 cho ông Kim Dae-jung. Ông nhận giải thưởng này vì sự nghiệp suốt đời
đấu tranh cho dân chủ và quyền con người ở Nam Triều Tiên và Đông Á nói
chung, và vì hòa bình và hòa giải với Bắc Triều Tiên nói riêng. Hôm nay chúng
ta tới đây để chào mừng Chủ nhân của Giải Nobel Hòa Bình năm 2000!
|
The question has been raised of whether it is too early to
award the prize for a process of reconciliation which has only just begun. It
would suffice to say in reply that Kim Dae-jung's work for human rights made
him a worthy candidate irrespective of the recent developments in relations
between the two Korean states. It is also clear, however, that his strong
commitment to reconciliation with North Korea, and the results that have been
achieved - especially in the past year - added a new and important dimension
to Kim Dae-jung's candidacy.
|
Một câu hỏi đã đặt ra rằng liệu có quá sớm để trao giải
thưởng cho một quá trình hòa giải mới chỉ bắt đầu. Câu trả lời đầy đủ sẽ là,
công cuộc đấu tranh vì quyền con người của ông Kim Dae-jung đã khiến ông trở
thành ứng cử viên xứng đáng nhất mà không cần kể tới những tiến triển gần đây
trong quan hệ giữa hai nước Triều Tiên. Tuy vậy, một điều rất rõ ràng là
những cống hiến to lớn của ông đối với quá trình hòa giải và những kết quả
đạt được, đặc biệt trong năm vừa qua, đã góp phần quan trọng làm dày dặn thêm
tư cách ứng cử viên giải Nobel Hòa bình của ông Kim Dae-jung.
|
While recognising that reverses in international peace
work are something one has to be prepared for, the Nobel Committee
nevertheless adheres to the principle: nothing ventured, nothing gained. The
Peace Prize is a reward for the steps that have been taken so far. However,
as so often before in the history of the Nobel Peace Prize, it is intended
this year, too, as an encouragement to advance still further along the long
road to peace and reconciliation.
|
Mặc dù nhận thức rằng cần chuẩn bị phòng ngừa tình huống
các hoạt động hòa bình quốc tế có thể bị đảo ngược theo xu hướng xấu, hội
đồng giải Nobel đã giữ vững nguyên tắc: không mạo hiểm, không thành. Giải
thưởng Nobel Hòa bình là danh hiệu dành cho các bước đã thực hiện được tính
đến thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, giống như đã từng nhiều lần diễn ra trước
đây trong lịch sử của Nobel Hòa bình, mục đích của giải thưởng năm nay cũng
nhằm khuyến khích những tiến bộ hơn nữa trên con đường tới hòa bình và hòa
giải.
|
This is to a large extent a matter of courage: Kim
Dae-jung has had the will to break with fifty years of ingrained hostility,
and to reach out a cooperative hand across what has probably been the world's
most heavily guarded frontier. His has been the kind of personal and
political courage which, regrettably, is all too often missing in other
conflict-ridden regions. The same applies to peace work as to life in general
when you set out to cross the highest mountains: the first steps are the
hardest. But you can count on plenty of company along the glamorous finishing
stretch. Gunnar Roaldkvam, a writer from Stavanger, puts this so simply and
so aptly in his poem "The last drop":
|
Với lòng can đảm và dũng khí lớn lao, ông Kim Dae-jung đã
có ý chí phá bỏ niềm hận thù hằn sâu đã 50 năm và rộng mở vòng tay hợp tác
qua làn ranh giới bị coi là được canh gác cẩn mật vào loại nhất trên thế
giới. Ông là mẫu người có dũng khí cá nhân và sự can đảm chính trị mà, rất
đáng tiếc là, rất thiếu ở những nơi có xung đột và mâu thuẫn cao độ. Một
nguyên tắc áp dụng cho hoạt động vì hòa bình và cho cuộc sống nói chung mỗi
khi chúng ta quyết tâm vượt qua những đỉnh cao trở ngại là: những bước đầu
tiên bao giờ cũng khó khăn nhất. Tuy nhiên, khi rướn những bước cuối cùng đến
vạch đích huy hoàng, chúng ta lại có thể tìm thấy rất nhiều bạn đường. Gunnar
Roaldkvam, một văn sĩ từ Stavanger đã diễn tả điều này một cách giản dị và
thông minh trong bài thơ “Giọt nước cuối cùng” của ông ấy:
|
Once upon a time
there were two drops of water;
one was the first,
the other the last.
The first drop
was the bravest.
I could quite fancy
being the last drop,
the one that makes everything
run over,
so that we get
our freedom back.
But who wants to be
the first
drop?
|
Thuở xa xưa
Có hai giọt nước
Một giọt đầu tiên
Giọt kia sau rốt
Giọt nước đầu tiên,
dũng cảm nhường nào
Tôi vẫn ước ao
Là giọt nước cuối cùng,
Rớt xuống
Khối nước sẽ dâng trào,
Và tự do trở lại,
Chảy mênh mang…
Nhưng mà thế đấy, có ai nào muốn
làm giọt nước
đầu tiên?
|
Today, Kim Dae-jung is the president of a democratic South
Korea. His path to power has been long - extremely long. For decades he
fought a seemingly hopeless fight against an authoritarian regime. One may
well ask where he found the strength. His own answer is: "I used all my
strength to resist the dictatorial regimes, because there was no other way to
defend the people and promote democracy. I felt like a homeowner whose house
was invaded by a robber. I had to fight the intruder with my bare hands to
protect my family and property without thinking of my own safety."
|
Ngày nay, ông Kim Dae-jung là tổng thống của một nước Nam
Triều Tiên dân chủ. Con đường dẫn tới quyền lực của ông ấy thật dài, thật vô
cùng gian nan. Bao thập kỷ qua, ông Kim đã chiến đấu trong một cuộc chiến
tưởng chừng vô vọng chống lại chế độ độc tài. Có thể ai đó sẽ hỏi đâu là cội
nguồn sức mạnh của ông. Ông đã trả lời rằng: “Tôi đã dùng mọi sức lực để
chống lại chế độ độc tài, bởi vì chẳng còn cách nào khác để bảo vệ nhân dân
và thúc đẩy một nền dân chủ. Tôi thấy dường như mình là một người chủ một
ngôi nhà bị kẻ cướp xâm nhập. Tôi phải chiến đấu với kẻ xâm phạm bằng tay
không để bảo vệ gia đình và tài sản của tôi mà không so đo tới sự an toàn của
bản thân mình."
|
In the 1950s, when Kim ran for election to the national
assembly, the police were used to prevent support for any other candidates
than the regime's own. He was not elected until 1961, but that success was
short-lived: a military coup three days later led to the dissolution of the
assembly. But Kim did not give up. In 1963, after ten years of almost
continuous political struggle, he finally took a seat in the national
assembly as an opposition representative. The ruling party, it should be
added, tried to buy him. Kim was not for sale.
|
Trong những năm 50, khi ông Kim tranh cử vào Quốc hội,
cảnh sát đã từng ngăn chặn sự ủng hộ với các ứng cử viên không phải của chính
quyền đương thời. Ông đã không được bầu chọn cho tới năm 1961, và cả thành
công này cũng chỉ là ngắn ngủi: lực lượng quân sự đã thực hiện một hành vi
trắng trợn dẫn đến sự giải tán Quốc hội ba ngày sau đó. Thế nhưng ông Kim
không bỏ cuộc. Năm 1963, sau mười năm đấu tranh chính trị không ngừng, ông
cuối cùng đã chiếm được một ghế đại diện đối lập trong Quốc hội. Cũng cần nói
thêm rằng khi đó đảng cầm quyền đã cố gắng mua chuộc ông. Nhưng ông Kim không
phải là người có thể mua chuộc.
|
In 1971, Kim Dae-jung ran in the presidential election,
winning 46 per cent of the votes despite considerable ballot-rigging. This
made him a serious threat to the military regime. As a result, he spent many
long years, first in prison, then in house arrest and in exile in Japan and
the United States. He also underwent kidnapping and assassination attempts.
Somehow enduring all these trials, Kim kept up his outspoken opposition to
the regime.
|
Trong năm 1971, ông Kim Dae-jung đã ra tranh cử tổng
thống, đạt được 46% số phiếu bầu bất chấp những thủ đoạn lường gạt trầm trọng
trong kiểm phiếu. Thành công này làm ông Kim trở thành mối đe dọa đối với chế
độ quân sự. Và vì thế, ông Kim đã bị tống giam, quản thúc tại gia và sống lưu
vong ở Nhật Bản và Hoa Kỳ trong nhiều năm. Ông nhiều lần là mục tiêu của
những vụ bắt cóc và ám sát. Bằng cách nào đó ông Kim đã chịu đựng tất cả
những thử thách này để liên tục duy trì vị thế đối lập trực diện với chế độ
đương quyền.
|
As a member of a delegation from the Norwegian Storting, I
visited South Korea in 1979, a visit which among other things brought me into
contact with supporters of Kim Dae-jung. I am glad I was able then to serve
as a link to important connections in Scandinavia.
|
Tôi đã đến thăm Nam Triều Tiên vào năm 1979 với tư cách
thành viên của phái đoàn Quốc hội Na Uy. Cuộc viếng thăm này là một trong
những lý do đã khiến tôi gặp gỡ được những người ủng hộ ông Kim Dae-jung. Tôi
rất vui mừng được trở thành cầu nối với những mối quan hệ quan trọng ở
Scandinavia.
|
Even under severe prison conditions, Kim Dae-jung managed
to find things to live for. With indomitable optimism, he wrote about the
pleasures he found in prison. Reading all kinds of eastern and western books:
theology, politics, economics, history and literature. The brief meetings
with his family. The letters from those closest to him, and the opportunities
to write back, despite all the attempts to prevent him. And finally the
flowers in the tiny patch of a garden where he was allowed to spend an hour a
day.
|
Thậm chí trong điều kiện ngục tù khổ ải, ông Kim Dae-jung
vẫn gắng tìm ra biết bao điều để hướng cuộc sống của mình về đó. Với tinh
thần lạc quan bất khuất, ông đã viết về những niềm vui trong cuộc sống tù
đày. Đó là đọc sách, các loại sách đông tây kim cổ về thần học, chính trị,
kinh tế, lịch sử và văn hóa; là những cuộc gặp mặt ngắn ngủi với gia đình; là
những lá thư từ những người gần gũi nhất và những dịp được viết thư hồi âm,
bất chấp mọi ý đồ ngăn cản; và cuối cùng, là cả những bông hoa trong góc vườn
bé xíu mà ông được phép ra đó chỉ một giờ mỗi ngày.
|
Kim Dae-jung's story has a lot in common with the
experience of several other Peace Prize Laureates, especially Nelson Mandela
and Andrei Sakharov. And with that of Mahatma Gandhi, who did not receive the
prize but would have deserved it. To outsiders, Kim's invincible spirit may
appear almost superhuman. On this point, too , the Laureate takes a more
sober view: "Many people tell me," he says, "that I am
courageous, because I have been to prison six or seven times and overcome
several close calls in my life. However, the truth is that I am as timid now
as I was in my boyhood. Considering what I have experienced in my life, I
should not be afraid of being imprisoned. But, whenever I was locked up, I
was invariably fearful and anxious." Self-knowledge of this order does
not detract from the courage!
|
Câu chuyện của ông Kim Dae-jung có rất nhiều điểm chung
với những gì mà một số Chủ nhân Giải Nobel Hòa bình trước đây trải nghiệm,
đặc biệt là ông Nelson Mandela và ông Andrei Sakharov. Và cũng giống những
trải nghiệm của ông Mahatma Gandhi, người đã không nhận giải thưởng này mặc
dù rất xứng đáng. Với những người ngoài cuộc, tinh thần bất khuất của ông Kim
dường như quá siêu phàm. Nhưng ông Kim lại tỏ ra khiêm tốn về điều đó, ông
nói rằng: "Nhiều người bảo tôi rằng tôi thật là can đảm, bởi vì tôi đã
sáu, bảy lần vào tù, vài lần suýt mất mạng. Nhưng thật ra tôi vẫn nhút nhát
như hồi còn là một cậu bé. Cứ nghĩ đến những điều đã xảy ra trong cuộc đời
tôi, lẽ ra tôi không phải sợ bị bỏ tù. Nhưng mỗi lần bị tống giam tôi vẫn rất
hoảng sợ và lo lắng.” Ông Kim đã tự hiểu mình đến vậy mà vẫn không hề chùn
nhụt lòng can đảm!
|
Kim Dae-jung ran in two more presidential elections, in
1987 and 1992. If no military regime stood in his way, the argument was used
against him, in a country of sharp regional divisions, that he came from the
wrong region. Finally wearying of the struggle, he withdrew from active
politics after the 1992 election.
|
Ông Kim Dae-jung tranh cử hai kỳ bầu cử tổng thống nữa vào
năm 1987 và 1992. Khi chế độ quân sự không còn là vật cản thì, ở một quốc gia
mà sự chia rẽ giữa các địa phương đã quá sâu sắc, lại có luận điệu phản đối
rằng ông không xuất thân từ một địa phương xứng đáng. Cuối cùng, mệt mỏi vì
cuộc tranh đấu , ông Kim rút lui khỏi chính trường sau kỳ bầu cử năm 1992.
|
But in 1997 Kim Dae-jung saw a new opportunity. Incredibly
enough, with his political enemies divided amongst themselves, the military
regime's leading opponent was elected president. That was the definitive
proof that South Korea had at long last found a place among the world's
democracies.
|
Thế nhưng vào năm 1997 ông Kim Dae-jung lại có một cơ hội
mới. Thật đáng ngạc nhiên, trong tình hình các đối thủ chính trị của ông Kim
chia rẽ nhau, thủ lĩnh đối lập của chế độ quân sự [là ông Kim Dae-jung -ND]đã
được bầu làm tổng thống. Đây là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy Nam Triều
Tiên cuối cùng đã tìm thấy một chỗ đứng trong hàng ngũ các quốc gia dân chủ trên
thế giới.
|
The idea of revenge must have occurred to the new
president. Instead, as with Nelson Mandela, forgiveness and reconciliation
became the main planks in Kim's political platform and guided the steps he
took. Kim Dae-jung forgave most things - including the unforgivable.
|
Rất có thể ý định trả thù đã lóe lên trong đầu ngài tổng
thống mới. Tuy nhiên, cũng giống như ông Nelson Mandela, khoan dung và hòa
giải là tinh thần chủ đạo trong cương lĩnh chính trị của ông Kim đã soi đường
cho những hành động của ông. Kim Dae-jung đã khoan dung hầu như với tất cả,
kể cả những điều tưởng chừng không thể tha thứ được.
|
What had taken place was a democratic revolution. But even
after a revolution, some features of the old order live on. In a democratic
perspective, South Korea still has some way to go where reform of the legal
system and of security legislation is concerned. According to Amnesty
International, there are still long-term political prisoners in South Korean
gaols. Others maintain that the rights of organized labour are not
sufficiently safeguarded. Our reply is that we feel confident that Kim
Dae-jung will complete the process of democratisation of which he has been
the foremost spokesman for almost half a century.
|
Những gì đã diễn ra thực sự là một cuộc cách mạng dân chủ.
Nhưng ngay cả sau một cuộc cách mạng, thì một số đặc điểm của trật tự cũ vẫn
còn tồn tại. Với viễn cảnh dân chủ, Nam Triều Tiên còn một số việc quan trọng
phải làm, nhất là trong vấn đề cải cách hệ thống pháp luật và lập pháp an
ninh. Theo Ân xá Quốc tế, vẫn còn những tù nhân chính trị lâu năm trong các
nhà tù Nam Triều Tiên. Những tổ chức khác lại cho rằng quyền của người lao
động có tổ chức chưa được đảm bảo đầy đủ. Câu trả lời của chúng tôi là, chúng
tôi cảm thấy tin tưởng rằng ông Kim Dae-jung sẽ hoàn tất quá trình dân chủ
hóa, một quá trình mà ông là người phát ngôn nổi bật nhất trong gần nửa thế
kỷ qua.
|
An important debate is currently being conducted in Asia
concerning the status of human rights. It is argued by some that such rights
are a western invention, a tool for achieving western political and cultural
dominance. Kim rejects this view, just as he also denies that there are any
special Asian, as distinct from universal, human rights. The same way of
thinking led the Nobel Committee, in its grounds for this year's award, to
draw particular attention to the important part Kim has played in the
development of human rights throughout East Asia. As José Ramos Horta, Peace
Prize Laureate in 1996 and with us here today, has stated, Kim also vigorously
took up the cause of East Timor. There was great symbolic force in the
decision to place the South Korean army, used only a few years previously to
suppress political opposition in its own country, at the disposal of the
global community in defence of human rights in East Timor.
|
Một cuộc tranh luận quan trọng về thực trạng quyền con
người đang diễn ra ở châu Á. Một số người nói rằng những giá trị này là phát
minh của phương Tây, là công cụ để văn hóa và chính trị phương Tây đạt được
địa vị thống trị. Ông Kim đã phủ nhận quan điểm này cũng như đã phủ nhận có
một thứ quyền con người khác biệt dành cho châu Á, không giống với giá trị
quyền con người phổ quát. Uỷ ban giải thưởng Nobel chia sẻ những quan điểm đó
khi xét giải thưởng năm nay và vì vậy đã quan tâm đặc biệt tới vai trò của
ông Kim trong việc phát huy quyền con người trên khắp khu vực Đông Á. Và như
ông José Ramos Horta, Chủ nhân Giải Nobel Hòa bình 1996, người có mặt với
chúng ta hôm nay đã nói, ông Kim cũng là người ủng hộ nhiệt thành cho sự
nghiệp của Đông Timor. Quyết định trao quyền sử dụng Quân đội Nam Triều Tiên
-trước đó chỉ vài năm vẫn được sử dụng để trấn áp các phe chính trị đối lập
trong nước - cho cộng đồng thế giới trong cuộc đấu tranh bảo vệ nhân quyền
tại Đông Timor là một động thái mang ý nghĩa tượng trưng cao.
|
Kim Dae-jung has also actively supported Aung San Suu Kyi,
Peace Prize Laureate in 1991, in her heroic struggle against the dictatorship
in Burma . Our thoughts today also reach out to her, prevented as she has so
far been from coming to Norway to receive the Peace Prize she so richly
deserves. Unfortunately the regime is once again stepping up its pressure on
Aung San Suu Kyi.
|
Ông Kim Dae-jung cũng rất nhiệt tình ủng hộ Aung San Suu
Kyi, Chủ nhân Giải Nobel Hòa bình 1991 trong cuộc đấu tranh anh dũng của bà
chống lại chế độ độc tài Miến Điện. Những tâm tư của chúng ta hôm nay vẫn
hướng về bà, mặc dù bà đã không thể tới Na Uy để nhận Giải thưởng Hòa bình mà
bà vô cùng xứng đáng. Thật không may, chế độ độc tài một lần nữa tăng cường
gây áp lực với Aung San Suu Kyi.
|
Kim was elected president on a program of extensive
reforms in South Korea, and an active policy of cooperation with North Korea
now widely spoken of as the "sunshine policy". The term originated
in Aesop's fable about the traveller who in a strong north wind drew his
cloak ever more closely about him, only to have to take it off in the end because
of the warmth of the sun.
|
Ông Kim đã được bầu làm tổng thống với một chương trình
cải tổ sâu rộng ở Nam Triều Tiên và một chính sách linh hoạt trong việc hợp
tác với Bắc Triều Tiên mà bây giờ chúng ta thường nhắc tới với tên gọi “chính
sách ánh dương”. Cái tên này bắt nguồn từ truyện ngụ ngôn của Aesop; một
người lữ khách kéo chặt áo choàng vào mình trong cơn gió dữ, nhưng cuối cùng
lại cởi áo dưới nắng ấm mặt trời.
|
The sunshine policy is designed, if not to stop the wind,
then at least to lessen the cold through gradually increasing interaction and
an emphasis on the common interests of the two states. Kim Dae-jung has made
it clear that South Korea has no intention of annexing or absorbing its
northern neighbour. The target is reunification, although both parties know
that it will take time and will require the most thorough preparation.
|
Chính sách ánh dương được xây dựng nếu không phải để chặn
đứng cơn gió dữ thì chí ít cũng để xua bớt giá lạnh nhờ vào việc tăng dần
cường độ trao đổi và chú trọng vào những mối quan tâm chung của hai quốc gia.
Kim Dae-jung đã chỉ rõ rằng Nam Triều Tiên không có ý định thôn tính hay hòa
tan láng giềng phía Bắc. Mục tiêu là thống nhất cho dù cả hai bên đều biết
rằng sẽ tốn thời gian và sẽ cần có những chuẩn bị toàn diện nhất.
|
There can be little doubt that to date Kim Dae-jung has
been the prime mover behind the ongoing process of détente and
reconciliation. Perhaps his role can best be compared with Willy Brandt's,
whose Ostpolitik was of such fundamental importance in the normalisation
between the two German states, and won him the Peace Prize. Brandt's
Ostpolitik alone could not have led to German unification, but it was a
prerequisite for the union which followed in 1989-90. From South Korea's
point of view, the political side of Germany's unification looks attractive,
while the economic side, with a price tag that may be much higher in Korea
than in Germany, is a warning to make haste slowly.
|
Cho đến thời điểm này ít ai nghi ngờ về việc Kim Dae-jung
là động cơ chủ đạo trong quá trình giải tỏa căng thẳng và hòa giải đang diễn
ra. Vai trò của ông có thể sánh với vai trò của Willy Brandt, người mà
Ostpolitik [chính sách phía Đông] của ông đã có tầm quan trọng làm nền tảng
trong quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước Đức và đem đến giải
Nobel Hòa bình cho tác giả của nó. Mặc dù Ostpolitik của Brandt bản thân nó
không thể dẫn tới sự thống nhất nước Đức, nhưng lại là điều kiện tiên quyết
cho sự thống nhất vào những năm 1989-90 sau này. Theo cách nhìn từ phía Nam
Triều Tiên, khía cạnh chính trị từ bài học thống nhất nước Đức khá hấp dẫn.
Tuy vậy, về mặt kinh tế Triều Tiên có thể phải trả giá cao hơn Đức, và điều
này cảnh tỉnh những hành động vội vàng.
|
The dialogue between Kim Dae-jung and Kim Jung II at the
Pyongyang summit last June led to more than loose declarations and airy
rhetoric. The pictures of family members meeting after five decades of
separation made a deep impression all over the world. However restricted and
controlled these contacts may be, the tears of joy are a stark contrast to
the cold, hatred and discouragement felt so strongly by all visitors to the
border at Panmunjon.
|
Cuộc đối thoại giữa Kim Dae-jung và Kim Jung Il tại hội
nghị thượng đỉnh diễn ra tại Bình Nhưỡng tháng Sáu năm ngoái không kết thúc ở
những tuyên bố lỏng lẻo hay những lời hùng biện hời hợt. Hình ảnh những thành
viên trong gia đình gặp nhau sau năm thập kỷ chia lìa đã gây ấn tượng mạnh trên
toàn thế giới. Dù những mối liên lạc này bị hạn chế và kiểm soát ngặt nghèo
đến chừng nào, nước mắt của vui sướng là sự đối lập hoàn toàn với những lạnh
lùng, hận thù và ngăn trở mà người viếng thăm tại biên giới vùng Panmunjon đã
cảm nhận.
|
The people of North Korea have lived under extremely
difficult conditions for a long time. The international community can not be
indifferent to their hunger, or remain silent in the face of the country's
massive political repression. On the other hand, North Korea's leaders
deserve recognition for their part in the first steps towards reconciliation
between the two countries.
|
Đã từ rất lâu, nhân dân Bắc Triều Tiên phải sống trong
điều kiện vô cùng khó khăn. Cộng đồng quốc tế không thể thờ ơ với nạn đói của
họ, cũng như không thể im lặng trước tình trạng đàn áp chính trị thô bạo ở
đất nước này. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, công lao của các nhà lãnh đạo
Bắc Triều Tiên trong những bước tiến đầu tiên tới quá trình hòa giải giữa hai
quốc gia xứng đáng được ghi nhận.
|
In most of the world, the cold war ice age is over. The
world may see the sunshine policy thawing the last remnants of the cold war
on the Korean peninsula. It may take time. But the process has begun, and no
one has contributed more than today's Laureate, Kim Dae-jung. In the poet's
words, "The first drop was the bravest."
|
Hầu hết mọi nơi trên thế giới, thời kỳ băng giá của chiến
tranh lạnh đã chấm dứt. Thế giới có thể thấy chính sách ánh dương đang xua
tan những tàn dư cuối cùng của chiến tranh lạnh trên bán đảo Triều Tiên. Quá
trình này có lẽ cần thời gian dài. Tuy nhiên quá trình ấy đã bắt đầu,và không
ai cống hiến sức lực nhiều hơn Chủ nhân Giải thưởng ngày hôm nay, ông Kim
Dae-jung. Như lời của bài thơ, ”Giọt nước đầu tiên, dũng cảm nhường nào!”.
|
Translation of the Norwegian text.
|
Translated
from English by Hải
Tâm
|
|
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Thursday, November 12, 2015
THE NOBEL PEACE PRIZE 2000, KIM DAE-JUNG AWARD CEREMONY SPEECH NOBEL HÒA BÌNH NĂM 2000, KIM DAE-JUNG DIỄN VĂN TRAO GIẢI
Labels:
CIVICS-CÔNG DÂN,
SPEECH-Diễn văn
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn