LET ME SLAY THE BIG
FAT GREEK MYTH
|
Đằng sau sự ngộ nhận
lớn và tai hại về Hy Lạp
|
|
John Humphrys
SUNDAY LONDON TIMES
28 June 2015
|
John Humphrys
SUNDAY LONDON TIMES
28-6-15
|
With their skiving, spending and mad pensions, the Greeks
have brought this crisis upon themselves, right? Wrong. John Humphrys
delivers an impassioned defence of a people he loves and believes have been
betrayed.
|
Với lề thói tiêu pha và mức lương hưu trí điên rồ, người
dân Hy Lạp đã tự mang đến cuộc khủng hoảng này, đúng không? Không phải. John
Humphrys đưa ra những lập luận khách quan bảo vệ một dân tộc mà ông yêu mến
và cho rằng họ đã bị phản bội.
|
When I was a youngster in the 1950s, the same Monday
morning ritual was repeated in working-class households like mine across the
land. Once the father had gone to work, the mother would drag the boiler from
under the sink, fill it with water and in would go the dirty laundry. An hour
later it was taken out and rinsed and either squeezed by hand or run through
the mangle. Then, weather permitting, it was pegged out or, if the weather
did not permit, draped around the house until the rain stopped. An immensely
laborious process in homes where most mothers struggled to cope with all the
other household jobs.
|
Khi tôi còn là một thanh niên trẻ những năm 1950, mỗi sáng
Thứ Hai một kịch bản giống hệt nhau đã diễn ra ở các hộ dân lao động như nhà
tôi trên khắp quốc đảo này (nước Anh). Khi cha tôi rời khỏi nhà, mẹ tôi lôi
nồi nấu nước từ dưới gầm bồn rửa, đổ đầy nước vào và bắt đầu công việc giặt
dũ. Một tiếng sau, quần áo được bỏ ra và rũ hoặc bằng tay hoặc bằng máy quay.
Sau đó, nếu thời tiết cho phép, quần áo được phơi ra ngoài trời, hoặc được
giăng quanh nhà đợi đến khi trời dừng mưa. Một công việc nhà nặng nhọc mà tất
cả các bà mẹ đều phải vật lộn cùng với nhiều việc nội trợ khác.
|
And what, you may
ask, has this to do with Greece? Quite a lot, as it happens.
My parents and millions more like them could have bought a
washing machine — one of the many labour-saving gadgets that were beginning
to liberate women from the drudgery that often made their lives a misery.
They were poor, but hire purchase had arrived. The washing
machines or the vacuum cleaners or the fridges could have gone on the
never-never. Instead people like my parents waited until they had saved
enough money — even if it took years.
|
Bạn có thể hỏi điều
này thì liên quan gì đến Hy lạp? Thực ra thì rất nhiều trong bối cảnh Hy Lạp
hiện nay.
Cha mẹ tôi và hàng triệu bậc cha mẹ khác đều đã có thể mua
một chiếc máy giặt – một trong nhiều đồ gia dụng thay thế sức người đã giải
phóng phụ nữ khỏi những công việc nặng nhọc thường làm cho cuộc sống của họ
buồn chán, khổ sở.
Họ nghèo, nhưng khi đó dịch vụ thuê mua đã xuất hiện. Máy
giặt, máy hút bụi hay tủ lạnh đã có thể là điều không tưởng đối với nhiều hộ
gia đình. Thay vào đó những người như cha, mẹ tôi đã đợi cho đến khi họ tiết
kiệm đủ tiền. Mặc dù điều này có thể mất nhiều năm.
|
Shocking? On one level, of course. My mother was a clever
woman who never read a book because there was no time with five children and
all that work to do. But years later, when I asked her why she had wasted so
much of her life in unnecessary drudgery, she made no complaint.
“That’s how we were brought up,” she would say. “Borrowing
was wrong. If you didn’t have the money, you didn’t buy it and that was
that.” Until the day she died she regarded credit cards as the work of Satan
and she was not alone.
Which takes us to Greece at the turn of the century — a
country in many ways not unlike Britain in the 1950s. Everything was pretty
run-down. They didn’t really have a word for consumerism. If you wanted a
phone installed at home you could expect to wait several months. And credit
cards were almost unheard of. The older generation would have no truck with
debt.
|
Không thể tin được? Tất nhiên là ở một chừng mực nào đó.
Mẹ tôi là một phụ nữ thông minh nhưng chưa từng đọc một cuốn sách nào đơn
giản là vì bà đã quá bận với năm người con và tất cả các công việc nội trợ.
Nhưng những năm sau, khi tôi hỏi bà tại sao lại lãng phí quá nhiều cuộc đời
mình cho những công việc không cần thiết ấy, bà không một lời phàn nàn.
“Mẹ đã được dạy bảo cần phải làm như vậy” bà nói. “Vay
mượn là tội lỗi. Nếu không có tiền thì đừng mua, có thế thôi.” Cho đến khi
mất bà vẫn coi thẻ tín dụng là sản phẩm của quỷ Sa-tăng, và không chỉ có mình
bà.
Hãy xem Hy Lạp vào những năm chuyển giao thế kỷ. Một đất
nước trên nhiều phương diện cũng giống như Anh vào những năm 1950. Mọi thứ đã
xuống cấp. Họ không có khái niệm gì về chủ nghĩa tiêu dùng. Nếu bạn muốn lắp
một chiếc điện thoại tại nhà bạn sẵn sàng chờ nhiều tháng. Và thẻ tín dụng
không hề được nhắc đến. Thế hệ lớn tuổi không có cảnh nợ nần chồng chất.
|
This all changed at midnight on December 31, 1998. The
euro was born and Greece later became a part of it and all hell broke lose.
It was like pushing a rusty old car to the top of a steep hill, fitting it
with turbochargers and roaring down the hill at a speed Jeremy Clarkson would
have envied and then — too late — realising the brakes didn’t work.
Britain had taken a generation or two to learn how to deal
with the new world of credit. The Greeks tried to adapt to it overnight and,
predictably, they failed.
The immediate and most obvious effect of the euro was that
prices shot up. I have been going there regularly since my oldest son
Christopher moved to Athens in 1992 and our regular boozy dinners suddenly
cost at least twice as much.
|
Tất cả đã thay đổi kể từ nửa đêm 31/12/1998. Đồng Euro ra
đời và Hy Lạp sau đó đã trở thành một phần của khu vực đồng tiền chung. Mọi
sự xuống cấp đã biến mất. Giống như kéo một chiếc xe cũ nát lên đỉnh đồi cao,
lắp vào một động cơ siêu tốc và lướt xuống đồi với tốc độ mà Jeremy Clarkson
(đạo diễn Chương trình giải trí nổi tiếng Anh- Top Gear) cũng phải ghen tỵ.
Và sau đó đã quá muộn để nhận ra rằng xe mất phanh.
Nước Anh đã phải mất một hoặc hai thế hệ để học hỏi cách
sống với thế giới tín dụng mới. Người dân Hy Lạp đã cố gắng thích nghi với nó
chỉ qua một đêm và dễ nhận thấy là họ đã thất bại.
Hiệu ứng tức thì và dễ thấy nhất của đồng Euro là giá cả
tăng vọt. Tôi đã thường xuyên đến Hy Lạp kể từ khi con đầu của tôi chuyển tới
Thủ đô Athens vào năm 1992. Những bữa ăn tối kèm đồ uống của chúng tôi bỗng
nhiên đắt lên gấp đôi.
|
That was predictable and hardly an existential crisis. On
a different scale altogether was what the government was doing. As the whole
world now knows, it was borrowing and spending at an almost unimaginable
rate.
Let’s be clear about one thing. What has happened to
Greece is not the fault of its people: it is the fault of its politicians.
And its oligarchs. Greeks believe it is hard to separate the two classes and
they hold them equally in contempt. It is not hard to see why.
|
Điều đó có thể dự đoán được, và đó cũng không hẳn là cuộc
khủng hoảng sống còn. Ở một tầm mức khác là những gì mà Chính phủ Hy Lạp đã
làm. Cả thế giới giờ đã biết Chính phủ Hy Lạp vay mượn và chi tiêu ở một mức
không thể hình dung nổi.
Xin hãy nhất trí với nhau ở một điểm. Điều đã xảy ra tại
Hy Lạp không phải lỗi của người dân nước này: lỗi chính là của các nhà chính
trị. Và lỗi của những kẻ giàu có (oligarchs). Người dân Hy Lạp tin rằng khó
có thể tách bạch hai tầng lớp này và họ coi thường hai tầng lớp này như nhau.
Không khó để có thể nhận thấy tại sao.
|
The very rich have been able to grow even richer for at
least two reasons. One: they did not pay their taxes and the politicians
allowed them to get away with it. Two: many big businesses creamed vast
profits from the contracts the politicians were handing out as though they
were distributing flyers outside an Underground station — except that they
expected something in return.
Every Greek knows of at least one government minister who
has bought a magnificent house after about five minutes in the job. And every
Greek can see for himself the rich men’s yachts in the harbours and the
Michelin-starred restaurants where you might have to wait three months to
book a table.
|
Những kẻ rất giàu đã có thể làm giàu hơn nữa ít nhất vì
hai lý do. Thứ nhất, họ trốn thuế và các chính trị gia đã không trừng phạt
họ. Thứ hai, rất nhiều tập đoàn kinh doanh đã “hớt váng” lợi nhuận từ những hợp
đồng mà các chính trị gia ban phát cho họ, những hợp đồng được phát không
khác gì việc người ta phát tờ rơi quảng cáo ở bên ngoài các bến ga tàu điện
ngầm. Điểm khác là các chính trị gia trông chờ có lại quả.
Người dân Hy Lạp đều biết có ít nhất một bộ trưởng nội các
chính phủ đã mua biệt thự sang trọng chỉ năm phút sau khi nhậm chức. Và dân
thường Hy Lạp cũng tận mắt nhìn thấy các du thuyền sang trọng đậu ở các bến
cảng và những nhà hàng được xếp hạng sao bởi hãng Michelin mà phải đợi hàng
ba tháng mới có thể đặt được bàn.
|
|
|
It’s true that the ordinary cafes seem pretty full too.
But if you look a little more closely you will see that very few customers
have meals in front of them. Instead they have a coffee — which they might
manage to make last for an hour or two. Sometimes a couple will share one cup
— even though the desperate cafe owners have cut the price by half.
This may seem a trivial inconvenience, but meeting friends
in a cafe is an important element in the fabric of the Greek way of life that
is being torn apart. Two things above all bind Greek society together and
have done for centuries. One obviously is the family. The other is
friendships that may last a lifetime, which is where something called the
“parea” comes in.
|
Thực tế, các quán cà phê bình dân cũng đầy khách. Nhưng
nếu bạn chịu khó quan sát kỹ hơn, bạn sẽ thấy rất ít khách hàng dùng bữa ở
đó. Thay vào đó, họ ngồi uống cà phê, giúp họ có thể ngồi hàng giờ ở đó.
Thỉnh thoảng một cặp vợ chồng cùng uống chung một cốc. Thậm chí những chủ
quán cà phê khốn khó này cũng phải giảm giá hơn một nửa.
Điều này có vẻ bất tiện nhưng việc gặp gỡ bạn bè ở quán cà
phê là một phần quan trọng trong lối sống truyền thống Hy Lạp vốn đang bị xé
vụn ra. Trên tất cả, có hai thứ gắn kết xã hội Hy Lạp trong hàng thế kỷ qua.
Hiển nhiên gia đình là yếu tố thứ nhất. Yếu tố thứ hai là tình bằng hữu đi
suốt cuộc đời, điều được gọi là “parea” (nhóm bạn thân thiết).
|
Most Greeks have their own parea: a small group of friends
— half a dozen or more — who might have met at school or university or in
their first job. They socialise as a group. If a young Greek goes into a bar
in Athens the barman might very well ask if she is joining her parea and will
look a little askance if she is on her own. The parea matters.
My son has a friend who is that rare exception — a
reasonably well-off young Greek who has managed to hold on to his job. What
he is losing is his parea. He is the only one of them in work and thus the
only one who can afford to go out for the evening. But his friends are far
too proud to let him pay for the drinks and so he has become effectively
isolated from them.
|
Hầu hết người dân Hy Lạp đều có parea của riêng mình: nhóm
nhỏ các bạn hữu, khoảng 12 người hoặc nhiều hơn, mà họ có thể gặp gỡ ở trường
phổ thông, đại học hay trong công việc đầu tiên. Họ giao lưu xã hội thành
nhóm. Nếu một thanh niên Hy Lạp vào quán bar ở Athens, nhân viên quán rất có
thể hỏi họ thuộc đám khách “parea” nào. Và sẽ rất ngạc nhiên nếu họ đi một
mình. Nhóm bạn thân thiết rất quan trọng.
Bạn của con trai tôi lại là một ngoại lệ hiếm thấy. Một
thanh niên Hy Lạp khá thành đạt rất nỗ lực để giữ được công ăn việc làm. Điều
mà anh ta đang mất đi là bạn bè thân thiết (parea). Anh ta là người duy nhất
trong nhóm còn có việc làm và do đó, là người duy nhất đủ khả năng trả tiền
cho các cuộc chơi tối. Nhưng các bạn của anh ta vì sỹ diện không cho phép anh
ta trả tiền. Do đó, anh ta tự nhiên trở nên bị cô lập với bạn bè của mình.
|
Why don’t they meet
at each others’ homes? Because they live with their parents. Their chances of buying the
most modest apartment are nil and those who were renting can no longer afford
the rent. Nor can they afford to get married and move in together.
Natasha, 27, told me: “If we want to have sex we check
into a hotel for an hour or two or we use the car. Some of my friends can’t
even afford condoms and there has been an increase in sexually transmitted diseases.”
|
Sao họ lại không gặp
gỡ nhau ở nhà của một ai đó? Bởi vì các thanh niên này đều sống cùng với bố mẹ của
mình. Cơ hội để cho họ mua một căn hộ khiêm tốn nhất cũng là số không. Và
những ai đã từng thuê căn hộ ở cũng không còn đủ khả năng chi trả. Họ cũng
không đủ tiền để lập gia đình và ra ở riêng.
Natasha 27 tuổi nói với tôi: “Nếu chúng tôi muốn quan hệ tình
cảm, chúng tôi thuê phòng khách sạn một hoặc hai giờ, hoặc là trong xe ô-tô.
Một số bạn bè tôi thậm chí không đủ tiền mua bao cao su và các bệnh lây qua
đường tình dục đang tăng lên.”
|
I don’t need to check the statistics to know what is
happening on the marriage front. Ten years ago Christopher and I built a
house in a bay in the Peloponnese, which was wonderful except on Friday and
Saturday nights from May to October. Every other newlywed couple in the
district had their wedding-night parties there and the sound of the bouzoukis
carried across the water. It was great for partying but lousy for sleeping.
Now it is silent.
And those who do marry are nervous about having children.
A friend told me of someone she knows who had been desperate for years to
have a baby and finally, after an expensive course of IVF treatment, became
pregnant. When her doctor confirmed it she asked him for an abortion. He was
aghast, but she and her husband had lost their jobs by then and could no
longer afford a child.
|
Tôi không cần kiểm tra các con số thống kê để biết điều gì
đang xảy ra đối với hôn nhân gia đình. Mười năm trước, Christopher và tôi
dựng một căn nhà ở vịnh Peloponnese để hưởng không khí tuyệt vời trừ những
tối Thứ Bảy và Chủ Nhật từ tháng Năm đến tháng Mười. Những cặp vợ chồng mới
cưới trong quận tổ chức bữa tiệc cưới tối ở đó. Và tiếng đàn Bouzouki vang
vọng trên bãi biển. Thật lý tưởng cho tổ chức tiệc nhưng quá ồn cho nghỉ
ngơi. Bây giờ cả khu vực lặng im.
Còn những ai lập gia đình thì lo sợ có con cái. Một người
bạn kể với tôi rằng cô gái cô quen vất vả ngược xuôi để có con, cuối cùng,
sau khi chữa trị rất tốn kém cũng có mang. Khi bác sỹ thông báo điều đó, cô
đề nghị ông nạo thai đi. Ông bác sỹ kinh ngạc nhưng cô và chồng cô vừa mất
việc và không đủ tiền nuôi con.
|
Here’s something else that eats away at so many of the
people I speak to in Greece: the knowledge that we, in the richer countries
of Europe, blame them for what is happening. Brought it on themselves, didn’t
they? Serves ’em right, don’t it?
Well, actually, no, they didn’t and it doesn’t.
Bunch of skivers aren’t they? Work for a few years, retire
at 50 on massive pensions and expect us to pick up the bills. No. No. No.
|
Còn đây là điều mà nhiều người Hy Lạp tôi trò chuyện cùng
cảm thấy đau lòng: thông tin rằng chúng ta, những người ở các nước giàu có
hơn ở châu Âu, đổ lỗi cho người dân Hy Lạp về những điều đang diễn ra. Chính
họ đã mang đến những điều đó? Và họ đáng nhận những điều tồi tệ đó, phải
không?
Thực tế là không. Họ không làm và không đáng nhận.
Họ chẳng phải là một lũ lười biếng sao? Làm vài năm, đến
50 tuổi nghỉ hưu với lương hưu khủng và hy vọng rằng chúng ta sẽ thanh toán
hóa đơn. Không. Không. Không.
|
Let’s take the young men and women who don’t work. Almost
60% of Greeks under the age of 25 have no job and no prospects of getting
one. Austerity hit the country just as they were beginning to leave school or
university or finishing their mandatory military service, so it’s a little
hard to see how they can be held responsible for the collapse of the Greek
economy.
If not them, let’s blame their parents shall we? It’s
certainly true that their lives were easier and pensions were absurdly
generous for many who worked in the massively bloated public sector.
|
Hãy xem những nam thanh và nữ tú không làm việc. Khoảng
60% người dân Hy Lạp dưới 25 tuổi không có việc làm và không thể kiếm được
việc làm. Chính sách khắc khổ áp đặt lên đất nước này đúng lúc họ rời trường
phổ thông hay tốt nghiệp đại học hay hết hạn nghĩa vụ quân sự. Như vậy thật
khó để hình dung làm sao họ có thể chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của nền kinh
tế.
Không phải họ, chắc là cha mẹ họ đã gây ra? Đúng là cuộc
sống của cha mẹ họ dễ thở hơn và lương hưu thì quá đỗi hào phóng cho những ai
đã làm việc trong khu vực công dư thừa biên chế.
|
My son has a friend who was in her late thirties when he
first met her. Unusually for her age group she was still single even though
she rather wanted to get married. What was putting her off was that if she
did, she would lose her pension or — more accurately — her father’s pension.
When he died it had passed to her as an unmarried dependant. Absurd but not
uncommon.
And, yes, it’s true that many Greeks have been able to get
their pensions from the age of 50, but their salaries were relatively small.
And I wonder how many people in this country would refuse to take an early
pension if it were on offer from an overly generous state.
|
Con trai tôi có một cô bạn trạc 30 tuổi khi họ quen biết
nhau. Không như các bạn khác ở tuổi đó, cô ta vẫn chưa lập gia đình mặc dù
rất muốn. Điều đã cản trở cô ấy là cô sẽ mất phần “lương hưu”, một cách chính
xác hơn, phần lương hưu của bố cô. Nếu ông chết, cô sẽ được hưởng lương hưu
đó vì là người phụ thuộc chưa có gia đình. Lạ nhưng không phải là hiếm.
Đúng là nhiều người lao động Hy Lạp có thể nhận tiền lương
hưu từ 50 tuổi nhưng lương của họ khá khiêm tốn. Và tôi cũng tự hỏi có bao
nhiêu người dân Anh có thể từ chối việc lĩnh lương hưu sớm nếu như chính phủ
Anh cũng hào phóng mời chào họ.
|
The fact is that the two political parties that held power
from the collapse of the military junta in 1974 until this crisis overwhelmed
them simply bribed the electorate and kept upping the ante. And, yes, the
Greek people took what they offered with no questions asked — which is hardly
surprising in light of Greece’s history.
It’s easy to forget that Greece may have bequeathed the
great gift of democracy to the western world a couple of millennia ago but in
recent history its people have enjoyed the fruits of that democracy for a
vanishingly short period.
|
Sự thực là hai đảng phái chính trị nắm giữ quyền lực, kể
từ sự sụp đổ của Chính quyền quân sự năm 1974 cho đến khi cuộc khủng hoảng
này nhấn chìm họ, đã mua chuộc dân chúng và ”cố đấm ăn xôi” như những con bạc
khát nước. Và đúng là người dân Hy Lạp đã nhận những gì họ được mời chào mà
không cần hỏi. Điều này cũng không có gì là lạ trong lịch sử Hy Lạp.
Có thể dễ dàng quên rằng Hy Lạp đã để lại di sản quý báu
về dân chủ cho Phương Tây hàng nghìn năm trước nhưng trong lịch sử cận đại
người dân Hy Lạp chỉ được hưởng những thành quả của dân chủ trong một thời
gian ngắn ngủi.
|
This is a country that has been through several kinds of
hell in living memory. An unspeakably savage Nazi occupation. A civil war
that tore the country apart. A brutal military dictatorship. Is it surprising
that people who lived through that, or whose parents suffered under the worst
of it, were perfectly happy to take what the state offered them without
asking too many questions?
But the price of an acquiescent electorate was appalling
corruption on just about every level. When I was in Greece a few months ago I
met a delightful couple, Vangelis and Mika Geroyianni, who once owned a
successful car dealership. They were visited regularly by tax inspectors, as
were almost all successful, privately owned businesses — though not, of
course, the seriously big boys. They did their deals at a different level.
|
Đất nước này đã niếm trải đủ loại địa ngục trong ký ức mới
đây thôi. Sự thống trị bạo tàn không thể tả xiết của Phát xít. Cuộc nội chiến
xé vỡ toang đất nước này. Một chính quyền quân sự độc tài dã man. Có gì là lạ
khi mà người dân đã trải qua, hoặc cha mẹ của họ đã chịu những điều tồi tệ
nhất, lại vui vẻ chấp nhận những gì Nhà nước chào mời mà không lời thắc mắc.
Nhưng cái giá của sự bàng quan của người dân chính là mức
độ tham nhũng ở mọi cấp độ. Khi ở Hy Lạp vài tháng trước, tôi có gặp một cặp
vợ chồng dễ mến, Vangelis và Mika Geroyianni, dã từng sở hữu một công ty đại
lý ô-tô. Họ thường xuyên được các vị viên chức thuế hỏi thăm, giống như hầu
hết các doanh nghiệp tư nhân thành công khác (tất nhiên là trừ các đại gia).
Các đại gia này chung chi ở đẳng cấp khác.
|
Vangelis told me that since the financial crash happened
their visitors had stopped coming. I asked him why. Because, he said, his
business was on the brink of going bust and was no longer making money.
Therefore the inspectors had no reason to call. As he said, there’s no point
in blackmailing people who cannot pay up, is there?
In the “good” old days there would often have been three
inspectors: the hard man, the soft man and the boss. There was nothing subtle
about it. If their demands were met, the Geroyiannis would hear no more from
the tax office. If they were not, they could expect serious difficulties with
their next set of accounts. Very serious difficulties. As the boss man would
say: the tax rules are complicated and there are many grey areas.
|
Vangelis bảo tôi từ khi nổ ra khủng hoảng tài chính, các
viên chức thuế cũng không viếng thăm nữa. Tôi hỏi tại sao lại vậy. Câu trả
lời là kinh doanh của anh ta bên bờ vực sụp đổ và không còn kiếm được tiền
nữa. Vậy là cán bộ thuế chả có lý do gì để đến. Như lời của anh, “nắm kẻ có
tóc, ai nắm kẻ trọc đầu.”
Những ngày xưa “tốt đẹp”, có ba loại cán bộ thuế: cán bộ
cứng rắn, cán bộ mền và ông sếp. Chả có gì phải che đậy cả. Nếu đưa đủ, cơ sở
của Geroyianni chả phải nghe gì thêm từ sở thuế. Không đưa đủ, họ có thể phải
gặp rắc rối nghiêm trọng đối với kỳ kế toán tiếp theo. Rắc rối rất nghiêm
trọng. Như kiểu ông sếp nói: quy định về thuế rất là phức tạp và có rất nhiều
vùng xám.
|
“So you’d have to hand over a brown envelope with cash in
it?” I asked Mika.
“No,” she said, “not an envelope . . . a plastic bag. It wasn’t
hundreds of euros, it was thousands.”
When I told a government minister later about our conversation
he did not even try to deny such things happened, merely nodded sorrowfully
and pointed out that corruption was as old as Greece. What could you do, eh?
|
“Thế cô phải đưa nộp phong bì đen với tiền mặt trong đó
à?” Tôi hỏi Mika.
“Không”, cô trả lời, “không phải là phong bì… mà là một
túi to. Không phải là vài trăm Euro mà vài nghìn.”
Khi tôi kể chuyện này với một bộ trưởng chính phủ về cuộc
đối thoại trên, ông bộ trưởng chả buồn phủ nhận điều đó, chỉ lắc đầu buồn bã
và nhận xét tham nhũng cũng xa xưa như chính Hy Lạp vậy. Bạn có thể làm gì
đây?
|
The Geroyiannis are still — just about — clinging on to
their business, but they have had to sell their comfortable house and move
into a flat. They have sacked almost all their employees and instead of a
thriving car dealership all that is left is a small repair shop. But now
there is a new government and, as I write, it is not only their little business
and tens of thousands more like it joining the massive list of bankrupt
enterprises, it is the country itself.
In the years that I have been reporting on this crisis
there has been one constant. Overwhelmingly, the people of Greece have been
determined to stay in the euro. That determination was based on more than
purely economic factors: it was pride. The euro in their wallets was proof
that they had left their troubled past behind them and had finally moved from
Third to First World. They were in the front rank of European nations.
|
Nhà Geroyianni vẫn cố trụ lại kinh doanh. Nhưng họ đã phải
bán căn nhà tiện nghi của mình và chuyển tới một căn hộ. Họ sa thải hầu hết
các nhân viên và thay vì một đại lý xe ô-tô khả giả trước đây thì giờ họ điều
hành một cửa hiệu sửa chữa nhỏ. Nhưng giờ đây có một chính phủ mới và, khi
tôi đang viết, không chỉ cơ sở kinh doanh nhỏ bé của họ, mà hàng nghìn hộ
kinh doanh giống như thế đang gia nhập danh sách dài phá sản; cả đất nước này
cũng phá sản.
Trong những năm tôi theo dõi viết bài về cuộc khủng hoảng
này, có một thứ không thay đổi. Một tỷ lệ lớn người dân Hy Lạp quyết tâm ở
lại trong khu vực đồng Euro. Quyết tâm đó dựa không chỉ trên nhân tố kinh tế
thuần túy. Đó còn là lòng tự hào. Những tờ Euro trong ví của người dân Hy Lạp
là minh chứng cho việc Hy Lạp đã để lại quá khứ rắc rối phía sau và cuối cùng
đã từ thế giới Thứ Ba lên thế giới Thứ Nhất. Người dân Hy Lạp ở tuyến đầu
cùng với các dân tộc châu Âu.
|
The opinion polls tell us they are as determined as ever
to keep the euro. But I wonder. Every time I return to Greece I sense a
changing mood — at least among the educated middle class. Where once they
told me: “We have no choice if we are ever to recover,” they now ask me: “How
can we ever recover if they keep telling us to cut and cut and tax and tax?”
And it is a hard question to answer.
It is especially hard when one of the demands Greece’s
creditors make is to increase the very tax — VAT — that would almost
certainly have the effect of deterring foreign tourists. If anything can
rescue the Greek economy in the medium term it must surely be tourism.
|
Các thăm dò ý kiến đều chỉ ra người dân Hy Lạp ngày càng
quyết tâm giữ đồng Euro. Nhưng tôi nghi ngờ. Mỗi lần quay lại Hy Lạp, tôi lại
cảm nhận sự thay đổi tâm trạng, ít nhất là giới trí thức trung lưu. Trước đây
họ nói với tôi: “Chúng tôi không có lựa chọn nào nếu muốn phục hồi.” Giờ đây họ
lại hỏi tôi: “Làm sao chúng tôi có thể phục hồi được nếu họ cứ bảo chúng tôi
phải liên tục cắt ngân sách, liên tục đánh thuế và đánh thuế?”. Và cũng khó
để trả lời câu hỏi này.
Điều đó thực sự khó khi mà một trong những điều kiện mà
giới chủ nợ Hy Lạp yêu cầu là tăng thuế VAT. Nó sẽ hầu như ngay lập tức làm
hạn chế du lịch nước ngoài đến Hy Lạp. Nếu có gì đó có thể cứu rỗi cho nền
kinh tế Hy Lạp trong trung hạn, đó phải là du lịch.
|
But it is the cuts that arouse the real passion —
especially more cuts to pensions. Those pensions that once provided their
parents and grandparents with a very comfortable old age have mostly been
chopped by at least 40%. That might just be tolerable, but now it is no
longer one elderly couple relying on them. Often it is their children and
grandchildren too. How do you tell these people they must take another bite
out of income that is barely feeding them and their children?
And, yes, some Greek people are going hungry. Where once
it was young migrants rummaging in the waste bins in the street outside my
son’s apartment, it is now more likely to be Greeks. Sometimes old men. There
is almost unbearable pathos in watching a stiff-backed old man in his best
suit and white moustache rummaging in a bin. Or the old lady on the corner
shielding her face with one hand as she begs with the other.
|
Nhưng những khoản cắt giảm phúc lợi mới động chạm và gây
bức xúc nhiều nhất, nhất là cắt giảm lương hưu. Những khoản hưu trí này đã
từng mang lại một cuộc sống tuổi già khá yên ổn cho những người ông và người
cha nay bị cắt giảm tới 40%. Điều đó có thể chịu đựng được. Nhưng giờ đây
không chỉ cặp vợ chồng già dựa vào những khoản lương hưu bị cắt giảm đó nữa.
Thông thường, cả con cái và cháu chắt của họ cũng dựa vào đó. Làm sao có thể
bảo những con người này chấp nhận bị cắt cả những phần thu nhập ít ỏi vốn
chẳng đủ để nuôi sống họ và con cháu họ?
Và vâng, người Hy Lạp đang đói. Trước đây, chỉ có những
người (nước ngoài) nhập cư trẻ kiếm sống bằng cách nhặc rác trên đường phố
ngoài khu căn hộ của con trai tôi. Giờ đây nhiều khả năng là cả những người
dân Hy Lạp. Thỉnh thoảng có cả những người già. Có gì đó cay đắng không thể chịu
đựng được khi nhìn một người trung niên đi lại khó nhọc trong bộ com-plê đẹp
nhất với bộ ria trắng đang bới thùng rác. Hay một quý bà ở góc phố một tay
che mặt , còn tay kia đang chìa ra xin ăn.
|
How do you tell these people that they must make
sacrifices to pay back debts that were built up by politicians on the make or
investment bankers who gave the green light to entering the euro when every
economic indicator was flashing bright red?
You tell me.
|
Làm sao có thể bảo những người như vậy rằng họ phải chịu đựng,
hy sinh để trả lại đống nợ chồng chất đã được tạo ra bởi các nhà chính trị
khi thực hiện tham vọng của mình hay các ngân hàng đầu tư đã bật đèn xanh cho
việc gia nhập đồng Euro khi mà mọi chỉ số kinh tế đều đang báo động đỏ?
Bạn hãy trả lời tôi đi!
|
|
|
|
|
|
Translated
by Nguyễn Đắc Thành
|
http://www.thesundaytimes.co.uk/sto/newsreview/features/article1573930.ece
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn