PROBLEMS OF
PHILOSOPHY
|
CÁC VẤN ĐÈ CỦA TRIẾT
HỌC 15
|
|
Bertrand Russell (1872-1970)
|
Bertrand Russell (1872-1970)
|
CHAPTER XV: THE
VALUE OF PHILOSOPHY
|
CHƯƠNG 15: GIÁ TRỊ
CỦA TRIẾT HỌC
|
HAVING now come to the end of our brief and very
incomplete review of the problems of philosophy, it will be well to consider,
in conclusion, what is the value of philosophy and why it ought to be
studied. It is the more necessary to consider this question, in view of the
fact that many men, under the influence of science or of practical affairs,
are inclined to doubt whether philosophy is anything better than innocent but
useless trifling, hair-splitting distinctions, and controversies on matters
concerning which knowledge is impossible.
|
Bây giờ, sau khi chúng ta đã xem xét vắn tắt và rất không
đầy đủ về những vấn đề của triết học, để kết luận, cũng nên xem xét, giá trị
của triết học là gì và tại sao phải nghiên cứu nó. Việc xem xét câu hỏi này càng
tỏ ra bức thiết hơn vì trên thực tế, do sự ảnh hưởng của khoa học hay của các
hoạt động đời sống, nhiều người có xu hướng tự hỏi không biết ngoài những lối
phân biệt chẻ tư ngọn tóc, tuy vô hại nhưng cũng chẳng có ích gì, và những
cuộc tranh cãi về các vấn đề mà khả năng nhận thức của ta không với tới được,
triết học còn có cái gì khác đáng quan tâm hơn không.
|
This view of philosophy appears to result, partly from a
wrong conception of the ends of life, partly from a wrong conception of the
kind of goods which philosophy strives to achieve. Physical science, through
the medium of inventions, is useful to innumerable people who are wholly
ignorant of it; thus the study of physical science is to be recommended, not
only, or primarily, because of the effect on the student, but rather because
of the effect on mankind in general. Thus utility does not belong to
philosophy. If the study of philosophy has any value at all for others than
students of philosophy, it must be only indirectly, through its effects upon
the lives of those who study it. It is in these effects, therefore, if
anywhere, that the value of philosophy must be primarily sought.
|
Quan niệm này về triết học có vẻ như một phần xuất phát từ
một quan niệm sai lầm về mục đích của đời sống, phần khác từ một quan niệm
sai lầm về loại ích lợi mà triết học cố gắng thành tựu. Bộ môn khoa học vật
lý, thông qua các phát minh, có ích cho hằng bao nhiêu người mù tịt về nó; vì
thế, môn khoa học vật lý được khuyên học, không chỉ trước hết vì sự tác động
của nó đến người học, mà còn vì sự tác động của nó đối với nhân loại nói
chung. Lợi ích kiểu như vậy không thuộc về triết học. Tuy nhiên, nếu việc học
triết học có giá trị nào đó đối với những người không học triết học, thì đó
tất chỉ là gián tiếp, thông qua những sự tác động của nó đến cuộc sống của
những người học triết học. Do đó, chính trong những sự tác động này, chứ
không phải ở đâu khác, mà giá trị của triết học phải được tìm trước nhất.
|
But further, if we are not to fail in our endeavour to determine
the value of philosophy, we must first free our minds from the prejudices of
what are wrongly called 'practical' men. The 'practical' man, as this word is
often used, is one who recognizes only material needs, who realizes that men
must have food for the body, but is oblivious of the necessity of providing
food for the mind. If all men were well off, if poverty and disease had been
reduced to their lowest possible point, there would still remain much to be
done to produce a valuable society; and even in the existing world the goods
of the mind are at least as important as the goods of the body. It is
exclusively among the goods of the mind that the value of philosophy is to be
found; and only those who are not indifferent to these goods can be persuaded
that the study of philosophy is not a waste of time.
|
Hơn nữa, nếu không muốn thất bại trong việc nỗ lực xác
định giá trị của triết học, trước hết chúng ta phải giải thoát tâm trí mình
khỏi các thành kiến về những gì được gọi sai là những người “có óc thực tế”. Người
“có óc thực tế”, như từ này thường được dùng, là người chỉ thừa nhận những
nhu cầu vật chất, là người hiểu rõ rằng con người cần phải có thức ăn cho
thân thể, nhưng lại quên mất sự cần thiết của việc cung cấp thức ăn cho tinh
thần. Nếu mọi người đều sống sung túc, giả thử sự nghèo khổ và bệnh tật được
giảm thiểu đến mức thấp nhất, thì ắt sẽ vẫn còn nhiều điều phải làm để tạo ra
một xã hội có giá trị; và ngay cả trong thế giới hiện tại, các lợi ích tinh
thần ít ra cũng quan trọng như các lợi ích thân xác. Giá trị của triết học
chỉ có thể được tìm thấy giữa các lợi ích của tinh thần mà thôi, và chỉ những
ai không dửng dưng với các lợi ích này mới có thể được thuyết phục rằng việc
học triết học không phải là việc phí thời giờ.
|
Philosophy, like all other studies, aims primarily at
knowledge. The knowledge it aims at is the kind of knowledge which gives
unity and system to the body of the sciences, and the kind which results from
a critical examination of the grounds of our convictions, prejudices, and
beliefs. But it cannot be maintained that philosophy has had any very great
measure of success in its attempts to provide definite answers to its
questions. If you ask a mathematician, a mineralogist, a historian, or any
other man of learning, what definite body of truths has been ascertained by
his science, his answer will last as long as you are willing to listen. But
if you put the same question to a philosopher, he will, if he is candid, have
to confess that his study has not achieved positive results such as have been
achieved by other sciences. It is true that this is partly accounted for by
the fact that, as soon as definite knowledge concerning any subject becomes
possible, this subject ceases to be called philosophy, and becomes a separate
science. The whole study of the heavens, which now belongs to astronomy, was
once included in philosophy; Newton's great work was called 'the mathematical
principles of natural philosophy'. Similarly, the study of the human mind,
which was a part of philosophy, has now been separated from philosophy and
has become the science of psychology. Thus, to a great extent, the
uncertainty of philosophy is more apparent than real: those questions which
are already capable of definite answers are placed in the sciences, while
those only to which, at present, no definite answer can be given, remain to
form the residue which is called philosophy.
|
Giống như tất cả các môn học khác, triết học trước hết
nhắm đến tri thức. Tri thức mà nó nhắm đến là loại tri thức mang lại tính
thống nhất và hệ thống cho toàn bộ các môn khoa học, và là loại tri thức nảy
sinh từ một sự khảo sát có tính phê phán về các cơ sở của những sự xác tín,
các thành kiến và các lòng tin của chúng ta. Nhưng ta không thể một mực cho
rằng triết học đã đạt được nhiều thành công trong việc nỗ lực đưa ra các câu
trả lời rõ ràng cho các câu hỏi của nó. Nếu bạn hỏi một nhà toán học, một nhà
khoáng vật học, một nhà sử học, hay bất cứ một học giả nào khác, rằng bộ môn
khoa học của ông ta xác minh nhóm chân lý xác định nào, câu trả lời của ông
ta sẽ kéo dài bao lâu nếu bạn còn muốn nghe. Nhưng nếu bạn đặt câu hỏi như
vậy cho một nhà triết học, ông ta sẽ, giả định là ông ấy thành thật, buộc
phải thú nhận rằng môn học của ông ta không đạt được những kết quả tích cực
như các môn khoa học khác. Đúng là điều này được giải thích một phần bởi sự
kiện là ngay cả khi ta có thể có được sự hiểu biết rõ ràng về bất cứ môn học
nào, thì môn học ấy không còn được gọi là môn triết học, và nó trở thành một
môn khoa học riêng. Toàn bộ bộ môn nghiên cứu về các thiên thể, nay thuộc
khoa thiên văn học, trước kia được gộp vào môn triết học; công trình vĩ đại
của Newton được gọi là “các nguyên tắc toán học của triết học tự nhiên”. Cũng
giống như vậy, bộ môn nghiên cứu về tâm thức con người, vốn là một bộ phận
của triết học, nay đã tách khỏi môn triết học và trở thành bộ môn khoa học về
tâm lý. Vì thế, xét trên đại thể, sự không chắc chắn của triết học mang tính
bề ngoài hơn là thực chất: các câu hỏi nào có thể có sẵn các câu trả lời rõ
ràng thì được đặt vào trong các môn khoa học, trong khi chỉ những câu hỏi mà
hiện nay không thể mang lại một câu trả lời rõ ràng nào thì tiếp tục tạo
thành bộ môn còn lại được gọi là triết học.
|
This is, however, only a part of the truth concerning the
uncertainty of philosophy. There are many questions -- and among them those
that are of the profoundest interest to our spiritual life -- which, so far
as we can see, must remain insoluble to the human intellect unless its powers
become of quite a different order from what they are now. Has the universe
any unity of plan or purpose, or is it a fortuitous concourse of atoms? Is
consciousness a permanent part of the universe, giving hope of indefinite
growth in wisdom, or is it a transitory accident on a small planet on which
life must ultimately become impossible? Are good and evil of importance to
the universe or only to man? Such questions are asked by philosophy, and
variously answered by various philosophers. But it would seem that, whether
answers be otherwise discoverable or not, the answers suggested by philosophy
are none of them demonstrably true. Yet, however slight may be the hope of
discovering an answer, it is part of the business of philosophy to continue
the consideration of such questions, to make us aware of their importance, to
examine all the approaches to them, and to keep alive that speculative
interest in the universe which is apt to be killed by confining ourselves to
definitely ascertainable knowledge.
|
Tuy nhiên, đây chỉ là một phần sự thật về tính không chắc
chắn của triết học. Có nhiều câu hỏi – trong số đó có những câu hỏi thuộc về
mối quan tâm sâu sắc nhất đến đời sống tâm linh của chúng ta – chắc hẳn,
trong chừng mực chúng ta có thể biết được, vẫn không thể giải quyết được đối
với trí năng của con người, trừ phi sức mạnh của trí năng này hoàn toàn trở
thành một loại khác với bây giờ. Vũ trụ có sự thống nhất về kế hoạch hay mục
đích nào không, hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử? Ý thức
có phải là một bộ phận thường hằng của vũ trụ, mang lại hi vọng vào việc gia
tăng sự hiểu biết đến vô hạn, hay nó chỉ là cái ngẫu nhiên nhất thời trên một
hành tinh nhỏ bé, nơi mà rốt cuộc cũng chẳng còn sự sống nào ở đó? Cái thiện
và cái ác có quan trọng đối với vũ trụ không hay chỉ quan trọng đối với con
người? Những câu hỏi như thế được triết học nêu ra, và được các nhà triết học
trả lời một cách khác nhau. Nhưng có vẻ dù các câu trả lời có được tìm ra
theo cách khác hay không, thì các câu trả lời được triết học đề xuất đều
không có câu nào thực sự rõ ràng. Thế nhưng, cho dù hi vọng tìm ra câu trả lời
có thể mong manh, thì một phần công việc của triết học là tiếp tục xem xét
những câu hỏi như thế, làm chúng ta ý thức về tầm quan trọng của chúng, khảo
sát tất cả các lối tiếp cận chúng và duy trì mối quan tâm tư biện đến vũ trụ
để nó không bị tiêu tan bởi việc chúng ta bó hẹp mình vào tri thức có thể
minh xác một cách rõ ràng.
|
Many philosophers, it is true, have held that philosophy
could establish the truth of certain answers to such fundamental questions.
They have supposed that what is of most importance in religious beliefs could
be proved by strict demonstration to be true. In order to judge of such
attempts, it is necessary to take a survey of human knowledge, and to form an
opinion as to its methods and its limitations. On such a subject it would be
unwise to pronounce dogmatically; but if the investigations of our previous
chapters have not led us astray, we shall be compelled to renounce the hope
of finding philosophical proofs of religious beliefs. We cannot, therefore,
include as part of the value of philosophy any definite set of answers to
such questions. Hence, once more, the value of philosophy must not depend
upon any supposed body of definitely ascertainable knowledge to be acquired
by those who study it.
|
Đúng là có nhiều nhà triết học đã cho rằng triết học có
thể xác lập chân lý của những câu trả lời nào đó cho những câu hỏi nền tảng
như vậy. Họ từng nghĩ rằng cái quan trọng nhất nơi lòng tin tôn giáo có thể
được chứng minh bằng một lối chứng minh chặt chẽ là đúng. Để đánh giá những
nỗ lực như thế, ta cần phải tiến hành một cuộc khảo sát [định lượng] về tri
thức của con người và hình thành một ý kiến về các phương pháp và những giới
hạn của nó. Ắt sẽ thật dại dột khi tuyên bố một cách giáo điều về một chủ đề
như vậy; nhưng nếu các phần nghiên cứu trong các chương trước của chúng tôi
không dẫn ta đi lạc đường, chúng ta sẽ buộc phải từ bỏ hi vọng tìm ra các
luận chứng triết học về các lòng tin tôn giáo. Do đó, chúng ta không thể xem
bất cứ tập hợp các câu trả lời rõ ràng nào cho các câu hỏi như thế là bộ phận
của giá trị của triết học. Vì thế, một lần nữa, giá trị của triết học nhất
định không phụ thuộc vào bất cứ cái gì được cho là khối tri thức có thể minh
xác một cách chắc chắn mà người học triết học đòi hỏi phải có.
|
The value of philosophy is, in fact, to be sought largely
in its very uncertainty. The man who has no tincture of philosophy goes
through life imprisoned in the prejudices derived from common sense, from the
habitual beliefs of his age or his nation, and from convictions which have
grown up in his mind without the co-operation or consent of his deliberate
reason. To such a man the world tends to become definite, finite, obvious;
common objects rouse no questions, and unfamiliar possibilities are
contemptuously rejected. As soon as we begin to philosophize, on the
contrary, we find, as we saw in our opening chapters, that even the most
everyday things lead to problems to which only very incomplete answers can be
given. Philosophy, though unable to tell us with certainty what is the true
answer to the doubts which it raises, is able to suggest many possibilities
which enlarge our thoughts and free them from the tyranny of custom. Thus,
while diminishing our feeling of certainty as to what things are, it greatly
increases our knowledge as to what they may be; it removes the somewhat
arrogant dogmatism of those who have never travelled into the region of
liberating doubt, and it keeps alive our sense of wonder by showing familiar
things in an unfamiliar aspect.
|
Trên thực tế, giá trị của triết học chủ yếu phải được tìm
trong chính sự không chắc chắn (uncertainty) của nó. Người không có chút kiến
thức sơ đẳng nào về triết học sống một đời sống bị giam hãm trong các thành
kiến bắt nguồn từ cảm nghĩ thông thường (common sense), từ lòng tin quen
thuộc của thời đại hay của dân tộc mình, và từ những sự xác tín đã lớn mạnh
trong tâm trí mình mà không có sự phối hợp hay đồng thuận của lý trí thận
trọng của mình. Với một người như vậy, thế giới có xu hướng trở nên xác định,
hữu hạn, hiển nhiên; các đối tượng thông thường không gợi lên những câu hỏi,
và các khả thể không quen thuộc bị bác bỏ với sự miệt thị. Trái lại, ngay khi
bắt đầu triết lý, chúng ta thấy rằng, như đã thấy ở chương thứ nhất, ngay cả
những điều bình thường nhất trong đời sống thường nhật cũng dẫn đến những vấn
đề mà chỉ có thể có những câu trả lời rất không đầy đủ. Triết học, cho dù
không thể cho ta biết một cách chắc chắn đâu là câu trả lời đúng cho các mối
nghi ngờ mà nó nêu ra, có thể gợi ra nhiều khả thể giúp mở rộng tư tưởng của
chúng ta và giải thoát chúng ra khỏi sự bạo quyền của tập tục. Vì thế, trong
khi giảm thiểu cảm giác chắc chắn của chúng ta về sự vật là gì, nó làm cho
tri thức của chúng ta về những gì mà sự vật có thể là tăng lên rất nhiều; nó
xóa bỏ chủ nghĩa giáo điều có phần kiêu ngạo của những ai chưa bao giờ đi vào
miền đất của sự hoài nghi có sức mạnh giải phóng, và nó làm cho cảm giác ngạc
nhiên của chúng ta sinh động bằng cách chỉ cho chúng ta thấy một phương diện
mới mẻ nơi các sự vật quen thuộc.
|
Apart from its utility in showing unsuspected
possibilities, philosophy has a value -- perhaps its chief value -- through
the greatness of the objects which it contemplates, and the freedom from
narrow and personal aims resulting from this contemplation. The life of the
instinctive man is shut up within the circle of his private interests: family
and friends may be included, but the outer world is not regarded except as it
may help or hinder what comes within the circle of instinctive wishes. In
such a life there is something feverish and confined, in comparison with
which the philosophic life is calm and free. The private world of instinctive
interests is a small one, set in the midst of a great and powerful world
which must, sooner or later, lay our private world in ruins. Unless we can so
enlarge our interests as to include the whole outer world, we remain like a
garrison in a beleagured fortress, knowing that the enemy prevents escape and
that ultimate surrender is inevitable. In such a life there is no peace, but
a constant strife between the insistence of desire and the powerlessness of
will. In one way or another, if our life is to be great and free, we must
escape this prison and this strife.
|
Ngoài tính thiết thực của nó trong việc cho thấy những khả
thể chưa được biết tới, triết học có một giá trị – có lẽ là giá trị chủ yếu –
qua tính chất lớn lao của các đối tượng mà nó chiêm ngưỡng và sự thoát ly
khỏi những mục đích cá nhân hẹp hòi có được nhờ sự chiêm ngưỡng này. Đời sống
của con người bản năng bị khóa chặt trong vòng tròn các mối quan tâm riêng tư
của họ: gia đình, bạn bè có thể được tính đến, nhưng thế giới bên ngoài lại
không được xét tới ngoại trừ việc thế giới ấy tạo thuận lợi hay cản trở những
gì diễn ra bên trong vòng tròn các ước muốn của bản năng. Một cuộc sống như
vậy là cái gì đó bồn chồn và tù túng, còn đời sống triết lý thì thanh thản và
tự do. Thế giới riêng tư của các mối quan tâm của bản năng là một thế giới
nhỏ nhoi, nằm trong một thế giới to lớn và đầy sức mạnh, mà sớm muộn gì nó
cũng tàn phá thế giới riêng tư của chúng ta. Trừ phi chúng ta có thể mở rộng
các mối quan tâm của chúng ta đến mức bao gồm toàn bộ thế giới bên ngoài,
chúng ta vẫn giống như một anh lính đồn trú trong một pháo đài bị bao vây và
biết rằng phe địch đã chặn lối thoát và việc đầu hàng là một kết cục không
thể tránh khỏi. Trong một đời sống như vậy, không có sự yên bình nào, mà chỉ
có một sự xung đột thường xuyên giữa sự đòi hỏi không ngừng của lòng ham muốn
và sự bất lực của ý chí. Bằng cách này hay cách khác, nếu đời sống của chúng
ta muốn trở nên khoáng đạt và tự do, chúng ta phải thoát ra khỏi cái nhà tù
và sự xung đột này.
|
One way of escape is by philosophic contemplation.
Philosophic contemplation does not, in its widest survey, divide the universe
into two hostile camps -- friends and foes, helpful and hostile, good and bad
-- it views the whole impartially. Philosophic contemplation, when it is
unalloyed, does not aim at proving that the rest of the universe is akin to
man. All acquisition of knowledge is an enlargement of the Self, but this
enlargement is best attained when it is not directly sought. It is obtained
when the desire for knowledge is alone operative, by a study which does not
wish in advance that its objects should have this or that character, but
adapts the Self to the characters which it finds in its objects. This
enlargement of Self is not obtained when, taking the Self as it is, we try to
show that the world is so similar to this Self that knowledge of it is
possible without any admission of what seems alien. The desire to prove this
is a form of self-assertion and, like all self-assertion, it is an obstacle
to the growth of Self which it desires, and of which the Self knows that it
is capable. Self-assertion, in philosophic speculation as elsewhere, views
the world as a means to its own ends; thus it makes the world of less account
than Self, and the Self sets bounds to the greatness of its goods. In
contemplation, on the contrary, we start from the not-Self, and through its
greatness the boundaries of Self are enlarged; through the infinity of the
universe the mind which contemplates it achieves some share in infinity.
|
Có một lối thoát là bằng sự chiêm ngắm triết học. Sự chiêm
ngắm triết học – trong cái nhìn bao quát rộng nhất của nó – không phân chia
vũ trụ thành hai phe thù địch – bạn và thù, có ích và có hại, tốt và xấu – mà
nó nhìn cái toàn thể một cách vô tư. Sự chiêm ngắm triết học, khi nó thuần
khiết, không nhằm vào việc chứng minh rằng phần còn lại của vũ trụ thì giống
với con người. Mọi sự sở đắc về tri thức là một sự mở rộng của Bản ngã
(enlargement of the Self), nhưng sự mở rộng này được đạt đến tốt nhất khi nó
không được theo đuổi trực tiếp. Chỉ có
một lòng ham muốn tri thức thì chúng ta mới có được sự mở rộng đó, bởi lẽ
công việc nghiên cứu không định trước rằng các đối tượng nghiên cứu có tính
chất này hay tính chất khác, mà làm cho Bản ngã thích ứng với các tính chất
mà nó phát hiện thấy trong các đối tượng của nó. Sự mở rộng này của Bản ngã
không đạt được khi, xét Bản ngã như là bản ngã, chúng ta cố gắng cho thấy
rằng thế giới rất giống với Bản ngã này, đến mức ta có thể biết về nó mà
không cần thừa nhận gì về cái tựa hồ như xa lạ. Sự tha thiết chứng tỏ như vậy
là một hình thức khẳng định mình (Self-assertion) và, như bao sự khẳng định
mình khác, nó là một chướng ngại đối với sự trưởng thành của Bản ngã mà nó
mong muốn, và sự trưởng thành mà Bản ngã biết rằng nó có thể. Trong sự tư
biện triết học cũng như trong những hoạt động khác, sự khẳng định mình xem
thế giới là một phương tiện cho những mục đích riêng của nó; vì thế, nó làm
cho thế giới kém quan trọng hơn so với Bản ngã, và Bản ngã đặt định những
giới hạn cho sự lớn lao của những lợi ích của nó. Trái lại, trong sự chiêm
ngắm, chúng ta khởi sự từ cái phi-Bản ngã (non-Self), và qua sự lớn lao của
nó, các giới hạn của Bản ngã được mở rộng ra; qua tính vô hạn của vũ trụ,
tinh thần con người, vốn là cái chiêm ngắm nó, có được phần vô hạn nào đó.
|
For this reason greatness of soul is not fostered by those
philosophies which assimilate the universe to Man. Knowledge is a form of
union of Self and not-Self; like all union, it is impaired by dominion, and
therefore by any attempt to force the universe into conformity with what we
find in ourselves. There is a widespread philosophical tendency towards the
view which tells us that Man is the measure of all things, that truth is
man-made, that space and time and the world of universals are properties of
the mind, and that, if there be anything not created by the mind, it is
unknowable and of no account for us. This view, if our previous discussions
were correct, is untrue; but in addition to being untrue, it has the effect
of robbing philosophic contemplation of all that gives it value, since it
fetters contemplation to Self. What it calls knowledge is not a union with
the not-Self, but a set of prejudices, habits, and desires, making an
impenetrable veil between us and the world beyond. The man who finds pleasure
in such a theory of knowledge is like the man who never leaves the domestic
circle for fear his word might not be law.
|
Vì lý do này, sự lớn lao của tâm hồn không được nuôi dưỡng
bằng những thứ triết học đồng nhất vũ trụ với Con người. Tri thức là một hình
thức hợp nhất Bản ngã và cái phi-Bản ngã; giống như mọi sự hợp nhất, nó bị
mài mòn bởi sự thống trị, và do đó, bởi bất cứ nỗ lực nào cưỡng ép vũ trụ
phải phù hợp với những gì ta tìm thấy trong chính mình. Có một xu hướng triết
học rộng lớn đang hướng tới quan niệm cho rằng Con người là thước đo của mọi
vật, rằng chân lý là do con người tạo ra, rằng không gian, thời gian và thế
giới của những cái phổ quát là các thuộc tính của tinh thần con người, và
rằng nếu không có bất cứ cái gì do tinh thần con người tạo ra, thì tinh thần
ấy là bất khả tri và không thể giải thích được đối với chúng ta. Nếu như
những phần bàn luận ở các chương trước của chúng tôi đúng, thì quan niệm này
không đúng; nhưng ngoài việc không đúng ra, nó còn có tác dụng là cướp đi tất
cả những gì có giá trị mà sự chiêm ngắm triết học mang lại, bởi lẽ nó kìm kẹp
sự chiêm ngắm vào Bản ngã. Cái gọi là tri thức không phải là sự hợp nhất với
cái phi-Bản ngã, mà là một tập hợp các thành kiến, các thói quen và các ham
muốn, làm thành một tấm mạng che không thể xuyên qua được giữa chúng ta với
thế giới phía bên ngoài. Người chỉ biết tìm niềm vui trong một lý thuyết về
tri thức như vậy giống như người không bao giờ rời khỏi vòng quẩn quanh trong
gia đình vì sợ lời của mình có thể bị chệch lề lối.
|
The true philosophic contemplation, on the contrary, finds
its satisfaction in every enlargement of the not-Self, in everything that
magnifies the objects contemplated, and thereby the subject contemplating.
Everything, in contemplation, that is personal or private, everything that
depends upon habit, self-interest, or desire, distorts the object, and hence
impairs the union which the intellect seeks. By thus making a barrier between
subject and object, such personal and private things become a prison to the
intellect. The free intellect will see as God might see, without a here and
now, without hopes and fears, without the trammels of customary beliefs and
traditional prejudices, calmly, dispassionately, in the sole and exclusive
desire of knowledge -- knowledge as impersonal, as purely contemplative, as
it is possible for man to attain. Hence also the free intellect will value
more the abstract and universal knowledge into which the accidents of private
history do not enter, than the knowledge brought by the senses, and
dependent, as such knowledge must be, upon an exclusive and personal point of
view and a body whose sense-organs distort as much as they reveal.
|
Sự chiêm ngắm triết học thực sự, trái lại, tìm được sự
thỏa mãn trong bất cứ sự mở rộng nào của cái phi-Bản ngã, trong bất cứ cái gì
phóng lớn các đối tượng được chiêm ngắm, và qua đó chủ thể đang chiêm ngắm. Trong
sự chiêm ngắm, bất cứ cái gì là cá nhân hay riêng tư, bất cứ cái gì phụ thuộc
vào tập quán, tư lợi, hay dục vọng, cũng đều làm xuyên tạc đối tượng và làm
suy yếu sự hợp nhất mà trí tuệ tìm kiếm. Vì thế, khi dựng lên một hàng rào
giữa chủ thể và khách thể, các sự vật cá nhân hay riêng tư như vậy trở thành
ngục tù đối với trí tuệ. Trí tuệ tự do sẽ thấy rõ như Thượng đế, không có cái
ở đây và bây giờ, không có những niềm hi vọng và những nỗi lo sợ, không có
những trở ngại của các lòng tin theo tập tục và các tiên kiến truyền thống,
một cách bình lặng, điềm nhiên, niềm ham muốn duy nhất, và chỉ niềm ham muốn
ấy thôi: niềm ham muốn tri thức – một thứ tri thức vô ngã, chiêm ngắm thuần
túy, một thứ tri thức mà con người có thể đạt được. Do đó, trí tuệ tự do cũng
sẽ đề cao giá trị của tri thức trừu tượng và phổ quát, mà các ngẫu nhiên của
lịch sử riêng tư không bước vào được, hơn so với tri thức do các giác quan
mang lại, và phụ thuộc vào một điểm nhìn riêng tư độc nhất và cơ thể mà các
cơ quan cảm giác của nó bộ lộ ra bao nhiêu thì xuyên tạc đi bấy nhiêu, loại
tri thức này vốn là vậy.
|
The mind which has become accustomed to the freedom and
impartiality of philosophic contemplation will preserve something of the same
freedom and impartiality in the world of action and emotion. It will view its
purposes and desires as parts of the whole, with the absence of insistence
that results from seeing them as infinitesimal fragments in a world of which
all the rest is unaffected by any one man's deeds. The impartiality which, in
contemplation, is the unalloyed desire for truth, is the very same quality of
mind which, in action, is justice, and in emotion is that universal love
which can be given to all, and not only to those who are judged useful or
admirable. Thus contemplation enlarges not only the objects of our thoughts,
but also the objects of our actions and our affections: it makes us citizens
of the universe, not only of one walled city at war with all the rest. In
this citizenship of the universe consists man's true freedom, and his
liberation from the thraldom of narrow hopes and fears.
|
Tinh thần con người một khi trở nên quen với sự tự do và
tính vô tư của sự chiêm ngắm triết học thì nó sẽ giữ lại cái gì đó giống với
với sự tự do và tính vô tư trong thế giới của hành động và cảm xúc. Nó sẽ xem
các mục đích và ham muốn của nó là bộ phận của cái toàn bộ chứ không có [thái
độ] khăng khăng cố chấp, vốn là [thái độ] có nguồn gốc từ việc xem chúng như
là các phân mảnh vô cùng nhỏ trong một thế giới mà hành vi của bất cứ ai cũng
không ảnh hưởng gì đến toàn bộ những người khác. Trong sự chiêm ngắm, tính vô
tư là sự ham muốn chân lý thuần khiết, là cùng một phẩm chất của tinh thần,
[mà] trong hành động, phẩm chất ấy là sự công bằng, và trong xúc cảm phẩm
chất ấy là tình yêu phổ quát có thể được mang lại cho tất cả mọi người, chứ
không chỉ cho những ai được đánh giá là cừ khôi hay đáng ngưỡng mộ. Như thế,
sự chiêm ngắm không chỉ mở rộng các đối tượng của các tư tưởng của chúng ta,
mà còn mở rộng các đối tượng của các hành động và tình cảm yêu mến của chúng
ta: nó làm cho chúng ta trở thành các công dân của thế giới, chứ không chỉ
của một thành phố có tường lũy bao bọc trong cuộc chiến với tất cả phần còn
lại [của thế giới]. Trong tư cách công dân thế giới này có cả sự tự do chân
thực của con người và sự giải phóng con người ra khỏi tình trạng nô dịch của
những niềm hi vọng và những nỗi lo sợ hẹp hòi.
|
Thus, to sum up our discussion of the value of philosophy;
Philosophy is to be studied, not for the sake of any definite answers to its
questions since no definite answers can, as a rule, be known to be true, but
rather for the sake of the questions themselves; because these questions
enlarge our conception of what is possible, enrich our intellectual imagination
and diminish the dogmatic assurance which closes the mind against
speculation; but above all because, through the greatness of the universe
which philosophy contemplates, the mind also is rendered great, and becomes
capable of that union with the universe which constitutes its highest good.
|
Vì vậy, nội dung bàn luận của chúng tôi về giá trị của
triết học được tóm lại như sau: Chúng ta cần phải học triết học, không phải
vì [cần có] một câu trả lời dứt khoát nào cho các câu hỏi, bởi theo lẽ
thường, không một câu trả lời dứt khoát nào có thể được coi là chân lý, mà là
vì bản thân những câu hỏi; vì những câu hỏi này mở rộng quan niệm của chúng
ta về cái khả hữu, làm giàu trí tưởng tượng trí tuệ của chúng ta và giảm bớt
những sự chắc chắn có tính cách giáo điều vốn là cái khép kín tinh thần của
chúng ta trước sự tư biện; nhưng trên hết vì, qua sự lớn lao của thế giới mà
triết học chiêm ngắm, tinh thần cũng trở nên lớn lao, và có thể hợp nhất với
thế giới, sự hợp nhất này là lợi ích cao nhất của nó.
|
|
Translated by ĐINH HỒNG PHÚC
|
|
Văn hóa Nghệ An, Số 229, tháng 9-2012, tr. 26-9
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment
your comment - ý kiến của bạn