Different Systems of Democracy
| Các hệ thống dân chủ |
Democracy is not a sharply defined form of government that would need to be implemented in just one and no other way. Both in theory and in practice there are as many systems of democracy as democratic countries. Nevertheless there are some general features as well as some groups of democratic systems that may be distinguished from each other.
| Dân chủ không phải là một hình thức chính phủ được định nghĩa rõ ràng mà chỉ cần thực hiện một hình thức và không có hình thức nào khác. Cả về lý thuyết lẫn thực hành có nhiều hệ thống dân chủ như số nước dân chủ. Tuy nhiên, có một số đặc trưng chung cũng như một số các loại hình của hệ thống dân chủ mà có thể được phân biệt với nhau. |
Contrary to other authors, I will not try to present pure and ideal theories but rather start from the other side: how can the different systems of democracy be distinguished in everyday political life. | Trái ngược với các tác giả khác, tôi sẽ không tìm cách trình bày các lý thuyết thuần túy và lý tưởng mà là bắt đầu từ khía cạnh khác: làm thế nào để có thể phân biệt được các hệ thống dân chủ khác nhau trong đời sống chính trị hàng ngày.
|
The Common Features of Democracy
| Các đặc trưng chung của thể chế Dân chủ |
Before we look at the differences it might be useful to recall the basic principles common to all forms of democracy, however.
| Trước khi chúng ta nhìn vào sự khác biệt, nó có thể là hữu ích để nhớ lại những nguyên tắc cơ bản chung cho tất cả các hình thức dân chủ, tuy nhiên. |
Separation of Powers: Legislative Power: parliament (normally in two chambers) Executive Power: government and administration Judicative Power: courts of justice
Constitution Laws debated and passed by the parliament Decrees by the government based on laws and regulating the details how to the laws shall be applied in practice Elections Political Parties Referendums Though there are massive differences on how frequent referendums are and on which level they apply (constitution or single laws), the concept as such is known in any practical form of democracy. | Phân chia quyền lực: Quyền Lập pháp: Quốc hội (Thông thường bao gồm trong hai viện) Quyền Hành pháp: chính phủ và chính quyền
Hiến pháp Pháp luật được thảo luận và thông qua bởi quốc hội dựa trên luật pháp và quy định các chi tiết để áp dụng pháp luật được vào thực tế Các cuộc bầu cử Các chính đảng Trưng cầu dân ý Mặc dù có sự khác biệt lớn về việc trưng cầu dân ý nên thực thường xuyên ra sao và áp dụng nó ở mức độ nào (hiến pháp hay pháp luật riêng), khái niệm này quen thuộc trong bất kỳ hình thức thực tế nào của nền dân chủ.
|
Three Basic Types of Democracy
| Ba loại hình dân chủ cơ bản |
Any form of democracy tries in its own way to ascertain the will of the people and to bring public affairs into line with it. Theoretically this can be achieved by direct participation of all citizens (Direct Democracy) or by a body of elected representatives (Representative Democracy). Within the group of Representative Democracies the focus may be on a strong president (Presidental Democracy) or on a strong parliament (Parliamentary Democracy). As already mentioned, the question is not whether there exist some forms of direct participation or of representation but rather on how much importance they are given in a certain system.
| Bất kỳ hình thức dân chủ nào cũng cố gắng theo cách riêng của mình khẳng định ý chí của nhân dân và thực hiện hoạt động công hợp với ý chí đó. Về mặt lý thuyết điều này có thể đạt được bằng cách tham gia trực tiếp của tất cả các công dân (dân chủ trực tiếp) hoặc bởi một thể chế của các đại diện dân cử (dân chủ đại diện). Trong nhóm các nền dân chủ đại diện có thể tiêu điểm tập trung vào tổng thống mạnh (dân chủ tổng thống chế) hoặc trên tập trung vào quốc hội mạnh (dân chủ nghị viện). Như đã đề cập ở trên, câu hỏi không phải là liệu có tồn tại một số các hình thức dân chủ trực tiếp hay dân chủ đại diện nào đó hay không mà là tầm quan trọng của chúng ở mức nào trong một hệ thống dân chủ.
|
Direct Democracy dân chủ trực tiếp | Presidential Democracy dân chủ tổng thống chế
| Parliamentary Democracy dân chủ nghị viện |
Example: Switzerland Ví dụ: Thụy sỹ | Examples: USA, France Ví dụ: Hoa Kỳ, Pháp | Examples: UK, Germany, Spain, Italy Ví dụ: Anh, Đức, Tây Ban Nha, Ý |
Head of State Any member of government in turn (for one year), no practical importance
| Head of State The President is head of state and leader of the government
| Head of State is a different function than prime minister, it may be a monarch (queen/king) or an elected person
|
Nguyên thủ Quốc gia
| Nguyên thủ Quốc gia Tổng thống là người đứng đầu nhà nước và lãnh đạo của chính phủ | Nguyên thủ Quốc gia là một chức vụ khác không phải của Thủ tướng, có thể là một Quốc vương (nữ hoàng / vua) hoặc người được bầu |
Government: members with equal rights, elected by the parliament, representing all major parties (not really unanimous, but extremely stable) | President elected by the people nominates the ministers [members of government] | Government elected by the parliament based on a majority, may be dismissed by the parliament (especially when based on a coalition of several parties)
|
Chính phủ: thành viên có quyền bình đẳng, được bầu bởi quốc hội, đại diện cho tất cả các đảng phái lớn (không thực sự nhất trí, nhưng cực kỳ ổn định) | Tổng thống do nhân dân bầu sẽ bổ nhiệm các Bộ trưởng [thành viên của chính phủ] | Chính phủ được bầu bởi quốc hội dựa trên đa số, có thể bị miễn nhiệm bởi quốc hội (đặc biệt là khi dựa trên một liên minh của nhiều đảng) |
Parliament elected for a fixed legislative period, no dissolution; changing coalitions, sometimes even extreme right and extreme left together against the center (though for different reasons)
| Parliament elected for a fixed legislative period, clear institutional separation of parliament and government (but the officials may cooperate as closely as in the other systems, if they like to do so)
| Parliament elected for a legislative period, dissolution and early new elections possible if a clear majority cannot be established |
Quốc hội được bầu trong một thời gian lập pháp cố định, không bị giải thể, các liên minh thay đổi, đôi khi thậm chí nhóm cực tả và cực hữu cùng nhau chống lại nhóm trung lập (mặc dù lý do có khác nhau) | Quốc hội được bầu trong một thời gian xây lập pháp cố định có sự phân chia rõ ràng về thể chế của quốc hội và chính phủ (nhưng các quan chức có thể hợp tác chặt chẽ như trong các hệ thống khác, nếu họ muốn làm như vậy)
| Quốc hội được bầu cho một thời kỳ lập pháp, giải thể, và bầu cử quốc hội sớm đều có thể nếu không thiết lập được một đa số rõ ràng. |
Government members need not be members of parliament | Government members need not be members of parliament | Government members must be elected members of parliament
|
Thành viên Chính phủ không cần phải là thành viên của quốc hội | Thành viên Chính phủ không cần phải là thành viên của quốc hội | Thành viên Chính phủ phải được bầu làm thành viên của quốc hội
|
Strong position of the people (frequent referendums on single laws)
| Strong position of the president (veto) | Strong position of the political parties |
Vị trí mạnh mẽ của người dân (trưng cầu thường xuyên về các luật) | Vị trí mạnh mẽ của Tổng thống (quyền phủ quyết)
| Vị trí mạnh mẽ của các đảng chính trị |
Laws are created in four steps: 1. Draft by the administration 2. Consultation of federal states, political parties, entrepreneurs, unions and other interested groups 3. Parliamentary debate and final version passed 4. Possibility of a referendum If a strong party or lobby threatens to call for a referendum, the parliament might be inclined to a compromise, the formal consultation process gives the public a clear view of the critical aspects and the pros and cons already at an early stage | Laws are debated and passed by the parliament; lobbyists do not have a formal right to be heared, but do exercise some influence on members of parliament in reality; the president may block a law by veto; as the president is elected as a personality (not only as a party leader) by the people (not by the parliament), he may or may not rely on a majority of the parliament (in practice there have been some periods with a president forced to cooperate with a majority of oppositional members of parliament) | Laws are proposed by the government (being the leaders of the coalition of parties) laws are debated and passed by parliament; lobbyists do not have a formal right to be heared, but do exercise some influence on members of parliament in reality; if there is a solid majority, compromises are sought within the coalition (and may sometimes represent tactics rather than conviction), the opposition may be ignored until the next elections but then laws may be revoked or changed by a new majority |
Pháp luật được tạo ra theo bốn bước:
| Pháp luật được Quốc hội thảo luận và thông qua;
| Pháp luật được Chính phủ đề xuất (là các nhà lãnh đạo của liên minh của các đảng tham chính) - vận động hành lang không có quyền chính thức để được lắng nghe, nhưng, trên thực tế, tạo ra một số ảnh hưởng trên các thành viên của quốc hội; |
The process of making laws is rather slow, which may be a handicap with more technically oriented laws (regulating questions of broad public interest but addressing a small number of professionals). Laws concerning everybody's everyday's actions, however, may get more attention and acceptance by the public and therefore be more effective due to the intense public debate.
| A strong president may act immediately - but there is a certain risk that he rushes to conclusions he may hardly be willing to withdraw from even if they prove to be unwise from a later point of view. | If there are many small parties in a country, the close dependance of the government on a parliamentary majority may undermine the stability of the government.
|
Quá trình xây dựng pháp luật là khá chậm, có thể là một cản trở bất lợi đối với pháp luật định hướng về mặt kỹ thuật (quy định chất vấn về quan tâm của công chúng rộng rãi nhưng chỉ hướng tới một số ít các chuyên gia). Tuy nhiên, các luật liên quan đến hành động hàng ngày của tất cả mọi người có thể có được sự chú ý và chấp nhận của công chúng và do đó, có hiệu quả hơn nhờ các cuộc tranh luận công khai mmanhj mẽ của công chúng.
| Một tổng thống mạnh mẽ có thể hành động ngay lập tức - nhưng có nguy cơ nhất định rằng tổng thống kết luận vội vã - tổng thống khó có thể sẵn sàng rút lui ý kiến thậm chí cả khi chúng được chứng minh là không khôn ngoan, từ một quan điểm sau đó. | Nếu có nhiều đảng phái nhỏ trong một quốc gia, sự phụ thuộc chặt chẽ của Chính phủ vào đa số nghị viện có thể làm suy yếu sự ổn định của chính phủ. |
History shows that from time to time the Swiss people does correct decisions of parliament and government that give in too much to lobby pressure, so Direct Democracy seems to offer effective checks and balances. But sometimes it just takes a long time (decades, not years) until a new idea is finally broadly accepted.
| The separation of powers - though it might seem very clear in theory - does not automatically provide more effective checks and balances between parliament and government than in a Parliamentary Democracy. | If there are only two relevant parties and one has a comfortable majority, the parliamentary system offers few effective checks and balances.
|
Lịch sử cho thấy rằng thỉnh thoảng người dân Thụy Sĩ có những quyết định đúng về quốc hội và chính phủ mà phải đầu hàng trước áp lực vận động, do đó, Dân chủ trực tiếp dường như cung cấp sự kiểm tra và cân bằng hiệu quả. Nhưng đôi khi nó phải mất một thời gian dài (nhiều thập kỷ qua, chứ không phải nhiều năm) để một ý tưởng mới cuối cùng được chấp nhận rộng rãi.
| Việc phân chia quyền lực - mặc dù nó có vẻ rất rõ ràng trong lý thuyết – cũng không tự động cung cấp sựu kiểm tra có hiệu quả hơn và cân bằng hơn giữa quốc hội và chính phủ so với dân chủ nghị viện. | Nếu chỉ có hai đảng chính và có một đảng chiếm đa số rõ rệt, hệ thống nghị viện tạo ra rất ít sự kiểm tra và cân bằng hiệu quả. |
Conclusion
Though there are remarkable formal and institutional differencies between the systems of Direct, Presidential and Parliamentary Democracy, there are more or less successful examples for any of these systems. Therefore the practical results - measurable by different factors such as national wealth (both mean income and distribution of wealth), accessability and standards of education, life expectancy, infant mortality, corruption and so on - tend to depend less on the choice of one system or another but rather on what might be called an "established culture of democracy", consisting of both know-how (experience how the system once chosen works in practice) and trust that it works and it pays - for the society as a whole as well as for the individuals.
Kết luận
Do đó, kết quả thực tế - có thể đo lường được bằng các yếu tố như tài sản quốc gia (cả thu nhập trung bình và phân phối của cải), khả năng tiếp cận giáo dục và trình độ học vấn, tuổi thọ, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, tham nhũng… có xu hướng ít phụ thuộc hơn vào sự lựa chọn hệ thống hay hệ thống khác, thay vao đó chúng phụ thuộc vào cái có thể được gọi là một "nền văn hóa đã được thiết lập của thể chế dân chủ ", bao gồm cả bí quyết (kinh nghiệm về hệ thống đã lựa chọn vận hành thế nào trong thực tế) và niềm tin rằng hệ thống đó hoạt động và giúp ích cho xã hội với tư cách một tập thể cũng như với tư cách các cá nhân.
|
Electoral Systems - Các hệ thống bầu cử
At the most basic level, electoral systems translate the votes cast in an election into results – the offices/seats - won by parties and candidates. The key variables are the electoral formula used (i.e. whether a plurality/majority, proportional, mixed or other system is used, and what mathematical formula is used to calculate the seat allocation), the ballot structure (i.e. whether the voter votes for a candidate or a party and whether the voter makes a single choice or expresses a series of preferences) and the district magnitude (not how many voters live in a district, but how many representatives to the legislature that district elects). It must also be stressed that, although this topic area does not focus on the administrative aspects of elections (such as the distribution of polling places, the nomination of candidates, the registration of voters, who runs the elections and so on), these issues are of critical importance, and the possible advantages of any given electoral system choice will be undermined unless due attention is paid to them. Electoral system design also affects other areas of electoral laws: the choice of electoral system has an influence on the way in which district boundaries are drawn, how voters are registered, the design of ballot papers, how votes are counted, and numerous other aspects of the electoral process.
The choice of Electoral System is one of the most important institutional decisions for any democracy. The choice of a particular electoral system has a profound effect on the future political life of the country concerned, and electoral systems, once chosen, often remain fairly constant as political interests solidify around and respond to the incentives presented by them. However, while conscious design has become far more prevalent recently, traditionally it has been rare for electoral systems to be consciously and deliberately selected. Often the choice was essentially accidental, the result of an unusual combination of circumstances, of a passing trend, or of a quirk of history, with the impact of colonialism and the effects of influential neighbours often being especially strong.
Any new democracy must choose (or inherit) an electoral system to elect its legislature. Equally, political crisis within an established democracy may lead to momentum for electoral system change, and even without political crisis, campaigners for political reform may attempt to put electoral system change onto the political agenda. Decisions to change, or indeed to keep in place, an electoral system are often affected by one of two circumstances:
either political actors lack basic knowledge and information so that the choices and consequences of different electoral systems are not fully recognized;
or, conversely, political actors use their knowledge of electoral systems to promote designs which they think will work to their own partisan advantage.
The choices that are made may have consequences that were unforeseen when they are introduced, as well as effects which were predicted. These choices may not always be the best ones for the long-term political health of the country concerned, and at times they can have disastrous consequences for its democratic prospects.
The background to a choice of electoral system can thus be as important as the choice itself. Electoral system choice is a fundamentally political process, rather than a question to which independent technical experts can produce a single ‘correct answer’. In fact, the consideration of political advantage is almost always a factor in the choice of electoral systems—sometimes it is the only consideration—while the menu of available electoral system choices is often, in reality, a relatively constrained one. Equally, however, calculations of short-term political interest can often obscure the longer-term consequences of a particular electoral system and the interests of the wider political system. Consequently, while recognizing the practical constraints, this text attempts to approach the issue of electoral system choices in as broad and comprehensive a manner as possible.
As the crafting of political institutions is a critical task not only for new democracies but also for those established democracies that are seeking to adapt their systems to better reflect new political realities, this topic area also seeks to address the likely concerns of those persons in established democracies who may be redesigning electoral systems as well as those involved in debate on political institutions in new, fledgling and transitional democracies. Given this target audience, much of the academic literature on the subject is necessarily simplified, while at the same time this text attempts to address some of the more complex issues inherent in the area. If the text appears to be sometimes overly simplistic and at other times unduly complex, the explanation will usually lie in the attempt to balance the two objectives of clarity and comprehensiveness.
While the contexts in which emerging and established democracies make institutional choices can vary enormously, their long-term purposes are usually the same: to develop institutions which are strong enough to promote stable democracy but flexible enough to react to changing circumstances. Each type of democracy has much to learn from the experiences of the other. Institutional design is an evolving process, and this text seeks to distil the lessons learnt from the many actual examples of institutional design around the world.
Much constitutional design has taken place relatively recently: the global movement towards democratic governance in the 1980s and 1990s stimulated a new urgency in the search for enduring models of appropriate representative institutions, and a fresh evaluation of electoral systems. This process was encouraged by the realization that the choice of political institutions can have a significant impact on the wider political system. For example, it is increasingly being recognized that an electoral system can be designed both to provide local geographic representation and to promote proportionality; can promote the development of strong and viable national political parties, and ensure the representation of women and regional minorities; and can help to ‘engineer’ cooperation and accommodation in a divided society by the creative use of particular incentives and constraints. Electoral systems are today viewed as one of the most influential of all political institutions, and of crucial importance to broader issues of governance.
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn