MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Tuesday, October 25, 2011

What is Democracy? Dân chủ là gì?

i

What is Democracy?

Dân chủ là gì?

The study of democratic governance is its own industry. Numerous non-partisan organizations rigorously study countries around the world and apply variables to determine whether a democracy exists, and to determine its quality and the extent to which it is considered durable. Freedom House, the Center for Systemic Peace (which maintains the Polity IV data set), and The Economist Intelligence Unit of the The Economist magazine all annually evaluate the state of democracy in the world. The US National Endowment for Democracy also conducts research and fields expert opinions. Supplementing these are the World Values Survey and the work of other polling organizations such as Pew and Gallup, which routinely measure the attitudes and values of people all over the world as they pertain to preferences and proclivities for types of governments.

Nghiên cứu về quản trị dân chủ bản thân nó đã một ngành công nghiệp. Nhiều tổ chức phi đảng phái nghiên cứu một cách chặt chẽ các quốc gia trên thế giới và áp dụng các biến số để xác định xem liệu có một nền dân chủ tồn tại hay không, và để xác định chất lượng và mức độ bền vững của nền dân chủ đó. Freedom House, Trung tâm Hòa bình hệ thống (duy trì bộ dữ liệu Chính thể IV), và Bộ phận Trí tuệ Kinh tế (EIU) của tạp chí Nhà Kinh tế hàng năm đánh giá hiện trạng của nền dân chủ trên thế giới. Quỹ Quốc gia vì Dân chủ Hoa Kỳ cũng tiến hành nghiên cứu và lấy ý kiến ​​chuyên gia. Bổ sung cho những tổ chức trên là Khảo sát Giá trị Thế giới và hoạt động của các tổ chức thăm dò ý kiến công chúng như PewGallup, vốn thường xuyên đo lường thái độ và giá trị của mọi người trên thế giới liên quan đến sở thích và xu hướng ủng hộ đối với các thể chế chính phủ.



The concept of democracy is often expressed in terms of “thin” and “thick” definitions. At its most fundamental (or thin) incarnation, democracy is synonymous with popular sovereignty or majority rule: a system of governance in which the people choose their leaders by casting votes. Also known as electoral democracy, this definition describes the processes by which a government derives its authority or mandate. But, most agree that this is only one piece of the equation. What the government does with this mandate, how it rules, and the outcomes that are produced must also be factored into a (thick) designation of democracy. Thus, what we know as democracy in its ideal form generally also includes governance by rule of law and the protection of civil liberties, or liberal democracy. Though how these two basic components of democracy – electoral and liberal – are represented may differ, it is widely accepted that a truly democratic system of governance must comprise both. The extent to which it does so will determine its quality and durability. In the words of Thomas Jefferson, without liberal democracy, electoral democracy is “nothing more than mob rule where 51% of the people may take away the rights of the other 49.”

Khái niệm về dân chủ thường được diễn đạt với các định nghĩa "mỏng" và "dày". Trong hiện thân cơ bản nhất (hay mỏng), dân chủ là đồng nghĩa với chủ quyền của nhân dân hoặc nguyên tắc đa số: một hệ thống quản trị trong đó người dân lựa chọn các nhà lãnh đạo của họ bằng cách bầu phiếu. Còn được gọi là dân chủ tuyển cử, định nghĩa này mô tả các quá trình mà theo đó một chính phủ có được thẩm quyền hoặc ủy quyền. Nhưng, hầu hết mọi người đồng ý rằng đây chỉ là một phần của phương trình. Chính phủ sẽ làm gì với quyền lực được giao, chính phủ cầm quyền như thế nào, và kết quả được tạo ra cũng phải được coi là các yếu tố cấu thành của một của nền dân chủ (dày). Vì vậy, cái mà chúng ta hiểu là hình thức dân chủ lý tưởng thông thường cũng bao gồm việc quản trị theo quy định của pháp luật và bảo vệ các quyền tự do dân sự, hay dân chủ tự do. Mặc dù cách thức hai thành phần cơ bản của nền dân chủ - bầu cử và tự do - được thể hiện có thể khác nhau, nhưng vẫn có một sự chấp nhận rộng rãi rằng một hệ thống cai trị thật sự dân chủ phải bao gồm cả hai. Mức độ mà nền dân chủ thực hiện hai thành tố đó sẽ quyết định chất lượng và tính bền vững của nó. Theo lời Thomas Jefferson, mà không có nền dân chủ tự do, dân chủ tuyển cử chẳng qua là "quy tắc đám đông trong đó 51% người dân có thể tước đoạt quyền của 49% còn lại."


Freedom House expresses this critical combination in terms of “political rights” and “civil liberties.” Democracy expert Michael Mandelbaum writes in terms of the “who” and “how” of governing. Other definitions are more organic and do not use a binary distinction between the two. The definition used by The Economist Intelligence Unit is “a government based on majority rule and the consent of the governed, the existence of free and fair elections, the protection of minorities, respect for basic human rights, (presupposing) equality before the law, due process, and political pluralism.” Expert Marc Plattner defines democracy as “a regime based on majority rule, tempered by the separation of powers, the rule of law and constitutional protections for individual liberties.” Another expert Larry Diamond writes in terms of “popular sovereignty, accountability of rulers, freedom, and rule of law.” The key take-away is that simply electing leaders democratically does not ensure that the citizens of a country will experience the benefits of a democratic society. Thus, often confusingly, the term democracy is used to describe both a means and an end.

Freedom House thể hiện sự kết hợp quan trọng này về quyền chính trị" tự do dân sự". Chuyên gia Dân chủ Michael Mandelbaum đã viết về "ai" cầm quyền cầm quyền "như thế nào". Các định nghĩa khác hữu cơ hơn và không sử dụng một sự phân biệt nhị phân giữa hai thành tố đó. Các định nghĩa được sử dụng bởi Economist Intelligence Unit là "một chính phủ dựa trên nguyên tắc đa số và sự chấp thuận của người dân, sự tồn tại của bầu cử tự do và công bằng, bảo vệ thiểu số, tôn trọng các quyền cơ bản của con người, (bao hàm) bình đẳng trước pháp luật, xét xử theo trình tự pháp luật, và đa nguyên chính trị." Chuyên gia Marc Plattner định nghĩa dân chủ là" một chế độ dựa trên nguyên tắc đa số, được kiềm chế bởi phân lập quyền lực, cầm quyền theo pháp luật (pháp quyền) và bảo vệ hiến pháp vì các quyền tự do cá nhân." Một chuyên gia khác Larry Diamond viết về "chủ quyền của nhân dân, trách nhiệm của nhà cầm quyền, tự do, và pháp quyền." Điểm mấu chốt là chỉ đơn giản bầu chọn các nhà lãnh đạo một cách dân chủ sẽ không đảm bảo được rằng các công dân của một quốc gia sẽ được hưởng những lợi ích của một xã hội dân chủ. Vì vậy, người ta thường nhầm lẫn khi sử dụng thuật ngữ dân chủ để mô tả cả phương tiện lẫn mục đích.

It is also important to note that democracy is generally recognized to be, in the words of scholar Chan Heng Lee, an “elastic” concept. Unlike pregnancy, where you either are or aren’t, countries are widely seen as occupying temporary, ever-shifting spots along a spectrum of democratization, in constant motion, democratizing and de-democratizing as institutions, values, and attitudes change.

Điều quan trọng cũng cần lưu ý nền dân chủ nói chung được công nhận, theo lời của học giả Lý Chấn Phiên, như là một khái niệm "đàn hồi". Không giống như mang thai, nơi bạn hoặc tồn tại hoặc không, các quốc gia được nhìn nhận như là đang chiếm lĩnh các vị trí tạm thời, thường xuyên chuyển đổi dọc theo phổ dân chủ, trong một chuyển động liên tục, dân chủ hóa và phi dân chủ hóa với các thể chế, các giá trị, và thay đổi thái độ.




Often, a great way to understand a concept is to examine its opposite. Authoritarian governments or autocracies can be said to occupy the lowest end of the democratic spectrum. Leaders come by their positions through heredity, conquest, coup, or appointment. Once in power, all rights and responsibilities are vested in the government over which they preside. Citizens have some rights and some responsibilities doled out to them at the government’s discretion, but they do not enjoy any expectation of consistency or impartiality in the way these are distributed. Any powers not specifically given to the people are reserved by the government, and these designations may change at the whim of leaders. No categorical limitations are placed on government activities; there is generally no recourse for any abuses or excesses visited upon citizens by their leaders. The power flows in one direction.

Thông thường, cách tốt nhất để hiểu một khái niệm là xem xét khái niệm đối lập của nó. Có thể nói các chính phủ độc tài hay chế độ chuyên quyền chiếm vị trí thấp nhất trong phổ dân chủ. Các nhà lãnh đạo thường leo lên vị trí của mình thông qua cha truyền con nối, chinh phục, đảo chính hay bổ nhiệm. Một khi cầm quyền, tất cả các quyền lực và trách nhiệm được trao cho chính phủ mà họ đứng đầu. Công dân có một số quyền và một số trách nhiệm được quy định cho họ theo quyết định của chính phủ, nhưng họ không được hưởng bất kỳ kỳ vọng nào về tính nhất quán hoặc vô tư trong cách những quyền và trách nhiệm này được phân bổ. Bất kỳ quyền hạn nào mà không dành cho người dân một cách cụ thể thì đều được chính phủ nắm giữ, và các chỉ định này có thể thay đổi theo ý muốn của nhà lãnh đạo. Không có giới hạn về thể loại được áp đặt đối với các hoạt động của chính phủ, nói chung là không có truy cứu đối với bất kỳ sự lạm dụng hay sử dụng thái quá quyền lực mà các nhà lãnh đạo áp đặt lên các công dân của họ. Quyền lực chỉ chảy theo một hướng.

In contrast, in the truest form of democracy at the furthest end of the spectrum, all rights and responsibilities are vested with the people; it is the people who then confer a subset of these upon the government by electing leaders and writing constitutions. The people enter into a contract with the government to pursue policies associated with the collective good of society. Any powers not specifically given to the government are reserved by the people. A system of majority rule prevails within an established set of policies and institutions to determine an approximation of the “public good,” yet every effort is made to observe the rights of minorities within this realm. The power flows in two directions: between the people and their government, guided by a codified system of laws and applied universally and transparently without discrimination. Electoral democracy is the process by which leaders gain public office; liberal democracy results when clear limits are placed on what they can do when they get there. As mentioned above, electoral democracy alone only gets you so far on the spectrum; liberal democracy kicks in when citizens are guaranteed protection of their civil liberties from infringement by the government or by other citizens. Civil liberties are similar to human rights as delineated in the United Nations Universal Declaration of Human Rights.

Ngược lại, dưới hình thức xác thực nhất của nền dân chủ nằm cuối cực kia của phổ dân chủ, tất cả các quyền và trách nhiệm thuộc với người dân, chính nhân dân là những người sau đó trao một phần quyền và trách nhiệm cho chính phủ bằng cách bầu ra lãnh đạo và viết hiến pháp. Những người tham gia chính phủ theo đuổi các chính sách liên quan đến lợi ích tập thể của xã hội. Bất kỳ quyền lực nào không được trao cho chính phủ một cách cụ thể đều được người dân bảo lưu. Một hệ thống nguyên tắc đa số chiếm ưu thế trong khi thiết lập chính sách và thể chế để xác định tiếp cận lợi ích "công cộng", nhưng mọi nỗ lực vẫn được thực hiện để tôn trọng quyền của các nhóm thiểu số trong xã hội. Quyền lực chảy theo hai hướng: giữa nhân dân và chính phủ của họ, được hướng dẫn bởi một hệ thống pháp luật chuẩn hóa và được áp dụng phổ quát và minh bạch mà không có sự phân biệt đối xử. Bầu cử dân chủ là quá trình mà nhờ đó các nhà lãnh đạo giành được chức vụ công cộng, dân chủ tự do được tạo ra khi các giới hạn rõ ràng được xác lập đối với những gì lãnh đạo có thể làm khi họ tiến tới các giới hạn đó. Như đã đề cập ở trên, một mình bầu cử dân chủ chỉ đưa bạn đi tới phổ dân chủ, tự do dân chủ chỉ khởi động khi người dân được đảm bảo rằng các quyền tự do dân sự của họ được bảo vệ khỏi hành vi xâm phạm của chính phủ hoặc các công dân khác. Quyền tự do dân sự tương tự như quyền con người đã được minh định trong bản Tuyên ngôn về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.

The Process of Democratization

It is generally assumed that most countries lie somewhere on the spectrum between pure autocracy and pure democracy. It is important to note that there are democratically elected government that do not protect civil liberties, just as there are autocratic governments that do protect some civil liberties. True democratization must occur on both the electoral and liberal fronts and is thought to progress along four stages, first described by Doh Chull Shin, with the potential for movement occurring in both directions:

Quá trình dân chủ hóa


Người ta thường giả định rằng hầu hết các nước nằm ở đâu đó trên đoạn phổ giữa cực kỳ chuyên chế và hoàn toàn dân chủ. Điều quan trọng là cần phải lưu ý rằng có những chính phủ được bầu một cách dân chủ nhưng lại không bảo vệ quyền tự do dân sự, nhưng cũng có những chính phủ chuyên quyền lại thực sự bảo vệ một số quyền tự do dân sự. Thực thi dân chủ thực sự phải diễn ra trên cả hai lĩnh vực bầu cử và tự do và được cho là tiến triển theo bốn giai đoạn, được Doh Chull Shin mô tả bởi lần đầu tiên, với khả năng các chuyển biến diễn ra theo cả hai hướng:



1. Decay of authoritarian rule: This can be the result of foreign intervention or war, but is usually brought on by the failure of the government to perform its basic functions in securing the well-being of the people over whom it rules. As the state fails, popular discontent grows and resistance builds through violent or nonviolent means. Opposition becomes, in the words of Peter Ackerman and Jack Duvall, “personal, collective, and strategic” as the “people’s acquiescence begins to come apart,” and the regime’s legitimacy is “ruptured.”

1. Sự tan rã của chế độ độc tài: Điều này có thể là kết quả của sự can thiệp của nước ngoài hoặc chiến tranh, nhưng thường gây ra bởi sự thất bại của chính phủ trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của nó để đảm bảo hạnh phúc của người dân mà chính phủ đang cai trị. Khi nhà nước bất lực thì bất mãn phổ biến phát triển và sự chống đối tích tụ thông qua các phương tiện bạo lực hoặc bất bạo động. Phe đối lập, theo lời Peter Ackerman và Jack Duvall, trở thành "cá nhân, tập thể, và chiến lược" khi mà "sự phục tùng của nhân dân bắt đầu tan rã", và tính hợp pháp của chế độ bị "đứt vỡ."

2. Transition: This is often characterized by an autocratic regime’s last attempts to regain legitimacy through reform. Often, the reforms are cosmetic and serve to vent popular frustration. These reforms ultimately shore up the authoritarian regime and extend its life, resulting in no actual fundamental transition (Post-Tiananmen Square China is an example here). In other cases, as Samuel Huntington has noted, many transitions from totalitarian rule are actually the “unintended consequences of reforms meant to forestall bigger reforms.” He cites the fall of the apartheid regime in South Africa and the fall of Communist Soviet Union as examples of this. Both South Africa’s Botha and the USSR’s Gorbachev opened up a small space for dissent that ultimately became their undoing. In such cases, momentum builds until the divided house can no longer stand. Elections by popular sovereignty or majority rule are the end stage of the transition period and necessitate some form of rudimentary constitutionalism to establish offices and procedures for voting.

2. Chuyển đổi

Quá trình chuyển đổi này thường được đặc trưng bởi những nỗ lực cuối cùng của chế độ độc tài nhằm lấy lại tính hợp pháp thông qua cải cách. Thông thường, những cải cách có tính hoa mỹ và phục vụ cho việc xoa dịu sự bất mãn phổ biến. Những cải cách này rốt cục là để củng cố chế độ độc tài và kéo dài tuổi thọ của nó, và không thể tạo ra một chuyển đổi cơ bản thực sự nào (ở đây Trung Quốc hậu Thiên An Môn là một ví dụ). Trong các trường hợp khác, như Samuel Huntington đã ghi nhận, nhiều quá trình chuyển đổi từ chế độ độc tài thực sự là "những hậu quả ngoài ý muốn của cải cách được thực hiện nhằm ngăn chặn những cải cách lớn hơn." Ông minh họa điều này bằng sự sụp đổ của chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết. Cả Botha của Nam Phi và Gorbachev của Liên Xô đều đã mở ra một không gian nhỏ cho bất đồng chính kiến ​​mà cuối cùng đã trở thành đối lập của họ. Trong những trường hợp như thế này, động năng tích lũy cho đến khi ngôi nhà bị chia cắt không còn có thể đứng vững được nữa. Các cuộc bầu cử với chủ quyền của nhân dân hoặc theo nguyên tắc đa số là những giai đoạn cuối của thời kỳ quá độ và đòi hỏi một hình thức hiến pháp sơ khởi để thiết lập các chức vụ và thủ tục bầu cử.

3. Consolidation: This is no less crucial than the transition and is when, in the words of Michael Mandelbaum, “institutions, skills, habits, and values” are developed and take root. The rule of law is established through government systems, the expansion of constitutions, and the development of accountability mechanisms. It bears remembering that the US Constitution we know today was not the one that accompanied the transition phase. It was not until a decade after independence that the Articles of Confederation were thrown out and a Constitutional Convention called to re-evaluate and consolidate democracy in the new nation. Consolidation can take generations and occurs when a democratic culture matures around rule of law. This occurs once the expectations and responsibilities that run horizontally between the branches of government and vertically from the government to the people are codified and practiced with success, often in the context of internal and external stressors or tests.

3. Củng cố: Giai đoạn này là không kém phần quan trọng so với giai đoạn chuyển đổi và, theo lời của Michael Mandelbaum, sẽ diễn ra khi, "các thể chế, kỹ năng, thói quen, và các giá trị" đã được phát triển và bén rễ. Các quy định của pháp luật được thiết lập thông qua hệ thống cầm quyền, sự mở rộng hiến pháp, và sự phát triển của các cơ chế trách nhiệm. Nên nhớ rằng Hiến pháp Hoa Kỳ mà chúng ta biết ngày nay không phải đã ra đời cùng với giai đoạn chuyển tiếp. Mãi cho đến một thập kỷ sau khi độc lập thì Điều lệ Liên bang mới bị vứt bỏ và một Đại hội Hiến pháp được triệu tập để đánh giá lại và củng cố nền dân chủ tại quốc gia mới này. Giai đoạn củng cố có thể trải qua nhiều thế hệ và xảy ra khi một nền văn hóa dân chủ đã trưởng thành xung quanh nền pháp trị. Điều này xảy ra khi các kỳ vọng và trách nhiệm theo hàng ngang với các nhánh quyền lực của chính phủ và theo chiều dọc từ chính phủ cho người dân được soạn thảo và thực hiện một cách thành công, thường là trong bối cảnh áp lực hoặc thử nghiệm từ trong nội bộ và từ bên ngoài.

4. Deepening and Expansion: It can be argued that every successful democracy is perpetually in this stage as codes, laws, and norms are perennially tested, re-evaluated, and improved. It becomes a question of resilience as it is ensured that each and every citizen feels a stake in democracy’s survival in the face of ever-shifting demographic, economic, social, environmental, and geopolitical contingencies. One of the most overlooked truisms about democracy is that it is not a natural state of human organization or natural order of government. A long view of history reveals that democratic countries are, in fact, the exception, not the norm. The troubling trend of de-democratization in places like Russia today illustrates how all democracies are constantly subject to negative forces embedded in human nature that exert a powerful pull away from civil liberties. In addition, crisis situations perpetually threaten consolidated institutions and values. All democratic countries are theoretically one epidemic, war, or terrorist event away from significant backsliding along the spectrum. Many would argue that even the United States is, to this day, experiencing both forward and backward movement within this stage.

4. Tăng cường và mở rộng: Có thể lập luận rằng tất cả các nền dân chủ thành công thì luôn luôn nằm trong giai đoạn này khi quy chế, pháp luật, và chuẩn mực thường xuyên được thử nghiệm, đánh giá lại, và cải tiến. Nó trở thành một vấn đề về khả năng phục hồi trong khi được đảm bảo rằng mỗi một công dân đều cảm thấy mình có góp phần trong sự sống còn của dân chủ trong khi phải đối mặt với những thay đổi bất ngờ về nhân khẩu học, kinh tế, xã hội, môi trường, và địa chính trị. Một trong những sự thực hiển nhiên về dân chủ vốn hay bị bỏ qua nhất đó là dân chủ không phải là một trạng thái tự nhiên của tổ chức loài người, cũng không phải trật tự cầm quyền tự nhiên. Một sự xem xét lịch sử lâu dài cho thấy rằng các nước dân chủ, trên thực tế, là ngoại lệ, chứ không phải là chuẩn mực. Xu hướng phản dân chủ đang gây phiền hà ở những nơi như Nga ngày nay minh họa cho việc tất cả các nền dân chủ liên tục bị tác động bởi các lực lượng tiêu cực vốn đã ăn sâu vào bản chất con người và tạo áp lực mạnh mẽ đối với các quyền tự do dân sự. Ngoài ra, tình trạng khủng hoảng thường xuyên đe dọa các thể chế và giá trị vừa được củng cố. Tất cả các quốc gia dân chủ về mặt lý thuyết một khi gặp phải dịch bệnh, chiến tranh, hay sự kiện khủng bố đều có bước lùi trên phổ dân chủ. Nhiều người hẳn sẽ lập luận rằng ngay cả Hoa Kỳ, cho đến tận ngày nay, cũng đang trải qua cả hai chuyển biến tiến bộ và thụt lùi trong giai đoạn thứ tư này.









Measuring the Health of a Democracy

Đo lường sức khỏe của một nền dân chủ

How a country progresses along this process will determine the health of the resulting democracy, earning it a moniker such as those proposed by David Collier and Steven Levitsky in their work “Democracy with Adjectives” including “oligarchic democracy, restrictive democracy, illiberal democracy, tutelary democracy, delegative democracy,” and so on. Such a designation may also be simplified into a scale in which countries receive scores based on their level of commitment to democracy.

Làm thế nào một quốc gia tiến triển trong suốt quá trình này sẽ xác định sức khỏe của nền dân chủ kết quả, cho nó một biệt danh như những người được đề xuất bởi David Collier và Steven Levitsky trong công việc của họ "Dân chủ với tính từ" bao gồm dân chủ thiểu số chánh trị ", hạn chế dân chủ, dân chủ phi tự do, thành hoàng dân chủ, dân chủ delegative, "và như vậy. Chỉ một như vậy cũng có thể được đơn giản hóa thành một quy mô trong đó các nước nhận được điểm dựa trên mức độ cam kết dân chủ.

Freedom House is one of the most widely accepted authorities on the state of democracy in individual countries around the world. The below checklist is used by the non-partisan American-based organization to quantifiably evaluate how far along the democratization spectrum a country has progressed. Scores reflect the extent to which governments have achieved both electoral (political liberties) and liberal (civil liberties) democratization. On a scale of 1-7, countries are considered “free,” “partly free,” or “not free,” with 1 being the most “free.” Within these categories, there is a tremendous range, and countries on the brink of tipping into another category are monitored for critical developments that will move them either up or down the scale.

Freedom House là một trong các nhà chức trách chấp nhận rộng rãi nhất về tình trạng của nền dân chủ ở từng quốc gia trên khắp thế giới. Danh sách kiểm tra dưới đây được sử dụng bởi các tổ chức Mỹ-phi đảng phái quantifiably đánh giá như thế nào đến nay dọc theo quang phổ dân chủ hóa một quốc gia đã tiến triển. Điểm phản ánh mức độ mà chính phủ đã đạt được cả hai (quyền tự do chính trị) bầu cử và dân chủ tự do công dân tự do. Trên thang điểm từ 1-7, các nước được coi là "tự do", "một phần miễn phí," hoặc "không miễn phí", với 1 là "tự do" Trong các loại này. Là một phạm vi rất lớn, và các quốc gia trên bờ vực đỉnh vào nhóm khác được theo dõi cho sự phát triển quan trọng sẽ di chuyển chúng lên hoặc xuống quy mô.

Political Rights

Quyền Chính trị

Electoral Process

Quy trình Bầu cử

1. Is the head of government or other chief national authority elected through free and fair elections?

2. Are the national legislative representatives elected through free and fair elections?

3. Are the electoral laws and framework fair?

1. Người đứng đầu chính phủ hoặc các lãnh đạo chủ chốt khác của quốc gia được bầu thông qua bầu cử tự do và công bằng không?

2. Các đại diện lập pháp quốc gia được bầu thông qua bầu cử tự do và công bằng không?

3. Pháp luật và tổ chức bầu cử công bằng không?

Political Pluralism and Participation

1. Do the people have the right to organize in different political parties or other competitive political groupings of their choice, and is the system open to the rise and fall of these competing parties or groupings?

2. Is there a significant opposition vote and a realistic possibility for the opposition to increase its support or gain power through elections?

3. Are the people’s political choices free from domination by the military, foreign powers, totalitarian parties, religious hierarchies, economic oligarchies, or any other powerful group?

4. Do cultural, ethnic, religious, or other minority groups have full political rights and electoral opportunities?

Đa nguyên chính trị và tham gia chính trị

1. Nhân dân có quyền tổ chức các đảng phái chính trị khác nhau hoặc các nhóm chính trị cạnh tranh khác theo sự lựa chọn của họ, và hệ thống có cởi mở đối với sự lên xuống các nhóm cạnh tranh hay không?

2. Có tiếng nói đối lập đáng kể và khả năng thực tế cho phe đối lập để tăng cường hỗ trợ hoặc giành quyền lực thông qua bầu cử hay không?

3. Các lựa chọn chính trị của nhân dân có được tự do không bị không chế bởi các lực lượng quân sự nước ngoài, các đảng phái toàn trị, các hệ thống thứ bậc tôn giáo, các đầu sỏ kinh tế, hoặc bất kỳ nhóm quyền lực nào khác?

4. Các nhóm văn hóa, dân tộc, tôn giáo, hoặc các nhóm thiểu số có đầy đủ các quyền chính trị và các cơ hội bầu cử hay không?



Functioning of Government

1. Do the freely elected head of government and national legislative representatives determine the policies of the government?

2. Is the government free from pervasive corruption?

3. Is the government accountable to the electorate between elections, and does it operate with openness and transparency?

Hoạt động của Chính phủ

1. Người đứng đầu chính phủ do bầu cử tự do và đại diện lập pháp quốc gia xác định các chính sách của chính phủ hay không?

2. Chính phủ có bị tham nhũng phổ biến hay không?

3. Liệu chính phủ có trách nhiệm với cử tri giữa hai cuộc bầu cử hay không, và hoạt động của chính phủ có công khai và minh bạch không?




Additional Discretionary Political Rights Questions

1. For traditional monarchies that have no parties or electoral process, does the system provide for genuine, meaningful consultation with the people, encourage public discussion of policy choices, and allow the right to petition the ruler?

2. Is the government or occupying power deliberately changing the ethnic composition of a country or territory so as to destroy a culture or tip the political balance in favor of another group?

Các vấn đề về quyền tự do chính trị bổ sung

1. Đối với chế độ quân chủ truyền thống mà không có đảng phái hoặc quá trình bầu cử, thì hệ thống sẵn sang cho tham vấn đích thực, có ý nghĩa với người dân hay không, khuyến khích các cuộc thảo luận công cộng về lựa chọn chính sách, và ban quyền được thỉnh cầu người cai trị?

2. Chính phủ hoặc lực lượng chiếm đóng cố tình thay đổi thành phần dân tộc của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ để tiêu diệt một nền văn hóa hoặc làm xê lệch cán cân chính trị để thiên vị một nhóm khác hay không?

Civil Liberties

Freedom and Expression of Belief

1. Are there free and independent media and other forms of cultural expression? (Note: In cases where the media are state-controlled but offer pluralistic points of view, the survey gives the system credit.)

2. Are religious institutions and communities free to practice their faith and express themselves in public and private?

3. Is there academic freedom and is the educational system free of extensive political indoctrination?

4. Is there open and free private discussion?

Quyền Tự do Dân sự

Tự do và biểu hiện niềm tin

1. Có phương tiện truyền thông tự do và độc lập và các hình thức biểu hiện văn hóa hay không? (Lưu ý: Trong trường hợp ở nơi mà các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát, nhưng có đa nguyên về quan điểm, khảo sát vẫn cho điểm hệ thống).
2. Các tổ chức tôn giáo và cộng đồng có được tự do thực hành đức tin của họ và thể hiện bản thân họ ở nơi công cộng và riêng tư hay không?

3. Có tự do học thuật và là hệ thống giáo dục không bị tuyên truyền chính trị rộng lớn hay không?

4. Thảo luận riêng tư có cởi mở và tự do không?

Associational and Organizational Rights

1. Is there freedom of assembly, demonstration, and open public discussion?

2. Is there freedom for nongovernmental organizations? (Note: This includes civic organizations, interest groups, foundations, etc.)

3. Are there free trade unions and peasant organizations or equivalents, and is there effective collective bargaining? Are there free professional and other private organizations?

Quyền tổ chức và lập hội


1. Có tự do hội họp, trình diễn, và thảo luận công khai không?

2. Có tự do cho các tổ chức phi chính phủ? (Lưu ý: Điều này bao gồm tổ chức dân sự, các nhóm lợi ích, hội đoàn, vv)

3. Có công đoàn tự do và có các hội nông dân hoặc tổ chức tương đương không, và có thương lượng tập thể có hiệu quả hay không? Có các tổ chức nghề nghiệp và các tổ chức tư nhân hay không?

Rule of Law

1. Is there an independent judiciary?

2. Does the rule of law prevail in civil and criminal matters? Are police under direct civilian control?

3. Is there protection from political terror, unjustified imprisonment, exile, or torture, whether by groups that support or oppose the system? Is there freedom from war and insurgencies?

4. Do laws, policies, and practices guarantee equal treatment of various segments of the population?

Pháp quyền

1. Có một ngành tư pháp độc lập hay không?

2. Phápquyền có chiếm ưu thế trong các vấn đề dân sự và hình sự hay không? Cảnh sát có nằm dưới sự kiểm soát dân sự trực tiếp hay không?

3. Có bảo vệ người dân khỏi khủng bố về chính trị, bỏ tù vô cớ, lưu đày, hay tra tấn hay không, cho dù các nhóm hỗ trợ hoặc phản đối hệ thống? Có an toàn khỏi bị chiến tranh và nổi loạn không?

4. Pháp luật, chính sách, và thực hành có đảm bảo sự đối xử bình đẳng của các nhóm dân số khác nhau?

Personal Autonomy and Individual Rights

1. Does the state control travel or choice of residence, employment, or institution of higher education?

2. Do citizens have the right to own property and establish private businesses? Is private business activity unduly influenced by government officials, the security forces, political parties/organizations, or organized crime?

3. Are there personal social freedoms, including gender equality, choice of marriage partners, and size of family?

4. Is there equality of opportunity and the absence of economic exploitation?

Tự chủ cá nhân và quyền cá nhân

1. Nhà nước kiểm soát việc đi lại hay lựa chọn nơi cư trú, việc làm, hoặc cơ sở giáo dục đại học không?

2. Công dân có quyền sở hữu tài sản và thành lập doanh nghiệp tư nhân không? Hoạt động doanh nghiệp tư nhân có bị ảnh hưởng quá mức bởi các quan chức chính phủ, lực lượng an ninh, các bên đảng phái/tổ chức chính trị, hoặc tội phạm có tổ chức hay không?

3. Có quyền tự do xã hội cho cá nhân, bao gồm bình đẳng giới, sự lựa chọn ban đời trong hôn nhân, và về quy mô gia đình hay không?

4. Có bình đẳng về cơ hội hay khôngcó bóc lột kinh tế hay không?








Attitudes and Beliefs of Citizens

Thái độ và Niềm tin của công dân

In addition to the various checklists (self-surveys and expert surveys), people’s beliefs are also measured to determine the saturation level of democratic values. The World Values Survey is conducted in different regions across the world and is used to supplement Freedom House and Polity IV data. By asking the following three questions of citizens, and comparing the percentages of those answering “yes,” experts believe they can dig deeper into the extent to which democratic culture has developed or may develop in the future:

Ngoài các danh sách kiểm tra khác nhau (tự khảo sát, khảo sát của chuyên gia), niềm tin của người dân cũng được đo để xác định mức độ bão hòa của các giá trị dân chủ. Khảo sát Giá trị Thế giới được thực hiện ở các vùng khác nhau trên toàn thế giới và được sử dụng để bổ sung cho Freedom HouseDữ liệu chính thể IV. Bằng cách hỏi các công dân ba câu hỏi sau đây, và so sánh tỷ lệ phần trăm những người trả lời "có", các chuyên gia tin rằng họ có thể thâm nhập sâu hơn vào mức độ mà ở đó nền văn hóa dân chủ đã phát triển hoặc có thể phát triển trong tương lai:

Do you agree with the following statement, “Democracy may have its problems, but it’s better than any other form of government?”

Do you endorse the idea of a “Strong leader who does not have to bother with parliament and elections?”

Do you agree that “Greater respect for authority would be a good thing?”

Bạn có đồng ý với phát biểu sau, "Dân chủ có thể còn có vấn đề, nhưng nó tốt hơn so với bất kỳ hình thức cầm quyền nào khác?"

Bạn có ủng hộ ý tưởng về một "nhà lãnh đạo mạnh mẽ không phải cần bận tâm tới quốc hội và bầu cử?"

Bạn có đồng ý rằng "Sự tôn trọng quyền lực ngày càng tăng sẽ là một điều tốt đẹp?"

These attitudinal measures are helpful in examining the claim that some cultures or regions are naturally more conducive to the growth and consolidation of democracy. Countries with low Freedom House scores, but with high percentages of respondents answering the above questions positively (i.e. answers indicating democratic proclivities or preferences) are seen to be potentially fertile, if challenging candidates for future democratization. Conversely, countries who may enjoy higher Freedom House scores, but whose citizens respond negatively to the above questions are considered to be at risk for de-democratization. Many experts also look at voter registration and turnout statistics to gauge how invested people feel in the political system. Low rates may reveal government interference with voting and/or voter apathy, both of which are highly negative indicators for the health of a democracy.

Những biện pháp thăm dò thái độ này là hữu ích trong việc kiểm tra các tuyên bố cho rằng một số nền văn hóa, khu vực có tính thuận lợi một cách tự đối với sự tăng trưởng và củng cố dân chủ. Các quốc gia Freedom House cho điểm số thấp, nhưng với tỷ lệ phần trăm cao số người được hỏi trả lời các câu hỏi trên một cách khẳng định (tức là câu trả lời cho thấy dân chủ được ủng hộ và yêu thích hơn) được xem là có khả năng lan rộng, nếu các ứng cử viên dám nghĩ dám làm vì một nền dân chủ trong tương lai. Ngược lại, các nước có thể có điểm Freedom House cao hơn, nhưng mà công dân trả lời phủ định cho các câu hỏi trên được coi là có nguy cơ phản dân chủ hóa. Nhiều chuyên gia cũng xem xét việc đăng ký cử tri và thống kê số cử tri đi bầu để lượng giá mức độ người dân quan tâm đến hệ thống chính trị. Tỷ lệ thấp có thể cho thấy có sự can thiệp của chính phủ với bầu cử và / hoặc sự thờ ơ của cử tri, cả hai đều là những chỉ số rất tiêu cực đối với sức khỏe của một nền dân chủ.

Measuring Democratization and De-Democratization

The challenge in evaluating a country’s level of democratization lies in the unpacking of the concepts on a list such as Freedom House’s. For example, what exactly constitutes a free and fair election? Who is qualified to run for office? Who is qualified to vote? Are multiple parties permitted? Are the offices truly competitive? Who decides electoral procedures? Who monitors them? How frequent are the elections? How are people notified and educated about the procedures and the platforms of the candidates? Are there any restrictions on how candidates can convey their message in person or through television, radio, internet, and literature; are there limits on how people can gather to discuss the candidates’ positions in print or in person? How are campaign funds raised? Were the voting registration procedures burdensome? How are registration lists maintained? Are the polling places and voting hours convenient to all sectors of the population? Are the ballots truly secret? Are the voting machines standardized? How are votes awarded – on a proportional or winner takes all basis? Who counts the votes? Do independent mechanisms exist to recount or validate results? Who reports the results and how? Who has the ultimate authority over contested results?

Lượng giá Dân chủ hóaChống Dân chủ hóa


Thách thức trong việc đánh giá mức độ của một quốc gia dân chủ nằm trong
giải đáp các khái niệm nằm trong một danh mục như danh mục Freedom House đưa ra. Ví dụ, Nói chính xác thì những yếu tố nào tạo nên một cuộc bầu cử tự do và công bằng? Ai có đủ điều kiện để tranh cử vào các chức vụ? Ai đủ điều kiện bỏ phiếu? Nhiều đảng có được phép không? Các chức vụ có thực sự cạnh tranh không? Ai quyết định các thủ tục bầu cử? Ai giám sát bầu cử? Tần suất các cuộc bầu cử như thế nào? Làm thế nào để thông báo và giáo dục cho người dân về các thủ tục bầu của và thông tin về các ứng cử viên? Có hạn chế nào về cách thức ứng cử viên có thể sử dụng để truyền tải thông điệp của họ hoặc trực tiếp, hoặc thông qua truyền hình, đài phát thanh, internet, và văn học? Có giới hạn nào về việc cách thức mọi người có thể tụ họp lại để thảo luận về lập trường của ứng cử viên trực tiếp hay qua bài viết? Tiền vận động bầu cử nhiều tới mức nào? Thủ tục đăng ký bỏ phiếu có quá nặng nề không? Danh sách đăng ký được duy trì như thế nào? Các địa điểm bỏ phiếu và giờ bỏ phiếu có thuận tiện cho tất cả các khu vực dân cư? Việc bỏ phiếu có thực sự bí mật? Các máy bỏ phiếu có đạt chuẩn? Tính theo tỷ lệ hay người thắng cuộc thắng hết? Ai kiểm phiếu? Có cơ chế độc lập để kiểm phiếu lại hoặc xác nhận kết quả? Ai báo cáo kết quả và làm theo cách nào? Ai có thẩm quyền cuối cùng về kết quả tranh chấp?






Waves of Democratization

Làn sóng dân chủ

Extraordinary vigilance and effort is required to move countries forward along the spectrum toward higher quality democracy and to prevent backward motion. Because democratic governments do not exist in a static universe, the challenge is ensuring the relevance of democratic institutions and practices in an ever-changing environment. Samuel Huntington has written about democracy in terms of “waves” throughout history. He identifies five trends as responsible for the highly successful Third Wave of Democratization (1974-1999) in which democracy spread throughout Southern Europe, Latin America, Asia, and the former Soviet Union:

Cảnh giác và nỗ lực cao độ là cần thiết để các quốc gia tiến về phía dân chủ chất lượng cao hơn và để ngăn chặn các chuyển động ngược lại. Bởi vì các chính phủ dân chủ không tồn tại trong một vũ trụ tĩnh, sự thách thức chính là đảm bảo tầm quan trọng của các thể chế dân chủ và thực hành dân chủ trong một môi trường luôn thay đổi. Samuel Huntington đã viết về dân chủ trong như các làn "sóng" trong suốt tiến trình lịch sử. Ông đã xác định năm xu hướng là nguyên nhân của làn sóng dân chủ thứ ba rất thành công (1974-1999), trong đó dân chủ đã lan rộng ra khắp miền Nam châu Âu, châu Mỹ La tinh, châu Á, và Liên Xô cũ:

1. Legitimacy Problems: Authoritarian regimes throughout the world were performing poorly as evidenced by the loss of order, economic woes, and/or military defeat.

1. Vấn đề về tính chính đáng/hợp pháp: chế độ độc tài trên toàn thế giới đang hoạt động kém hiệu quả bằng chứng là mất trật tự, tai họa kinh tế, và / hoặc thất bại quân sự.

2. Global Economic Growth: The expansion of free market economies and the knitting together of these economies through globalization created an expanded middle class with a stake in governance and the education, time, and incentive to improve it.

2. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu: Việc mở rộng của các nền kinh tế thị trường tự do và sự đan quyện vào nhau của các nền kinh tế thông qua toàn cầu hóa đã tạo ra một tầng lớp trung lưu đông đảo đóng góp vào việc quản trị, giáo dục, thời gian, và công sức để cải thiện dân chủ.

3. Changes in the Authoritarian Nature of Religion: Both the Catholic and Protestant churches became less hierarchical and autocratic in nature, and became advocates of political reform rather than bulwarks of the status quo.

3. Những thay đổi trong bản chất độc đoán của Tôn Giáo: Cả giáo hội Công giáo và hội thánh Tin Lành đã trở nên ít chuyên quyền và ít đẳng cấp hơn về thực chất, và trở thành những người ủng hộ cải cách chính trị chứ không phải là bức tường che chắn cho việc giữ nguyên hiện trạng.

4. Actions of Individuals and Organizations: The United States, the European Union, and the United Nations actively promoted democracy through incentives and assistance. Individual leaders such as Russia’s Mikhail Gorbachev and South Africa’s Frederik Willem De Klerk and Nelson Mandela were powerful voices for reform.

4. Hành động của cá nhân và các tổ chức: Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU) và Liên Hợp Quốc tích cực thúc đẩy dân chủ thông qua ưu đãi và hỗ trợ. Các cá nhân lãnh đạo như Mikhail Gorbachev của Nga, Frederik Willem De Klerk và Nelson Mandela của Nam Phi là những tiếng nói mạnh mẽ về cải cách.

5. Snowballing or Demonstration Effects: Momentum was generated. As one country after another successfully and peacefully democratized, they set examples for others. In addition, the affluence of established democracies in the US and Western Europe provided models for linking prosperity and democratic governance, while simultaneously the economic misfortune of totalitarian states provided a powerful disincentive toward autocratic governance.

5. Sự lan tràn nhanh hay hiệu ứng diễn trình: Động lực đã được tạo ra. Khi lần lượt hết quốc gia này tới quốc gia khác dân chủ hóa một cách thành công và hòa bình, các nước này sẽ nêu gương cho các nước khác. Ngoài ra, sự thịnh vượng của nền dân chủ lâu đời tại Mỹ và Tây Âu cung cấp các mô hình cho thấy có mối liên kết giữa thịnh vượng và chế độ dân chủ, trong khi cũng vào thời gian đó những thất bại kinh tế của các nước toàn trị đã tạo ra một sự chán ghét mạnh mẽ đối với nền cai trị chuyên quyền.

It is interesting to note that all of the factors thought to contribute to the most expansive spread of democracy worldwide in history could easily be turned on their heads to create similarly powerful negative movement toward de-democratization.

Thật thú vị khi thấy rằng tất cả những yếu tố đóng góp vào sự lan tràn rộng rãi nền dân chủ trên toàn thế giới trong lịch sử loài người có thể dễ dàng bị đảo ngược để tạo ra một phong trào tiêu cực mạnh mẽ tương tự hướng tới chống dân chủ hóa.

Democratic governments with performance issues are just as vulnerable as autocratic governments with performance issues – the popular discontent which is generated can just as easily be harnessed by a would-be autocrat promising better times ahead.

Chính phủ dân chủ với các vấn đề năng lực cũng dễ bị tổn thương như các chính phủ chuyên quyền với các vấn đề năng lực, sự bất mãn phổ biến được tạo ra có thể được khai thác một cách dễ dàng bởi thế lực chuyên quyền có triển vọng đang hứa hẹn một tương lai tốt hơn cho nhân dân ở phía trước.

If global economic growth were to dramatically slow or reverse, the middle class, who is often seen as the bulwark of democracy, would shrink; at the same time it would increase popular discontent and class conflict.

Nếu tăng trưởng kinh tế toàn cầu bị làm chửng lại hoặc đảo ngược đáng kể, tầng lớp trung lưu, những người vốn được xem như là bức tường thành của nền dân chủ, sẽ co lại, đồng thời sẽ có gia tăng sự bất mãn phổ biến và xung đột giai cấp.

Religious fundamentalism of any kind, such as radical Islam has harsh anti-democratic features and can be used to justify repressive regimes.

Trào lưu tôn giáo dưới bất kỳ hình thức nào, chẳng hạn như Hồi giáo cực đoan có đặc tính cực lực chống dân chủ, đều có thể được sử dụng để biện minh cho các chế độ đàn áp.

Anti-Americanism, combined with the failure of the UN to promote democracy and humanitarian ends, and/or the failure of the EU to consolidate its governing structures and influence would harm the cause of democracy promotion. Harm could also result from the rise of illiberal leaders in strategic countries.

Trào lưu chống Mỹ, kết hợp với sự thất bại của Liên Hợp Quốc trong việc thúc đẩy dân chủ và các mục tiêu nhân đạo, và / hoặc thất bại của EU trong việc củng cố cơ cấu và ảnh hưởng của mình sẽ làm tổn hại đối với việc thúc đẩy dân chủ. Tác hại cũng có thể là do sự gia tăng số lượng các nhà lãnh đạo có đầu óc hẹp hòi ở các quốc gia chiến lược.

Finally, were totalitarian countries to begin to economically outperform democracies, the demonstration effects would be powerful. Equally powerful would be for the quality of democracy itself to falter in countries previously seen as democratic models.

Cuối cùng, nếu các quốc gia toàn trị bắt đầu thực hiện tốt hơn các nền dân chủ xét về mặt kinh tế, thì các tác động trình diễn sẽ trở nên mạnh mẽ. Cũng mạnh mẽ không kém là chất lượng của bản thân nền dân chủ bị lụn bại tại các quốc gia vốn trước đây xem như là mẫu mực của chế độ dân chủ.



http://worldsavvy.org/monitor/index.php?option=com_content&view=article&id=183&Itemid=297




Bài 2: What Factors Influence the Development of Democracy? Các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển dân chủ

No comments:

Post a Comment

your comment - ý kiến của bạn