CAMBODIA’S
IMPOSSIBLE DREAM: KOH TRAL
|
Giấc mơ
tuyệt vọng của Campuchia: Phú Quốc
|
|
History doesn’t appear to support claims by the
Cambodian opposition to the Vietnamese island of Phu Quoc.
|
Lịch sử không ủng hộ yêu sách của phe đối lập
Campuchia đối với đảo Phú Quốc của Việt Nam.
|
By Jeff
Mudrick
The diplomat
June 17,
2014
|
Jeff
Mudrick
The diplomat
17/6/2014
|
The
popular Khmer view of Koh Tral – as reflected in the Khmer blogosphere, in
popular song, and on YouTube travelogues – is that the island which
Vietnamese know as Phu Quoc is historically Khmer, that Cambodia has never
relinquished its territorial claim, that Koh Tral was unfairly awarded the
Vietnamese in 1954 over Cambodian protest, and that because the maritime
border used a 1939 French colonial administrative line never intended to
reflect sovereignty (the “Brevie Line”) international law should dictate the
island’s return to Cambodia.
|
Quan điểm
phổ biến của người Khmer về đảo Koh Tral, mà người Việt Nam gọi là Phú Quốc,
là hòn đảo này là của người Khmer từ xa xưa và Campuchia chưa bao giờ từ bỏ
yêu sách lãnh thổ của mình rằng:
Koh Tral
được trao cho Việt Nam vào năm 1954 một cách bất công bất chấp sự phản đối
của Campuchia, và biên giới biển sử dụng một đường quản lý hành chính của
thực dân Pháp năm 1939 (“đường Brevie”) không có mục đích phản ánh chủ quyền
nên luật pháp quốc tế phải ra phán quyết trả lại hòn đảo này cho Campuchia.
|
This view
and the quest by leading Khmer politicians to secure Phu Quoc for Cambodia
appears rooted in myth. It reflects a misunderstanding of the history of the
island and the Khmer’s connection to it, an exaggeration of Khmer leaders’
continuing commitment to the cause of Koh Tral, and a lack of appreciation of
the legal hurdles involved in wresting the territory from Vietnam in courts of
international law.
|
Quan điểm
này cũng như quyết tâm của các chính trị gia Khmer hàng đầu nhằm giành lại
Phú Quốc cho Campuchia có vẻ như dựa trên huyền thoại.
Nó phản
ánh một sự hiểu lầm về lịch sử của hòn đảo và mối quan hệ của người Khmer với
nó, một sự cường điệu hóa những cam kết liên tục của lãnh đạo Khmer vì sự
nghiệp đấu tranh cho Koh Tral, và việc coi nhẹ các rào cản pháp lý liên quan
đến việc đòi lại lãnh thổ này từ Việt Nam tại tòa án quốc tế.
|
It is a
common refrain among Cambodia’s
opposition movement, as currently embodied in the Cambodia National Rescue
Party (CNRP), and particularly popular with party leader Sam Rainsy to
“remember the sad fate of Kampuchea Krom,” or that chunk of southern Vietnam
that was once part of the Khmer kingdom.
|
Đây là một
điệp khúc phổ biến trong lực lượng đối lập Campuchia, mà đại diện là Đảng Cứu
nguy dân tộc Campuchia (CNRP), đặc biệt hay được dùng bởi lãnh đạo đảng Sam
Rainsy để “ghi nhớ số phận đáng buồn của vùng đất Kampuchea Krom,” hay là
phần phía Nam của Việt Nam xưa kia từng là một phần của vương quốc Khmer.
|
The
prevailing admonition regarding Kampuchea Krom in general may reflect
resignation, but such is not the case with Koh Tral. CNRP party leaders Kem
Sokha and Sam Rainsy have committed themselves and their party to seek
recovery of the island to Cambodia
by legal means, citing international law as favoring such a return.
|
Những
thông điệp chính liên quan đến Kampuchea Krom nói chung đều thể hiện thái độ
chấp nhận từ bỏ (của Campuchia đối với vùng đất này), nhưng điều đó không
đúng với Koh Tral.
Lãnh đạo
đảng CNRP Kem Sokha và Sam Rainsy đã cam kết rằng họ và đảng của mình sẽ tìm
cách đòi lại đảo này cho Campuchia bằng các phương tiện pháp lý, viện dẫn
rằng luật pháp quốc tế ủng hộ một sự trao trả lại như vậy.
|
But both the
historical record and the legal avenues that would have to be pursued to
secure Koh Tral’s return to Cambodia
differ quite substantially from the popular view.
|
Nhưng cả
tài liệu lịch sử lẫn phương thức pháp lý cần theo đuổi để đòi lại Koh Tral
cho Campuchia đều rất khác biệt với các quan điểm phổ biến nói trên.
|
A Khmer
Island?
While Cambodia
certainly laid early claim to the island, no one has offered compelling
evidence that Khmers have ever had a substantial modern presence there, or
that a Cambodian state exercised authority during a time of Khmer occupation.
For many Khmers the case of Koh Tral is one of history imagined rather than
remembered.
|
Một đảo của người Khmer?
Trong khi
Campuchia chắc chắn đã từng sớm có yêu sách đối với Koh Tral, không ai đưa ra
được bằng chứng thuyết phục rằng người Khmer đã từng hiện diện đáng kể ở đó
trong thời kỳ hiện đại, hay một nhà nước Campuchia đã từng thực thi quyền lực
trong thời gian người Khmer chiếm giữ hòn đảo này.
|
Artifacts
in the Heritage
Museum at Phu Quoc
evidence human habitation going back 2,500 years, long before a Khmer nation
existed. Pottery there from what the Vietnamese refer to as the Oc Eo period
(1st -7th century AD) suggests at least a proto-Khmer presence on the island
during a period preceding the establishment of the Angkorian empire.
|
Đối với
nhiều người Khmer, chủ quyền đối với Koh Tral là một lịch sử được tưởng tượng
ra hơn là được ghi nhớ.
Hiện vật
tại Bảo tàng Di sản ở Phú Quốc chứng minh cho việc con người đã sinh sống ở
đó cách đây 2.500 năm, rất lâu trước khi quốc gia Khmer tồn tại.
Đồ gốm tại
Bảo tàng có từ thời mà người Việt Nam
gọi là thời kỳ Óc Eo (thế kỷ 1-7) cho thấy ít nhất đã có sự hiện diện tiền
Khmer trên đảo trong một thời kỳ trước khi đế chế Angkor
được thành lập.
|
The
earliest Cambodian references to Koh Tral are found in royal documents dated
1615, reflecting the allocation of the various governors’ authorities among
the territories of the Khmer empire. We don’t know how many Khmer inhabitants
the island may have had, nor do we know how the Khmer sovereign’s authority
was reflected in the life of the hardy souls who may have been resident. It
must be recalled that this was a chaotic period for the Cambodian state; no
fewer than 15 kings occupied the throne during the 17th century.
|
Các trích
dẫn sớm nhất của Campuchia về Koh Tral được tìm thấy trong các tài liệu hoàng
gia năm 1615, phản ánh sự phân bổ quyền lực giữa các tổng đốc của các vùng
lãnh thổ khác nhau thuộc vương quốc Khmer.
Chúng ta
không biết đã có bao nhiêu dân Khmer sống trên đảo cũng như không biết thẩm
quyền của các vị vua Khmer đã được phản ánh ra sao trong cuộc sống của những
người dân cư trú trên đảo.
Cần phải
nhắc lại rằng đây là một thời kỳ hỗn loạn của nhà nước Campuchia; ít nhất 15
vị vua đã thay nhau ngồi trên ngai vàng trong thế kỷ 17.
|
Around
1680, one of these kings granted Chinese merchant and explorer Mac Cuu the
authority to settle and develop a large swath of unproductive Cambodian
coast, a project that resulted in Mac Cuu’s establishing Ha Tien and six other
villages as trading centers newly populated by fellow Chinese immigrants and
Portuguese traders, including one village on Phu Quoc. With Vietnam and Cambodia besieged by Thai
invaders in a struggle for regional dominance fought mostly on Cambodian soil,
by 1714 Mac Cuu had changed allegiance and recognized the authority of the
Vietnamese sovereign. In return Mac Cuu’s family gained the right to oversee
his lands as a fiefdom, paying tribute to the Nguyen lords who ruled southern
Vietnam.
|
Khoảng năm
1680, một trong những vị vua trên đã trao cho thương gia và nhà thám hiểm
Trung Quốc Mạc Cửu quyền thiết lập và phát triển một vùng đất lớn dọc bờ biển
không có nhiều nguồn lợi của Campuchia, mà kết quả là Mạc Cửu đã lập nên Hà
Tiên và sáu làng khác thành những trung tâm buôn bán cho những người đồng
hương Trung Quốc nhập cư và thương nhân Bồ Đào Nha đến ở, trong đó có một
ngôi làng trên đảo Phú Quốc.
Tới năm
1714, trong khi Việt Nam và Campuchia đang bị những kẻ xâm lược Thái bao vây
trong một cuộc chiến tranh giành sự thống trị khu vực diễn ra chủ yếu trên
đất Campuchia, Mạc Cửu đã thay đổi lòng trung thành và công nhận thẩm quyền
của các chúa Nguyễn của Việt Nam.
|
Nguyen
protection notwithstanding the Thais completely destroyed and depopulated the
Mac’s Ha Tien in 1717. (It would be sacked again in 1771.) Though not
documented it would not be surprising if the same fate befell nearby Koh Tral
for it was the Thai military’s standard practice until the end of the
Thai-Vietnamese war in 1847 to destroy that which they could not occupy and
haul off surviving inhabitants to Thailand or Thai-occupied Cambodian
territory.
|
Đổi lại,
gia tộc Mạc Cửu được quyền cai quản các vùng đất của mình như một thái ấp, và
cống nạp cho các chúa Nguyễn đang cai trị miền Nam Việt Nam.
Dù có các
chúa Nguyễn bảo hộ, vào năm 1717, người Thái đã phá hủy hoàn toàn Hà Tiên của
họ Mạc và khiến dân số ở đây giảm xuống.
(Thị trấn
này lại bị cướp phá một lần nữa vào năm 1771.) Mặc dù không được sử sách ghi
lại, sẽ không ngạc nhiên nếu điều tương tự xảy ra với Koh Tral vì chính sách
thông thường của quân đội Thái Lan cho đến khi chiến tranh Thái-Việt kết thúc
vào năm 1847 là phá hủy những gì mà họ không thể chiếm giữ và ép những cư dâ n
còn sống sót di cư đến Thái Lan hoặc lãnh thổ Campuchia bị Thái chiếm đóng.
|
Three
reports from the island coming just before and just after the turn of the
19th century suggest that Phu Quoc had ceased to be a Khmer island. In the
1770s Pierre Pigneu de Behaine, seeking to expand missionary activities
following the destruction of the mission at Ha Tien established a seminary
for Vietnamese converts at Phu Quoc where he also gave refuge to future
Emperor Gia Long. Descriptions of this mission make reference to the local
Vietnamese population of the island but not the Khmer.
|
Ba báo cáo
đến từ hòn đảo này ngay trước và sau thời điểm bước vào thế kỷ 19 cho thấy
rằng Phú Quốc đã không còn là một hòn đảo Khmer nữa. Trong những năm 1770
Pierre Pigneu de Béhaine, trong khi tìm cách mở rộng các hoạt động truyền
giáo sau khi tòa nhà của các nhà truyền giáo tại Hà Tiên bị phá hủy đã thành
lập một chủng viện cho những người cải đạo Việt Nam tại Phú Quốc, nơi ông
cũng che chở cho hoàng đế Gia Long tương lai. Các mô tả về tòa nhà này chỉ đề
cập đến người Việt Nam
bản địa trên đảo chứ không nói đến người Khmer.
|
An 1810
description of the coastal route from Vietnam
to Thailand
prepared by court officials to Gia Long describes Phu Quoc as having a local
(Vietnamese) administrative office and military officers, with a dense
population devoted to a range of economic activities.
|
Một bản
tường trình về tuyến đường ven biển từ Việt Nam sang Thái Lan vào năm 1810
của các quan lại cho vua Gia Long mô tả Phú Quốc là có văn phòng hành chính
địa phương và các sĩ quan quân đội (của người Việt), với dân số đông đúc tham
gia vào hàng loạt các hoạt động kinh tế.
|
British
East India envoy John
Crawfurd’s 1821 embassy to Cochin China
paints a colorful portrait of life among the fishermen and traders of Phu
Quoc, but it is a life without a Khmer presence. Phu Quoc residents reported
to Crawfurd that among four or five thousand occupants “aside from a few
Hainanese sojourners the population of the island is 100% Cochin Chinese.” There is no mention by
Crawfurd of Cambodian authority or interests on the island. Crawfurd’s 1828
map of the area is cited by some as evidence of Phu Quoc being part of Cambodia rather than Cochin
China but in fact the map shows no territorial boundaries. The
map contains the island’s name in Thai and Vietnamese but not in Khmer.
|
Đoạn dừng
chân tại Nam Kỳ trong chuyến đi của phái viên John Crawfurd của Công ty Đông
Ấn thuộc Anh đã vẽ nên một bức tranh đầy màu sắc về đời sống của các ngư dân
và thương nhân Phú Quốc, một đời sống không có sự hiện diện của người Khmer.
Đánh đuổi quân Khmer Đỏ tại Phú Quốc Đánh đuổi quân Khmer Đỏ tại Phú Quốc Cư
dân Phú Quốc nói với Crawfurd rằng trong số bốn hay năm ngàn người cư ngụ
“ngoại trừ một vài người Hải Nam đến lưu trú, dân số của hòn đảo này 100% là
người Nam Kỳ.” Crawfurd không đề cập gì đến thẩm quyền hoặc lợi ích của
Campuchia trên đảo. Bản đồ năm 1828 của Crawfurd về khu vực này được một số
người dùng làm bằng chứng cho rằng Phú Quốc là một phần của Campuchia hơn là
Nam Kỳ nhưng trên thực tế không có ranh giới lãnh thổ trên bản đồ này. Bản đồ
này có ghi tên hòn đảo bằng tiếng Thái và tiếng Việt, nhưng không có tiếng
Khmer.
|
Sydney-based
attorney Bora Touch is the primary legal advocate working on behalf of
Cambodian sovereignty for Koh Tral. His own version of history fixes 1789 as
the end of Cambodian authority over Koh Tral. His writings speak not at all
to the Khmer population of the island or to how Cambodian authority was
earlier displayed.
|
Luật sư
Bora Touch có văn phòng tại Sydney
là cố vấn luật pháp chính đấu tranh cho chủ quyền của Campuchia đối với Koh
Tral. Phiên bản riêng của ông về lịch sử xác định năm 1789 là năm đánh dấu
thẩm quyền của Campuchia đối với Koh Tral kết thúc. Những bài viết của ông
không đề cập gì về dân số Khmer trên đảo hay Campuchia đã thực thi chủ quyền
như thế nào.
|
Vietnamese
historian Nguyen Dinh Dau researched 19th century land transfers on Phu Quoc.
He told BBC he found no evidence of a Khmer presence in these land
transaction records.
|
Nhà sử học
Việt Nam Nguyễn Đình Đầu đã nghiên cứu các giao dịch đất đai ở Phú Quốc trong
thế kỷ 19. Ông nói với BBC rằng ông không tìm thấy bằng chứng về sự hiện diện
của người Khmer trong các hồ sơ giao dịch đất đai.
|
At the
time the French established their colony of Cochin China
the island had a population of only about 1,000. The French brought new crops
and plantations to the island but by the turn of the 20th century there were
still just 5,000 inhabitants. Today, with new industry and tourism providing
jobs for new arrivals, the population of Phu Quoc is 85,000. It is
predominately Vietnamese (ethnic Kinh). The 1989 census found the Khmer
population of the island to be approximately 300 (less than 1 percent of the
total). Khmers on the island today estimate that approximately 200 Khmer
families call Koh Tral home.
|
Vào thời
điểm người Pháp thiết lập thuộc địa Nam Kỳ thì hòn đảo chỉ có dân số khoảng 1.000
người. Người Pháp mang các giống cây mới đến đảo nhưng đến đầu thế kỷ 20 vẫn
mới chỉ có khoảng 5.000 cư dân ở đây. Hiện nay, nhờ có công nghiệp và du lịch
cung cấp việc làm cho những người mới đến, dân số của Phú Quốc là 85.000
người, chủ yếu là người Việt (dân tộc Kinh). Cuộc tổng điều tra dân số vào
năm 1989 cho thấy dân số Khmer trên đảo là khoảng 300 (chưa đến 1% dân số
đảo). Người Khmer trên đảo ước tính hiện nay có khoảng 200 gia đình Khmer
định cư ở đây.
|
Ambivalent Claims
A linchpin
in the quest to regain Cambodian sovereignty is that Cambodia has never relinquished
its claim of ownership of the territory. It is a commonly accepted belief,
yet one that is contradicted by history. Koh Tral has been viewed as an
exchangeable commodity since before the establishment of the Protectorate and
there is substantial evidence that Cambodia gave up Koh Tral in the
name of regional security decades ago.
|
Những yêu sách mâu thuẫn
Điểm cốt
yếu trong nỗ lực đòi lại chủ quyền cho Campuchia là lập luận cho rằng
Campuchia chưa bao giờ từ bỏ yêu sách sở hữu phần lãnh thổ này. Đó là một
niềm tin thường được mọi người chấp nhận nhưng lại mâu thuẫn với lịch sử.
Binh lính Khmer Đỏ Binh lính Khmer Đỏ Koh Tral đã được xem như một món hàng
trao đổi từ trước khi Chính phủ bảo hộ (của Pháp đối với Campuchia) được
thành lập và có bằng chứng đáng kể cho thấy Campuchia đã từ bỏ Koh Tral với
lý do vì an ninh khu vực từ nhiều thập kỷ trước.
|
The first
indication that Koh Tral was viewed as expendable is given in King Ang
Duong’s letter of 1853, in which he offered France the island (which Ang
Duong did not control) in exchange for French protection. There was no
response. Two years later the King in a second letter to Napoleon III urged
the French not to accept transfer of the island from the Vietnamese who
controlled it, but this would be the last expression of a claim by a Khmer
sovereign on behalf of Koh Tral for one hundred years.
|
Chỉ dấu
đầu tiên cho thấy Koh Tral được Campuchia xem là có thể từ bỏ được thể hiện
trong lá thư của vua Ang Duong năm 1853 trong đó ông dâng cho Pháp hòn đảo
này (tuy Ang Dương không kiểm soát nó) để đổi lấy sự bảo hộ của người Pháp.
Không có phản ứng gì từ Pháp. Hai năm sau, trong lá thư thứ hai gửi Napoleon
III, nhà vua này kêu gọi người Pháp không nhận chuyển giao hòn đảo từ người
Việt Nam
đang kiểm soát nó. Đó cũng là biểu hiện yêu sách cuối cùng của một vị vua
Khmer đối với Koh Tral trong một trăm năm.
|
When in
1939 French officials felt obliged to publish the Brevie Line for
administrative purposes, it was indicative that Cochin Chinese management of
the island was a touchy matter for Cambodian colonial officers but did not
suggest a royal conviction to press the Cambodian case with France.
|
Vào năm
1939, khi các quan chức Pháp thấy cần phải công bố đường Brevie vì mục đích
quản lý hành chính, có chỉ dấu cho thấy việc Nam Kỳ quản lý hòn đảo này là
một vấn đề nhạy cảm đối với các sĩ quan thuộc địa người Campuchia nhưng lại
không cho thấy hoàng gia Campuchia lo lắng để đưa vấn đề này ra thúc đẩy với
Pháp.
|
In 1954,
King Sihanouk objected to the treaty by which independent Vietnam gained full control from
the French authorities over Kampuchea Krom and Koh Tral. He noted that Cambodia
reserved the right to bring the issue of the territories to the United
Nations. However meritorious he and those who have followed him might have
gauged Cambodia’s
case to be, no head of state has chosen to act on that reserved right in the
60 years since independence.
|
Năm 1954,
Quốc vương Sihanouk phản đối hiệp định (Geneva)
trao cho nước Việt Nam
độc lập quyền kiểm soát toàn bộ phần đất Kampuchea Krom và Koh Tral từ chính
quyền Pháp. Ông tuyên bố rằng Campuchia bảo lưu quyền đưa vấn đề lãnh thổ này
ra trước Liên Hợp Quốc. Cho dù ông và những người theo ông đánh giá khả năng
thành công của Campuchia cao bao nhiêu đi nữa, không thấy có người đứng đầu
nhà nước Campuchia nào lựa chọn thực thi quyền đã được bảo lưu này trong suốt
60 năm kể từ khi độc lập.
|
With a
number of border issues remaining unresolved, Sihanouk in 1964 proposed to
the Vietnamese a map aimed at settling those issues. As part of the
compromise Cambodia
offered to accept the colonial Brevie Line as the maritime boundary, thus
abandoning its claim to Phu Quoc. The Vietnamese issued a unilateral
declaration in 1967 that accepted the map’s proposals.
|
Do một số
vấn đề biên giới còn lại chưa được giải quyết, vào năm 1964 Sihanouk đề nghị
với (Nam) Việt Nam
một bản đồ nhằm giải quyết những vấn đề này. Một phần của thỏa hiệp mà
Campuchia đề xuất là việc Campuchia chấp nhận đường Brevie từ thời thuộc địa
là biên giới biển, đồng nghĩa với việc từ bỏ yêu sách của mình đối với Phú
Quốc. Năm 1967, (Nam) Việt
Nam
đã ra tuyên bố đơn phương chấp nhận các đề xuất liên quan tới bản đồ đó.
|
The
parties never signed a treaty confirming the earlier agreement, however, and
both soon changed their minds. In 1969 Sihanouk renewed his claim on Koh Tral
as did the Lon Nol administration which followed. The Vietnamese hardened
their position and backed off their previous acceptance of the Brevie Line seeking
more generous sea lanes around the islands.
|
Tuy nhiên,
hai bên đã không ký một hiệp ước xác nhận thỏa thuận trước đó và cả hai đã
nhanh chóng thay đổi quan điểm của mình. Vào năm 1969, Sihanouk nêu lại yêu
sách của mình đối với Koh Tral và chính quyền Lon Nol sau đó cũng vậy. Trong
khi đó, Việt Nam
cũng có lập trường cứng rắn hơn và rút lại việc chấp nhận đường Brevie trước
đây nhằm mở rộng vùng lãnh hải xung quanh các đảo.
|
The Khmer
Rouge, whose Democratic Kampuchea* was accepted by the United Nations as the
legitimate government of Cambodia, fully accepted the Brevie Line in their
talks with the Vietnamese (despite an ill fated 1975 island landing), though
the parties again failed to reach agreement given expanded Vietnamese
demands.
|
Khmer Đỏ,
đảng mà nhà nước Kampuchea Dân chủ của nó được Liên Hiệp Quốc công nhận là
chính phủ hợp pháp của Campuchia, đã hoàn toàn chấp nhận đường Brevie trong
các cuộc đàm phán của họ với người Việt Nam (cho dù Khmer Đỏ đã tiến hành một
chiến dịch chiếm đảo thất bại vào năm 1975), dù các bên một lần nữa lại thất
bại trong việc đạt được thỏa thuận vì đòi hỏi lớn hơn của phía Việt Nam.
|
Cambodia’s
PRK government affirmed Vietnamese sovereignty over the island in their 1982
and 1985 border agreements with Vietnam. Bora Touch and others in
the Cambodian opposition make compelling arguments that these treaties are
null and void under the terms of the 1991 Paris Peace Agreement as they were
signed while Cambodia
was occupied by Vietnamese military forces.
|
Chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Campuchia (PRK) khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hòn đảo trong các hiệp định biên
giới với Việt Nam
vào năm 1982 và 1985. Bora Touch và những người khác trong phe đối lập
Campuchia đưa ra lập luận khá thuyết phục rằng các hiệp ước này bị vô hiệu
theo các điều khoản của Hiệp định Hòa bình Paris
năm 1991 vì chúng được ký kết trong lúc Campuchia bị lực lượng quân đội Việt Nam
chiếm đóng.
|
Interestingly,
though, the Sydney attorney in 2002 and 2004
letters to King Sihanouk assures him that in the event the 1982 and 1985
agreements were nullified the 1967 Vietnamese Declaration would be
determinative, thus relinquishing any Cambodian claim to Koh Tral but
retaining for Cambodia
greater territorial waters. This part of the legal argument understandably
doesn’t get play in the CNRP blogosphere, although Bora Touch’s letter is
found on CNRP’s internet homepage.
|
Tuy nhiên,
điều thú vị là vào năm 2002 và 2004, trong thư gửi cho vua Sihanouk, vị luật
sư Sydney này đảm bảo rằng trong trường hợp các thỏa thuận năm 1982 và 1985
bị vô hiệu hóa thì Tuyên bố của Việt Nam năm 1967 sẽ vẫn mang tính quyết
định, qua đó chấm dứt mọi yêu sách của Campuchia đối với Koh Tral nhưng giữ
lại cho Campuchia vùng lãnh hải lớn hơn. Dễ hiểu là lập luận pháp lý này
không được nêu ra trên các diễn đàn blog của đảng CNRP, mặc dù thư của Bora
Touch được tìm thấy trên trang chủ internet của CNRP.
|
Irrespective
of the status of the 1982/1985 treaties, in 1999 the Cambodian representative
to the Vietnam-Cambodia Joint Border Commission affirmed the state’s
acceptance of the Brevie Line and Vietnamese sovereignty over Phu Quoc, a
position reported to and accepted by the National Assembly. Commenting prior
to the national elections last year on CNRP claims regarding the island,
Prime Minister Hun Sen reiterated that position.
|
Dù tính
pháp lý của các hiệp ước 1982/1985 là thế nào đi chăng nữa thì trong năm
1999, đại diện Campuchia trong Ủy ban Liên hợp Biên giới Việt Nam – Campuchia khẳng định sự chấp nhận của
nhà nước Campuchia về đường Brevie và chủ quyền của Việt Nam tại Phú Quốc. Nội dung này đã
được báo cáo và được Quốc hội Campuchia chuẩn thuận. Bình luận về yêu sách
của CNRP đối với Phú Quốc trước cuộc bầu cử quốc gia năm ngoái (2013), Thủ
tướng Hun Sen đã tái khẳng định lập trường nói trên.
|
A Quixotic Legal Strategy
Political
advocates of Cambodian sovereignty argue that a CNRP government should bring Vietnam
to the International Court of Justice (ICJ) over the issue of Koh Tral. This
position betrays a misunderstanding of what the ICJ does. In settling
territorial disputes the ICJ relies on the willingness of both parties to
submit to ICJ jurisdiction and accept as final its judgment. Unless Cambodia demonstrates to the Vietnamese a
willingness to go beyond political rhetoric with economic sanctions or a
military confrontation there is nothing that might compel Vietnam to submit to ICJ
authority on a matter it deems already resolved.
|
Một chiến lược pháp lý ảo tưởng
Những
chính trị gia ủng hộ chủ quyền của Campuchia cho rằng nếu CNRP lên nắm quyền
thì họ nên đưa Việt Nam
ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) về vấn đề Koh Tral. Lập trường này thể hiện
rõ một sự hiểu lầm về thẩm quyền của ICJ. Khi giải quyết tranh chấp lãnh thổ,
ICJ dựa trên việc hai bên cùng tự nguyện chấp nhận quyền tài phán của ICJ và
chấp nhận phán quyết của ICJ như là phán quyết cuối cùng. Trừ khi Campuchia
chứng minh cho người Việt Nam thấy họ sẵn sàng đi xa hơn những luận điệu
chính trị bằng các biện pháp trừng phạt kinh tế hoặc một cuộc đối đầu quân
sự, thì không có gì có thể buộc Việt Nam phải chấp thuận thẩm quyền của ICJ
về một vấn đề mà họ cho là đã được giải quyết.
|
Were Vietnam
to submit to ICJ authority it is quite likely it would prevail. There is
precedent in international law (see Island of Las Palmas, Netherlands v.
United States) which establishes that a claim to sovereignty based solely
upon discovery (we found it) and contiguity (it’s closer to our land) even
with corroborating maps can fall before a counter-claim based on long-term
display of sovereignty and effective occupation, both of which Vietnam can
easily document. Would Mac Cuu’s temporary recognition of Khmer authority, if
it could be clearly documented (the chronicles are inconsistent) be
sufficient to evidence Cambodian sovereignty? Perhaps, but it is a tough case
to argue on the merits made even more difficult by the lack of documentation.
|
Ngay cả
nếu Việt Nam
chấp thuận thẩm quyền của ICJ thì nhiều khả năng là họ sẽ thắng kiện. Đã có
một tiền lệ trong luật pháp quốc tế (xem Đảo Las Palmas, Hà Lan v. Hoa Kỳ)
trong đó phán quyết rằng một tuyên bố chủ quyền chỉ dựa vào sự phát hiện
(chúng tôi tìm thấy nó) và tiếp giáp (nó gần hơn với đất của chúng tôi) ngay
cả với các bản đồ bổ chứng vẫn có thể thất bại trước một yêu sách của đối
phương dựa trên việc thực thi dài hạn chủ quyền và sự chiếm hữu hiệu quả. Việt
Nam
có tài liệu ghi lại cả hai yếu tố này. Liệu việc Mạc Cửu tạm thời công nhận
chính quyền Khmer, nếu điều này được ghi chép rõ ràng (các biên niên sử hiện
không thống nhất với nhau), thì có đủ để chứng minh chủ quyền của Campuchia
không? Có thể là có, nhưng đó là một ca khó tranh luận về lý lẽ và càng trở
nên khó khăn hơn do thiếu tài liệu.
|
Bora Touch
argues that Cambodia’s
best hope for Koh Tral is that the United Nations determines the island falls
within its provisions for decolonization described in the 1960 Declaration on
the Granting of Independence of Colonial Countries and Peoples. Kem Sokha and
Sam Rainsy have both posited the case of Singapore as a comparable example
of this process.
|
Bora Touch
cho rằng hy vọng lớn nhất của Campuchia về Koh Tral là Liên Hiệp Quốc quyết
định hòn đảo này được điều chỉnh bởi các điều khoản về phi thực dân hóa được
mô tả trong bản Tuyên bố năm 1960 về trao trả độc lập cho các nước và nhân
dân thuộc địa. Cả Kem Sokha và Sam Rainsy đều lấy trường hợp của Singapore
làm một ví dụ tương tự của quá trình này.
|
There
seems little chance of this happening. The colonial powers subject to the
1960 Declaration were specifically identified as the European powers who
emerged from World War II with overseas territories which the UN viewed as
deserving the right to self-determination. Vietnam
is not identified as a colonial power, Phu Quoc is not a state, and as for
the right to self-determination it is unlikely the 99.5 percent Vietnamese
population of Phu Quoc would opt for allegiance to Cambodia. There is some legal
precedent to suggest that self-determination might not always be the highest
priority in all cases of decolonization. Still, it’s hard to imagine how
Cambodia’s claim, given Cambodia’s lack of substantial interest in the island
and clearly ambivalent position on sovereignty, could override Vietnam’s
interest in maintaining its territorial integrity, something the UN
established as a critical principle in examining cases of decolonization.
|
Ít có cơ
hội để việc này xảy ra. Các cường quốc thực dân chịu chi phối của Tuyên bố
năm 1960 đã được xác định cụ thể là các cường quốc châu Âu sau Thế chiến II
với những lãnh thổ hải ngoại mà Liên Hợp Quốc xem là xứng đáng có quyền tự
quyết. Việt Nam
không được xác định là một cường quốc thực dân, và Phú Quốc không phải là một
nhà nước. Liên quan đến quyền tự quyết thì chắc chắn 99,5 phần trăm dân số
người Việt Nam tại Phú Quốc sẽ không lựa chọn Campuchia dù rằng đã có một số
tiền lệ pháp lý cho thấy rằng quyền tự quyết không phải luôn là ưu tiên cao
nhất trong tất cả các trường hợp phi thực dân hoá. Tuy nhiên, do Campuchia
từng thể hiện không quan tâm tới các lợi ích đáng kể trên đảo và có thái độ
mâu thuẫn về chủ quyền, thật khó có thể tưởng tượng được yêu sách của
Campuchia lại có thể thắng được mong muốn rõ ràng của Việt Nam trong việc duy
trì tính toàn vẹn lãnh thổ của mình, điều mà Liên Hợp Quốc đã xác định là một
nguyên tắc quan trọng khi xem xét các trường hợp phi thực dân hoá.
|
Ultimately,
the quest for Koh Tral can only be viewed as quixotic. Should the matter
actually reach courts of international law Cambodia can only expect an
unfavorable outcome sure to intensify feelings of victimization. It is hard
to see this effort as being in the best interest of the Cambodian population
at large rather than a cynical effort to mobilize popular opinion against Cambodia’s
eastern neighbor for purely political gain.
|
Rốt cuộc,
sự nghiệp đấu tranh vì Koh Tral (của Campuchia) chỉ có thể được xem là ảo tưởng.
Nếu vấn đề thực sự được đưa ra các tòa án pháp lý quốc tế, Campuchia chỉ có
thể mong đợi một kết quả không thuận lợi, điều chắc chắn sẽ làm tăng cảm xúc
là nạn nhân của người dân Campuchia. Thật khó có thể thấy đây là nỗ lực vì
lợi ích tốt nhất của mọi người dân Campuchia. Thay vào đó, nó là một nỗ lực
đầy vụ lợi để huy động công luận chống lại nước láng giềng phía đông của
Campuchia vì các lợi ích chính trị thuần túy.
|
*Corrected from the original “Democratic Republic of Kampuchea”.
|
|
https://thediplomat.com/2014/06/cambodias-impossible-dream-koh-tral/
|
|
Biên dịch:
Thái Khánh Phương
Hiệu đính: Thái Khánh Phong
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn