THE DRAMATIC
TRANSFORMATION IN US-VIETNAM RELATIONS
|
Chuyển hóa đầy kịch
tính trong quan hệ Việt – Mỹ
|
|
By Cuong T. Nguyen
The
Diplomat
July 02, 2015
|
Nguyen T. Cuong
The
Diplomat
02-07-2015
|
|
|
A historic visit
this week indicates just how close the two former foes have become.
|
Một chuyến thăm lịch
sử trong tuần này cho thấy hai cựu thù đã trở nên gần gũi tới mức nào.
|
In 1975, the Vietnam War ended with the United States’
political defeat to the communists. Forty years later, if nothing changes,
from 6-7 July the highest-ranking official of the Communist Party of Vietnam
(CPV) will visit Washington, D.C. for the first time. Though there have been
disagreements about protocol procedures – General Secretary Nguyen Phu Trong
has no direct counterpart from the United States – the trip is unquestionably
historic one as it comes as both countries celebrate the 20th anniversary of
their normalized relationship.
|
Năm 1975, Chiến tranh Việt Nam kết thúc với thất bại về
mặt chính trị của Hoa Kỳ trước những người cộng sản. Bốn mươi năm sau, nếu
không có gì thay đổi, lần đầu tiên, các quan chức cấp cao nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam (ĐCSVN) sẽ thăm Washington, DC, trong hai ngày 6 và 7 tháng 7.
Mặc dù đã có những bất đồng về thủ tục – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không
có đối tác trực tiếp ở Hoa Kỳ – không còn nghi ngờ gì nữa, chuyến đi này là
sự kiện lịch sử vì nó diễn ra trong khi cả hai nước kỷ niệm 20 năm bình
thường hóa quan hệ.
|
The trip will strengthen the two countries’ bilateral
communication and political contacts at a critical time. Both are members of
the Trans-Pacific Partnership (TPP), an agreement which will hopefully be
wrapped up before U.S. President Barack Obama leaves office. Maritime
tensions stemming from China’s reclamation projects and militarization of
artificial islands in the South China Sea also continue to undermine regional
peace and stability. But beyond these specific issues, the meeting itself
will be symbolic of a transition to a new phase in U.S.-Vietnam relations.
|
Chuyến đi sẽ củng cố những cuộc trao đổi song phương và
tiếp xúc chính trị giữa hai nước đúng vào thời điểm quan trọng. Cả hai đều là
thành viên của Hiệp định Đối tác Kinh
tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), một thỏa thuận mà người ta hy vọng
sẽ được hoàn tất trước khi Tổng thống Mỹ Barack Obama rời nhiệm sở. Căng
thẳng hàng hải phát sinh từ dự án cải tạo và quân sự hóa những hòn đảo nhân
tạo ở Biển Đông (nguyên văn: South China Sea) tiếp tục đe dọa hòa bình và ổn
định trong khu vực. Tuy nhiên, vượt xa những vấn đề cụ thể đó, cuộc gặp mặt
tự nó sẽ là biểu tượng của sự chuyển hóa sang giai đoạn mới trong quan hệ
Việt-Mỹ.
|
In 1994, the United States finally lifted its trade
embargo on Vietnam, marking a new era for U.S-Vietnam normalization. Beyond
memories about the bloody Vietnam War, since then the U.S-Vietnam relations
have been transforming from enmity to a “comprehensive partnership” through
an array of cooperative efforts in the fields of security and trade. The
early twenty first century has witnessed the rise of China both militarily
and economically, which undeniably plays a catalytic role in this
metamorphosis.
|
Năm 1994, Hoa Kỳ đã rỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam,
đánh dấu một kỷ nguyên mới cho quá trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ.
Vượt lên trên những ký ức về cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam, từ đó,
thông qua một loạt các nỗ lực hợp tác trong lĩnh vực an ninh và thương mại,
quan hệ Việt-Mỹ đã chuyển từ hận thù sang “quan hệ đối tác toàn diện”. Những
năm đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự nổi lên
của Trung Quốc cả về quân sự và kinh tế, đấy chính là chất xúc tác của sự
chuyển biến như thế.
|
In 2000, both countries signed the Bilateral Trade Agreement
(BTA), which served as a stepping stone to Vietnam’s accession to the World
Trade Organization (WTO) in 2007. The BTA gave Vietnam preferential access to
the U.S markets by reducing tariff rates on Vietnam’s imports to the world
largest economy, while Vietnam’s membership in WTO expedited its economic
integration into the global market. Against the backdrop of the aging and
increased wage rates of Chinese blue-collar segments, Vietnam’s younger and
cheaper labor has been an attractive alternative that could help the American
economy become less dependent on China’s imports, which are partly
responsible for the growing U.S.-China trade imbalance.
|
Năm 2000, hai nước đã ký kết Hiệp định Thương mại song
phương (BTA), đấy chính là đòn bẩy để Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) vào năm 2007. Hiệp định Thương mại song phương đã tạo cho Việt
Nam những ưu đãi trong việc tiếp xúc với các thị trường Mỹ bằng cách giảm
thuế suất đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam vào nền kinh tế lớn nhất
thế giới, việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO thúc đẩy sự hội nhập của
nền kinh tế của nước này với thị trường toàn cầu. Trong bối cảnh lao động của
Trung Quốc đang già hóa và công nhân đòi được trả lương cao hơn, lao động trẻ
và rẻ hơn của Việt Nam trở thành lựa chọn hấp dẫn, có thể giúp nền kinh tế Mỹ
trở nên ít phụ thuộc vào nhập khẩu từTrung Quốc, mà đấy lại là một trong
những nguyên nhân làm cho cán cân thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng
mất cân đối thêm.
|
Almost twenty years since the normalization of U.S-Vietnam
trade relations, their economic partnership has made remarkable progress.
Last Wednesday, the Republican-led Senate passed legislation granting
president Obama the authority to fast track negotiation process of the TPP.
The trade agreement will not only benefit both the United States and Vietnam
according to their economic comparative advantages, but will also play an
important part of their soft balancing strategies against China.
|
Gần hai mươi năm sau khi bình thường hóa quan hệ thương
mại Mỹ-Việt Nam, quan hệ đối tác về mặt kinh tế giữa hai nước đã có những
tiến bộ đáng kể. Thứ tư tuần trước, Thượng viện do đảng Cộng hòa lãnh đạo đã
thông qua luật cho tổng thống Obama quyền đàm phán nhanh (fast track) hiệp
định TPP. Hiệp định thương mại này sẽ không chỉ có lợi cho Hoa Kỳ và Việt
Nam, phù hợp với lợi thế so sánh về kinh tế của họ, mà sẽ có vai trò quan
trọng trong chiến lược cân bằng mềm của họ trong cuộc đối đầu với Trung Quốc.
|
The increasing influx of U.S textile imports to Vietnam
would render the domestic garment industry less reliant on China’s textile
imports for production. That is important because Vietnam’s heavy economic
dependency on China can be exploited for Beijing’s political leverage on
Hanoi. Additionally, the TPP would permit U.S multinational footwear firms
such as Nike to outsource their jobs to Vietnam, where production costs would
be significantly reduced when U.S tariffs on garments and shoes made in
Vietnam could go from 7 percent and 32 percent respectively to zero. In
return, the TPP would allow Vietnam’s garment producers to gain preferential
access to the U.S textile market, which accounts for a quarter of a million
American jobs. In a time of growing economic interdependence, the United
States can utilize its economic power through the TPP to build up its
legitimacy and challenge China’s regional leadership in the Asia-Pacific due
to its exclusion from the trade pact.
|
Việc nhập khẩu ngày càng gia tăng nguyên liệu dệt may từ
Mỹ vào Việt Nam sẽ làm cho ngành công nghiệp may mặc trong nước ít phụ thuộc
vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Điều đó rất quan trọng vì sự phụ thuộc quá nặng
nề về kinh tế của Việt Nam vào Trung Quốc có thể bị Bắc Kinh dùng làm đòn bẩy
chính trị đối với Hà Nội. Ngoài ra, TPP sẽ tạo điều kiện cho những công ty giày
dép đa quốc gia của Mỹ, như Nike, tìm nguồn gia công của họ ở Việt Nam, chi
phí sản xuất sẽ giảm đáng kể vì lúc đó thuế nhập khẩu hàng dệt may và giày
dép sản xuất tại Việt Nam vào Mỹ có thể giảm 7% đối với hàng dệt may và 32%
đối với giày dép. Đổi lại, TPP sẽ tạo điều kiện cho các nhà sản xuất hàng dệt
may của Việt Nam hưởng ưu đãi khi tiếp cận thị trường dệt may Mỹ, ở Mỹ có tới
250 ngàn người làm việc trong ngành này. Khi sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế
gia tăng, Hoa Kỳ có thể tận dụng sức mạnh kinh tế của mình, thông qua TPP, để
xây dựng tính chính danh của mình và thách thức quyền lãnh đạo của Trung Quốc
trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương vì nước này không được tham gia hiệp
định TTP.
|
With respect to security, China’s increasing military
modernization poses a threat to both countries’ national security, especially
Vietnam due to her geographical proximity to China. The United States and
Vietnam share similar interests in hedging against China’s coercive
resolutions to the South China Sea disputes. Despite the United States’
neutrality on the territorial disputes, it views China’s ownership claims as
a big threat toward the freedom of navigation and international trade-flows
in Asia-Pacific waters. On the other hand, the CPV has espoused soft
balancing strategies through indirect means by increasing American regional
engagement. Unsurprisingly, China’s dispatch of a massive oil rig to
Vietnam’s claimed exclusive economic zone (EEZ) in 2014 has pushed Vietnam
much closer to the United States. Hanoi sees Washington as the country it can
rely on to build up its defense capabilities if the Russians bail out.
|
Nói về an ninh, quá trình hiện đại hóa quân sự đang gia
tăng của Trung Quốc đe dọa an ninh của cả hai nước, đặc biệt là Việt Nam vì ở
gần Trung Quốc. Hoa Kỳ và Việt Nam có lợi ích giống nhau trong việc chống lại
những biện pháp giải quyết mang tính bạo lực của Trung Quốc đối với những
tranh chấp ở Biển Đông. Mặc dù Hoa Kỳ giữ vị trí trung lập trong các tranh
chấp lãnh thổ, nhưng nước này coi những tuyên bố về quyền sở hữu của Trung
Quốc như mối đe dọa lớn đối với tự do hàng hải và thương mại quốc tế ở vùng
biển châu Á-Thái Bình Dương. Mặt khác, Đảng cộng sản Việt Nam tán thành chiến
lược cân bằng mềm, thông qua những biện phương tiện gián tiếp là gia tăng sự
dính líu của của Mỹ vào khu vực. Chẳng có gì
ngạc nhiên là việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu khổng lồ (trong năm
2014) đến vùng mà Việt Nam tuyên bố là có đặc quyền kinh tế đã đẩy Việt Nam
xích lại gần hơn với Hoa Kỳ. Hà Nội cho rằng có thể dựa vào Washington để xây
dựng tiềm lực quốc phòng của mình, nếu người Nga bảo trợ.
|
Any comprehensive analysis of the current dynamics of
U.S-Vietnam defense ties would be incomplete without mentioning the Joint
Vision Statement which Defense Secretary Aston Carter and his Vietnamese
counterpart Phung Quang Thanh inked in May. The non-binding statement is an
extension of the Memorandum of Understanding for Advancing Bilateral Defense
Cooperation, signed by the two parties back in 2011. Following Washington’s
decision to partially remove its restrictions on sales of lethal weapons to
Vietnam in October 2013, the statement aims to expand “the defense trade”
between the two nations and set up the stage for introducing a bill further
lowering the bar on arm sales. It also includes the option of
co-manufacturing of military equipment and the “navigation of complex U.S
procurement rules.” This is a win-win for both sides. From the perspective of
the CPV, the statement could tremendously reduce Vietnam’s dependence on
Russian military suppliers for its defense needs. From the Washington’s
perspective, this can provide the U.S defense industry with greater access to
an emerging Asian market while diminishing Russia’s global military influence.
|
Phân tích về quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ sẽ không đầy đủ
nếu không nhắc đến bản Tuyên bố chung về Tầm nhìn mà Bộ trưởng Quốc phòng
Aston Carter và đối tác Việt Nam của ông, tướng Phùng Quang Thanh, ký vào
tháng 5 vừa qua. Bản tuyên bố không ràng buộc này là một phần mở rộng của Bị
vong lục về hợp tác quốc phòng song phương, được hai bên ký kết vào năm 2011.
Tiếp theo quyết định của Washington trong việc rỡ bỏ một phần những hạn chế
trong việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam vào tháng 10 năm 2013, mục đích
của tuyên bố này là tăng cường “thương mại quốc phòng” giữa hai nước và tiến
đến thông qua dự luật hạ thấp hơn nữa những rào cản trong việc buôn bán vũ
khí. Trong đó có hợp tác sản xuất các thiết bị quân sự và “chuyển hướng những
quy định về mua sắm phức tạp của Mỹ”. Đây là tình huống mà hai bên cùng
thắng. Từ quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, tuyên bố này có thể làm giảm
sự phụ thuộc của Việt Nam vào các nhà cung cấp vũ khí của Nga. Từ quan điểm
của Washington, tuyên bố này có thể làm cho ngành công nghiệp quốc phòng của
Mỹ dễ tiếp cận hơn với thị trường mới nổi ở châu Á, đồng thời lại làm giảm
bớt ảnh hưởng quân sự trên toàn cầu của Nga.
|
“Not antagonizing China” is an important component of the
rebalancing strategy, if not the immutable bedrock of gradual
institutionalization of U.S-Vietnam security and trade cooperation. The
United States and Vietnam are willing to increase personnel exchanges,
develop economic and trade relations, conduct joint military programs, and
raise criticisms against China’s revisionism to the extent that these
measures do not jeopardize their relationships with Beijing. For this reason,
the Vietnamese government announced its adherence to the “Three No”
principles in national defense and diplomacy, including no military
alliances, no alliances with any country in conflict with another and no
acceptance for foreign countries’ building of military bases on Vietnam’s
territory. On the other hand, the United States does not wish the deepening
of U.S-Vietnam military ties to come at the expense of declining Sino-U.S.
trade relations.
|
“Không làm mếch lòng Trung Quốc” là thành tố quan trọng
của chiến lược tái cân bằng, nếu không nói là nền tảng bất biến của quá trình
thiết chế hóa một cách từ từ việc hợp tác về an ninh và thương mại Việt-Mỹ.
Hoa Kỳ và Việt Nam sẵn sàng tăng cường trao đổi nhân sự, phát triển quan hệ
kinh tế và thương mại, thực hiện các chương trình quân sự chung và gia tăng
những lời chỉ trích chống lại chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc với mức độ mà
những biện pháp này không ảnh hưởng tới quan hệ của họ với Bắc Kinh. Vì lý do
đó, chính phủ Việt Nam tuyên bố gắn kết với nguyên tắc “Ba Không” trong quốc
phòng và ngoại giao, trong đó có không liên minh quân sự, không liên minh với
quốc gia này nhằm chống lại quốc gia kia và không để nước ngoài xây dựng căn
cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt
khác, Hoa Kỳ không muốn làm sâu sắc thêm quan hệ quân sự Việt-Mỹ tới mức có
thể làm suy giảm quan hệ thương mại Mỹ-Trung.
|
Human rights issues still remain the biggest impediment to
the U.S-Vietnam relations in the coming years. Yet, successful
nation-building stories in Asia have demonstrated that marketization usually
predates political reforms in development of states. After all, Vietnam is
still at an early stage in its developmental process. From the Vietnamese
government’s point of view, human rights is still a foreign concept. Any
major breakthrough by Hanoi when it comes to internalizing international
human rights norms into domestic practices depends on the speed at which
these values become congruent with preexisting political and societal
institutions in Vietnam. The good news is that recent years have seen major
improvements in economic and social rights thanks to Vietnam’s rapid
socioeconomic development after economic reform. From Washington’s
standpoint, there is plenty of room for improvement in human rights
conditions, and the country will rely on its young generation to take up the
challenge, as U.S Senator McCain said during his speech at Ho Chi Minh
University of Social Sciences and Humanities.
|
Trong những năm tới, vấn đề nhân quyền vẫn là trở ngại lớn
nhất đối với quan hệ Việt-Mỹ. Tuy nhiên, những câu chuyện về việc xây dựng
quốc gia thành công ở châu Á đã chứng tỏ rằng trong quá trình phát triển quốc
gia, thị trường hóa thường đi trước cải cách chính trị. Nói cho cùng, Việt
Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu trong quá trình phát triển của mình. Chính phủ
Việt Nam cho rằng nhân quyền vẫn là khái niệm ngoại lai. Nói về việc nội hóa
các chuẩn mực nhân quyền quốc tế vào thực tiễn trong nước, những bước đột phá
lớn của Hà Nội sẽ phụ thuộc vào tốc độ mà những giá trị này đồng nhất với các
thiết chế chính trị và xã hội đã có ở Việt Nam. Tin tốt là những năm gần đây
đã có những cải tiến lớn trong các quyền kinh tế và xã hội, đấy là kết quả
của sự phát triển nhanh chóng kinh tế-xã hội của Việt Nam sau khi tiến hành
cải cách kinh tế. Từ quan điểm của Washington, có rất nhiều không gian trong
việc cải thiện nhân quyền và đất nước sẽ dựa vào thế hệ trẻ của mình để giải
quyết thách thức, như Thượng nghị sĩ McCain nói trong bài phát biểu của mình
ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ở thành phố Hồ Chí Minh.
|
The U.S and Vietnamese governments admit the inevitability
of their ideological and political differences. However, the general
consensus is that further collaborative efforts – particularly in the economic
realm – are essential for further narrowing the chasms between the former
foes and completing the transformation that is already underway in
U.S.-Vietnam relations.
|
Chính phủ Mỹ và chính phủ Việt Nam thừa nhận rằng chắc
chắn là họ có những khác biệt về tư tưởng và chính trị. Tuy nhiên, sự đồng
thuận chung là nỗ lực hợp tác hơn nữa – đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế –
là tối cần thiết cho việc thu hẹp hơn nữa vực thẳm giữa hai cựu thù và hoàn
thành công việc chuyển đổi đang diễn ra trong quan hệ Việt-Mỹ.
|
Cuong T. Nguyen is a
graduate from the Committee on International Relations (CIR) at the
University of Chicago, and currently a research fellow of Saigon Center for
International Studies (SCIS) at the University of Social Sciences and
Humanities in Ho Chi Minh City.
|
Cuong T. Nguyen tốt
nghiệp chương trình Committee on International Relations (CIR) ở University
of Chicago và hiện là nghiên cứu viên ở Saigon Center for International
Studies (SCIS) trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ở thành phố Hồ Chí
Minh.
|
|
|
|
Translated
by Phạm Nguyên Trường
|
|
|
http://thediplomat.com/2015/07/the-dramatic-transformation-in-us-vietnam-relations/
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn