|
MIND THE GAP
|
CÁCH BIỆT VĂN HÓA
|
By Jay Ogilvy
|
Jay Ogilvy
|
Global Affairs JANUARY 28, 2015
|
Global Affairs, 28/1/2015
|
|
|
The Charlie Hebdo attack and its aftermath in the streets and in the
press tempt one to dust off Samuel Huntington's 1996 book, The Clash of
Civilizations and the Remaking of World Order. Despite the criticisms he
provoked with that book and his earlier 1993 article in Foreign Affairs,
recent events would seem to be proving him prescient.
Or was he?
|
Cuộc tấn công vào tờ báo trào phúng Charlie Hebdo ở Pháp và hậu quả của
nó trên các đường phố cũng như trên các cơ quan truyền thông đã làm cho người
ta có ý muốn phủi bụi để xem lại cuốn sách xuất bản năm 1996 của Samuel
Huntington “Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh và Tái Xây Trật Tự Thế Giới”. Mặc
dù ông đã gây ra những chỉ trích do từ cuốn sách này cũng như những bài báo
ông viết trước đó vào năm 1993 trong tạp chí Foreign Affairs, các sự kiện gần
đây có vẻ như chứng minh lời tiên tri của ông.
Có phải vậy không?
|
While I am not about to deny the
importance of religion and culture as drivers of geopolitical dynamics, I
will argue that, more important than the clashes among the great
civilizations, there is a clash within each of the great civilizations. This
is the clash between those who have "made it" (in a sense yet to be
defined) and those who have been "left behind" — a phrase that is
rich with ironic resonance.
|
Trong khi tôi không có ý phủ nhận
tầm quan trọng của tôn giáo và văn hóa như là những lực đẩy của động tính địa
chính trị, tôi sẽ cho rằng, cái điều quan trọng hơn, so với sự đụng độ giữa
các nền văn minh lớn, là sự đụng độ ở bên trong của mỗi nền văn minh lớn. Đây
là sự đụng độ giữa những người “tiến nên” (trong cái ý nghĩa vẫn còn chưa định
rõ) và những người bị “bỏ lại phía sau” một mệnh đề giàu âm hưởng trái ngang.
|
Before I make my argument, I warn
that the point I'm trying to make is fairly subtle. So, in the interest of
clarity, let me lay out what I'm not saying before I make that point. I am
not saying that Islam as a whole is somehow retrograde. I am not agreeing
with author Sam Harris' October 2014 remark on "Real Time with Bill
Maher" that "Islam is the mother lode of bad ideas." Nor am I
saying that all religions are somehow equal, or that culture is unimportant.
The essays in the book Culture Matters, which Huntington helped edit, argue
that different cultures have different comparative advantages when it comes to
economic competitiveness. These essays build on the foundation laid down by
Max Weber's 1905 work, The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism. It
is only the "sulfuric odor of race," as Harvard historian David
Landes writes on the first page of the first essay in Culture Matters, that
has kept scholars from exploring the under-researched linkages between
culture and economic performance.
|
Trước khi tôi lập luận, tôi muốn
báo truớc rằng luận điểm mà tôi muốn trình bày thì tương đối hơi khó hiểu. Vì
vậy, để giúp cho sự rõ ràng, tôi muốn nêu ra những gì tôi không nói, trước
khi tôi trình bày quan điểm của tôi. Tôi không cho rằng đạo Hồi như một tổng
thể thì có vẻ như là thoái hóa. Tôi không đồng ý với quan điểm của tác giả
Sam Harris hôm tháng Muời 2014, trong “Tương Tác với Bill Maher” (Real Time
with Bill Maher), rằng “Hồi giáo là nguồn cơn của những ý tưởng xấu.” Tôi
cũng không nói rằng tất cả các tôn giáo, một cách nào đó đều bình đẳng, hay
văn hóa không quan trọng. Các bài viết trong quyển sách “Chính Là Văn Hoá”
(Culture Matters), mà Huntington giúp chỉnh sửa, cho rằng các nền văn hóa
khác nhau có lợi thế riêng khác nhau, khi đi vào cạnh tranh kinh tế. Những
bài tiểu luận này được xây dựng trên nền tảng của Max Weber đặt ra trong công
trình nghiên cứu năm 1905 “Nền Luân Lý Tin Lành và Tinh Thần Của Chủ Nghĩa Tư
Bản” (The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism). Nó chỉ là “mùi hôi
lưu huỳnh của chủng tộc”, như sử gia David Landes của Harvard viết lời tựa
cho bài tiểu luận đầu tiên trong cuốn “Chính Là Văn Hoá”, nó làm cho các học
giả giữ khoảng cách với các mối quan hệ chưa được nghiên cứu đủ sâu giữa văn
hóa và hoạt động kinh tế.
|
Making It in the Modern World
The issue of the comparative
advantages or disadvantages of different cultures is complicated and getting
more so because with modernity and globalization, our lives are getting more
complicated. We are all in each other's faces today in a way that was simply
not the case in earlier centuries. Whether through travel or
telecommunications or increasingly ubiquitous and inexpensive media, each and
every one of us is more aware of the cultural other than in times past. This
is obvious. What is not so obvious are the social and psychological
consequences of the inevitable comparisons this awareness invites us to make:
How are we measuring up, as individuals and as civilizations?
|
Thành công trong thế giới hiện đại
Về vấn đề những lợi thế riêng hay
những nhược điểm của các nền văn hóa khác nhau thì rất phức tạp và càng ngày
càng phức tạp hơn bởi vì với sự hiện đại và sự toàn cầu hóa, cuộc sống của
chúng ta đang trở nên phức tạp hơn. Tất cả chúng ta ngày nay có thể gặp mặt với
nhau, điều mà những thế kỷ trước không thể có được. Dù là qua ngã du lịch hay
viễn thông hay các phương tiện truyền thông ngày càng phổ biến và rẻ tiền, mỗi
một người trong chúng ta đều có ý thức văn hóa hơn so với các thời kỳ của quá
khứ. Điều này thì hiển nhiên. Những gì không hiển nhiên là những hệ quả xã hội
và tâm lý của những sự so sánh không thể tránh khỏi của nhận thức này mời gọi
chúng ta: Làm sao chúng ta đo đếm được, như những cá nhân cũng như những nền
văn minh?
|
In the modern world, the
development of the individual human, which is tied in part to culture, has
become more and more important. If you think of a single human life as a kind
of footrace — as if the developmental path from infancy to maturity were
spanning a certain distance — then progress over the last several millennia
has moved out the goal posts of maturity. It simply takes longer to learn the
skills it takes to "make it" as an adult. Surely there were skills
our Stone Age ancestors had to acquire that we moderns lack, but they did not
have to file income taxes or shop for insurance. Postmodern thinkers have
critiqued the idea of progress and perhaps we do need a concept that is
forgivingly pluralistic. Still, there have been indisputable improvements in
many basic measures of human progress. This is borne out by improved
demographic statistics such as birth weight, height and longevity, as well as
declining poverty and illiteracy. To put it very simply, we humans have come
a long way.
|
Trong thế giới hiện đại, sự phát
triển của cá nhân con người, mà một phần gắn liền với văn hóa, ngày càng trở
nên quan trọng hơn. Nếu ta nghĩ cuộc sống của một con người như là một cuộc
thi đua chạy bộ – tựa như như sự phát triển từ trẻ thơ đến truởng thành là một
khoảng cách nhất định – thì sự phát triển qua nhiều ngàn năm qua đã di chuyển
những trụ cây số của sự trưởng thành ra xa hơn. Nói đơn giản là phải mất nhiều
thời gian hơn để học hỏi những kỹ năng để “thành công” như một người lớn. Chắc
chắn là có những kỹ năng mà tổ tiên ta trong Thời Kỳ Đồ Đá có được mà chúng
ta ngày nay không có, nhưng họ không phải khai thuế lợi tức hay tìm mua bảo
hiểm. Những nhà tư tưởng hậu hiện đại đã chỉ trích cái ý tưởng về tiến bộ, và
có lẽ chúng ta nên cần có một khái niệm khoan dung đa nguyên. Tuy nhiên, đã
có những cải tiến không thể chối cãi trong nhiều cách đo căn bản về sự tiến bộ
của con người. Điều này có được từ sự cải thiện các thống kê về nhân khẩu học
như trọng luợng khi sinh ra, chiều cao và tuổi thọ, cũng như sự giảm nghèo và
mù chữ. Để nói cho đơn giản hơn, như là con người, chúng ta đã đi một chặng
đường dài.
|
But these historic achievements
have come at a price. It is not simple for individuals to master this
elaborate structure we call modern civilization with its buildings and
institutions and culture and history and science and law. A child can't do
it. Babies born into this world are biologically very similar to babies born
10,000 years ago; biological evolution is simply too slow and cannot equip us
to manage this structure. And childhood has gotten ever longer.
"Neoteny" is the technical term for the prolongation of the period
during which an offspring remains dependent on its parent. In some species,
such as fish or spiders, newborns can fend for themselves immediately. In
other species — ducks, deer, dogs and cats — the young remain dependent on
their mothers for a period of weeks. In humans, the period of dependency
extends for years. And as the generations and centuries pass, especially
recently, that period of dependency keeps getting longer.
|
Nhưng những thành tựu lịch sử này
phải trả bằng một cái giá. Nó thật không dễ cho những cá nhân để am tuờng các
cấu trúc phức tạp này mà chúng ta gọi là nền văn minh hiện đại với các cơ sở
và các định chế, văn hóa, lịch sử, khoa học và pháp luật. Một đứa trẻ không
thể làm được việc này. Một em bé sinh ra trong thế giới ngày hôm nay, về sinh
học rất giống với một em bé sinh ra cách đây 10.000 năm trước; sự tiến hóa
sinh học đơn giản là quá chậm và không thể trang bị cho chúng ta để quản lý nỗi
cái cấu trúc này. Và giai đoạn thơ ấu càng ngày càng dài ra. “Chưa dứt sửa” là
thuật ngữ sinh học để diễn tả việc kéo dài thời gian mà con cái vẫn còn phụ
thuộc vào cha mẹ. Ở một số sinh vật, như cá hay nhện, các con mới sinh có thể
tự lo cho nó ngay lập tức. Trong các sinh vật khác – như vịt, hươu, chó và
mèo – những con mới sinh lệ thuộc vào mẹ của chúng chỉ trong vài tuần. Ở con
người, thời kỳ lệ thuộc kéo dài trong nhiều năm. Và khi những thế hệ và những
thế kỷ trôi qua, đặc biệt là gần đây, giai đoạn lệ thuộc tiếp tục kéo dài ra
hơn.
|
As French historian Philippe Aries
informed us in Centuries of Childhood, "in medieval society, the idea of
childhood did not exist." Prior to modernity, young people were adults
in miniature, trying to fit in wherever they could. But then childhood got
invented. Child labor laws kept children out of the factories and truancy
laws kept them in public schools. For a recent example of the statutory
extension of childhood known as neoteny, consider U.S. President Barack
Obama's announcement that he intends to make community college available for
free to any high school graduate, thus extending studenthood by two years.
|
Như sử gia Pháp Philippe Aries cho
chúng ta biết trong “Những Thế Kỷ Của Tuổi Thơ”, “trong xã hội thời Trung cổ,
ý tưởng về thời thơ ấu không hiện hữu.” Trước hiện đại, những người trẻ là những
người lớn trong cái khung nhỏ, cố gắng để thích hợp với bất cứ nơi nào mà
chúng có thể. Nhưng rồi tuổi thơ đã được tạo tác ra. Luật lao động trẻ em giữ
chúng bên ngoài các hãng xuởng, và luật về trốn học giữ chúng bên trong các
trường công lập. Dẫn một ví dụ gần đây về việc luật cho gia hạn thời thơ ấu,
còn được gọi là chưa dứt sửa, đó là tuyên bố của Tổng thống Mỹ Barack Obama rằng
ông dự định sẽ cho đại học cộng đồng dạy miễn phí bất kỳ ai tốt nghiệp trung
học, do đó kéo dài tuổi học trò thêm hai năm.
|
The care and feeding and training
of your average human cub have become far greater than the single season that
bear cubs require. And it seems to be getting ever longer as more
20-somethings and even 30-somethings find it cheaper to live with mom and
dad, whether or not they are enrolled in school or college. The curriculum
required to flourish as an adult seems to be getting ever longer, the goal
posts of meaningful maturity ever further away from the "starting
line," which has not moved. Our biology has not changed at anywhere near
the rate of our history. And this growing gap between infancy and modern
maturity is true for every civilization, not just Islamic civilization.
|
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng và đào tạo
một đứa bé trung bình của chúng ta đã trở nên lớn hơn nhiều, so với chỉ một
mùa của những con gấu con. Và nó có vẻ như càng tiếp tục kéo dài ra khi ngày
càng nhiều những đứa con hơn 20 và thậm chí hơn 30 tuổi thấy rẻ hơn để sống với
cha mẹ, cho dù có hay không có ghi danh đi học trung học hay đại học. Các
chương trình đào tạo cần thiết để phát triển như một người lớn dường như lâu
dài hơn, những trụ cây số cho sự trưởng thành đúng nghĩa cứ dời xa ra từ “điểm
bắt đầu” trong khi điểm bắt đầu này không thay đổi. Cơ thể sinh học của chúng
ta đã không khi nào thay đổi kịp để bắt gần với mức thay đổi của lịch sử. Và
khoảng cách tiếp tục lớn này giữa thời kỳ thơ ấu và thời kỳ trưởng thành của
ngày hôm nay nó xảy ra cho mọi nền văn minh, chứ không chỉ cho văn minh Hồi
giáo.
|
The picture gets complicated,
though, because the vexed history of the relationships among the world's
great civilizations leaves little doubt about different levels of development
along any number of different scales of achievement. Christian democracies
have outperformed the economies and cultures of the rest of the world. Is
this an accident? Or is there something in the cultural software of the West
that renders it better able to serve the needs of its people than does the
cultural software called Islam?
|
Bức tranh bây giờ dĩ nhiên trở nên
phức tạp, vì lịch sử đau thương của các mối quan hệ giữa những nền văn minh lớn
trên thế giới, rõ ràng để lại những tầng lớp khác nhau của sự phát triển,
cùng với những mức độ khác nhau của sự thành công. Các nền dân chủ Kitô giáo
đã vượt trội về kinh tế và văn hóa so với phần còn lại của thế giới. Đây có
phải là một tai nạn? Hay là vì có một cái gì đó trong phần mềm của văn hóa
phương Tây làm cho nó có khả năng tốt hơn trong việc phục vụ các nhu cầu của
người dân so với các phần mềm của văn hóa được gọi là Hồi giáo?
|
Those Left Behind
Clearly there is a feeling among
many in the Islamic world that they, as a civilization, have been "left
behind" by history. Consider this passage from Snow, the novel by Nobel
Prize-winning Turkish author Orhan Pamuk:
|
Những Người Bị Bỏ Phía Sau
Rõ ràng có một cảm giác trong số rất
nhiều nguời trong thế giới Hồi giáo rằng họ, như một nền văn minh, đã bị “bỏ
lại phía sau” của lịch sử. Hãy xem đoạn văn sau đây trong tác phẩm “Tuyết”,
cuốn tiểu thuyết của tác giả Orhan Pamuk đoạt giải Nobel của Thổ Nhĩ Kỳ:
|
"We're poor and
insignificant," said Fazul, with a strange fury in his voice. "Our
wretched lives have no place in human history. One day all of us living now
in Kars will be dead and gone. No one will remember us; no one will care what
happened to us. We'll spend the rest of our days arguing about what sort of
scarf women should wrap around their heads, and no one will care in the
slightest because we're eaten up by our own petty, idiotic quarrels. When I
see so many people around me leading such stupid lives and then vanishing
without a trace, an anger runs through me…"
|
“Chúng tôi nghèo và không đáng kể’,
Fazul nói, với sự tức giận lạ thuờng trong giọng nói của ông. ‘Các cuộc đời tồi
tệ của chúng tôi không có chỗ đứng trong lịch sử loài người. Một ngày nào đó
tất cả chúng tôi hiện nay đang sống ở Kars sẽ chết và biến mất. Không ai sẽ
nhớ đến chúng tôi; không ai sẽ quan tâm đến những chuyện gì đã xảy ra cho
chúng tôi. Chúng tôi sẽ dành cả ngày để tranh cãi loại khăn gì cho phụ nữ quấn
quanh đầu của họ, và không có ai thèm để ý một chút nào, bởi vì chúng tôi bị
nuốt bởi những gấu ó vụn vặt riêng và ngu ngốc của chúng tôi. Khi tôi thấy rất
nhiều người xung quanh tôi sống một cuộc đời ngu ngốc như vậy và sau đó biến
mất không một dấu vết, thì một cơn giận dâng trào trong tôi…”
|
Earlier I mentioned the ironic
resonance of this phrase, "left behind." I think of two other
recent uses: first, the education reform legislation in the United States known
as the No Child Left Behind Act; the second, the best-selling series of 13
novels by Tim LaHaye and Jerry Jenkins in which true believers are taken up
by the Rapture while the sinners are "left behind." In both of
these uses, it is clearly a bad thing to be left behind.
|
Lúc đầu, tôi có đề cập đến một mệnh
đề giàu âm huởng trái ngang về những người bị “bỏ lại phía sau”. Tôi nghĩ đến
hai ứng dụng khác gần đây: thứ nhất, đạo luật cải tổ giáo dục ở Hoa Kỳ được gọi
là “Không Em Bé Nào Bị Bỏ Rơi; thứ hai, loạt 13 tiểu thuyết bán chạy nhất của
Tim LaHaye và Jerry Jenkins mà trong đó những người được cứu rỗi (Rapture) là
những nguời có đức tin thực sự, trong khi những người tội lỗi là những nguời
bị “bỏ lại phía sau.” Trong cả hai truờng hợp áp dụng, rõ ràng là cái xấu bị
bỏ lại phía sau.
|
This growing divide between those
who have made it and those who are being left behind is happening globally,
in each of the great civilizations, not just Islam. To quote my fellow
Stratfor columnist, Ian Morris, from just last week:
|
Sự chia cách ngày càng tăng này giữa
những người thành công và những người bị bỏ lại phía sau đang xảy ra trên
toàn cầu, trong mỗi nền văn minh lớn, chứ không phải chỉ có đạo Hồi. Để trích
lời Ian Morris, một nhà bình luận đồng nghiệp của tôi trong viện Stratfor, mới
trong tuần qua:
|
Culture is something we can change
in response to circumstances rather than waiting, as other animals must, for
our genes to evolve under the pressures of natural selection. As a result,
though we are still basically the same animals that we were when we invented
agriculture at the end of the ice age, our societies have evolved faster and
faster and will continue to do so at an ever-increasing rate in the 21st
century.
|
“Văn hóa là cái gì mà chúng ta có
thể thay đổi để thích ứng với hoàn cảnh thay vì chờ đợi, như các sinh vật
khác đã phải làm, bởi vì các genes của chúng ta tiến hoá dưới những áp lực của
sự chọn lọc tự nhiên. Nó đưa đến hậu quả là, mặc dù chúng ta cơ bản vẫn là
sinh vật tương tự như khi chúng ta phát minh ra nông nghiệp vào cuối thời kỳ
băng hà, các hoạt cảnh xã hội của chúng ta đã phát triển càng ngày càng nhanh
hơn và sẽ tiếp tục như vậy với tốc độ ngày càng gia tăng trong thế kỷ 21″.
|
And because the fundamental
dynamics of this divide are rooted in the mismatch between the pace of change
of biological evolution on the one hand (very slow) and historical or
technological change on the other (ever faster), it is hard to see how this
gap can be closed. We don't want to stop progress, and yet the more progress
we make, the further out the goal posts of modern maturity recede and the
more significant culture becomes.
|
Và bởi vì các động tính nền tảng của
sự chia cách này bắt nguồn từ sự so le giữa tốc độ thay đổi của tiến hóa sinh
học trên một bình diện (rất chậm) và thay đổi lịch sử hay công nghệ trên một
bình diện khác (quá nhanh), rất khó để làm thế nào cho khoảng cách này có thể
được đóng lại. Chúng ta không muốn dừng sự tiến bộ, và nếu thế thì chúng ta
càng làm cho có sự tiến bộ hơn, thì những trụ cây số của tuổi truởng thành
hôm nay sẽ bị dời ra xa hơn, và văn hoá trở nên trọng đại hơn.
|
There is a link between the
"left behind" phenomenon and the rise of the ultra-right in Europe.
As the number of unemployed, disaffected, hopeless youth grows, so also does
the appeal of extremist rhetoric — to both sides. On the Muslim side, more
talk from the Islamic State about slaying the infidels. On the ultra-right,
more talk about Islamic extremists. Like a crowded restaurant, the louder the
voices get, the louder the voices get.
|
Có một mối liên hệ giữa hiện tượng
“bỏ lại phía sau” và sự trổi dậy của cực hữu ở châu Âu. Khi số lượng những
người trẻ thất nghiệp, bất mãn, tuyệt vọng gia tăng, thì sức hấp dẫn của những
lời dụ hoặc cực đoan cũng tăng theo –
cho cả hai bên. Về phía người Hồi giáo, có sự lớn tiếng hơn của Nhà Nuớc Hồi
Giáo về giết những kẻ ngoại đạo. Bên phía cực hữu, họ to tiếng hơn về những kẻ
Hồi Giáo cực đoan. Giống như trong một nhà hàng đông đúc, càng ồn ào những tiếng
nói, thì những tiếng nói càng to hơn.
|
I use this expression, those who
have "made it," because the gap in question is not simply between
the rich and the poor. Accomplished intellectuals such as Pamuk feel it as
well. The writer Pankaj Mishra, born in Uttar Pradesh, India, in 1969, is
another rising star from the East who writes about the dilemma of Asian
intellectuals, the Hobson's choice they face between recoiling into the
embrace of their ancient cultures or adopting Western ways precisely to gain
the strength to resist the West. This is their paradox: Either accept the
Trojan horse of Western culture to master its "secrets" —
technology, organization, bureaucracy and the power that accrues to a
nation-state — or accept the role of underpaid extras in a movie, a very
partial "universal" history, that stars the West. In my next
column, I'll explore more of Mishra's insights from several of his books.
|
Tôi dùng từ ngữ những người “vượt
lên” này, bởi vì cái khoảng cách trong câu hỏi được đặt ra, không chỉ đơn giản
là giữa người giàu và người nghèo. Những nhà học giả thành đạt như Pamuk (nói
trên) cũng cảm nhận ra nó. Nhà văn Pankaj Mishra, sinh ra ở Uttar Pradesh, Ấn
Độ, năm 1969, là một ngôi sao đang lên của Đông Phương, ông viết về thế luỡng
nan của các nhà trí thức châu Á, sự lựa chọn Hobson (chỉ có một, cho nên lấy
hoặc không) mà họ phải đối mặt giữa việc rút vào trong vòng tay của các nền
văn hóa cổ xưa của họ hoặc nhận lấy các phuơng cách của phương Tây, chính yếu
là vì muốn có sức mạnh để chống lại phương Tây. Đây là nghịch lý của họ: Hoặc
là chấp nhận con ngựa gỗ gài vào thành Troy của văn hóa phương Tây để am tuờng
những “bí mật” của nó – công nghệ, tổ chức, bộ máy hành chánh và sức mạnh để
hình thành một quốc gia – hoặc chấp nhận vai trò đám đông làm cảnh giá rẽ
trong một bộ phim, một lịch sử rất phụ và “phổ thông” giúp phương Tây làm
siêu sao chói lọi. Trong bài sau của tôi, tôi sẽ khảo sát nhiều hơn về những
kiến thức sâu sắc của Mishra trong các cuốn sách của ông.
|
|
Translated by Lê Minh Nguyên
|
https://www.stratfor.com/weekly/mind-gap#axzz3Py6b0Mnu
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn