Les grandes classifications des régimes politiques
|
Xếp loại các chế độ chính trị
|
|
Alexandre Roger, Phan Thành Đạt
|
Alexandre Roger, Phan Thành Đạt
|
INTRODUCTION
Le régime
politique résulte de la combinaison de multiples éléments, les uns juridiques
(cadre constitutionnel, qui forme le régime au sens étroit de l’expression)
et les autres extra-juridiques (système de partis, personnalisation du
pouvoir, idéologie, etc…). Le régime politique représente un mode
d’organisation des institutions politiques dans l’État, il s’agit d’une
certaine conception concernant la souveraineté et les principes dont doit
s’inspirer le gouvernement ou les distinctions et relations entre gouvernants
et gouvernés et entre les divers pouvoirs politiques. Le régime politique
reste une composante du système politique qui englobe l’organisation des
organes politiques et la vie sociale, économique et culturelle. Pourtant le
régime politique reflète bien les caractères du système politique car il
guide les fonctions de l’État et il détermine les relations entre l’État et
ses citoyens.
|
Giới thiệu chung
Chế độ chính trị là một tổng thể bao gồm
nhiều yếu tố: Các nguyên tắc về luật pháp như Hiến pháp quy định đặc điểm của
thể chế chính trị và các nguyên tắc khác như hệ thống các đảng phái, các cá
nhân nắm giữ quyền lực, hệ tư tưởng... Chế độ chính trị thể hiện cách tổ chức
các cơ quan trong một Nhà nước nhất định. Mỗi chế độ chính trị đều có các
quan điểm khác nhau về chủ quyền, về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân,
về các nguyên tắc mà nhà lãnh đạo phải tuân theo. Chế độ chính trị quy định
nhiệm vụ của các cơ quan công quyền và định hướng các hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội. Chế độ chính trị phản ánh các đặc điểm cơ bản của toàn bộ hệ
thống hành chính của mỗi nước.
|
D’abord,
la classification des régimes politiques a été réalisée dès l’Antiquité par
les Grecs. Ensuite, les auteurs comme Machiavel et Jean Bodin ont contribué à
éclairer les caractéristiques des régimes monarchiques et républicains. Il a
fallu attendre jusqu’au temps de l’Ancien Régime pour que la classification
des régimes politiques soient bien analysés par les philosophes des Lumières
dont Montesquieu est le principal représentant. Étudier les régimes
politiques d’hier et d’aujourd’hui, c’est comprendre leurs caractéristiques;
à partir de ces études l’homme pourrait juger si il s’agit d’un régime
démocratique ou antidémocratique.
|
Người Hy
Lạp trước Công nguyên đã tiến hành xếp loại các chế độ chính trị dựa theo một
số tiêu chuẩn về số lượng người tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội
ở các thành bang. Các nhà tư tưởng thời Trung cổ như Machiavel, Jean Bodin đã
đưa ra các tiêu chuẩn nhằm đánh giá chế độ quân chủ và chế độ cộng hòa. Các
nhà triết học thời kỳ ánh sáng đã tiến hành phân loại các kiểu chế độ chính
trị tồn tại trong suốt thời kì Trung cổ đến giai đoạn Cách mạng Pháp 1789.
Montesquieu là đại diện tiêu biểu của thời kì ánh sáng, ông đã thành công
trong việc phân loại các chế độ khác nhau dựa trên các tiêu chuẩn mới, khác
với Aristote.
|
Il existe
aujourd’hui dans le monde près de 200 États dont les régimes politiques sont
très variés en fonction de la diversité culturelle et religieuse qui implique
un mode de régime politique distinct. En observant par exemple le régime
politique de certains pays arabes à dominante théologique, les juristes et
politologues considèrent que ces pays ne sont pas démocratiques (par exemple
Bernard Chantebout, politologue et juriste considère que Islam et Démocratie
occidentale sont incompatibles) pourtant les gouvernants de ces pays se
considèrent comme tels. Donc, la culture politique et juridique quand elle
est influencée par la religion a un impact profond sur l’esprit de l’homme.
L’observation sur la démocratie est ainsi différente et propre à chaque pays.
|
Trên thế
giới hiện nay có gần 200 quốc gia độc lập, mỗi nước đều có chế độ chính trị
riêng. Sự đa dạng văn hóa, tôn giáo ảnh hưởng rất lớn đến việc chọn lựa và
xây dựng thể chế. Ví dụ các nước Ả Rập đều lấy đạo hồi là quốc giáo, các
nguyên tắc ghi trong Hiến pháp dựa theo giáo lí của kinh Coran. Nhà luật học
và chính trị học Bernard Chantebout cho rằng các giá trị dân chủ của phương
Tây khác với các nguyên tắc của đạo hồi. Cho nên nếu đánh giá thể chế chính
trị của các nước Trung Đông dựa theo các tiêu chuẩn của phương Tây, các
chuyên gia có thể kết luận rằng các nước hồi giáo không có dân chủ, nhưng các
nhà lãnh đạo ở các nước này lại khẳng định các giá trị dân chủ dựa trên tôn
giáo vẫn được đảm bảo. Chế độ chính trị ở mỗi nước đều có các đặc điểm khác
nhau và quan điểm về dân chủ cũng khác nhau.
|
Les
démocraties occidentales exercent une influence importante sur le choix d’un
tel mode de régime politique à l’égard des peuples du Tiers-monde car la
Démocratie, la construction de l’État de droit et le respect des droits
humains constitue les traits essentiels des régimes politiques occidentaux.
Toutes ces qualités séduisent les pays en voie de développement. Les
caractéristiques des régimes politiques représentent leurs valeurs
démocratiques ou non-démocratiques. Quelles analyses ont contribué à
classifier les différents régimes politiques?
|
Nền dân
chủ phương Tây (Mỹ và Châu Âu) có ảnh hưởng lớn đối với các nước đang phát
triển, và là hình mẫu cho các nước này. Bảo vệ quyền con người, xây dựng Nhà
nước pháp quyền, xây dựng nền kinh tế thị trường... là các điều kiện cơ bản
của thể chế chính trị phương Tây. Những đặc điểm nổi bật của chế độ chính trị
sẽ chứng minh mỗi nước có dân chủ hay không, dựa trên các phân tích, các nhà
nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ tính ưu việt hay bất cập của các thể chế.
|
Les régimes politiques se sont définis selon les trois
classifications distinctes suivantes:
Une approche classique (I),
une approche institutionnelle (II),
et enfin une analyse tenant de la sociologie et
philosophie politique(III).
|
Chế độ chính trị được phân loại theo 3 tiêu chí sau:
I. Phân loại chế độ chính trị theo quan điểm truyền thống.
II. Phân loại chế độ chính trị theo cách xây dựng các
thiết chế.
III. Phân loại chế độ chính trị theo quan điểm xã hội học
và triết học hiện đại.
|
I. La classification
traditionnelle des régimes politiques
Les
philosophes de l’antiquité grecque et des lumières ont réussi à classer des
régimes politiques à leurs époques. La classification des penseurs grecs (A)
constitue une référence aux définitions des régimes politiques
postérieures(B).
|
I. Xếp loại chế độ
chính trị theo quan điểm truyền thống
Các nhà triết học thời Hy Lạp cổ đại và thời kỳ ánh sáng
xếp loại các thể chế chính trị tồn tại trong giai đoạn họ đã sống, họ có dịp
quan sát và đưa ra nhiều đánh giá thú vị về các mô hình nhà nước. Các nhà tư
tưởng lớn đã có nhiều công lao, góp phần vào việc hoàn thiện các thể chế
chính trị thời cổ đại (A), các công trình của họ có ảnh hưởng lớn đến triết
học thời kì ánh sáng, khi các nhà luật học và các nhà chính trị học bàn về
đặc điểm của các thể chế chính trị sau này (B), họ đối chiếu với các nguyên
tắc đã được xây dựng từ trước.
|
A- Les régimes politiques définis par les
philosophes grecs
De Polybe
à Platon, les penseurs politiques et philosophiques tentent de classer les
régimes politiques des cités grecques en fonction du nombre de détenteurs du
pouvoir. Ils pensent que les bonnes ou les mauvaises formes de gouvernement
suivant que le pouvoir s’exerce au profit de l’ensemble de la communauté ou
simplement de ses gouvernants. Aristote a étudié les constitutions de 150
cités grecques et divisé en deux sortes de constitutions s’agissant de la
constitution corrompue ou déviante ou de la constitution juste. La
constitution corrompue attribue des privilèges et intérêts à un certain
nombre de personnes; elle va établir un mauvais régime politique. La
constitution juste quant à elle défini les intérêts communs à tous, son but
d’accorder le bonheur au peuple. Aristote reconnaît l’existence de trois
formes de gouvernements: la monarchie, l’aristocratie et la démocratie. La
monarchie est dirigée par une seule personne qui doit respecter les lois de
la cité et agir au nom de l’intérêt du peuple. L’aristocratie est gouvernée
par un groupe de personnes qui protègent tout d’abord leurs propres intérêts
et ensuite seulement ceux des autres. Enfin, la démocratie est le
gouvernement de la majorité des personnes qui garantit le profit commun de la
cité. La déviation de ces trois formes de gouvernements est respectivement la
tyrannie, l’oligarchie et l’ochlocratie (la populace au pouvoir).
Les
penseurs politiques du Moyen Age et de l’Ancien Régime ont perfectionné
l’analyse des régimes politiques des penseurs grecs.
|
A. Chế độ chính trị theo quan điểm triết học Hy Lạp
Từ Polybe đến Platon, các nhà tư tưởng thời Hy Lạp cổ đại
đều có ý định xếp loại các chế độ chính trị bằng cách quan sát cách thức tổ
chức bộ máy ở các thành bang. Họ phân loại thể chế chính trị theo số lượng
người nhiều hay ít, có quyền tham gia vào bộ máy điều hành Nhà nước hay
không. Họ đưa ra đánh giá một Nhà nước tốt đẹp hay tồi tệ dựa trên phẩm chất
của người có quyền lực và vai trò của họ trong việc ban hành các chính sách
quan trọng. Nếu quyền lực thực thi, đem lại lợi cho toàn bộ cộng đồng, đó sẽ
là Nhà nước tốt đẹp, nếu quyền lực chỉ để phục vụ lợi ích cho một nhóm người,
đó sẽ là nhà nước xấu xa. Aristote nghiên cứu các bản Hiến pháp của 150 thành
bang trong thế kỷ thứ IV trước Công nguyên (mỗi thành bang thời Hy Lạp cổ là
một Nhà nước riêng biệt). Ông chia ra hai loại Hiến pháp cơ bản: Hiến pháp hư
hỏng hay còn gọi là Hiến pháp chệch đường, loại Hiến pháp này trao quyền hành
và ban phát lợi ích cho một nhóm người, thiết lập một thể chế chính trị tệ
hại. Hiến pháp đúng đắn bảo đảm các lợi ích chung cho toàn thể các nhóm người
trong xã hội, nhằm đem lại hạnh phúc cho con người. Loại Hiến pháp này sẽ tạo
điều kiện hình thành một chế độ chính trị tốt đẹp. Aristote xây dựng ba kiểu
chế độ chính trị:
-Chế độ quân chủ, do nhà vua đứng đầu, người đứng đầu chịu
trách nhiệm điều hành đất nước, ban ra các điều luật buộc mọi người phải tuân
theo, người đứng đầu phải luôn hành động vì lợi ích chung của nhân dân. Khi
vua không thực hiện tốt bổn phận của mình, chế độ quân chủ sẽ chuyển thành
chế độ bạo chúa hay hôn quân.
-Chế độ quý tộc do một nhóm người điều hành, họ là những
người ưu tú được tuyển trọn trong các gia đình có thế lực, họ điều hành đất
nước bằng luật pháp nhằm duy trì trật tự và bảo vệ quyền lợi cho chính họ và
gia đình sau đó bảo vệ quyền lợi của những nhóm người khác nhau. Chế độ này
có thể chuyển hóa thành chế độ đầu sỏ độc tài.
-Chế độ dân chủ, do nhiều nhóm người lãnh đạo luân phiên
nhau, thông qua hình thức lựa chọn bốc thăm, và bầu cử các đại diện cao nhất
nắm giữ các chức vụ chủ chốt. Công dân vừa là người lãnh đạo vừa là người
phải tuân theo các điều luật của Nhà nước, tuy nhiên mỗi công dân trong đời
đều có điều kiện làm lãnh đạo 1 năm theo tính chất luân phiên. Chế độ dân chủ
có thể chuyển hóa thành chế độ dân đen lãnh đạo (la populace au pouvoir ou
l’ochlocratie) vì nhiều người thiếu hiểu biết vẫn có cơ hội điều hành đất
nước, điều này khiến Platon và Aristote luôn tỏ ra nghi ngờ về chế độ dân chủ
thời Hy Lạp cổ.
Các nhà tư tưởng thời kỳ Trung cổ và dưới Chế độ cũ có
nhiều công lao hoàn thiện việc xếp loại các thể chế chính trị được các nhà
triết học Hy Lạp xây dựng.
|
B- Les régimes politiques selon Montesquieu
Les grands penseurs philosophique et juridique comme Jean
Bodin, Thomas Hobbes ont construit les théories de la monarchie absolue et de
la République dans le but de diminuer la mainmise de l’Église sur l’État. Montesquieu
quant à lui définit trois formes de régimes politiques qui se réfèrent à des
valeurs différentes. Selon lui, la monarchie possède à sa tête un roi qui
gouverne par l’honneur. La République est dirigée par un gouvernement
représentatif qui se base sur la morale et se compose de représentants élus.
La troisième forme de gouvernement est le despotisme qui dirige le pays par
la crainte. Les deux premières formes de régimes peuvent dégénérer en
despotisme. Si Aristote implique le nombre des personnes qui dirigent la Cité
comme critère de classification, Montesquieu préfère accorder les propres
attributs étroitement liés au régime. Les réflexions de Montesquieu sur les
modèles politiques exercent encore une influence sur l’analyse des régimes
totalitaires et autoritaires qui dirigent par le mensonge et la peur.
Les
régimes politiques modernes sont divers; les experts essaient de les
classifier à leur guise. Il en résulte une grande diversité de classement.
|
B. Chế độ chính trị theo quan điểm của Montesquieu
Nhà luật
học Jean Bodin và nhà triết học Thomas Hobbes xây dựng lí thuyết mới để củng
cố quyền lực cho chế độ quân chủ chuyên chế. Với mục đích đề cao quyền lực
của vua, giúp vua thoát khỏi cái bóng ảnh hưởng của giáo hội La Mã, các nhà
tư tưởng thời Trung cổ và thời Chế độ cũ (l’Ancien Régime) định ra các nguyên
tắc và các đặc điểm cho chế độ quân chủ: Vua phải luôn hành động vì lợi ích
chung để bảo vệ cuộc sống và nền hòa bình của nhân dân cũng như duy trì các
trật tự xã hội, do đó quyền hành của vua cao hơn tất cả.
Ở thời kì
ánh sáng, thế kỉ XVII, XVIII, Montesquieu trong tác phẩm Tinh thần luật,
1748, xây dựng ba kiểu chế độ chính trị: Chế độ quân chủ, đứng đầu là nhà
vua, nhân vật này lãnh đạo đất nước bằng danh dự. Chế độ cộng hòa, do một
chính quyền đại diện gồm các cá nhân ưu tú được tín nhiệm qua hình thức lựa
chọn, chế độ này lãnh đạo đất nước dựa trên các tiêu chuẩn đạo đức. Chế độ
chuyên chế áp bức lãnh đạo đất nước bằng cách gieo rắc sợ hãi để giữ ổn định.
Chế độ quân chủ và chế độ cộng hòa đều có thể chuyển thành chế độ độc tài áp
bức. Nếu Aristote phân loại thể chế chính trị theo số lượng người nắm giữ quyền
lực, Montesquieu tiến thêm một bước xa hơn, bằng cách phân tích các thể chế
chính trị dựa trên các thuộc tính vốn có của nó. Quan điểm của Montesquieu có
ảnh hướng đến việc phân loại các chế độ chính trị dân chủ và phi dân chủ
trong giai đoạn hiện đại. Ví dụ khi nhận định các chế độ theo hệ tư tưởng Đức
quốc xã, theo chủ nghĩa fasciste, staliniste hay maïste là các thể chế độc
tài được cai trị bằng dối trá và sợ hãi, phân tích của Montesquieu khá đúng,
vì trong các thể chế này, hệ tư tưởng và tình cảm sùng bái lãnh tụ được đặc
biệt chú trọng. Nếu sự dối trá bị phát hiện, sự sợ hãi sẽ thế chỗ, khiến con
người không dám phản kháng và buộc phải ngoan ngoãn tuân theo.
Chế độ
chính trị trong thời kỳ hiện đại rất đa dạng về cách thức tổ chức quyền lực,
các nhà nghiên cứu sắp xếp theo các tiêu chuẩn khác nhau, kết quả là có nhiều
quan điểm về các thể chế chính trị.
|
II. La classification institutionnelle des régimes
politiques
Les
auteurs français analysent les régimes politiques en observant l’organisation
des institutions de l’État. A partir de cette vision, on connaît les régimes
politiques qui respectent le principe de la séparation des pouvoirs(B) ou les
régimes qui se dotent de la confusion des pouvoirs(A). Grâce à cette distinction globale,
on peut avoir des classifications encore plus détaillées.
|
II. Xếp loại thể chế
chính trị theo cách thức tổ chức quyền lực
Các học giả người Pháp xếp loại chế độ chính trị bằng cách
quan sát cách thức tổ chức quyền lực của các cơ quan nhà nước, từ đó họ nhận
biết chế độ chính trị theo nguyên tắc quyền lực tập trung (A) hay chế độ
chính trị theo nguyên tắc tam quyền phân lập (B). Đây là phương pháp xếp loại
tổng quát, cần có các cách phân tích và xếp loại chi tiết hơn.
|
A-Les régimes politiques caractérisés par la
confusion des pouvoirs
La plupart
des régimes politiques dont les trois pouvoirs fondamentaux de l’État ne sont
pas séparés donc ne se définissent donc pas comme régimes démocratiques et
vice-versa. Il s’agit ici des régimes autoritaires et totalitaires. En droit,
on les appelle les régimes d’assemblées. Ce mode de régime dont les
institutions politiques n’ont pas une position indépendante relative. Les pouvoirs s’enchevêtrent et se
concentrent dans les mains d’une seule personne ou dans les mains d’un groupe
de personnes. Cette forme de régime politique moderne
dispose des traits semblables aux régimes politiques qualifiés par Aristote
et Montesquieu s’agissant de la tyrannie et de l’oligarchie.
De plus,
les pouvoirs concentrés, qui ne font pas l’objet d’un contrôle efficace ont
tendance à être abusés par leurs détenteurs. Dans ce cas, il en résulte que
les droits de l’Homme, les principes de la démocratie sont lourdement violés.
Au cours
du XX ème siècle, les systèmes politiques où le contrôle de
constitutionnalité des lois et la séparation des pouvoirs ne sont pas
garantis sont en général des régimes antidémocratiques, bien que l’on peut
l’appeler sous un nom différent: démocratie populaire (comparaison avec la
démocratie représentative de l’Occident).
|
A. Chế độ chính trị theo nguyên tắc quyền lực thống
nhất
Đa số các
quốc gia không chú ý phân chia quyền lực minh bạch, rõ ràng, đều theo nguyên
tắc thống nhất về quyền lực dưới hình thức dân chủ tập trung, đây là nguyên
nhân khiến cả hệ thống chính trị hoạt động thiếu dân chủ. Các cơ quan lập
pháp hành pháp và tư pháp không có tính độc lập tương đối, quyền lực không
tách biệt do một người hay một nhóm người nắm giữ.
Các chế độ
độc tài hay độc đoán còn được gọi là các chế độ hội nghị có đặc điểm khá
giống với chế độ bạo chúa chuyên quyền và chế độ đầu sỏ theo định nghĩa của
Aristote và Montesquieu trước đây. Khi quyền lực tập trung không có cơ chế
kiểm soát hiệu quả, các nhà lãnh đạo có xu hướng lạm quyền, kết quả là quyền
con người và các giá trị dân chủ bị vi phạm nặng nề. Khi quan sát hệ thống
chính trị vẫn đang tồn tại ở một số nước, nếu nhiệm vụ giám sát các đạo luật
vi hiến không được tiến hành, hay nguyên tắc tam quyền phân lập không được
tôn trọng, khi chỉ có một đảng được phép điều hành đất nước mà không có cạnh
tranh chính trị, ở các quốc gia đó sẽ không có dân chủ, cho dù quốc hiệu luôn
đi kèm với từ dân chủ. Ví dụ khái niệm nền dân chủ nhân dân để chỉ các nước
Đông Âu và Liên bang Xô viết trước đây, hay Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên hiện nay.
|
Premièrement,
le régime totalitaire dispose certaines caractéristiques:
-La
confusion totale des pouvoirs, les dirigeants détiennent à la fois les
pouvoirs exécutif et législatif, l’indépendance de la justice est remise en
cause. Par conséquent, les gouvernants font des lois et les exécutent de manière
arbitraire. La justice devient un outil utilisé selon leur volonté. La
concentration des pouvoirs provoque de graves conséquences; la société civile
est contrôlée, les droits de l’Homme sont violés, l’Homme n’a plus d’espace
personnel car l’État est omniprésent. Le pluralisme politique n’existe pas,
le parti unique au pouvoir interdit l’opposition. L’homme est mobilisé et vit
au rythme voulu par l’État: Le parti unique devient le parti-État. On trouve
bel et bien ces facteurs constitutifs du régime totalitaire dans les régimes
fasciste, nazi et marxiste-léniniste et également maoïste.
|
Chế độ độc
tài có một số đặc điểm sau: Các nhà lãnh đạo có quyền hành pháp và lập pháp,
tư pháp không có vị trí độc lập và phụ thuộc vào cơ quan hành pháp. Những
người có quyền ban ra các đạo luật và thi hành luật theo kiểu độc đoán, tư
pháp trở thành công cụ trong tay họ. Tập trung quyền lực gây ra những hậu quả
nghiêm trọng, xã hội dân sự tồn tại ở mức độ hình thức, vì con người không có
không gian riêng, Nhà nước can thiệp vào mọi lĩnh vực. Nền chính trị với sự
góp mặt của nhiều đảng phái không tồn tại, chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo,
tiếng nói đối lập bị ngăn cản. Con người bị huy động và phải theo các chính
sách của Nhà nước được một nhóm người quyết định. Công dân không có quyền
phản kháng. Đảng duy nhất cầm quyền trở thành Nhà nước, có sự nhầm lẫn về
khái niệm đảng-Nhà nước. Các đặc điểm trên đều dễ nhận thấy trong các chế độ
fasciste, Đức quốc xã, hay chế độ chính trị theo hệ tư tưởng Mác-Lênin và
Mao.
|
Deuxièmement,
concernant le régime autoritaire, on peut affirmer que ce mode de régime
politique est une transition du totalitarisme vers une démocratie. Malgré
tout, le régime autoritaire a certaines caractéristiques semblables au régime
totalitaire: les pouvoirs se concentrent dans les mains d’une personne ou
d’un groupe de personnes qui décide de tout car la confusion des pouvoirs est
très nette, l’abus des pouvoirs est permanent lorsque les compétences des
gouvernants ne sont pas encadrées. Il existe en réalité une opposition politique très faible
mais son influence ne peut pas dépasser les limites fixées. Les
libertés individuelles se restreignent si elles menacent l’existence du
régime. L’indépendance de la justice est remise en cause mais les juges
disposent de certains pouvoirs à condition que ceux-ci ne menacent pas la
légitimité du régime et les pouvoirs des gouvernants.
|
Chế độ độc
đoán là một giai đoạn chuyển giao từ độc tài sang dân chủ, (không ngoại trừ
khả năng thể chế này lại trở lại độc tài như cũ). Tuy nhiên thể chế chính trị
này có một số nét khá giống với chế độ độc tài. Quyền lực cũng tập trung
trong tay một người hay một nhóm người, các nhà lãnh đạo có quyền quyết định
tất cả mọi việc lớn nhỏ của đất nước do cơ chế quyền lực tập trung, thiếu
kiểm soát. Có thể có đối lập chính trị, nhưng ảnh hưởng của phe đối lập bị
giới hạn. Các quyền tự do cá nhân bị hạn chế đến mức tối đa, một khi các
quyền này ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Quyền lực của tòa án bị kiểm
soát, các quan tòa không có quyền phê phán tính chính danh của chế độ và vai
trò của những người lãnh đạo.
|
Le
contrôle de constitutionnalité et les principes de l’État de droit n’existent
pas vraiment car tous ces mécanismes deviennent inutiles et dangereux au
détriment des droits des gouvernants, le régime autoritaire se réfère au
nationalisme patriotique, à l’Église, à la domination charismatique du leader
(c’est le cas de l’Espagne de Franco, du Portugal de Salazar, de la Grèce
sous le temps des colonels ou du Chili d’Augusto Pinochet mais aussi du cas
des régimes militaires africains après la période post-coloniale).
|
Cơ chế
giám sát các đạo luật để bảo vệ Hiến pháp không được áp dụng, các nguyên tắc
đảm bảo sự tồn tại của Nhà nước pháp quyền không được coi trọng. Tất cả những
yếu tố này trở nên vô ích và nguy hiểm đối với nhà lãnh đạo vì quyền lực của
họ sẽ bị hạn chế. Chế độ độc đoán còn có điểm tựa là chủ nghĩa dân tộc, tôn
giáo, quân đội và tinh thần sùng bái lãnh tụ. Ví dụ trường hợp của Thổ Nhĩ Kì
dưới thời Mustafa Kemal Atatürk, Tây Ban Nha dưới thời Franco, Bồ Đào Nha
thời Salazar và Chile của Augusto Pinochet...
|
Cependant,
le régime totalitaire ou autoritaire se cache souvent sous un mot d’ordre
accueillant, par exemple "la démocratie populaire" ou "l’État
du peuple pour le peuple et par le peuple".
En ce qui
concerne l’URSS et les PECO avant 1991, tous les droits fondamentaux comme
liberté d’expression, d’association ou droit de vote, liberté d’aller et
venir sont restreints voire interdits.
En
revanche, les droits de l’Homme et les principes de la démocratie sont
respectés dans les régimes démocratiques occidentaux grâce à la garantie du
principe de séparation des pouvoirs.
|
Cho dù là
chế độ độc tài, độc đoán hay dân chủ, giới cầm quyền đều đưa ra các khẩu hiệu
rất hấp dẫn để tạo tính chính danh và lấy lòng nhân dân. Các cơ quan công
quyền và các công trình phúc lợi đều gắn nhãn mác "nhân dân" Ví dụ
các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, được gọi là nền dân chủ nhân dân, ở Bắc
Triều Tiên có quảng trường nhân dân, thư viện nhân dân, nhà hát nhân dân...Ở
các nước tư bản khẩu hiệu được ghi trong Hiến pháp là Nhà nước của dân do dân
và vì dân hay chủ quyền thuộc về nhân dân (ví dụ điều 2, Hiến pháp Pháp năm
1958, điều 1, Hiến pháp Ý năm 1947, điều 1, Hiến pháp Tây Ban Nha, năm 1978),
nhưng thực tế không phải chính sách nào cũng vì lợi ích của toàn bộ nhân dân
mà trước hết vì lợi ích của các tập đoàn kinh tế lớn, vì quyền lợi của các
nhóm người có ảnh hưởng trong xã hội tư bản. Tuy vậy quyền con người và các
nguyên tắc duy trì nền dân chủ vẫn được đảm bảo ở các quốc gia phương Tây một
khi nguyên tắc tam quyền phân lập được tuân thủ.
|
B- Les régimes politiques caractérisés par la
séparation des pouvoirs
Les
régimes politiques européens et américains se basent sur le principe de la
séparation des pouvoirs, selon lequel l’équilibre et l’attribution des
pouvoirs aux organes différents doivent être garantie; c’est le mécanisme
"check and balance". Bien que la séparation des pouvoirs peut-être
souple ou rigide, il existe toujours une coopération entre les institutions
politiques qui doivent respecter certaines limites de leurs compétences. Les
régimes politiques occidentaux se représentent par trois modes de
gouvernement distincts; régimes parlementaire, présidentiel et mixte qui sont
les modèles typiques des deux rives de l’Atlantique. Ce modèle est repris par
plusieurs pays du monde mais leurs responsables n’arrivent pas à établir le
modèle à l’identique, faute de bonnes conditions politiques, économiques et
sociales.
|
B. Các chế độ chính trị theo nguyên tắc tam quyền
phân lập
Thể chế
chính trị của Châu Âu và Mỹ dựa trên nguyên tắc tam quyền phân lập. Cân bằng
và phân bổ quyền lực hợp lí giữa các cơ quan luôn được đảm bảo, cơ chế
"check and balance" là đặc điểm nổi bật trong thể chế dân chủ. Theo
nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để, hay tam quyên phân lập tương đối
không có nghĩa là không có sự hợp tác nào giữa các cơ quan hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Hiện nay có ba kiểu chế độ chính trị cùng tồn tại ở hai bờ
Đại Tây Dương, bao gồm chế độ tổng thống, chế độ nghị viện và chế độ hỗn hợp.
Các nước đang phát triển trên thế giới lựa chọn mô hình chính trị của phương
Tây, nhưng do các điều kiện kinh tế chính trị và xã hội chưa đáp ứng được,
nên thể chế chính trị tại các nước này đều có ít nhiều biến thái.
|
En premier
lieu, le régime présidentiel américain qui se manifeste par certains
caractères: le président ne peut dissoudre la Chambre des Représentants et le
Congrès ne peut destituer le président sauf circonstances exceptionnelles
reconnues par la constitution de 1787. Le gouvernement n’a pas de
responsabilité devant le Congrès car le principe de séparation des pouvoirs
que professo rait Montesquieu est strictement suivi. S’il n’existe pas de
moyens d’action réciproques, il y a quand même certaines pressions mutuelles
car le président dispose du droit de veto à l’égard du projet de loi tandis
que les droits d’adoption budgétaire et les droits de ratification des
traités et accords internationaux relèvent exclusivement de la compétence du
Congrès.
|
Chế độ
tổng thống ở Mỹ có một số nét tiêu biểu, khác với chế độ chính trị của Châu
Âu. Tổng thống không có quyền giải tán Hạ viện. Nghị viện (gồm Thượng viện và
Hạ viện) không có quyền bãi chức Tổng thống trừ trường hợp phạm tội phản bội
đất nước, tham nhũng hay phạm các trọng tội về hình sự (điều 2, khoản 4, Hiến
pháp Mỹ, năm 1787). Chính phủ đứng đầu là Tổng thống và Phó Tổng thống không
chịu trách nhiệm trước Nghị viện vì nước Mỹ theo nguyên tắc tam quyền phân
lập triệt để. Nếu không có các biện pháp đối trọng gây sức ép như trong chế
độ nghị viện, Hiến pháp Mỹ ghi nhận một số ảnh hưởng giữa các cơ quan hành
pháp và lập pháp. Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật, trong khi Nghị
viện có thể từ chối không thông qua luật ngân sách và phủ quyết các hiệp ước
quốc tế mà Tổng thống mong muốn kí kết.
|
En second
lieu, s’agissant du régime parlementaire dans lequel, le gouvernement est élu
et soutenu par la majorité parlementaire, il existe toujours les moyens
d’actions réciproques d’une part, l’Assemblée nationale peut renverser le
gouvernement et d’autre part le président ou le roi peut dissoudre
l’Assemblée nationale. C’est le cas de la Grande-Bretagne et de l’Allemagne.
|
Trong chế
độ nghị viện, chính phủ được đảng phái chiếm đa số tại Nghị viện bầu ra và
ủng hộ các chính sách của cơ quan này. Các phương tiện gây sức ép giữa cơ
quan hành pháp và lập pháp luôn tồn tại và phải ở vị thế cân bằng, nếu không
chế độ sẽ mất ổn định. Nghị viện (thường là Quốc hội hay Hạ viện) có quyền
lật đổ chính phủ, một chính phủ mới sẽ được thành lập để đáp ứng tốt hơn các
đòi hỏi từ phía cơ quan lập pháp. Tổng thống hay vua có thể giải tán Quốc
hội, để nhân dân bầu lại một Quốc hội mới có đa số ủng hộ chính phủ. Quyền bỏ
phiếu bất tín nhiệm và quyền giải tán Nghị viện là hai thứ vũ khí lợi hại,
tạo sức ép lớn lên hai cơ quan hành pháp và lập pháp, buộc hai cơ quan này
phải làm tốt nhiệm vụ của mình, nếu không sẽ bị thay thế. Anh, Đức, Tây Ban Nha
và các nước Bắc Âu là những nền dân chủ tiêu biểu theo chế độ nghị viện.
|
En
troisième lieu, concernant le régime mixte, il s’agit de l’exemple de la
France qui dispose des traits du régime parlementaire et présidentiel, il
existe toujours les moyens d’actions mais la dissolution et la motion de
censure deviennent à l’heure actuelle caduque par la présence d’une majorité
parlementaire solide qui soutient sans faille le président et son
gouvernement. Le président est élu au suffrage universel direct comme les
députés. Il est sur le même pied d’égalité par rapport aux représentants de
la chambre basse.
Les
régimes parlementaire, présidentiel ou mixte ont des points en commun qui
font preuve de régimes démocratiques:
|
Chế độ hỗn
hợp là thể chế chính trị có đặc điểm của chế độ tổng thống và chế độ nghị
viện. Các phương tiện gây sức ép giữa Quốc hội và chính phủ chỉ tồn tại trên
hình thức. Cơ quan hành pháp được đa số tại Nghị viện ủng hộ. Tổng thống được
nhân dân bầu trực tiếp và có vị thế ngang bằng với Quốc hội, điều này khác
biệt với chế độ nghị viện truyền thống. Ví dụ tiêu biểu về thế chế chính trị
đặc biệt này là mô hình chính trị của nước Pháp (về mô hình thể chế chính trị
ở Pháp, hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau, một số nhà luật học cho rằng,
nước Pháp đang theo mô hình chế độ tổng thống, các nhà chính trị theo quan
điểm của Maurice Duverger, xếp mô hình chính trị của Pháp theo chế độ nửa
tổng thống nửa nghị viện, hay còn gọi là chế độ hỗn hợp, trong bài viết này,
chúng tôi tạm xếp nước Pháp theo chế độ hỗn hợp, giống với quan điểm của
Maurice Duverger, tuy nhiên cũng còn nhiều điểm phải bàn lại về cách gọi
này).
Thể chế
chính trị phương Tây, theo nhà luật học Jean-Louis Quermonne, có 5 đặc điểm
cơ bản:
|
-la garantie
des droits de l’Homme, le pluralisme politique, le respect de l’opposition
sont protégés par les dirigeants au pouvoir. D’ailleurs, l’élection
concurrentielle, le libre choix des candidats politiques, l’indépendance de
la justice constitue des principes indispensables. La classification des
régimes occidentaux a été effectué par le publiciste anglais Walter Bagehot
dès 1867 dans son livre "Parliamentary government" il a qualifié de
"présidentiel" le gouvernement de l’Amérique et "gouvernement
de cabinet" la Grande-Bretagne.
Wilson
perçoit que le gouvernement parlementaire de la Grande-Bretagne et le système
de gouvernement des États-Unis ne sont pas si distincts, car le gouvernement
présidentiel américain est qualifié selon lui de gouvernement congressionnel.
|
-Chế độ
bầu cử tự do, các đảng phái được phép thành lập trên tinh thần tôn trọng luật
pháp và bảo vệ các giá trị dân chủ, các đảng phải lựa chọn ứng cử viên ra
tranh cử. Các chiến dịch vận động tranh cử và chương trình hành động của các
đảng được các phương tiện thông tin đăng tải, người dân có điều kiện tìm hiểu
và xem xét lựa chọn ứng viên phù hợp với mình.
-Tồn tại
đa số nghị sĩ của một đảng hoặc một liên minh giữa các đảng cùng chia sẻ quan
điểm chính trị, với mục đích ủng hộ các chính sách của chính phủ.
-Phe đối
lập có quyền phê bình và quyền tranh cử, nếu nhân dân lựa chọn, phe đối lập
sẽ có quyền lãnh đạo.
-Chủ nghĩa
hiến pháp được thực thi, các đảng phái buộc phải có thỏa hiệp và đi đến đồng
thuận về một số vấn đề quan trọng, các đạo luật được tòa án hiến pháp giám
sát chặt chẽ để bảo vệ các giá trị của Hiến pháp. Cơ quan tư pháp giữ vai trò
độc lập.
-Bảo vệ
các quyền cơ quản của công dân, chú trọng nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Nhà nước và công dân đều bình đẳng trước pháp luật, các cơ quan công
quyền phải tuân theo luật pháp.
|
Arendt
Lijphart, pour sa part, distingue les régimes occidentaux en les qualifiant
de modèle majoritaire et modèle de consensus ou consociationnel. Il donne
l’exemple de la Grande-Bretagne comme le modèle majoritaire et de la Belgique
comme le modèle de consensus. Sa classification est pertinente et originale
mais reste marginale, d’ailleurs elle ne reçoit pas le partage de tous les
experts.
|
Arendt
Lijphart, nhà chính trị học người Hà Lan xếp loại thể chế chính trị phương
Tây theo chế độ theo đa số và chế độ theo nguyên tắc ưng thuận. Tác giả chọn
nước Anh theo nền chính trị theo đa số và Bỉ theo nền chính trị theo nguyên
tắc ưng thuận. Cách xếp loại mô hình chính trị của Arendt Lijphart khá độc đáo
nhưng không phải là cách xếp loại được các nhà nghiên cứu chú ý.
|
Les
classifications des régimes politiques selon l’approche sociale philosophique
par les auteurs modernes démontrent également des observations intéressantes.
|
Cách xác
định các thể chế chính trị theo quan điểm triết học, xã hội học hiện đại được
nhiều học giả uyên bác của Mỹ và Tây Âu tiến hành, phương pháp này giúp con
người hiểu rõ hơn về bản chất của các thể chế chính trị dân chủ và phi dân
chủ.
|
III- Sociologie politique, philosophie politique et
empirisme dans les classifications politiques
A-Deux figures principales de l’après-guerre:
Raymond Aron et Hannah Arendt
Raymond
Aron est un des principaux contributeurs du XXème siècle de la sociologie
mais également dans le domaine des sciences politiques. Traducteur des œuvres
de Weber, contemporain & acteur de la seconde guerre mondiale (il
s’exilera notamment à Londres aux côtés du Général De Gaulle), il va nourrir
la classification politique d’un point de vue sociologique en s’intéressant à
la logique interne des institutions politiques dans son livre Démocratie et
Totalitarisme publié en 1965. Il distingue deux formes de régimes, dont la
variable principale est l’organisation des partis:
|
III. Chế độ chính trị được xếp loại theo quan điểm
xã hội học và triết học
A. Hannah Arendt và Raymond Arond, hai đại diện tiêu
biểu sau chiến tranh.
Raymond
Aron là một trong những nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp cho ngành xã hội học
trong thế kỷ XX, ông cũng để lại dấu ấn trong lĩnh vực khoa học chính trị.
Nhà xã hội học ưu tú này là người giới thiệu các tác phẩm của Max Weber và
góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Max Weber về chính trị và xã hội. Trong
chiến tranh thế giới lần thứ 2, Raymond Aron sang Anh, tham gia kháng chiến
với tướng De Gaulle. Trong tác phẩm Dân chủ và Độc tài, Démocratie et
Totalitarisme, xuất bản năm 1965, ông chia ra làm hai loại thể chế chính trị,
điểm khác biệt giữa hai kiểu chế độ này là việc tổ chức các đảng phái chính
trị theo cách riêng:
|
le régime
pluraliste; c’est une organisation de partis multiples, autrement appelé
régime démocratique. Dans ce type de régime, l’État tolère une pluralité de
partis dans la mesure du respect de la Constitution. La reconnaissance et la
légalisation de l’opposition se fait par le biais du concours à l’exercice du
pouvoir via l’élection et le système de représentation. Les régimes
occidentaux ont une organisation constitutionnelle qui porte les modalités de
la concurrence pacifique pour l’exercice du pouvoir légal de manière
temporaire. Raymond Aron relève cependant une tension dans ce type de
régimes, comment concilier les intérêts de la majorité vainqueur et de la
minorité vaincue? A cela s’ajoute trois aspects négatifs:
-la
non-application régulière de la légitimité électorale (par exclusion ou par
manipulation)
-la
non-application des règles de concurrence pacifique (entre partis et au sein
du parlement)
-le
caractère non-représentatif des partis
|
Chế độ đa
đảng thể hiện hệ thống chính trị có nhiều đảng phái cạnh tranh, đây là biểu
hiện của dân chủ. Nhà nước chấp nhận sự có mặt của nhiều đảng với điều kiện,
các đảng phải tôn trọng Hiến pháp và hoạt động tuân theo các đạo luật hiện
hành. Phe đối lập được tôn trọng và có quyền tự do hoạt động, có quyền tranh
cử để thay thế đảng đa số cầm quyền, theo nguyên tắc luân phiên. Chế độ chính
trị phương Tây hoạt động theo quy định của Hiến pháp. Cạnh tranh chính trị
lành mạnh để giành được quyền lãnh đạo tạm thời, quyền này sẽ bị tước đoạt
nếu đảng lãnh đạo không đủ năng lực, sẽ không được tín nhiệm. Raymond Aron
cho rằng cạnh tranh cũng như căng thẳng chính trị ở thể chế chính trị phương
Tây khá khắc nghiệt. Tác giả đặt câu hỏi làm thế nào để đảm bảo đồng thời lợi
ích của đa số chiến thắng trong cuộc bầu cử và của thiếu số thất bại? Một số
thiếu sót của mô hình chính trị dân chủ vẫn tồn tại như áp dụng không hợp lí
vấn đề bầu cử hợp pháp và đúng luật (như một số vẫn không được tham gia bầu
cử, hay trong quá trình bầu cử một số cử tri vẫn bị lợi dụng), việc không áp
dụng nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh giữa các đảng phái và giữa các nhóm nghị
sĩ tại Nghị viện, tính không đại diện của các đảng phái. Đây vẫn là những
khuyết điểm của chế độ dân chủ.
|
le régime
monopolistique; c’est un régime caractérisé par son aspect révolutionnaire.
L’État est engagé idéologiquement, il est le socle de l’idéologie du parti au
pouvoir. Il y a une négation de l’opposition ainsi que la violence, le
non-respect de l’égalité et de la légalité dans le concours pour l’exercice
du pouvoir. Raymond Aron établit une grille d’évaluation du degré de
totalitarisme: la nature de la doctrine du parti, l’autorité de ses projets,
les moyens employés pour arriver à ses fins, l’idéal qu’il se fait de la
société, le degré de globalité de l’idéologie et de confusion entre l’État et
la société.
|
Trái với
chế độ đa đảng là chế độ một đảng, thể chế này có thiên hướng cách mạng. Nhà
nước được trang bị một hệ tư tưởng, (trong Nhà nước dân chủ, nhiều ý kiến, tư
tưởng được lắng nghe và được nghiên cứu, điều này phản ánh sự đa dạng của các
nhóm người trong xã hội, nên sẽ không có hệ tư tưởng chung, vì tư tưởng của
nhóm này lại không phản án quan điểm và suy nghĩ của nhóm khác). Hệ tư tưởng
trở thành nền tảng và động lực của đảng cầm quyền trong chế độ một đảng. Đối
lập chính trị không được phép hoạt động. Nguyên tắc bình đẳng, hợp pháp về
cạnh tranh chính trị không được tôn trọng. Raymond Aron lập một bảng đánh giá
về mức độ của chế độ độc tài: Bản chất về học thuyết của đảng cầm quyền, sức
mạnh và khả năng thuyết phục thông qua các chủ trương và chính sách, phương
tiện được sử dụng để đạt đến mục đích cuối cùng, lí tưởng kiến thiết xã hội,
mức độ bao quát của hệ tư tưởng đối với xã hội, mức độ thống nhất giữa ranh
giới Nhà nước và xã hội.
|
Hannah
Arendt (1906-1975), fût elle aussi marquée par la montée du nazisme en
Allemagne, ce qui provoque son exil en France et ensuite aux États-Unis à
partir de 1951. Témoin
engagé de son époque au même titre qu’Aron, elle développe une approche plus
philosophique du totalitarisme. Sa notion du totalitarisme est marquée par la
terreur, elle y voit l’effacement total de la notion d’humanité, devant
laisser la place à une masse sans affectivité, sans mémoire et sans
conscience.
|
Hannah Arendt (1906-1975), nhà triết học người Đức gốc Do
Thái, chứng kiến sự lớn mạnh của chế độ Đức quốc xã, bà chạy chốn sang Pháp
sau đó sang định cư tại Mỹ. Hannah Arendt xây dựng lí thuyết về chế độ độc
tài theo quan sát của một nhà triết học. Bà nhận xét chế độ độc tài luôn gắn
với nỗi sợ hãi, trong chế độ này không còn khái niệm nhân đạo, xã hội con
người bị thế chỗ bởi đám đông quần chúng, không có tình cảm, không có kí ức
và không có ý thức phân tích đúng sai.
|
Dans Les origines du totalitarisme (1951), elle remet en
cause le rapport politique du dominant-dominé et invite à repenser la
politique comme fondée sur la liberté et la délibération, en restaurant
notamment la différence entre le"privé"et le"public",
entre la production économique et l’ordre politique de l’action, à dissocier
de la simple gestion. Plus qu’un régime politique, le totalitarisme est un
système, un ensemble d’éléments interdépendants: à la fois une organisation
de la société, une conception du rôle de l’État, une vision du monde, un
ensemble d’objectifs pratiques, une mythologie et une métaphysique. Selon, Hannah
Arendt, le totalitarisme vise une domination totale, aussi bien de l’homme en
tant qu’être physique et de pensée mais également la conquête du monde
entier. Le totalitarisme débouche nécessairement sur la
guerre ou sur la révolution programmée à l’échelle du monde entier. Le
totalitarisme méprise les lois "positives" (écrites) mais se
réclame d’une forme plus élevée de légitimité. L’hitlérisme vise
l’accomplissement de la loi de la Nature, le stalinisme l’accomplissement de
la loi de l’Histoire (énoncée par le marxisme). Pour cette analyse, Hannah Arendt
utilise l’idéaltype de Max Weber, une construction théorique comprenant deux
variantes: la période soviétique stalinienne et l’Allemagne pendant le régime
hitlérien. Cependant, certains auteurs ont remis en cause cette
classification qui à l’évidence manquait de profondeur et de données
empiriques.
|
Trong tác phẩm Nguồn gốc của chế độ độc tài, Les origines
du totalitarisme, 1951, Hannah Arendt phê phán mối liên hệ chính trị giữa nhà
lãnh đạo và công dân, bà cho rằng cần phải xem xét lại chính sách dựa trên tự
do và tranh luận, cần phải bàn về "không gian riêng tư" và
"không gian công cộng" giữa sức sản xuất của nền kinh tế và điều
hành chính trị, cần tách biệt với sự quản lí đơn giản. Vượt xa hơn cả một chế
độ chính trị thông thường, chế độ độc tài là một hệ thống, là tổng thể các
yếu tố có liên hệ mật thiết với nhau: Đồng thời là một tổ chức xã hội có một
quan niệm về vai trò của Nhà nước, có quan điểm về nhìn nhận thế giới. Toàn
bộ các mục tiêu của thể chế này cần được áp dụng và kiểm nghiệm qua thực tế,
chế độ độc tài được kết hợp với những yếu tố thần thoại và các yếu tố siêu
hình. Hannah Arendt nhận định chế độ độc tài hướng đến sự thống trị toàn bộ,
thống trị con người về sức lực, tư tưởng và hướng đến nhiệm vụ chinh phục thế
giới. Chế độ độc tài dẫn đến chiến tranh hoặc hướng đến một cuộc cách mạng
được chuẩn bị theo một chương trình quy mô trên phạm vi toàn thế giới.
Chế độ độc tài khinh bỉ các đạo luật được ban hành, nhưng
luôn tự coi mình hợp pháp hơn cả luật pháp. Tư tưởng của Hitler hướng đến
việc thực hiện các đạo luật tự nhiên (cạnh tranh sinh tồn, kẻ mạnh chiến
thắng kẻ yếu), tư tưởng của Staline nhằm thực hiện quy luật của lịch sử theo
chủ nghĩa Marx. Hannah Arendt sử dụng phương pháp phân tích của Max Weber để
xây dựng lí thuyết. Bà quan sát thể chế chính trị thời Đức quốc xã và Liên
bang Xô viết dưới thời Staline. Một số tác giả phê phán cách xếp loại thể chế
chính trị theo quan điểm triết học này, vì nó không đủ độ sâu và thiếu bằng
chứng thuyết phục.
|
A ces deux auteurs, il convient d’en ajouter un troisième,
Claude Lefort (1924-2010), d’influence marxiste, qui s’est attaché selon une
vision organiciste de la société, à analyser le système comme un corps
social, reprenant ainsi les thèses d’Ernst Kantorowicz sur les deux corps du
roi; la personne du chef totalitaire au-delà de son corps physique et mortel
est un corps politique figurant le peuple-un. Il ajoute que la constitution
du"peuple-un"nécessite la production incessante d’ennemis, c’est la
seule division que le régime totalitaire accepte, il se fonde par rapport à
elle. Néanmoins, il ne voit pas de fin donc de succès à ce système, car son
développement entraîne nécessairement contradiction et opposition. De plus,
il reprend cette vision organiciste sur le régime démocratique, il est
caractérisé par l’institutionnalisation du conflit au sein de la société, de
la division du corps social; il reconnaît, et même légitime, l’existence
d’intérêts divergents, d’opinions contraires, de visions de monde opposées et
même incompatibles.
|
Bên cạch hai tác giả lớn, cần phải kể đến Claude Lefort
(1924-2010), ông là nhà triết học chịu ảnh hưởng tư tưởng của Karl Marx, ông
phân tích thể chế chính trị theo cách thức tổ chức các cơ quan trong xã hội.
Claude Lefort dựa theo quan sát của Ernst Kantorowicz về hai hệ thống trong
Nhà nước quân chủ, hệ thống của nhà vua và hệ thống của nhân dân. Trong hệ
thống của nhân dân thường có các yếu tố xung đột, tạo sự chia rẽ, thể chế độc
tài chấp nhận điều đó và quản lí xã hội bằng các biện pháp mạnh. Nhưng chế độ
độc tài sẽ không thành công để loại bỏ tính đối lập vốn có, vì trong quá
trình vận động và phát triển của thể chế, sẽ luôn xuất hiện sự xung khắc và
tồn tại các quan điểm đối lập. Hơn nữa, để tổ chức xã hội hoàn thiện, chế độ
độc tài buộc phải kiến thiết và tổ chức xã hội tốt hơn bằng cách học theo các
nguyên tắc có sẵn trong các thể chế dân chủ, điều này càng làm cho xã hội
thêm phân chia sâu sắc. Các mối xung đột luôn thường trực trong thể chế dân
chủ vì thể chế này công nhận lợi ích hợp pháp của các nhóm người khác nhau,
và chấp thuận sự tồn tại các quan điểm trái ngược.
|
B- La typologie ternaire de Juan José Linz
Juan José
LINZ (1926-2013), est un politologue espagnol qui a fait la majeure partie de
sa carrière universitaire aux États-Unis développant sa thèse notamment sous
la direction Seymour Martin Lipset et côtoyant les principales figures du
fonctionnalisme américain comme Paul Lazarsfeld et Robert K.Merton. Il y a
donc un réel intérêt pour l’approche empirique chez Linz dont son œuvre est
emprunte.
|
B. Xếp loại thể chế chính trị theo quan điểm của
Juan José Linz
Juan José
Linz (1926-2013) là nhà chính trị học người Tây Ban Nha, ông là giáo sư đại
học ở Mỹ, ông bảo vệ luận án tiến sĩ, dưới sự chỉ dẫn của Seymour Martin
Lipset. Juan José Linz gần gũi với những đại diện tiêu biểu của học thuyết
chức năng của Mỹ như Paul Lazasfeld, Robert K. Merton.
|
Tout
d’abord, il va chercher à s’éloigner de l’opposition binaire classique
démocratie/ totalitarisme, pour développer une typologie ternaire idéal
typique. Il affirme
cette idée dans "Totalitarian and Authoritarian regime"(2000) selon
laquelle la distinction totalitaire et démocratie pluraliste ne suffit plus à
couvrir le réel. Il met au cœur de son analyse la dynamique des régimes
politiques selon sa formule"les typologies émergent et disparaissent en
fonction de leur utilité analytique par les chercheurs. Ainsi il s’écarte de
l’approche des régimes politiques qui privilégient le rôle des institutions,
de l’agencement des pouvoirs et la structure des partis pour s’achever par
une discussion formelle opposant normativement des types de régimes. Il
dégage ainsi trois types:
|
Juan José
Linz xa rời phương pháp xếp loại truyền thống các thể chế chính trị dân chủ/ độc
tài. Ông xây dựng lí thuyết mới và xếp loại 3 kiểu chế độ chính trị. Trong
cuốn sách chế độ độc tài và chế độ độ đoán, Totalitarian and Autoritarian
regime, xuất bản năm 2000, ông đưa ra nhận xét, quan điểm về thể chế độc tài
và thể chế dân chủ đa đảng trước đây chưa phản ánh hết thực tế các thể chế
chính trị đã và đang tồn tại trên thế giới, cần có những đánh giá năng động
về các chế độ chính trị vì có mô hình ra đời, sau đó biến mất hoặc thay đổi
sang một hình thức khác. Ông phủ nhận phương pháp xác định các thể chế chính
trị dựa trên vai trò của các cơ quan công quyền và dựa trên mối quan hệ giữa
các cơ quan quyền lực hay cấu trúc của các đảng phái. Điều này chỉ đem lại
những quan sát mang tính hình thức về các kiểu chế độ chính trị, chứ không
phản ánh đúng bản chất của chúng.
|
régime
totalitaire, autoritaire, démocratie pluraliste, et met en avant que le
développementalisme (S.Huntington) ne suffit pas à expliquer la condition des
différents régimes. En effet, le développement économique doit amener le
développement démocratique selon ces derniers mais Linz remarque que les pays
non-démocratiques ont des croissances économiques continues, remettant en
cause cette analyse. De plus, l’évolution des régimes à la fin du XX ème
siècle va amener Juan José Linz à constamment reformuler ses idéaux types,
passant à une typologie quinternaire. Il ajoute ainsi le régime sultanique et
le régime post-totalitaire (ce dernier pouvant se décliner en cinq
sous-catégories également). Ses analyses sont les plus abouties en termes de classification
jusqu’à aujourd’hui.
|
Ông nêu ra ba loại thể chế chính trị khác nhau: chế độ độc
tài, chế độ độc đoán, chế độ dân chủ đa đảng. Ông nhấn mạnh thuyết phát triển
(le développementalisme) của Samuel Huntington không đủ sức thuyết phục khi
giải thích điều kiện tồn tại các chế độ chính trị theo lí thuyết này. (Phát
triển kinh tế đi kèm với quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ, kinh tế
sẽ thúc đẩy dân chủ). Juan José Linz nhận xét các nước không có dân chủ vẫn
đảm bảo tăng trưởng kinh tế liên tục, kinh tế phát triển nhưng chưa chắc đã
có dân chủ. Khi quan sát những chuyển đổi của các chế độ chính trị vào cuối
thế kỷ XX, Juan José Linz đã xây dựng lại quan điểm của mình về các kiểu thế
chế chính trị. Ông phân loại làm 5 kiểu thể chế khác nhau: Chế độ độc tài,
chế độ độc đoán, chế độ dân chủ đa đảng, chế độ quân vương và chế độ hậu độc
tài, (trong hình thức chính thể cuối cùng này, ông lại xếp thành 5 kiểu thể
chế chính trị khác nhau). Những phân tích của tác giả được đánh giá là rất công
phu và đầy đủ nhất đến thời điểm hiện tại.
|
La bibliographie
4. Dictionnaire de la culture juridique, sous la direction
de Denis Alland et Stéphane Rials, QUADRIAGE/LAMY-PUF, 2007
5. Les régimes politiques occidentaux, Jean-Louis
Quermonne cinquième édition, Éditions du Seuil.
6. Régimes totalitaires et autoritaires, Juan José Linz
Paris, Armand Colin, 2006
|
Tài liệu tham khảo
1. Dictionnaire de la culture juridique, sous la direction
de Denis Alland et Stéphane Rials, QUADRIAGE/LAMY-PUF, 2007.
2. Les régimes politiques occidentaux, Jean-Louis
Quermonne cinquième édition, Éditions du Seuil.
3. Régimes totalitaires et autoritaires, Juan José Linz
Paris, Armand Colin, 2006.
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn