|
How China Sees the
South China Sea
|
Biển Đông dưới con
mắt của Trung Quốc
|
By James R. Holmes
The Diplomat
September 9, 2013
|
James R. Holmes
The Diplomat
9.9.2013
|
Last week a friend asked me to revisit a historical
analogy broached in those thrilling days of yesteryear when I wrote for
Flashpoints. Good idea. There is more to say about the comparison, which
sheds light on why China plays well with others in the Indian Ocean but not
the China seas.
|
Tuần trước, một người bạn đề nghị tôi lật lại một trường
hợp tương đồng trong lịch sử, từng được đưa ra thảo luận trong những ngày đầy
phấn khích năm ngoái, khi tôi viết cho Flashpoints. Một ý tưởng tuyệt vời! Ở
đây còn có nhiều điều để nói thêm về sự so sánh đó, sự so sánh giúp lý giải
tại sao Trung Quốc hợp tác tốt với các nước khác ở Ấn Độ Dương trong khi lại
gây xung đột trên Biển Hoa Đông và Biển Đông.
|
The analogy is the doctrine of "no peace beyond the line"
practiced in late Renaissance Europe. To recap: in a nifty bit of collective
doublethink, European rulers struck up a compact whereby nations could remain
at peace in Europe, avoiding the hardships of direct conflict, while
assailing each other mercilessly beyond a mythical boundary separating Europe
from the Americas. In practice this meant they raided each other's shipping
and outposts in the greater Caribbean Sea and its Atlantic approaches.
|
Sự tương đồng ấy chính là phương châm “phi hoà bình ngoài
giới tuyến” từng được thực hành ở Châu Âu thời Phục hưng. Xin đúc kết lại ở
đây: trong một khoảnh khắc loé sáng của thứ tư duy mâu thuẫn tập thể, các nhà
cai trị ở Châu Âu đã khởi xướng một thoả thuận, theo đó các nước có thể tiếp
tục chung sống hoà bình ở Châu Âu, tránh những gian truân của xung đột trực
tiếp, trong khi vẫn tấn công nhau không nương tay bên ngoài giới tuyến tưởng
tượng chia tách Châu Âu khỏi Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Trong thực tế, điều này có
nghĩa là họ đánh úp tàu thuyền vận tải và đồn bốt của nhau trên vùng thượng
biển Caribe (greater Caribbean Sea) cùng những lối vào vùng biển này từ Đại
Tây Dương.
|
It feels as though an inverse dynamic is at work in the
Indo-Pacific theater. Naval powers cooperate westward of the line traced by
the Malay Peninsula, Strait of Malacca, and Indonesian archipelago.
Suspicions pockmarked by occasional confrontation predominate east of the
South China Sea rim, a physical — rather than imaginary — line dividing over
there from home ground.
|
Người ta có cảm giác như thể một lực lượng đối nghịch đang
hoạt động trên đấu trường Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Các cường quốc hải quân
hợp tác về hướng Tây của đường giới tuyến mà bán đảo Mã Lai, eo biển Malacca
và quần đảo Indonesia vạch ra. Những cuộc đối đầu thi thoảng khiến sự ngờ vực
nổi lên đây đó và hiện tượng này chi phối phía Đông của vành đai Biển Đông,
một giới tuyến cụ thể – thay vì tưởng tượng – chia cách khu vực này khỏi sân
chơi quen thuộc trên Ấn Độ Dương.
|
A non-Renaissance European, Clausewitz, helps explain why
seafaring powers can police the Gulf of Aden in harmony while feuding over
the law of the sea in the East China Sea and South China Sea. It's because
the mission is apolitical. Counterpiracy is the overriding priority for the
nations that have dispatched vessels to the waters off Somalia. Few if any of
them have cross-cutting interests or motives that might disrupt the
enterprise. It's easy to work together when the partners bring little baggage
to the venture.
|
Clausewitz, một người Châu Âu không thuộc thời kỳ Phục
hưng, giúp lý giải tại sao các cường quốc biển có thể kiểm soát vịnh Aden một
cách hài hoà trong khi lại tranh cãi về luật biển trên Biển Hoa Đông và Biển
Đông. Đó là vì sứ mạng ở đây không liên quan gì đến chính trị. Chống cướp
biển là ưu tiên hàng đầu của những nước vẫn phái tàu thuyền đi qua vùng biển
ngoài khơi Somalia. Nếu có thì cũng chỉ ít nước có những lợi ích hay động cơ
liên đới khả dĩ làm gián đoạn hoạt động chống cướp biển đó. Thật dễ làm việc
cùng nhau khi các đối tác mang theo ít hành trang đến với sứ mạng chung ấy.
|
Or think of it in terms of vector mechanics. Clausewitz's
go-to formula holds that how much a government values its political goals
should dictate the magnitude and duration of the effort it mounts to obtain
those goals. In a coalition, each partner performs its own calculations.
Because countries have different interests, inhabit different bits of
territory, and see the world through different historical and cultural
lenses, their value-of-the-object calculations tend to differ. The vectors
diverge. Disparate priorities complicate efforts to align the arrows in more
or less the same direction, achieving common purposes, strategy, and
operations.
|
Hoặc chúng ta hãy hình dung về hiện tượng này dưới lăng
kính của bộ môn cơ khí học véc-tơ (vector mechanics). Công thức đi-đến của
Clausewitz cho rằng mức độ mà một chính phủ đánh giá các mục tiêu chính trị
của mình sẽ quyết định quy mô và thời gian của nỗ lực mà nó huy động để đạt
được chúng. Trong một liên minh, mỗi đối tác thực hiện những toan tính của
mình. Vì các nước có lợi ích khác nhau, ở trên những lãnh thổ khác nhau, và
nhìn thế giới qua những lăng kính lịch sử và văn hoá khác nhau, nên những
tính toán của họ về giá trị của mục tiêu thường khác nhau. Ở đây, các véc-tơ
phân kỳ. Những ưu tiên khác biệt làm phức tạp những nỗ lực hòng cân chỉnh các
mũi tên về gần như cùng một hướng: đạt được các mục đích, chiến lược và hoạt
động chung.
|
It's rare indeed that coalition partners have the same
goals, with few ulterior motives interfering with coalition management. But
that does seem to be the case in the western Indian Ocean. The strategic
vectors point in the same direction, largely of their own accord. The only
real difference is the degree of effort each partner puts forth. Quarrels
over free-riding, however, are minimal in a voluntary, informal consortium
like the counterpiracy task force. Ergo, peace — even cooperation — beyond
the line.
|
Quả thực là hiếm khi các đối tác trong liên minh có mục
tiêu giống nhau, với ít động cơ ngầm can thiệp vào sự điều hành liên minh.
Song đây dường như lại là một thực tế ở phía Tây Đại Đây Dương. Các véc-tơ
chiến lược ở đây chỉ cùng một hướng, chủ yếu là tự nguyện. Sự khác biệt duy
nhất là mức độ nỗ lực mà mỗi đối tác thực hiện. Tuy nhiên, những tranh cãi về
việc hiện tượng trốn tránh chi phí lại ở mức tối thiểu trong một liên minh tự
nguyện, phi chính thức như lực lượng đặc nhiệm chống cướp biển. Vì thế mà ở
đây, hoà bình – thậm chí là hợp tác – tồn tại bên ngoài giới tuyến.
|
You see where I'm going with this. The expedition to the
Gulf of Aden is an easy case. It proves a trivial result, namely that rivals
can collaborate for mutual gain when they have the same interests in an
endeavor. Now plant yourself in East Asia and survey the strategic terrain
within the perimeter separating the Indian from the Pacific Ocean. China
views the South China Sea, to name one contested expanse, not as a commons
but as offshore territory. Indeed, Beijing asserts "indisputable
sovereignty" there.
|
Bạn sẽ nhận thấy tôi dẫn điều này đi đến đâu. Cuộc viễn
chinh đến vịnh Aden là một trường hợp dễ dàng. Nó cho thấy một kết cục thông
thường, đó là các đối thủ có thể hợp tác với nhau vì lợi ích chung khi họ có
cùng lợi ích trong một nỗ lực. Bây giờ, bạn hãy tự đặt mình ở Đông Á và khảo
sát địa hình chiến lược trong phạm vi vòng cung ngăn cách Ấn Độ Dương và Thái
Bình Dương. Trung Quốc coi Biển Đông, xin nêu tên một vùng tranh chấp, không
phải như vùng biển quốc tế mà là như một lãnh thổ ngoài bờ của họ. Thực vậy,
Bắc Kinh vẫn khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi” ở đây.
|
Such pretensions grate on Southeast Asian states, while
the United States hopes to rally coalitions and partnerships to oversee the
commons. But if Beijing is serious about the near seas' constituting
"blue national soil" — and our Chinese friends are nothing if not
sincere — then outsiders policing these waters must look like invaders. How
else would you regard foreign constables or armies roaming your soil — even
for praiseworthy reasons — without so much as a by-your-leave?
|
Những yêu sách như thế gây phiền toái cho các quốc gia
Đông Nam Á, trong khi Hoa Kỳ lại hy vọng tập hợp các liên minh và các mối
quan hệ đối tác để giám sát vùng biển quốc tế này. Nhưng nếu Bắc Kinh tỏ ra
nghiêm túc khi cho rằng những vùng biển lân cận là “quốc thổ màu xanh dương”
– và những người bạn Trung Quốc của chúng tôi thì hoàn toàn nghiêm túc – thì
những kẻ đến từ bên ngoài giám sát các vùng biển ấy phải giống như những tên
xâm lược. Liệu bạn sẽ coi những viên cảnh sát hay đội quân nước ngoài dạo
chơi trên mảnh đất của mình – ngay cả khi vì những lý do đáng ca ngợi – mà
không được sự cho phép của bạn như thế nào nữa đây?
|
To Chinese eyes, then, Southeast Asians' exclusive
economic zones (EEZs) must resemble unlawful occupation of Chinese
borderlands. And if there's an iron law of strategy, it's that protecting
sovereign territory represents a political aim commanding the utmost
importance. In Clausewitzian parlance, it demands maximum defensive effort
for as long as it takes. Trying to co-opt ASEAN governments or scuttle
U.S.-led constabulary enterprises makes sense if you reason from Chinese
precepts.
|
Vì thế, dưới con mắt của người Trung Quốc, vùng đặc quyền
kinh tế (EEZ) của các nước Đông Nam Á phải giống như hành vi chiếm đóng trái
phép lãnh thổ biên cương của Trung Quốc. Và nếu ở đây tồn tại một quy luật
sắt về chiến lược thì đó là: bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là một mục đích chính
trị với tầm quan trọng tối thượng. Theo cách nói của Clausewitz, điều này đòi
hỏi nỗ lực bảo vệ đến cùng. Việc tìm cách đạt được sự ủng hộ của các chính
phủ ASEAN hay chống phá sứ mạng kiểm soát do Hoa Kỳ lãnh đạo sẽ trở nên có ý
nghĩa nếu bạn lập luận từ phương châm của Trung Quốc.[i]
|
The upshot: coalition partner beyond the line, coalition
breaker this side of the line. There is a common denominator between the
Asian and Renaissance European cases, then, namely turf. Home turf. Europeans
agreed that different rules would govern their interactions at home and
overseas. In so doing they spared themselves the ravages of cross-border
invasion. This bespoke a fundamentally conservative outlook. China is trying
to regain what it considers its historic maritime periphery. Consequently, it
has assumed a more acquisitive, offensive posture.
|
Kết cục là: đối tác liên minh nằm ngoài giới tuyến,[ii]
còn đối tượng phá vỡ liên minh lại nằm bên này giới tuyến.[iii] Vì thế, giữa
trường hợp Châu Á và Châu Âu thời Phục hưng có một mẫu số chung, đó là lãnh
thổ. Lãnh thổ quốc gia. Người Châu Âu từng nhất trí rằng những quy tắc khác
nhau sẽ điều chỉnh sự tương tác giữa họ ở đại lục và ngoài đại dương. Khi làm
như thế, họ tránh cho mình khỏi sự tàn phá của các cuộc xâm lược qua biên
giới. Điều này thể hiện một quan điểm mà về cơ bản là bảo thủ. Trung Quốc
đang tìm cách giành lại những gì mà họ coi là vùng biển lịch sử của mình.
Thành ra họ thể hiện một lập trường mang tính chiếm đoạt và gây hấn nhiều
hơn.
|
Either way, securing one's home ground and environs is Job
One. The character of undertakings in faraway theaters, by contrast, depends
on the extent to which national interests coincide or clash in those
theaters. Rivals might cooperate out of expediency, go at each other, or
ignore each other. Bottom line, the counter-piracy campaign is an eminently
worthwhile endeavor. It should continue. Whether it can be replicated in more
fractious zones on the map — and whether it can improve overall relations
among nations — is another question entirely.
|
Bất kể theo cách nào, bảo vệ an toàn cho lãnh thổ và môi
trường của tổ quốc vẫn là nhiệm vụ số một. Ngược lại, đặc điểm của cuộc viễn
chinh đến những đấu trường xa xôi phụ thuộc vào mức độ mà lợi ích quốc gia
trùng hợp hay xung đột ở đó. Các đối thủ có thể hợp tác với nhau xuất phát từ
sự tiện lợi, tiếp xúc với nhau, hoặc phớt lờ nhau. Nhân tố quan trọng nhất ở
đây nằm ở chỗ: chiến dịch chống cướp biển là một nỗ lực vô cùng đáng giá. Nó
cần tiếp tục diễn ra. Liệu nó có thể tái diễn ở những khu vực khó kiểm soát
hơn trên thế giới hay không – và liệu nó có thể cải thiện mối quan hệ tổng
thể giữa các quốc gia hay không – lại là vấn đề hoàn toàn khác.
|
James R. HolmesJames R. Holmes is a defense analyst for
The Diplomat and a professor of strategy at the U.S. Naval War College where
he specializes in U.S., Chinese and Indian maritime strategy and U.S.
diplomatic and military history.
|
James R. Holmes là nhà phân tích quốc phòng của The
Diplomat và là giáo sư ngành chiến lược của Đại học Hải quân Hoa Kỳ, nơi ông
chuyên nghiên cứu về chiến lược biển của Hoa Kỳ, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng
như lịch sử ngoại giao và quân sự của Hoa Kỳ.
|
|
|
|
|
|
Translated by Lê Anh Hùng
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn