|
|
The South China Sea:
“Disputed waters” everywhere?
|
Biển Đông: "Tranh
chấp vùng biển" ở khắp mọi nơi?
|
No. 123/2012 dated 11 July 2012
|
Số. 123/2012 ngày 11/7/2012
|
By Huy Duong
|
By Huy Duong
|
Synopsis
Since 2011, the disputes over maritime space in the South
China Sea have involved not only which country has sovereign and
jurisdictional rights over an area, but also whether an area constitutes
disputed waters. This is an important question that must be answered with
certain principles.
|
Tóm tắt
Từ năm 2011, tranh chấp về không gian hàng hải trong vùng
biển Nam Trung Hoa đã lôi kéo không chỉ quốc gia có quyền chủ quyền và quyền
tài phán về một khu vực, mà còn về việc liệu có một khu vực tạo thành vùng
biển tranh chấp hay không. Đây là một câu hỏi quan trọng là phải được trả lời
với một số nguyên tắc nhất định.
|
Commentary
China’s National Offshore Oil Corporation has, on 23 June
2012, invited bids for nine blocks for oil & gas
exploration in the South China Sea. The blocks lie inside
Vietnam’s declared Exclusive Economic Zone,
bounded to the West by China’s “U-shaped line”, and
extending to 57 nautical miles off the Vietnamese
mainland. Vietnam’s Ministry of Foreign Affairs stated on
26 June 2012 that this area “lies entirely within Viet Nam’s 200-nautical
mile exclusive economic zone and continental shelf ... It is absolutely not a
disputed area”. China’s MOFA responded that its jurisdiction applies to this
area and referred to the “proper settlement of maritime disputes”, thereby
asserting that the area is disputed.
|
Bình luận
Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Quốc gia Trung Quốc, ngày
23 Tháng Sáu năm 2012, mở hồ sơ dự thầu cho chín lô dầu khí thăm dò ở Biển
Đông. Các lô nằm bên trong Khu độc quyền kinh tế đã tuyên bố của Việt Nam, phía
Tây giáp "đường chữ U" của Trung Quốc, và mở rộng đến 57 hải lý
ngoài khơi đất liện của Việt Nam. Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố hôm 26
Tháng Sáu 2012 rằng khu vực này "hoàn toàn nằm trong phạm vi 200 hải lý
của khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam... Đó là hoàn toàn
không phải là một khu vực tranh chấp". Bộ Ngoại giao Trung Quốc trả lời
rằng thẩm quyền của TQ áp dụng đối với khu vực này và đề cập đến "giải
quyết tốt các tranh chấp hàng hải", qua đó khẳng định rằng khu vực này
là khu vực tranh chấp.
|
This controversy on whether an area constitutes disputed
waters echoes the incident in May 2011 in which China’s Maritime Surveillance
ships cut the seismic cable being towed by a Vietnamese geological survey vessel.
At that time, Vietnam asserted that the incident took place in undisputed
waters, while China disagreed.
|
Tranh cãi về việc có một khu vực tạo thành vùng biển tranh
chấp này lặp lại sự kiện tháng 5 năm 2011, trong đó của tàu Giám sát hàng hải
Trung Quốc cắt cáp địa chấn của một tàu khảo sát địa chất Việt Nam. Vào thời
điểm đó, Việt Nam khẳng định rằng sự cố đã diễn ra trong vùng biển có chủ
quyền không thể tranh cãi, trong khi Trung Quốc không đồng ý.
|
A similar controversy exists between China and the
Philippines regarding the EEZ in the Reed Bank area, which the Philippines
regards as not being part of the Spratlys and therefore undisputedly its own,
while China maintains otherwise.
|
Một tranh cãi tương tự tồn tại giữa Trung Quốc và Việt Nam
liên quan đến các đặc khu kinh tế trong khu vực Reed Bank, mà Philippines coi
như không phải là một phần của quần đảo Trường Sa và do đó là của riêng họ
không có tranh chấp, trong khi Trung Quốc duy trì quan điểm khác.
|
The need to define
the disputed areas
These controversies raise the question “Where are the
disputed areas in the South China Sea?” Surprisingly, no claimant to the
disputed islands and rocks in the South China Sea has declared the limits of
its claims to maritime space as derived from these features, so the boundaries
of the disputed areas are unknown. Since the disputes have proved
intractable, the need to manage them and reduce the risks of conflict
breaking out is paramount. Unfortunately, the absence of declared, let alone
agreed, boundaries for the disputed areas, makes managing the disputes
extremely difficult. It also increases the risk of mismatched expectations
and conflicts.
|
Sự cần thiết phải
xác định các khu vực tranh chấp
Những tranh cãi này dẫn đến câu hỏi "Những khu vực nào
là khu vực tranh chấp ở biển Đông?" Đáng ngạc nhiên, không có nước yêu
sách chủ quyền nào tuyên bố các giới hạn chủ quyền về không gian hàng hải đối các đảo và mõm đá tranh chấp trên
Biển Đông như đã thấy, do đó, ranh giới của khu vực tranh chấp chưa được
biết. Do các tranh chấp tỏ ra khó giả quyết, cần phải quản lý và giảm rủi ro bùng
nổ xung đột là tối quan trọng. Thật không may, không hề có các ranh giới khu
vực tranh chấp đã được tuyên bố chứ đừng nói là đồng ý, khiến cho việc quản
lý các tranh chấp trở nên vô cùng khó khăn. Nó cũng làm tăng nguy cơ của
những kỳ vọng và những xung đột không phù hợp.
|
An example is the Declaration of Conduct of Parties in the
South China Sea 2002 between ASEAN and China. The fact that this does not
delineate and differentiate disputed areas and undisputed ones is a limitation
similar to that of having a single speed limit for motorways and urban
streets. Similarly, if the new Code of Conduct does not delineate and
differentiate disputed and undisputed areas, it will suffer from the same
limitation.
|
Một ví dụ là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông
2002 giữa ASEAN và Trung Quốc. Thực tế rằng văn bản này không phân định và
phân biệt khu vực tranh chấp và không tranh chấp là một hạn chế tương tự như
có một giới hạn tốc độ duy nhất cho đường cao tốc và đường phố đô thị. Tương
tự như vậy, nếu Quy rắc mới về ứng xử không phân định và phân biệt các khu
vực tranh chấp và không tranh chấp, nó sẽ bị hạn chế.
|
Another example is China’s proposal to set aside the
disputes and pursue joint development. While joint development is in
principle a valid approach for managing the disputes, it cannot work in
practice without the claimants agreeing on the boundaries of the disputed
areas, i.e., on the actual areas to be subjected to joint development.
|
Một ví dụ khác là đề nghị của Trung Quốc là bỏ qua một bên
những tranh chấp và theo đuổi phát triển chung. Trong khi hợp tác phát triển về
nguyên tắc một cách tiếp cận hợp lệ để quản lý các tranh chấp, nó không có
thể hoạt động trong thực tế nếu không có các bên tranh chấp thỏa thuận về
ranh giới của khu vực tranh chấp, tức là, trên các khu vực thực tế được liên
doanh phát triển.
|
Principles for determining
disputed areas
There is a view that if there exist conflicting claims in
one area then that area is disputed. However, setting the common denominator
this low would allow any country to make any area a disputed one by making a
conflicting claim there. For example, China could start declaring
specifically that the U-shaped line represents a boundary for maritime space
to make the whole area inside it disputed. Similarly the Philippines and
Vietnam could do the equivalent with a C-shaped line and a D-shaped one
respectively. This would make it impossible to contain or manage the disputes.
|
Nguyên tắc xác định
khu vực tranh chấp
Có một quan điểm rằng nếu có tồn tại các mâu thuẫn trong
một khu vực thì khu vực đó là khu vực tranh chấp. Tuy nhiên, thiết lập các
mẫu số chung thấp này sẽ cho phép bất kỳ nước nào muốn làm cho bất kỳ một khu
vực trở thành tranh chấp bằng cách đưa ra yêu sách xung đột ở đó. Ví dụ,
Trung Quốc có thể bắt đầu tuyên bố cụ thể rằng đường chữ U đại diện cho một
ranh giới không gian hàng hải để làm cho toàn bộ khu vực bên trong nó trở
thành tranh chấp. Tương tự, Philippines và Việt Nam có thể làm điều tương
đương với một đường chữ C- và đường hình chữ D cho mỗi nước. Điều này hẳn sẽ
làm cho không thể nào kìm hãm hoặc quản lý các tranh chấp.
|
Instead, the common denominator for the notion of
“disputed area” has to be based on UNCLOS, which stipulates specific maritime
zones and embodies the principle that claims to these zones must be derived
from land and insular territories. This common denominator can be further
clarified by international law of maritime delimitation.
|
Thay vào đó, mẫu số chung cho khái niệm "khu vực
tranh chấp" phải dựa trên UNCLOS, trong đó quy định cụ thể khu vực hàng
hải và thể hiện nguyên tắc tuyên bố các khu vực này phải được bắt nguồn từ
đất liền và các vùng lãnh thổ đảo. Mẫu số chung này có thể được tiếp tục làm
rõ theo quy định của pháp luật quốc tế về phân định hàng hải.
|
It is clear that the 12-nautical-mile territorial sea
around the islands and rocks of the Paracels, Spratlys and Scarborough Shoal
are disputed. Beyond this, the picture becomes more complicated.
Nevertheless, it is possible to specify the range of the spectrum of
opinions.
|
Rõ ràng là lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo, đá, quần
đảo Trường Sa quần đảo Hoàng Sa và Scarborough Shoal đang có tranh chấp.
Ngoài các khu vực này, bức trở nên phức tạp hơn. Tuy nhiên, có thể xác định
phạm vi của một phổ ý kiến.
|
At the first end of the spectrum is the view that none of
the disputed features deserves EEZ or continental shelf. This would mean that
the disputed areas are confined exclusively to the 12-nautical-mile
territorial sea generated from valid baselines and base points around these
features.
|
Ở một đầu của phổ này là quan điểm mà không ai trong số bên
tranh chấp xứng đáng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Điều
này có nghĩa rằng các khu vực tranh chấp được hạn chế độc quyền lãnh hải 12
hải lý được tạo ra từ đường cơ sở hợp lệ và các điểm cơ sở xung quanh các thực
thể này.
|
At the other end of the spectrum is the counterfactual
hypothesis that the outermost features of the Paracels, Spratlys and
Scarborough Shoal are all islands which are entitled to EEZ and which deserve
100% EEZ delimitation in areas where this entitlement overlaps with that of
uncontested territories. Under this hypothesis the boundaries of the disputed
areas would be the equidistance lines between uncontested territories and the
outermost features of these three clusters. In reality, not every one of
these outermost features is entitled to EEZ.
|
Ở đầu kia của quang phổ là giả thuyết cho rằng các thực thể ngoài cùng của quần đảo Hoàng Sa, Quần đảo Trường Sa và bãi Scarborough
là tất cả các hải đảo được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và xứng đáng được
hưởng 100% phân định vùng đặc quyền kinh tế trong các khu vực mà quyền được
hưởng này chồng lấn với các vùng lãnh thổ không tranh chấp. Theo giả thuyết
này, ranh giới của khu vực tranh chấp sẽ là dòng trung tuyến giữa các vùng
lãnh thổ không tranh chấp và các thực thể ngoài cùng của cả ba cụm đảo này.
Trong thực tế, không phải tất cả các thực thể ngoài cùng này được hưởng quy
chế Đặc khu kinh tế.
|
Additionally, according to international law of maritime
delimitation, every feature of the three clusters should have only limited or
no effect in EEZ delimitation in areas where its potential EEZ entitlement
overlaps with that of larger landmasses. This means that in reality the
extent of the EEZ belonging to the disputed features will fall short of the
equidistance lines. Therefore, in areas of overlapping EEZ entitlements,
boundaries for the disputed areas that are consistent with international law
would be near the first end of the spectrum, and cannot extend to near or
past the equidistance lines.
|
Ngoài ra, theo luật quốc tế về phân định hàng hải, tất cả
các thực thể của ba cụm đảo có chỉ nên hưởng phân định vùng đặc quyền kinh tế
giới hạn hoặc không có hiệu lực trong về khu vực đặc quyền kinh tế nếu quyền
hưởng khu vực đặc quyền kinh tế của nó chồng lấn vớ quyền hưởng khu vực đặc
quyền kinh tế của vùng đất liền lớn hơn. Điều này có nghĩa rằng trong thực tế
mức độ của các vùng đặc quyền kinh tế của các thực thể tranh chấp sẽ nằm chưa
tới các đường trung tuyến. Vì vậy, trong các khu vực chồng lấn về quyền hưởng
khu vực đặc quyền kinh tế, ranh giới khu vực tranh chấp phù hợp với luật pháp
quốc tế là gần một đầu cuối của phổ ý kiến, và không thể mở rộng đến gần hoặc
qua đường trung tuyến.
|
Basis for dispute
management
Instead of adopting a common denominator that is too low
to assert that an arbitrary area of the South China Sea constitutes disputed
waters, the claimants should use one that is based on UNCLOS and
international law of maritime delimitation. Furthermore, they should jointly
determine where on this spectrum the boundaries of the disputed areas are.
This can be done either through negotiation or by submitting the question to
an international court.
|
Cơ sở để quản lý
tranh chấp
Thay vì áp dụng một mẫu số chung vốn quá thấp để khẳng
định rằng một khu vực nào đó trên Biển Đông có tạo thành vùng biển tranh chấp
hay không, thì quốc gia yêu sách chủ quyền nên sử dụng một trong những mẫu số
dựa trên UNCLOS và luật pháp quốc tế về phân định hàng hải. Hơn nữa, họ phải
cùng nhau xác định vị trí của ranh giới của khu vực tranh chấp trên phổ này.
Điều này có thể được thực hiện hoặc thông qua đàm phán hoặc bằng cách gửi câu
hỏi đến một tòa án quốc tế.
|
The existence of agreed boundaries for the disputed areas
will be the necessary basis for dispute management measures. Boundaries that
are near the first end of the spectrum, in addition to being consistent with international
law, will also keep the disputed areas small, thus improving the likelihood
of the claimants agreeing on these measures.
|
Sự tồn tại của các ranh giới đã đồng ý cho các khu vực
tranh chấp sẽ là cơ sở cần thiết cho các biện pháp quản lý tranh chấp. Ranh
giới đó nằm gần cuối phổ, ngoài việc phù hợp với luật pháp quốc tế, cũng còn
giữ cho các khu vực tranh chấp nhỏ lại, do đó cải thiện khả năng của các bên
tranh chấp thỏa thuận về các biện pháp này.
|
RSIS COMMENTARIES
RSIS Commentaries
are intended to provide timely and, where appropriate, policy relevant
background and analysis of contemporary developments. The views of the
authors are their own and do not represent the official position of the S. Rajaratnam
School of International Studies, NTU. These commentaries may be reproduced
electronically or in print with prior permission from RSIS. Due recognition
must be given to the author or authors and RSIS. Please email: RSISPublication@ntu.edu.sg
or call (+65) 6790 6982 to speak to the Editor RSIS Commentaries, Yang Razali
Kassim.
|
Bình Luận của RSIS
Bình luận RSIS có ý định cung cấp các bài viết có liên quan về chính sách và phân tích kịp
thời và thích hợp về các phát triển hiện thời. Quan điểm của các tác giả là của
riêng họ và không đại diện cho lập trường chính thức của Khoa Quốc tế học S. Rajaratnam,
NTU. Những bình luận này có thể được sao chép dạng điện tử hoặc in ấn với sự cho
phép trước của RSIS. Để được công nhận phải gởi thư cho tác giả hoặc các tác giả
và RSIS. Xin vui lòng email: RSISPublication@ntu.edu.sg hoặc gọi số (+65)
6790 6982 để nói chuyện với Biên tập viên của Bình Luận RSIS, Yang Razali
Kassim.
|
Dr Huy Duong is a
UK-based IT consultant and commentator on maritime affairs. He contributed
this article specially to RSIS Commentaries.
|
Tiến sĩ Huy Dương là
một tư vấn và nhà bình luận của IT, Vương quốc Anh về các vấn đề hàng hải. Ông đã đóng
góp bài viết này đặc biệt cho Bình Luận RSIS
|
Translated by nguyenquangy
|
|
http://www.rsis.edu.sg/publications/Perspective/RSIS1232012.pdf
|
MENU
BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT – SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE
--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------
TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN
Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)
CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT
Friday, July 13, 2012
The South China Sea: “Disputed waters” everywhere? Biển Đông: "Tranh chấp vùng biển" ở khắp mọi nơi?
Labels:
SOUTH CHINA SEA-BIỂN ĐÔNG
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn